MỞ ĐẦU

Nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi một khối lượng vốn khổng

lồ, nhất là vốn dài hạn, mà trong giai đoạn hiện nay, thị trường tài chính mới

chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu về vốn ngắn hạn cho nền kinh tế.

Xuất phát từ đòi hỏi ấy, thị trường chứng khoán, với tư cách là kênh huy

vốn quan trọng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành một nhu cầu cấp

thiết, khách quan trong điều kiện hiện nay.

Tuy nhiên thị trường chứng khoán muốn hoạt động hiệu quả cần phải có

hàng hoá cho nó (cổ phiếu, trái phiếu...) và đồng thời phải có các công ty

chứng khoán chuyên mua bán, giao dịch các loại hàng hoá đó.

Công ty chứng khoán sẽ là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của

nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công

ty chứng khoán mà một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ những

nguồn lẻ tẻ trong công chúng tập hợp lại.

Như vậy, sự ra đời của các công ty chứng khoán trong giai đoạn hiện nay là

một nhu cầu khách quan. Tuy nhiên để nó đi vào hoạt động có hiệu quả cần

tiếp tục có những điều chỉnh hợp lý.

Đề xuất: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty

chứng khoán ở Việt Nam giai đoạn hiện nay" sẽ đưa ra những kiến nghị góp

phần vào việc hoàn thiện các công ty chứng khoán và những giải pháp thúc

đẩy hình thành các công ty chứng khoán. Đề tài nghiên cứu những lí luận cơ

bản về công ty chứng khoán từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện công ty

chứng khoán về cơ cấu tổ chức; đội ngũ cán bộ, nhân viên; mô hình công ty;

hệ thống tin học trong các công ty chứng khoán, đồng thời đưa ra những giải

pháp, kiến nghị nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán.

Nội dung đề tài gồm 3 phần:

1

Chương I: Vai trò của công ty chứng khoán với hoạt động của thị trường

chứng khoán.

Chương II: Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt

Nam hiện nay.

Chương III: Các giải pháp hoàn thiện và phát triển các công ty chứng

khoán ở Việt Nam.

Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo

Th.s Đặng Ngọc Đức và cán bộ, công nhân viên Vụ quản lý kinh doanh chứng

khoán - UBCKNN đã giúp em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.

Do hạn chế về lý luận, kinh nghiệm thực tế, điều kiện nghiên cứu nên bài

viết này của em còn nhiều thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của thầy cô,

cán bộ, nhân viên Vụ quản lý kinh doanh chứng khoán - UBCKNN và tất cả

các bạn đọc để các bài viết sau của em được tốt hơn.

Hà Nội, tháng 5 năm 2003

Sinh viên TH: Lê Thanh Thái

2

CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.

1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán.

1.1.1. Quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường tài

chính, hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong

xã hội tập trung thành những nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh

nghiệp, các tổ chức kinh tế và Nhà nước để phát triển sản xuất, tăng trưởng

kinh tế hay cho các dự án đầu tư.

Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng

khoán và các giấy ghi nợ trung hoặc dài hạn thường từ 01 năm trở lên. Công

cụ trao đổi trên thị trường chứng khoán rất phong phú. Vậy thị trường chứng

khoán là nơi mua bán các chứng khoán đã được phát hành và đang lưu hành

trên thị trường.

Hiện nay tồn tại hai quan điểm đối lập nhau:

Quan điểm một cho rằng: thị trường vốn và thị trường chứng khoán là khác

nhau vì công cụ của thị trường chứng khoán ngoài các chứng khoán dài hạn

còn có các giấy ghi nợ ngắn hạn (các tín phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn

03 tháng hoặc 06 tháng).

Quan điểm thứ hai cho rằng: thị trường vốn và thị trường chứng khoán chỉ

là các tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: thị trường tư bản.

Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thị trường chứng

khoán được quan niệm là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều kiện,

là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn

giữa những người phát hành chứng khoán và mua chứng khoán hoặc kinh

doanh chứng khoán.

3

Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau, nhưng

nhìn chung một thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi các hoạt động cơ

bản sau.

1.1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán.

Trên thị trường chứng khoán các hoạt động giao dịch chứng khoán được

thực hiện . Xét về mặt hình thức, các hoạt động trao đổi mua bán chuyển

nhượng các chứng khoán là việc thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán;

xét về thực chất đây chính là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ, tức

là quá trình chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Các quan hệ

mua bán các chứng khoán trên thị trường chứng khoán phản ánh sự thay đổi

các chủ thể sở hữu về chứng khoán.

Xét về nội dung, thị trường vốn thể hiện các quan hệ bản chất bên trong

của quá trình mua bán các chứng khoán. Thị trường chứng khoán là biểu hiện

bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Các thị trường này không thể

phân biệt, tách rời nhau mà nó là thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ

bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.

Do đó hoạt động của thị trường chứng khoán (xét về bản chất) phản ánh

quan hệ trao đổi mua bán quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn, tiền mặt. Các

hoạt động này được thực hiện thông qua các thành viên trên thị trường chứng

khoán.

1.1.3. Các thành viên của thị trường chứng khoán.

- Người đầu tư chứng khoán: Là những người mua bán chứng khoán gồm

có: các doanh nghiệp, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí và lực lượng rộng

rãi nhất là tầng lớp dân chúng đầu tư vào.

- Người kinh doanh chứng khoán: Là người được pháp luật cho phép thực

hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, bao gồm môi giới chứng khoán

(nhận mua hộ và bán hộ để hưởng hoa hồng), bảo lãnh phát hành chứng

4

khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, mua và

bán chứng khoán cho chính mình để hưởng chênh lệch giá.

- Người tổ chức thị trường: Là người tạo ra địa điểm và phương tiện để

phục vụ cho việc mua bán chứng khoán hay còn gọi là Sở giao dịch chứng

khoán.

- Người quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán:

Tức là Nhà nước, người bảo đảm cho thị trường hoạt động theo đúng các quy

định của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư, bảo đảm việc mua

bán chứng khoán được công bằng, công khai, tránh những tình trạng tiêu cực

có thể xảy ra.

Ngoài các đối tượng trên ra, còn có các đối tượng tương hỗ quan trọng

khác như: Các tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán, tổ chức dịch

vụ sang tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng khoán, trung tâm đào tạo

người hành nghề chứng khoán, hiệp hội các nhà đầu tư, hiệp hội các nhà kinh

doanh chứng khoán.

Trong các đối tượng đó thì người kinh doanh chứng khoán (trong đó có các

công ty chứng khoán) giữ vai trò quan trọng đảm bảo cho thị trường chứng

khoán hoạt động ổn định và có hiệu quả.

1.2. Công ty chứng khoán.

1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán.

1.2.1.1. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán.

Vì công ty chứng khoán là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên

vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của nó có nhiều điểm khác nhau

ở các nước. Mỗi nước đều có một mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán

riêng, phù hợp với đặc điểm của hệ thống tài chính và tuỳ thuộc vào sự cân

nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, ta có

thể khái quát lên ba mô hình cơ bản hiện nay là: mô hình công ty chứng

5

khoán ngân hàng hay mô hình ngân hàng đa năng (bao gồm: Ngân hàng đa

năng toàn phần, Ngân hàng đa năng một phần) và công ty chuyên doanh

chứng khoán.

Trong mô hình ngân hàng đa năng toàn phần, một ngân hàng có thể tham

gia tất cả các hoạt động kinh doanh tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm mà không

cần thông qua những pháp nhân riêng biệt.

Khác với mô hình trên, trong mô hình ngân hàng đa năng một phần, một

ngân hàng muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thông qua

công ty con là pháp nhân riêng biệt.

Với mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán, hoạt động kinh doanh

chứng khoán sẽ do công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng

khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng

khoán.

1.2.1.2. Những nét đặc trưng trong tổ chức của các công ty chứng khoán.

Do công ty chứng khoán là một hình thức định chế đặc biệt, có hoạt động

nghiệp vụ đặc thù nên về mặt tổ chức nó có nhiều điểm khác biệt so với các

công ty thông thường. Các công ty chứng khoán ở các nước khác nhau, thậm

chí trong cùng một quốc gia cũng có tổ chức rất khác nhau tuỳ thuộc vào tính

chất công việc của mỗi công ty và mức độ phát triển của thị trường. Tuy vậy,

chúng vẫn có một số đặc trưng cơ bản:

a. Chuyên môn hoá và phân cấp quản lí.

Công ty chứng khoán có trình độ chuyên môn hoá rất cao ở từng phòng

ban, bộ phận, đơn vị kinh doanh nhỏ.

Do chuyên môn hoá cao nên các bộ phận có quyền tự quyết.

Một số bộ phận trong công ty có thể không phụ thuộc lẫn nhau (chẳng hạn

bộ phận môi giới và tự doanh hay bảo lãnh phát hành...)

b. Nhân tố con người.

6

Trong công ty chứng khoán, quan hệ với khác hàng giữ vai trò rất quan

trọng, đòi hỏi nhân tố con người phải luôn được quan tâm, chú trọng.

Khác với các công ty sản xuất, ở công ty chứng khoán việc thăng tiến cất

nhắc lên vị trí cao hơn nhiều khi không quan trọng. Các chức vụ quản lí hay

giám đốc của công ty nhiều khi có thể nhận được ít thù lao hơn so với một số

nhân viên cấp dưới.

c. Ảnh hưởng của thị trường tài chính.

Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh

hưởng lớn tới sản phẩm, dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận của công ty chứng

khoán. Thị trường chứng khoán càng phát triển thì công cụ tài chính càng đa

dạng, hàng hoá dịch vụ phong phú, qua đó công ty chứng khoán có thể mở

rộng hoạt động thu nhiều lợi nhuận.

Với các trình độ phát triển khác nhau của thị trường, các công ty chứng

khoán phải có cơ cấu tổ chức đặc thù để đáp ứng những nhu cầu riêng. Thị

trường càng phát triển thì cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán càng phức

tạp (chẳng hạn Mỹ, Nhật...). Trong khi đó, thị trường chứng khoán mới hình

thành thì cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán giản đơn hơn nhiều (như

Đông Âu, Trung Quốc...).

1.2.2 Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán.

Có ba loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản: công ty hợp danh,

công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.

a. Công ty hợp danh.

Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên.Thành viên tham gia vào

quá trình đưa ra các quyết định quản lý được gọi là thành viên hợp danh. Các

thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn, tức là phải chịu trách

nhiệm với các khoản nợ của công ty hợp danh bằng toàn bộ tài sản của mình.

Ngược lại thành viên không tham gia vào quá trình điều hành quản lí công ty

7

được gọi là thành viên góp vốn. Họ chỉ chịu trách nhiệm đối với những khoản

nợ của công ty trong giới hạn góp vốn của mình.

Thông thường khả năng huy động vốn góp của công ty hợp danh không

lớn, nó chỉ giới hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp.

b. Công ty trách nhiệm hữu hạn.

Đây là công ty chỉ đòi hỏi trách nhiệm của các thành viên đối với các

khoản nợ của công ty trong giới hạn số vốn góp của họ, do đó gây tâm lí nhẹ

nhàng hơn đối với các nhà đầu tư.

Về phương diện huy động vốn, nó đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty

hợp danh. Đồng thời vấn đề tuyển đội ngũ quản lí cũng năng động hơn, không

bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.

Nhờ những ưu thế đó, hiện nay rất nhiều công ty chứng khoán hoạt động

dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.

c. Công ty cổ phần.

Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là các cổ

đông. Đại hội cổ đông có quyền bầu ra hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ

định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ

quản lý khác để điều hành công ty.

Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện món nợ của công ty, mà thể hiện

quyền lợi của chủ sở hữu đối với các tài sản của công ty.

* Ưu điểm của công ty cổ phần:

+ Nó tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông hoặc cổ

đông nghỉ hưu hay qua đời.

+ Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được giới hạn ở mức nhất

định. Nếu công ty thua lỗ, phá sản, cổ đông chỉ chịu thiệt hại ở mức vốn đã

đóng góp.

8

+ Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ

phiếu.

+ Ngoài ra, đối với công ty chứng khoán, nếu tổ chức theo hình thức công

ty cổ phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo

miễn phí.

+ Hình thức tổ chức quản lí, chế độ báo cáo và thông tin tốt hơn hai loại

hình hợp danh và trách nhiệm hữu hạn.

Do những ưu điểm này, ngày nay chủ yếu các công ty chứng khoán tồn tại

dưới hình thức công ty cổ phần thậm chí một số nước (như Hàn Quốc) còn

bắt buộc các công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần.

1.2.3. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán.

Các công ty chứng khoán có thể là những công ty chuyên kinh doanh một

dịch vụ như công ty chỉ chuyên môi giới, công ty chỉ chuyên thực hiện bảo

lãnh phát hành... hoặc là những công ty đa dịch vụ, hoạt động trên nhiều lĩnh

vực kinh doanh chứng khoán. Nhìn chung có ba nghiệp vụ kinh doanh chính

là:

- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán.

- Nghiệp vụ tự doanh.

- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.

Ngày nay, do thị trường ngày càng phát triển và do nhu cầu của bản thân

công ty chứng khoán ngày càng mở rộng nên đã phát sinh nhiều nghiệp vụ

như: cho vay kí quĩ, tư vấn đầu tư, quản lí danh mục đầu tư, quản lí thu nhập

chứng khoán. Đồng thời các công ty chứng khoán ngày nay còn hoạt động

trên cả lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, bảo hiểm.

1.2.3.1. Nghiệp vụ môi giới

Bản chất nghiệp vụ.

9

Công ty chứng khoán tiến hành nghiệp vụ môi giới sẽ đại diện cho khách

hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng

khoán hoặc thị trường OTC. Khách hàng sẽ phải chịu hậu quả kinh tế của việc

giao dịch đó. Các nhà môi giới thường gặp phải rủi ro khi khách hàng của

mình hoặc nhà môi giới giao dịch khác không thực hiện nghĩa vụ thanh toán

đúng thời hạn.

Qui trình giao dịch.

Quá trình môi giới của công ty chứng khoán thường qua các bước chủ yếu

thể hiện ở sơ đồ sau:

Bước 1: Mở tài khoản (1).

Bước 2: Nhận lệnh (2).

Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện lệnh (3).

Bước 4: Xác nhận kết quả thực hiện lệnh cho khách hàng (4).

Bước 5: Thanh toán và giao hàng.

(2)

(1)

Khách hàng

(5)

Công ty chứng khoán (3)

(4)

Bước 1: Mở tài khoản.

Công ty chứng khoán yêu cầu khách hàng mở tài khoản giao dịch (tài

khoản tiền mặt hoặc tài khoản kí quĩ). Tài khoản kí quĩ dùng cho giao dịch kí

quĩ còn tài khoản giao dịch dùng cho các giao dịch thông thường.

Bước 2: Nhận đơn đặt hàng.

Khách hàng ra lệnh mua, bán cho công ty chứng khoán dưới nhiều hình

thức: Điện thoại, telex, phiếu lệnh...

10

Nếu là lệnh bán, công ty chứng khoán sẽ yêu cầu khách hàng xuất trình số

chứng khoán muốn bán trước khi thực hiện đơn hàng hoặc đề nghị phải kí

quĩ một phần số chứng khoán cần bán theo một tỉ lệ do uỷ ban chứng khoán

qui định.

Nếu là lệnh mua, công ty sẽ đề nghị khách hàng mức tiền kí quĩ nhất định

trên tài khoản kí quĩ của khách hàng tại công ty. Khoản tiền này thường bằng

40% trị giá mua theo lệnh.

Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện.

Trước đây, người đại diện của công ty gửi tất cả lệnh mua, bán của khách

hàng tới bộ phận thực hiện lệnh hoặc phòng kinh doanh giao dịch của công ty.

Ở đây, một người thư kí sẽ kiểm tra xem chứng khoán được mua bán ở thị

trường nào (tập trung, phi tập trung...). Sau đó, người thư kí sẽ gửi lệnh đến

thị trường đó để thực hiện.

Ngày nay, các công ty chứng khoán có mạng lưới thông tin trực tiếp từ trụ

sở chính tới phòng giao dịch. Do vậy, các lệnh mua, bán được chuyển trực

tiếp tới phòng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán mà không cần chuyển

qua phòng thực hiện lệnh.

Bước 4: Xác nhận cho khách hàng.

Sau khi thực hiện lệnh xong, công ty chứng khoán sẽ gửi cho khách hàng

một phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh.

Bước 5: Thanh toán bù trừ giao dịch.

Hoạt động này bao gồm việc đối chiếu giao dịch và bù trừ các kết quả giao

dịch.

Hiện nay các nước áp dụng việc đối chiếu cố định: Sở giao dịch chứng

khoán sẽ tiến hành bù trừ trên cơ sở nội dung lệnh của các công ty chứng

khoán chuyển vào hệ thống. Những sai sót của công ty chứng khoán sẽ do

công ty chứng khoán tự sửa chữa.

11

Việc bù trừ các kết quả giao dịch kết thúc bằng việc in ra các chứng từ

thanh toán. Chứng từ này được gửi cho công ty chứng khoán. Nó là cơ sở để

thực hiện thanh toán và giao chứng khoán.

Bước 6: Thanh toán và giao hàng.

Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao tiền thông qua ngân hàng chỉ định

thanh toán; người bán sẽ giao chứng khoán thông qua hình thức chuyển khoản

tại trung tâm lưu kí chứng khoán. Sau khi hoàn tất các thủ tục tại Sở, công ty

sẽ thanh toán tiền và chứng khoán cho khách hàng thông qua hệ thống tài

khoản khách hàng mở tại công ty chứng khoán.

Phí môi giới.

Hoạt động với tư cách là nhà đại lí nên công ty chứng khoán được hưởng

hoa hồng môi giới. Số tiền hoa hồng thường được tính phần trăm trên tổng giá

trị một giao dịch. Số tiền mua bán càng nhỏ thì số phần trăm hoa hồng càng

lớn.

Một số nước hiện nay duy trì tỉ lệ hoa hồng cố định như Thái Lan,

Inđônêxia, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan. Theo đó mức hoa hồng cao, thấp

tuỳ thuộc vào giá trị hợp đồng.

Thông thường, các công ty chứng khoán đều có chế độ hoa hồng của mình

và thỉnh thoảng lại điều chỉnh cho thích hợp. Các công ty nhỏ thường phải

chờ xem các hãng lớn cho biết tỉ suất hoa hồng rồi mới công bố tỉ suất của

mình.

Thuế giao dịch chứng khoán.

Các công ty chứng khoán phải nộp thuế đối với hoạt động kinh doanh của

mình. Doanh thu chịu thuế tuỳ thuộc vào các nghiệp vụ mà công ty tiến hành.

Đối với hoạt động môi giới, bảo lãnh, thuế được tính trên mức hoa hồng

hay chiết khấu mà công ty chứng khoán nhận được. Đối với hoạt động tự

doanh thuế được tính trên chênh lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán.

12

Ngoài ra, công ty chứng khoán còn phải chịu thuế lợi tức trong trường hợp

kinh doanh chứng khoán có lãi.

Để khuyến khích mọi người mua Trái phiếu Chính phủ, các nước thường

không đánh thuế các khoản lãi nhận được từ đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ.

1.2.3.2 Nghiệp vụ bảo lãnh.

Bản chất bảo lãnh.

Bảo lãnh phát hành là việc hỗ trợ đơn vị phát hành huy động vốn bằng cách

bán chứng khoán trên thị trường. Có ba hình thức bảo lãnh phát hành mà thế

giới thường áp dụng:

Một là, bảo lãnh chắc chắn: công ty bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ

số chứng khoán trong đợt phát hành của công ty phát hành và sau đó sẽ bán ra

công chúng. Giá mua của công ty bảo lãnh là giá đã được ấn định, thường là

thấp hơn giá thị trường. Giá bán của công ty bảo lãnh là giá thị trường. Đây là

hình thức công ty bảo lãnh hoạt động cho chính họ và sẵn sàng chịu mọi rủi

ro.

Hai là, bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức mà công ty bảo lãnh phát hành

hứa sẽ cố gắng tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho công ty

phát hành. Nếu không bán hết, công ty bảo lãnh sẽ trả lại số chứng khoán

không bán được cho công ty phát hành. Người bảo lãnh được hưởng số hoa

hồng trên số chứng khoán bán được.

Ba là, bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không: trường hợp này được áp dụng

khi công ty phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định. Nếu huy động

được đủ số vốn đó thì thực hiện phát hành, còn không huy động đủ thì sẽ bị

huỷ bỏ. Ví dụ, một công ty cố gắng bán toàn bộ 100.000.000$ cổ phiếu nó

yêu cầu công ty chứng khoán phải bán tối thiểu 60% giá trị của đợt phát

hành, tức là công ty phải nhận được lượng tiền bán tối thiểu là 60.000.000 $

nếu không toàn bộ đợt phát hành sẽ bị loại bỏ.

Một số khâu quan trọng trong quy trình bảo lãnh .

13

+ Lập nghiệp đoàn bảo lãnh.

Khi số số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng bảo lãnh của một công

ty chứng khoán thì một nghiệp đoàn bao gồm một số công ty chứng khoán và

các tổ chức tài chính sẽ được thành lập.

Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức bảo lãnh chắc

chắn. Trong nghiệp đoàn có một công ty bảo lãnh chính, thường là người khởi

đầu cho cuộc giao dịch này, đứng ra ký kết và giải quyết các giấy tờ với công

ty phát hành. Nó quyết định công ty chứng khoán nào được mời tham gia

nghiệp đoàn và sẽ trả chi phí bảo lãnh cho các công ty khác trong nghiệp

đoàn.

Nhóm bán:

Để việc bán nhanh hơn, nghiệp đoàn bảo lãnh có thể tổ chức thêm một

"nhóm bán". Nhóm này bao gồm một số công ty không nằm trong nghiệp

đoàn bảo lãnh, họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không phải chịu trách nhiệm

về số chứng khoán không bán được. Do vậy, thù lao cho họ ít hơn các thành

viên trong nghiệp đoàn bảo lãnh.

+ Phân tích, định giá chứng khoán.

Định giá cho cổ phiếu rất phức tạp. Ở đây bắt gặp vấn đề nan giải: một mặt,

người phát hành cổ phiếu muốn nhận được càng nhiều tiền càng tốt từ đợt

phát hành này; mặt khác người quản lý muốn định giá sao cho có thể bán

được và bán càng nhanh càng tốt. Nếu giá cao quá công chúng sẽ không mua,

nếu giá thấp quá thì giá chứng khoán sẽ mau chóng chuyển lên cao hơn ở thị

trường thứ cấp và người phát hành sẽ chịu thiệt. Thông thường, việc định giá

cổ phiếu căn cứ vào nhiều yếu tố: lợi nhuận của công ty, dự kiến lợi tức cổ

phần, số lượng cổ phiếu chào bán, tỉ lệ giá cả - lợi tức so với những công ty

tương tự, tình hình thị trường lúc chào bán...

14

Đối với trái phiếu, việc định giá đơn giản hơn vì trên thị trường đã có sẵn

lãi suất chuẩn và yết giá của những người mua, bán chứng khoán cho những

loại trái phiếu tương tự.

+ Ký hợp đồng bảo lãnh.

Sau khi thành lập nghiệp đoàn và tiến hành một số công việc như phân tích

định giá chứng khoán, chuẩn bị cho đợt phân phối chứng khoán ..., nghiệp

đoàn bảo lãnh sẽ ký một số hợp đồng với công ty phát hành trong đó xác

định:

Phương thức bảo lãnh.

Phương thức thanh toán.

Khối lượng bảo lãnh phát hành.

+ Đăng kí phát hành chứng khoán.

Sau khi ký hợp đồng bảo lãnh, nghiệp đoàn bảo lãnh phải trình lên cơ quan

quản lý đơn xin đăng kí phát hành cùng một bản cáo bạch thị trường có đầy

đủ chữ kí của công ty phát hành, công ty luật, công ty bảo lãnh. Bản cáo bạch

của công ty phát hành trình bày tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và

kế hoạch sử dụng tiền thu được từ việc phát hành nhằm giúp công chúng đánh

giá và đưa ra quyết định mua chứng khoán.

+ Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng kí.

Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết như phân phát bản cáo bạch và phiếu

đăng kí mua chứng khoán và đợi khi đăng kí phát hành chứng khoán có hiệu

lực, công ty chứng khoán hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ tiến hành phân phối

chứng khoán.

Phân phối chứng khoán ra công chúng có thể được thực hiện dưới các hình

thức:

Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể (như các quĩ đầu tư, quĩ bảo hiểm,

quĩ hưu trí...).

15

Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ

với tổ chức phát hành.

Bán ra công chúng.

+ Thanh toán

Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền

bán chứng khoán cho công ty phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng

khoán phát hành trừ đi thù lao cho công ty bảo lãnh.

Thù lao cho công ty bảo lãnh có thể là khoản phí (đối với hình thức bảo

lãnh chắc chắn) hoặc hoa hồng (đối với các hình thức bảo lãnh khác).

Mức phí bảo lãnh tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành, tình hình thị

trường và do hai bên thoả thuận. Nếu là phát hành lần đầu thì phí bảo lãnh cao

hơn lần phát hành bổ sung. Đối với trái phiếu phí và hoa hồng còn tuỳ thuộc

vào lãi suất trái phiếu (lãi suất cao sẽ dễ bán, chi phi sẽ thấp và ngược lại).

Hoa hồng: là tỉ lệ (%) cố định đối với từng loại chứng khoán nhất định.

Việc tính toán và phân bổ hoa hồng do các thành viên trong nghiệp đoàn

thương lượng với nhau.

Phí bảo lãnh: là chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường và số

tiền công ty phát hành nhận được.

1.2.3.3 Nghiệp vụ tự doanh.

Đây là nghiệp vụ kinh doanh trong đó công ty chứng khoán dùng kinh phí

của mình để mua và bán chứng khoán, họ tự chịu mọi rủi ro và có thể làm

thêm nhiệm vụ tạo thị trường cho một loại chứng khoán nào đó.

Nhà giao dịch chịu lãi hay lỗ tuỳ thuộc vào chênh lệch giá mua và bán

chứng khoán. Hoạt động buôn bán chứng khoán có thể là:

Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt lệnh mua và bán của mình

trên Sở giao dịch, lệnh của họ được xác định đối với bất kì khách hàng nào

không xác định trước.

16

Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch giữa hai công ty chứng khoán hay giữa

công ty chứng khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của

giao dịch trực tiếp thường là các trái phiếu và cổ phiếu giao dịch ở thị trường

OTC.

Thông thường các công ty chứng khoán phải dành một tỉ lệ % nhất định

cho hoạt động bình ổn thị trường (ở Mỹ luật qui định là 60%). Các công ty có

nghĩa vụ mua vào (khi giá chứng khoán giảm) để giữ giá và phải bán ra khi

giá chứng khoán lên để kìm giá chứng khoán.

Ngoài các hoạt động kinh doanh chính: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát

hành, công ty chứng khoán còn tiến hành các nghiệp vụ phụ trợ.

1.2.3.4. Các nghiệp vụ phụ trợ.

a. Nghiệp vụ tín dụng.

Ở các thị trường phát triển thì đây là một hoạt động thông dụng. Còn ở những thị trường chưa phát triển thì hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được phép cấp vốn vay. Một số nước còn qui định không được phép cho vay kí quỹ.

Cho vay kí quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay.

Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải dàn xếp với ngân

hàng và phải chịu trách nhiệm về khoản vay đó.

Trong tài khoản kí quỹ, tài sản thực của khách hàng chỉ chiếm một tỉ lệ nhất định (50%-60% tuỳ từng nước), số còn lại là tiền vay của công ty chứng khoán. Đến hạn, khách hàng phải trả vốn vay và lãi cho công ty chứng khoán. Nếu không trả được nợ, công ty chứng khoán sẽ bán chứng khoán trên tài sản kí quỹ để thu hồi khoản vay.

Rủi ro đối với công ty chứng khoán xảy ra khi chứng khoán thế chấp giảm giá và giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay kí quỹ. Vì vậy, công ty chứng khoán không nên tập trung quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng khoán.

17

b. Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty.

Đây là việc cung cấp các thông tin về đối tượng chứng khoán, thời hạn, các

vấn đề mang tính quy luật của hoạt động đầu tư chứng khoán...Nó đòi hỏi

nhiều kiến thức, chuyên môn kỹ năng và yêu cầu vốn không cao. Tính trung

thực của cá nhân hay công ty tư vấn có ý nghĩa quan trọng.

c. Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư.

Đây là một dạng tư vấn đầu tư nhưng ở mức độ cao hơn vì khách hàng uỷ

thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo những

nguyên tắc mà khách hàng yêu cầu. Thông thường nghiệp vụ này tuân thủ

theo bốn bước cơ bản:

Bước 1: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc tìm hiểu khả năng

của nhau.

Bước 2: Công ty và khách hàng tiến hành kí hợp đồng quản lí.

Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lí. Khi có phát sinh ngoài hợp đồng,

công ty chứng khoán phải xin ý kiến của khách hàng rồi mới được phép quyết

định. Công ty chứng khoán phải tách rời hoạt động này với hoạt động môi

giới và tự doanh để tránh mâu thuẫn lợi ích.

Bước 4: Khi đến hạn kết thúc hợp đồng công ty phải cùng khách hàng bàn

bạc, quyết định xem gia hạn hay thanh lí hợp đồng. Khi công ty bị phá sản,

tài sản uỷ thác của khách hàng phải được tách riêng và không được dùng để

trả nghĩa vụ nợ cho công ty chứng khoán.

Khoản phí mà công ty chứng khoán nhận được dựa trên số lợi nhuận thu về

cho khách hàng.

d. Nghiệp vụ quản lí thu nhập chứng khoán (quản lí cổ tức).

Nghiệp vụ này xuất phát từ nghiệp vụ lưu kí chứng khoán. Công ty phải

thực hiện hoạt động theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu

hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. Trên thực tế, các công ty chứng khoán

không trực tiếp quản lí mà sẽ lưu kí tại trung tâm lưu giữ chứng khoán.

18

Ngoài các nghiệp vụ trên, công ty chứng khoán còn có thể tiến hành một số

hoạt đông khác như: cho vay chứng khoán, quản lí quỹ đầu tư, quản lí vốn,

kinh doanh bảo hiểm...

Vì là một định chế tài chính đặc biệt nên công ty chứng khoán phải tuân

thủ một số nguyên tắc nhất định.

1.2.4. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán.

1.2.4.1. Nguyên tắc đạo đức.

Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán ảnh hưởng nhiều tới lợi ích

công chúng và biến động của thị trường tài chính. Vì vậy, luật pháp các nước

qui định rất chặt chẽ đối với hoạt động của công ty chứng khoán. Nhìn chung

có một số nguyên tắc cơ bản sau:

+ Công ty chứng khoán có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, chỉ được tiết

lộ thông tin khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

+ Công ty chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không

được tiến hành bất cứ hoạt động lừa đảo phi pháp nào.

+ Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn

tài chính để kinh doanh.

+ Công ty chứng khoán phải tách biệt tài sản của mình với tài sản của

khách hàng và tài sản của khách hàng với nhau; không được dùng tài sản của

khách hàng làm vật thế chấp, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng

văn bản.

+ Công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin

cho khách hàng, đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy.

+ Công ty chứng khoán không được nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài

các khoản thù lao thông thường cho hoạt động dịch vụ của mình.

19

+ Ở nhiều nước, công ty chứng khoán phải đóng tiền vào quĩ bảo vệ nhà

đầu tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp công

ty chứng khoán bị mất khả năng thanh toán.

+ Ngoài ra, các nước còn có qui định chặt chẽ nhằm chống thao túng thị

trường; cấm mua bán khớp lệnh giả tạo với mục đích tạo ra trạng thái "tích

cực bề ngoài"; cấm đưa ra lời đồn đại, xúi dục hoặc lừa đảo trong giao dịch

chứng khoán; cấm giao dịch nội gián sử dụng thông tin nội bộ mua bán chứng

khoán cho chính mình làm thiệt hại tới khách hàng.

1.2.4.2. Nguyên tắc tài chính.

a. Vốn.

Vốn của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ. Nhìn

chung, số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng

việc cân đối giữa vốn pháp định và nhu cầu vốn kinh doanh của công ty.

b. Cơ cấu vốn: Nợ và Có.

Cơ cấu vốn là tỉ lệ các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp của các

thành viên mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình.

Việc huy động vốn được tiến hành thông qua việc góp vốn của các cổ đông,

thông qua hệ thống ngân hàng, thị trường vốn.

Việc huy động vốn và cơ cấu vốn của công ty chứng khoán có các đặc

điểm chung:

♦ Các công ty phụ thuộc khá nhiều vào các khoản vay ngắn hạn.

♦ Các chứng khoán đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường chiếm phần

lớn tổng giá trị tài sản của công ty chứng khoán (40%-60%).

♦ Ở các nước đang phát triển, thông thường các công ty chứng khoán

không được vay vốn của nước ngoài trong khi ở những nước phát triển điều

này được phép thực hiện.

20

♦ Tỉ lệ nợ tuỳ thuộc vào công ty chứng khoán nhưng phải tuân theo qui

định của các cấp quản lí.

c. Quản lí vốn và hạn mức kinh doanh.

* Quản lí vốn khả dụng: các công ty chứng khoán thường phải duy trì một

mức vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán.

* Quản lí quĩ bù đắp rủi ro: Các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động

tự doanh thường phải duy trì một tỉ lệ dự trữ trên mức lợi nhuận ròng, còn

các công ty môi giới duy trì tỉ lệ dự trữ tính trên tổng doanh thu với mục đích

bù đắp các khoản lỗ kinh doanh trong năm đó.

* Quản lí quĩ bổ sung vốn điều lệ: công ty chứng khoán phải trích tỉ lệ

phần trăm lãi ròng hàng năm để lập quĩ bổ sung vốn điều lệ cho tới khi đạt

một tỉ lệ phần trăm nào đó của vốn điều lệ. Quĩ này dùng bù đắp những thâm

hụt trong tương lai.

* Quản lí hạn mức kinh doanh: hạn mức kinh doanh được qui định khác

nhau tuỳ từng quốc gia. Thông thường nó tuân theo một số qui định sau:

Hạn chế mua sắm tài sản cố định theo tỉ lệ % trên vốn điều lệ.

Đặt ra hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán.

Qui định hạn mức đầu tư vào một số tài sản rủi ro cao.

d. Chế độ báo cáo.

Các thông tin tài chính được thể hiện qua các báo cáo. Các báo cáo này,

theo qui định một số nước, phải nộp cho Uỷ ban chứng khoán (hoặc cơ quan

quản lý tương đương) và một tổ chức tự quản làm cơ quan kiểm tra các báo

cáo tài chính thường niên đã được kiểm toán. Báo cáo tài chính được kiểm

toán bao gồm:

- Bảng cân đối kế toán.

- Báo cáo lỗ lãi.

- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

21

Ngoài báo cáo thường niên, công ty chứng khoán phải gửi một báo cáo

quản lý toàn diện về tình hình tài chính theo quý như quy định của Uỷ ban

chứng khoán.

Ngoài ra công ty phải gửi báo cáo hàng tháng cho tổ chức tự quản có thẩm

quyền để kiểm tra tình hình tài chính và việc tuân thủ các trách nhiệm tài

chính.

Nếu công ty chứng khoán không đáp ứng được một số tiêu chuẩn kinh

doanh và tài chính thì có thể phải gửi nhiều báo cáo hơn (báo cáo tuần).

1.2.5. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán.

Hoạt động của công ty chứng khoán có ảnh hưởng nhiều tới lợi ích của

công chúng nên nó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Nhìn chung, qui

định về điều kiện thành lập, cấp phép hoạt động cho công ty chứng khoán

được thể hiện ở hai khía cạnh sau:

Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng

vốn pháp định. Vốn pháp định được qui định cụ thể cho từng loại nghiệp vụ.

Một công ty càng tham gia vào nhiều loại hoạt động nghiệp vụ thì yêu cầu về

vốn càng nhiều. Mức vốn qui định cho hoạt động môi giới, tư vấn thường

không nhiều. Trong khi đó, nghiệp vụ tự doanh hay bảo lãnh phát hành đòi

hỏi mức vốn pháp định tương đối cao.

Điều kiện nhân sự: Những người quản lí hay nhân viên của công ty chứng

khoán phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm. Thông thường,

các nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề. Muốn

có giấy phép hành nghề, ngoài việc đáp ứng một số qui định như tuổi tác,

trình độ học vấn, lí lịch tốt phải trải qua những kì thi kiến thức chuyên môn

chứng khoán. Những người nắm giữ các chức năng quản lí trong công ty

chứng khoán phải có giấy phép đại diện. Yêu cầu để được cấp giấy phép đại

diện cao hơn so với giấy phép hành nghề về các mặt học vấn kinh nghiệm

công tác.

22

Trong điều kiện thành lập công ty chứng khoán cần chú ý tới tính điều kiện

và tính đương nhiên. Tính điều kiện có nghĩa là giấy phép thực hiện hoạt động

này có thể lại chính là điều kiện xin cấp giấy phép hoạt động kia. Chẳng hạn

muốn thực hiện hoạt động bảo lãnh thì bắt buộc phải có giấy phép hoạt động

tự doanh. Tính đương nhiên có nghĩa là được thực hiện hoạt động này thì

đương nhiên thực hiện hoạt động kia. Ví dụ: nếu đã có giấy phép quản lí quĩ

đầu tư thì đương nhiên được thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư.

Riêng đối với quản lí quĩ đầu tư ở một số nước trên thế giới có những điểm

khác biệt. Chẳng hạn một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc cho phép công ty

chứng khoán thành lập và quả lí quĩ đầu tư trong khi điều này không được

Inđônêxia chấp nhận.

Như vậy, điều kiện thành lập công ty chứng khoán có sự khác nhau ở các

nước trên thế giới. Tùy theo đặc thù mỗi quốc gia, các công ty chứng khoán

cũng được tổ chức theo nhiều mô hình khác nhau.

1.3. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới.

Trên thế giới có ba mô hình công ty chứng khoán cơ bản:

Thứ nhất: là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô hình này

không có sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh

chứng khoán. Các ngân hàng thương mại cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân

hàng, chứng khoán và bảo hiểm trong một pháp nhân duy nhất. Đây là

phương thức hoạt động ngân hàng đa năng cổ truyền mà điển hình được áp

dụng ở CHLB Đức, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, các nước Bắc Âu.

Thứ hai: là mô hình đa năng một phần (đa năng kiểu Anh), được áp dụng ở

Anh và một số nước có quan hệ gần gũi với Anh như Canada, Australia. Ngân

hàng khi tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con, có tư

cách pháp nhân độc lập. Các công ty con ít khi nắm giữ cổ phần của ngân

hàng và thường không có sự kết hợp giữa các công ty bảo hiểm và ngân hàng.

23

Thứ ba: là mô hình chuyên doanh. Nó được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ,

Nhật.v.v. Theo mô hình này các công ty chứng khoán là các công ty chuyên

doanh độc lập. Các ngân hàng không được phép tham gia vào kinh doanh

chứng khoán.

Dưới đây là mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới.

1.3.1. Mô hình Mỹ.

Nét nổi bật của mô hình này là sự tách rời hoạt động của ngành ngân hàng

và ngành chứng khoán. Đạo luật Glass-Steagall chỉ cho phép ngân hàng

thương mại tiến hành chào bán các loại chứng khoán Chính phủ mới phát

hành lần đầu nhưng cấm các tổ chức này bảo lãnh phát hành chứng khoán

doanh nghiệp hoặc tham gia vào hoạt động môi giới.

Do thị phần các ngân hàng thương mại giảm xuống, năm 1997 Cục Dự trữ

Liên bang đã áp dụng điều luật 20 của Đạo luật Glass-Steagall cho phép các

công ty mẹ thuộc ngân hàng bảo lãnh phát hành một số chứng khoán nhất

định.Và tới tháng 7/1988 Cục Dự trữ Liên bang tiến hành thí điểm công ty

mẹ thuộc ngân hàng thương mại J.P Morgan được bảo lãnh phát hành trái

phiếu công ty và bảo lãnh phát hành cổ phiếu, dần dần mở rộng cho phép đối

với các ngân hàng thương mại khác.

Các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Mỹ bao gồm

các ngân hàng đầu tư và các công ty môi giới. Việc thành lập các công ty

chứng khoán được thực hiện theo chế độ đăng kí. Các công ty môi giới và tự

doanh muốn tham gia kinh doanh chứng khoán chỉ cần đăng kí với SEC (Uỷ

ban Giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ) và phải tham gia một tổ chức tự quản

phù hợp (như NASD) hoặc xin trở thành một thành viên của Sở giao dịch.

Một tiêu chuẩn quan trọng mà công ty chứng khoán ở Mỹ phải tuân thủ là

tiêu chuẩn về vốn. Mức vốn yêu cầu cho hoạt động kinh doanh được xác định

bằng sự kết hợp giữa yêu cầu về vốn của pháp luật và mức vốn cần thiết của

công ty. Ở Mỹ không có sự phân biệt trong qui định giữa công ty chứng

24

khoán trong nước và các tổ chức nước ngoài tham gia khinh doanh chứng

khoán tại Mỹ.

1.3.2. Mô hình Nhật.

Trước đây, mô hình kinh doanh chứng khoán của Nhật là mô hình chuyên

doanh, ngân hàng không được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng

khoán. Theo Luật cải cách các định chế ban hành 4/1993, các tổ chức ngân

hàng được phép tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua các công ty

chứng khoán con. Đồng thời các công ty chứng khoán lại được phép thành lập

công ty con làm dịch vụ ngân hàng.

Kinh doanh chứng khoán Nhật Bản được chia thành 4 loại hình và mỗi loại

hình lại có giấy phép kinh doanh riêng biệt, đó là nghiệp vụ: môi giới, tự

doanh, bảo lãnh phát hành, chào bán chứng khoán ( hay tham gia vào hệ

thống bán lẻ các chứng khoán phát hành ra công chúng). Ngoài ra, các công

ty chứng khoán chuyên doanh được phép cung cấp các dịch vụ khác liên quan

tới chứng khoán như tư vấn đầu tư, làm đại lí thu tiền mua các trái phiếu phát

hành ra công chúng, thanh toán gốc và lãi trái phiếu, đại lí trả lợi nhuận, mua

lại hoặc huỷ từng phần tiền mua chứng chỉ quĩ đầu tư, lưu kí chứng khoán...

Công ty xin tham gia kinh doanh chứng khoán phải đáp ứng được các tiêu

chuẩn:

♦ Có nguồn tài chính lành mạnh.

♦ Nhân sự phù hợp với hoạt động kinh doanh.

♦ Chứng minh được việc xin tham gia kinh doanh chứng khoán là thiết

thực đối với công ty.

Vốn điều lệ tối thiểu đối với công ty chứng khoán thay đổi tuỳ theo loại

hình kinh doanh mà công ty đó tham gia:

♦ Đối với các công ty không phải là thành viên của Sở giao dịch chứng

khoán:

25

+ Tokyo hoặc Osaka SE : 300 triệu Yên.

+ Nagoya SE : 150 triệu Yên.

+ Các Sở khác : 100 triệu Yên.

♦ Đối với các công ty không phải là thành viên: 100 triệu Yên.

♦ Đối với công ty bảo lãnh phát hành:

+ Công ty tham gia 3 loại hình môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành: 10

tỷ Yên.

+ Công ty chuyên bảo lãnh phát hành hoặc là người quản lí cho tổ hợp bảo

lãnh phát hành: 3 tỷ Yên.

+ Các loại hình khác: 500 triệu Yên.

Cho tới năm 1972 Nhật Bản mới cho phép công ty chứng khoán nước

ngoài mở chi nhánh tại Nhật Bản. Theo luật hiện hành, các công ty chứng

khoán nước ngoài khi mở chi nhánh tại Nhật Bản phải được sự cho phép của

Bộ tài chính Nhật.

1.3.3. Mô hình Đức.

Các ngân hàng đa năng được tham gia vào tất cả các loại hình kinh doanh

chứng khoán mà không phải chịu sự ràng buộc nào. Các ngân hàng thường

tiến hành các nghiệp vụ tự doanh và môi giới các chứng khoán được phép

giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán. Các thành viên của Sở giao dịch

chứng khoán, ngoài các ngân hàng và tổ chức tín dụng, còn bao gồm những

người được Nhà nước cử ra để lập giá và nhóm các nhà lập giá tự do. Số

lượng các ngân hàng và người lập giá tự do không bị hạn chế, chỉ hạn chế số

lượng người do Nhà nước đề cử để lập giá.

Chức năng của các thành viên này được thể hiện: chỉ có ngân hàng mới

được nhận lệnh mua và bán chứng khoán của khách hàng rồi chuyển tới Sở

giao dịch chứng khoán. Chi nhánh của các công ty chứng khoán nước ngoài

26

tại Đức cũng phải có giấy phép kinh doanh chứng khoán với tư cách là một

ngân hàng.

Người lập giá gồm có người lập giá tự do và người lập giá do Nhà nước đề

cử. Nhiệm vụ của người lập giá do Nhà nước cử ra là xác định giá chính thức

của chứng khoán trên cơ sở tình hình giao dịch thực tế ở Sở giao dịch. Người

lập giá tự do là người trung gian môi giới các nghiệp vụ giao dịch giữa các

ngân hàng khác với người lập giá tỷ giá do Nhà nước cử ra.

1.3.4. Mô hình tại một số nước Châu Á điển hình.

a. Mô hình Hồng Kông.

Ở mô hình này không có sự tách biệt giữa hai ngành chứng khoán và ngân

hàng. Hầu hết các ngân hàng đều tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua

công ty con của mình.

Công ty kinh doanh chứng khoán có thể tồn tại dưới bất cứ hình thức nào:

cá thể, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp doanh... khi tham gia

kinh doanh chứng khoán, công ty chứng khoán chỉ cần đăng ký với Uỷ ban

giao dịch chứng khoán. Mức vốn pháp định không được đặt ra, nhưng công ty

chứng khoán phải duy trì mức vốn khả dụng theo quy định của pháp luật,

chẳng hạn: công ty chứng khoán chỉ làm một nghiệp vụ môi giới chứng

khoán, vốn khả dụng tối thiểu là 500.000 H$, đối với nhà kinh doanh chứng

khoán tham gia hoạt động tự doanh vốn khả dụng tối thiểu đối với các pháp

nhân (công ty) là 3.000.000 H$; đối với thể nhân là 500.000 H$; đối với công

ty hợp danh, từng thành viên pháp nhân là 3.000.000 H$, thể nhân là 500.000

H$.

Hồng Kông không có quy định nào riêng biệt đối với các công ty chứng

khoán nước ngoài kinh doanh trên thị trường và không có một sự phân biệt

đối xử nào giữa các công ty trong nước và công ty nước ngoài.

b. Mô hình Malaysia.

27

Trước đây các nhà kinh doanh chứng khoán Malaysia có thể là các cá nhân,

công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh... Từ 1986, các nhà quản

lý cho phép ngân hàng thành lập công ty con kinh doanh chứng khoán. Các

hoạt động nghiệp vụ chủ yếu bao gồm: môi giới, tự doanh và bảo lãnh phát

hành.

Cũng như những thị trường mới nổi, Malaysia có các quy định hạn chế sự

tham gia của nước ngoài. Công ty chứng khoán nước ngoài chỉ được phép

tham gia kinh doanh chứng khoán dưới hình thức liên doanh với công ty

chứng khoán trong nước. Tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài lúc đầu là 30%,

sau đó là 49%. Do thị trường và quản lý còn nhiều bất cập nên trên thực tế

chưa có công ty liên doanh nào nâng mức góp vốn trên 30%.

c. Mô hình Trung Quốc

Các công ty chứng khoán Trung Quốc là công ty TNHH hoặc công ty cổ

phần được thành lập theo luật công ty. Các công ty chứng khoán được thành

lập theo chế độ cấp phép. Cơ quan quản lý Nhà nước đảm nhiệm việc cấp

phép là cơ quan giám quản chứng khoán thuộc Quốc vụ viện.

Các nghiệp vụ kinh doanh chính gồm: môi giới, bảo lãnh phát hành, tự

doanh. Công ty chứng khoán gồm 2 loại: công ty môi giới chỉ thực hiện chức

năng môi giới, công ty chứng khoán đa năng thực hiện đồng thời 3 nghiệp vụ.

Điều kiện thành lập công ty đa năng và công ty môi giới chứng khoán:

+ Về vốn: đối với công ty đa năng, vốn điều lệ tối thiểu là 500 triệu Nhân

dân tệ, công ty môi giới là 50 triệu Nhân dân tệ

+ Những người điều hành và nhân viên nghiệp vụ phải có giấy phép hành

nghề chứng khoán.

+ Phải có địa điểm kinh doanh cố định và thiết bị giao dịch đủ tiêu chuẩn.

+ Có chế độ quản lý hoàn chỉnh và có hệ thống kiểm tra nội bộ hoạt động

tự doanh và môi giới chứng khoán hợp lý.

28

CHƯƠNG II: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG

TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên Thế giới

có thể thấy sự thành lập, phát triển của các công ty chứng khoán gắn liền với

sự hình thành, phát triển của thị trường chứng khoán. Nó là một quá trình lâu

dài. Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán có nét đặc thù riêng, nó được hình

thành và phát triển theo định hướng của Nhà nước. Do vậy, quá trình thành

lập, hoạt động của các công ty chứng khoán cũng mang những đặc điểm

riêng.

2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.

2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán.

Trong 2-3 năm đầu, các công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng chưa đặt

vấn đề nguồn thu lớn từ TTCK. Thị trường mới thành lập, quy mô nhỏ. Vì

vậy, mục tiêu trước mắt là tìm hiểu, thăm dò thị trường, tạo lập quan hệ khách

hàng, bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ và tích luỹ kinh nghiệm cho đội ngũ cán

bộ nhân viên. Trên cơ sở đó, xúc tiến, triển khai các phương án kinh doanh

một cách hoàn chỉnh. Để thực hiện điều này các công ty đã tiến hành một số

biện pháp như:

* Nắm bắt mọi động thái xu hướng phát triển, vận động của thị trường để

đánh giá và đúc rút những kinh nghiệm cần thiết ban đầu.

* Triển khai một số nghiệp vụ thí điểm có chọn lọc để tập dượt và đúc rút

những kinh nghiệm kinh doanh.

* Bảo toàn vốn tích cực.

* Xúc tiến các hoạt động quảng cáo, tiếp thị tạo lập quan hệ với khách hàng

tiền năng.

Trong thời gian đầu các công ty chứng khoán chuyên doanh vẫn chưa đặt

mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Trước mắt các công ty này tham gia thị

trường một cách thận trọng, lần lượt triển khai các nghiệp vụ với mục đích

29

làm quen với các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Từ đó rút ra những kinh

nghiệm kinh doanh cần thiết ban đầu. Họ đặt mục tiêu bảo toàn vốn, cắt giảm

các chi phí không cần thiết, duy trì hoạt động động kinh doanh thật vững sau

đó mới mở rộng và phát triển thị trường.

2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.

Ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, vì quy mô thị trường

còn nhỏ nên số lượng các công ty chứng khoán hiện nay còn ít. Điều này là

phù hợp nhằm giảm sự cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh chi phí ban đầu của

các công ty khi mới thành lập là rất lớn mà thu nhập còn nhỏ, chưa đủ khả

năng bù đắp chi phí. Ngoài ra, để đảm bảo nguyên tắc xây dựng thị trường

chứng khoán hiệu quả và an toàn ngay từ giai đoạn đầu, hiện nay chúng ta đã

chọn ra các công ty có quy mô lớn và chất lượng cao tham gia hoạt động kinh

doanh chứng khoán để giảm thiểu rủi ro. Khi thị trường đã phát triển hiệu

quả, quy mô và dung lượng thị trường đã lớn, số lượng công ty chứng khoán

có thể sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu thị trường. Hiện nay có 07 công ty

chứng khoán đã thành lập và đi vào hoạt động.

30

Bảng 1: Danh sách các công ty chứng khoán.

Số Các HĐ nghiệp Tên công ty Số GP HĐKDCK thứ tự Số NV hành nghề Vốn ĐL (tỷ VNĐ) vụ

12 01 43 01/GPHĐKD 26/11/1999 CTCPCK Bảo Việt

- Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK

08 50 - Môi giới 02 02/GPHĐKD 26/11/1999

CTTNHHCK- NHĐT và PT Việt Nam

08 06 03 - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK - Môi giới - Tư vấn đầu tư C K 03/GPHĐKD 05/04/2000 CTCPCK- Sài Gòn

09 43 04 04/GPHĐKD 08/04/2000 CTCPCK-Đệ Nhất

- Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành

- Tư vấn đầu tư

CK

07 09 05 05/GPHĐKD 11/05/2000 CTTNHHCK- Thăng Long

03 43 06 06/GPHĐKD 29/06/2000 CTTNHHCK- ACB

07 20 55 07/GPHĐKD 06/10/2000 CTTNHHCK- NHCTVN

- Môi giới - Quản lý DMĐT - Tư vấn đầu tư CK - Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK - Môi giới - Tự doanh - Quản lý DMĐT - Bảo lãnh phát hành - Tư vấn đầu tư CK - Lưu ký chứng khoán

31

2.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam.

Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán của các nước ta có thể nhận

thấy hầu như các thị trường từ các thị trường phát triển đến các thị trường mới

nổi đều cho phép các ngân hàng tham gia vào kinh doanh chứng khoán ở mức

độ và phạm vi khác nhau. Ngay cả những thị trường phát triển như Mỹ, Nhật

trước đây không cho phép các ngân hàng tham gia vào hoạt động chứng

khoán hiện đều có các quy định nới lỏng và có xu hướng chuyển dần từ mô

hình công ty chứng khoán chuyên doanh thuần tuý sang mô hình đa năng kiểu

Anh, tức là các ngân hàng được phép tham gia kinh doanh chứng khoán thông

qua các công ty con độc lập.

Ở Việt Nam hiện nay, ngành chứng khoán cũng như hoạt động kinh doanh

chứng khoán là hoàn toàn mới mẻ không những đối với dân chúng mà ngay

cả đối với các tổ chức kinh doanh ở nước ta. Việc tham gia của các tổ chức tín

dụng cụ thể là các ngân hàng thương mại vào kinh doanh chứng khoán trong

giai đoạn đầu của thị trường như hiện nay là hết sức cần thiết. Với đội ngũ

cán bộ đã được đào tạo và đã thông thạo việc kinh doanh các công cụ của thị

trường tiền tệ, có kinh nghiệm trong việc đánh giá các dự án đầu tư và với

mạng lưới hoạt động rộng rãi trên khắp cả nưóc, việc tham gia của các ngân

hàng sẽ góp phần phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Có thể

nhận thấy mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay chính là sự kết

hợp giữa mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình công ty chuyên

doanh chứng khoán. Chúng ta đã học tập và rút kinh nghiệm từ mô hình các

nước và hạn chế tiêu cực có thể phát sinh từ đó không ngừng nâng cao hiệu

quả hoạt động của các công ty chứng khoán.

Các công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề

nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp là người trung gian môi giới, mua bán,

32

bão lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ

khác cho cả người đầu tư và người phát hành trên thị trường chứng khoán.

Hoạt động của các công ty chứng khoán có ảnh hưởng lớn tới lợi ích của đông

đảo công chúng. Do đó, yêu cầu pháp lý đối với các công ty chứng khoán là

rất chặt chẽ.

2.3. Những quy định pháp lý đối với các công ty chứng khoán.

2.3.1. Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán.

Nghị định 48-1998-NĐ-CP ban hành ngày 11/07/1998 về chứng khoán và

TTCK quy định:

Công ty chứng khoán phải là các công ty cổ phần hoặc là công ty TNHH có

đủ các điều kiện:

* Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh

tế- xã hội.

* Có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán.

* Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh:

+ Môi giới: 3 tỷ VNĐ.

+ Tự doanh: 12 tỷ VNĐ.

+ Quản lý danh mục đầu tư: 3 tỷ VNĐ.

+ Bảo lãnh phát hành: 22 tỷ VNĐ.

+ Tư vấn đầu tư chứng khoán: 3 tỷ VNĐ.

Công ty chứng khoán kinh doanh trên nhiều loại hình thì vốn pháp định là

tổng số vốn pháp định của từng loại hình kinh doanh đó.

* Giám đốc (Tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh (không kể nhân

viên kế toán, hành chính, thủ quỹ) của công ty chứng khoán phải có giấy phép

hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCKNN cấp.

Việc bắt buộc công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty

TNHH nhằm bảo vệ lợi ích khách hàng, tránh tình trạng thâu tóm, thao túng

doanh nghiệp phục vụ lợi ích của một số người. Ngoài ra, công ty cổ phần hay

33

công ty TNHH sẽ phải tuân thủ chế độ thông tin, báo cáo chặt chẽ hơn, cũng

như yêu cầu về quản lý phải cao hơn.

2.3.2. Sự tham gia kinh doanh chứng khoán của các tổ chức tín dụng, công

ty bảo hiểm và tổng công ty.

Các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, Tổng công ty muốn tham gia kinh

doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập. Đây chính là

sự kết hợp giữa mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình tự doanh

mà hiện nay đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Ngân hàng đa năng với

phạm vị kinh doanh rộng rãi do đa dạng hoá hoạt động kinh doanh có lợi thế

hơn hẳn so với các công ty chứng khoán đơn thuần trong việc san bằng chi

phí và phân tán rủi ro. Thu nhập của nó ổn định hơn và do đó các nguồn vốn

của nó cũng ổn định hơn. Vì vậy, các ngân hàng đa năng có khả năng chống

đỡ cao đối với những tiến triển không thuận lợi trên thị trường chứng khoán.

Tuy nhiên, mô hình đa năng cũng có những nhược điểm nhất định. Khi tham

gia vào hoạt động bão lãnh phát hành chứng khoán, các ngân hàng thương

mại phải đương đầu với mâu thuẫn lợi ích tiềm năng do sự lạm dụng trong

kinh doanh chứng khoán của họ. Có ngân hàng đứng ra bão lãnh các chứng

khoán mới phát hành đã bán các chứng khoán cho các quỹ tín thác do họ quản

lý khi họ không thể bán chúng cho người khác và các quỹ tín thác này thường

xuyên phải chịu lỗ khi các chứng khoán bán chậm hoặc chứng khoán không

bán được. Các trường hợp tương tự xẩy ra khi bản thân các ngân hàng phải

mua chứng khoán mà họ tham gia bảo lãnh khi các chứng khoán không thể

bán được. Hậu quả của việc mua các tài sản chất lượng kém có thể dẫn đến

các tổn thất sau này cho các ngân hàng.Việc các ngân hàng thương mại được

kinh doanh chứng khoán trong nhiều trường hợp có thể gây nguy hại cho

khách hàng do kinh doanh mang tính đầu cơ của các ngân hàng. Có nhiều

trường hợp trong đó các ngân hàng đã dùng tiền gửi của công chúng để đầu

cơ chứng khoán với khối lượng lớn làm ảnh hưởng giá cả trên thị trường.

34

2.3.3. Chế độ quản lý.

Hiện nay, ở Việt nam quy định chế độ cấp giấy phép hoạt động đối với các

công ty chứng khoán. UBCKNN là cơ quan quản lý nhà nước cấp giấy phép

hoạt động đối với các công ty này. Việc duy trì chế độ cấp giấy phép đối với

các công ty xin hoạt động kinh doanh chứng khoán là điều đặc biệt cần thiết.

Thực tế cho thấy, chỉ ở một số thị trường phát triển mới áp dụng chế độ đăng

ký hoạt động và không đưa ra bất kỳ quy định nào về mức vốn pháp định tối

thiểu yêu cầu đối với một công ty xin kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên,

các công ty này phải đảm bảo duy trì mức vốn khả dụng nhất định và chịu sự

giám sát chặt chẽ trong 06 tháng hoặc 1 năm đầu hoạt động.

Nhưng hầu hết các nước trên thế giới, ngay cả Nhật Bản là nước có thị

trường chứng khoán phát triển ở mức độ cao, cũng áp dụng chế độ cấp giấy

phép hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư. Những nước

áp dụng chế độ này thường quy định rõ các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt

động kinh doanh chứng khoán, mức vốn pháp định tối thiểu yêu cầu đối với

từng loại hình kinh doanh chứng khoán.

2.4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các công ty chứng khoán.

Tuỳ theo quy mô kinh doanh và các nghiệp vụ mà công ty được cấp phép

hoạt động, cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán sẽ được tổ chức cho phù

hợp. Nghiệp vụ trọng tâm của các công ty chứng khoán hiện nay là môi giới,

tự doanh chứng khoán vì việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu là hoạt động trung

tâm của các công ty chứng khoán .

Cơ quan quyền lực cao nhất của công ty chứng khoán là Hội đồng quản trị.

Hội đồng quản trị bổ nhiệm ban giám đốc và giám đốc điều hành công ty.

Giúp việc cho hội đồng quản trị có ban kiểm soát với nhiệm vụ theo dõi và

kiểm soát mọi giao dịch do phòng giao dịch thực hiện, bảo đảm thực hiện

đúng các định mức giới hạn do UBCKNN và do hội đồng quản trị đặt ra về số

lượng quy mô giao dịch cho mỗi khách hàng ...Chế độ báo cáo nội bộ công ty,

35

cơ chế kiểm soát nội bộ cũng như thẩm quyền về kinh doanh chứng khoán

của các nhân viên được quy định rõ ràng và tuân thủ chặt chẽ.

Cơ cấu phòng ban của các công ty kinh doanh chứng khoán hiện nay nhìn

chung gọn nhẹ, bao gồm các phòng chủ yếu sau:

2.4.1. Phòng giao dịch (Phòng kinh doanh):

Thực hiện các giao dịch tại Sở giao dịch. Thông thường phòng giao dịch

gồm 3 bộ phận:

- Bộ phận môi giới cho khách hàng.

- Bộ phận giao dịch cho bản thân công ty.

- Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán.

Chức năng chính của phòng giao dịch là nhận và thực hiện các giao dịch tại

Sở, các lệnh của các cá nhân kinh doanh chứng khoán hoặc các đại lý do

phòng Marketing chuyển đến; thông báo về việc giao dịch đã thực hiện xong

cho người đặt lệnh và cuối cùng chuyển các tờ lệnh cho phòng Tài chính- kế

toán để soạn các văn bản hợp đồng tương ứng và đưa dữ liệu sang bộ phận

lưu trữ.

Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán cung cấp cho các bộ phận

của công ty, khách hàng các báo cáo về kinh tế và về tình hình hoạt động của

các công ty được niêm yết, tình hình thị trường và động thái giá chứng

khoán...

2.4.2. Phòng Tài chính- Kế toán:

Được chia thành hai bộ phận chủ yếu:

Bộ phận Kế toán: Có nhiệm vụ xử lý hợp đồng và các tài liệu giao dịch;

thực hiện việc soạn thảo, in ấn, gửi cho khách hàng, nhận lại từ khách hàng và

lưu trữ các bản hợp đồng và các chứng từ, tờ lệnh, các tài liệu giao dịch khách

với khách hàng.

Bộ phận Tài chính: Quản lý hoạt động tài chính của công ty thông qua tài

khoản chứng khoán và tiền. Ngoài ra bộ phận này còn quản lý việc cho khách

36

hàng vay tiền để thực hiện đầu tư vào chứng khoán, bảo đảm việc tuân thủ tỷ

lệ vốn cho vay trên tổng giá trị chứng khoán thế chấp. Bộ phận này thường

thỏa thuận với các ngân hàng để vay tiền ngân hàng, cho khách hàng vay và

ký kết các văn bản thoả thuận thế chấp có liên quan.

Trong tương lai, khi UBCKNN ban hành các văn bản pháp luật cho phép

thực hiện các giao dịch bán khống, giao dịch kỹ quỹ thì bộ phận tài chính sẽ

có thêm nhiệm vụ thực hiện cho khách hàng vay tiền, chứng khoán hoặc làm

trung gian dàn xếp giữa các khách hàng cho vay chứng khoán và khách hàng

đi vay chứng khoán.

2.4.3. Phòng Marketing:

Chức năng chủ yếu là quan hệ với khách hàng của công ty, nhận lệnh từ

khách hàng sau đó chuyển qua phòng giao dịch để thực hiện, nghiên cứu phát

triển thị trường.

2.4.4. Phòng quản trị hành chính-tổng hợp: Có nhiệm vụ:

+ Duy trì cơ sở kinh doanh, văn phòng làm việc, trang thiết bị và đồ

dùng văn phòng nói chung, cung cấp văn phòng phẩm, duy trì điện nước, nhà

ăn..

+ Tổ chức gặp gỡ, làm việc với các cơ quan hữu quan, các tổ chức quốc

tế, các tổ chức kinh doanh khác.

+ Ký kết và quản lý các hợp đồng tuyển dụng lao động, quản lý nhân

sự...

2.4.5. Phòng đăng ký, lưu ký và lưu trữ thông tin:

Thực hiện các công việc liên quan đến lưu ký, đăng ký chứng khoán và lưu

trữ thông tin về giao dịch chứng khoán, về tài khoản của khách hàng....

Trong trường hợp công ty chứng khoán được UBCKNN cấp phép hoạt

động quản lý tài sản khách hàng, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng

khoán có thể thành lập phòng quản lý tài sản.

37

Đối với các công ty chứng khoán nhỏ, cơ cấu phòng ban có gọn nhẹ hơn

chỉ gồm một số phòng: Phòng giao dịch, phòng kế toán-hành chính tổng hợp,

phòng lưu ký. Khi thị trường phát triển họ sẽ mở rộng các phòng theo hình

thức chuyên sâu đối với từng chức năng cụ thể.

2.5. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh.

Một nét đặc trưng của công ty chứng khoán là thị trường tài chính nói

chung và thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh hưởng lớn tới sản phẩm,

dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận của công ty chứng khoán. Việc triển khai các

hoạt động của công ty chứng khoán chịu ảnh hưởng lớn của thị trường chứng

khoán. Nên hoạt động của các công ty chứng khoán không thể tách rời hoạt

động của thị trường chứng khoán. Do vậy, để nghiên cứu thực tiễn hoạt động

của các công ty chứng khoán hiện nay ở Việt Nam trước hết phải nghiên cứu

hoạt động trên thị trường chứng khoán.

2.5.1. Hoạt động của TTGDCK.

2.5.1.1. Giao dịch chứng khoán

Tính đến 31/01/2001 TTGDCK TP Hồ Chí Minh đã thực hiện được 76

phiên giao dịch với tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch là:

4.481.200 cổ phiếu, 26.280 trái phiếu, đạt tổng giá trị 124.603 tỷ đồng. Giao

dịch cổ phiếu chiếm 98% tổng giá trị giao dịch, giao dịch trái phiếu chiếm 2%

tổng giá trị giao dịch.

- Tính theo từng loại cổ phiếu, giá trị giao dịch của REE là 24.516 tỷ đồng

chiếm 19,6%; SAM là 76.313 tỷ đồng chiếm 61,2%; HAP là 20.142 tỷ đồng

chiếm 16,1%; TMS là 833 triệu đồng chiếm 0,67%; LAF là 228 triệu đồng

chiếm 0,18%.

- Khối lượng trái phiếu Chính phủ được giao dịch là 390 trái phiếu đạt trị

giá 39,2 triệu đồng, chiếm 0,03%.

38

- Khối lượng trái phiếu Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam được giao

dịch là 25.890 trái phiếu đạt trị giá 2,28 tỷ đồng chiếm 2%.

39

Bảng 2: Giá trị giao dịch của một số loại trái phiếu và cổ phiếu.

(Đơn vị: Triệu đồng)

Chứng khoán Giá trị giao Tỷ trọng (%)

dịch

REE 24516 19,68

SAM 76313 61,25

HAP 20142 16,17

TMS 833 0,67

LAF 228 0,18

39,2 0,03 Trái phiếu Chính phủ

2528 2,03 Trái phiếu NHĐT và PT

100 Tổng 124599,2

2.5.1.2. Tình hình giá giao dịch chứng khoán.

a. Giá cổ phiếu:

Diễn biến giá của 5 loại cổ phiếu:

Bảng 3: Giá của một số loại cổ phiếu.

(Đơn vị: VNĐ/Cổ phiếu)

Cổ phiếu Giá trần Ngày giao dịch đầu tiên Tỷ lệ (%)

Giá cổ phiếu phiên giao dịch 31/01/2003

REE 26/07/2000 16000 39400 146

SAM 28/07/2000 17000 39200 130

HAP 04/08/2000 16000 52000 225

TMS 04/08/2000 14000 40900 192

LAF 15/12/2000 17000 20800 22

40

Chỉ số VN-INDEX tăng liên tục qua các phiên giao dịch, đạt 245, 8 điểm

vào phiên giao dịch ngày 31/01/ 2003.

b. Giá trái phiếu:

- Kể từ tháng 10/2001 đến 31/01/2003, trái phiếu Chính phủ không có giao

dịch nên giá không thay đổi, ở mức 100.800 đồng/trái phiếu.

- Giá của trái phiếu NHĐT và PT Việt Nam tăng từ 97.800 VNĐ/trái phiếu

vào ngày giao dịch đầu tiên 15/11/2001 đã tăng lên đến 99.200 VNĐ/trái

phiếu vào ngày giao dịch 29/12/2001 nhưng đến tháng 01/2003 thì giá trái

phiếu chỉ còn 93.000 VNĐ/trái phiếu.

Giá chứng khoán có xu hướng tăng liên tục. Cổ phiếu của REE, SAM chỉ

xuống giá trong vài ngày, sau đó lại có xu hướng tăng trở lại. Chỉ số VN-

INDEX có xu hướng tăng đều, trung bình mỗi phiên giao dịch tăng 1,07%.

Đây là dấu hiệu đáng mừng cho TTCK khi chỉ mới hoạt động trong một thời

gian ngắn.

2.5.1.3. Hoạt động lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.

Quá trình thực hiện lưu ký chứng khoán đã phục vụ tốt cho giao dịch chứng

khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao dịch tại TTGDCK. Công

chúng đầu tư đã bắt đầu quen với khái niệm lưu ký, ghi sổ thông qua

TTGDCK và một số khái niệm mới trong quá trình thực hiện quyền của cổ

đông thông qua TTGDCK. TTGDCK đã thực hiện đăng ký, lưu ký và thanh

toán bù trừ cho 9 loại chứng khoán niêm yết.

NHĐT và PT Việt Nam đã thực hiện được tốt vai trò Ngân hàng chỉ định

thanh toán cho TTGDCK, góp phần bảo đảm thời gian thực hiện việc thanh

toán bù trừ cho các giao dịch.

Đến nay, hầu hết các thành viên lưu ký nước ngoài chưa triển khai hoạt

động do các nhà đầu tư nước ngoài chưa xúc tiến các thủ tục cần thiết để tham

gia giao dịch chứng khoán.

41

Như vậy, sau 06 tháng đi và hoạt động có thể rút ra một số nhận định về

TTCK:

Mặt được:

- Lần đầu tiên một TTCK ra đời và đi vào hoạt động, mặc dù quy mô thị

trường còn rất nhỏ bé, vai trò, tác động đến nền kinh tế còn hạn chế, song

hoạt động của TTCK Việt Nam đã đánh dấu một bước tiến mới quan trọng

trong việc phát triển thị trường tài chính Việt Nam, thể hiện quyết tâm xây

dựng thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng

xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

- Từ khi bắt đầu hoạt động đến nay thị trường đảm bảo mở cửa liên tục;

công tác quản lý, tổ chức giao dịch tại TTGDCK đảm bảo an toàn, nghiêm

túc. Hoạt động giao dịch phục vụ khách hàng của các công ty chứng khoán,

hoạt động công bố thông tin của các công ty niêm yết bước đầu đã đi vào nề

nếp, phấn đấu đưa hoạt động của thị trường theo hướng bảo đảm tính công

khai, minh bạch.

- TTGDCK ra đời là bước thí điểm tập dượt ban đầu rất quan trọng. Trên

cơ sở đó, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, điều hành của UBCKNN,

TTGDCK được nâng cao, kỹ năng giao dịch và kinh nghiệm của công ty

chứng khoán và sự hiểu biết, làm quen với hình thức đầu tư mới của công

chúng được tăng cường, qua đó, tạo ra nền móng để mở rộng, phát triển

TTCK nhằm thu hút vốn đầu tư dài hạn qua hình thức phát hành chứng khoán

và thực hiện việc phân bổ vốn đầu tư linh hoạt, hiệu quả qua giao dịch chứng

khoán.

Mặt hạn chế:

- Việc giá cổ phiếu tăng là do lượng hàng hoá quá ít, cung quá nhỏ so với

cầu. Mặt khác, khi cổ phần hoá cổ phiếu được định giá quá thấp so với giá trị

thực trong khi các công ty lại trả cổ tức cao nên càng thu hút người đầu tư.

- Khối lượng hàng hoá niêm yết và giao dịch trên TTCK chưa nhiều, phạm

vi hoạt động của thị trường còn hẹp (mới có 05 loại cổ phiếu được đăng ký để

42

niêm yết) trong khi đó nhu cầu đầu tư cổ phiếu của công chúng lớn, tạo ra sự

mất cân đối giữa cung và cầu. Mặc dù UBCKNN đã phối hợp với các Bộ,

ngành liên quan và trực tiếp làm việc với một số doanh nghiệp để hướng dẫn

việc tham gia niêm yết nhưng kết quả đến nay vẫn rất hạn chế.

Nhiều doanh nghiệp chưa muốn tham gia niêm yết vì thực tế họ chưa có

nhu cầu về vốn (một số còn được ngân sách nhà nước cấp hoặc được vay ưu

đãi). Mặt khác, tâm lý họ còn ngại kiểm toán, công khai tài chính, công bố

thông tin.

- Trái phiếu Chính phủ tuy đã được đưa vào niêm yết nhưng số lượng giao

dịch rất thấp. Nguyên nhân chính là do lãi suất trái phiếu thấp hơn mặt bằng

lãi suất hiện nay. Lãi suất hiện hành của Ngân hàng là 7%/năm, có ngân hàng

là 8%/năm. Trong khi đó lãi suất trái phiếu Chính phủ chỉ có 6,5-6,6%/năm

nên không hấp dẫn người đầu tư. Trái phiếu Chính phủ phát hành qua đấu

thầu, bảo lãnh phát hành đều do các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm mua

và nắm giữ. Các tổ chức này đang trong tình trạng thừa vốn nên họ nắm giữ

trái phiếu, không có nhu cầu bán lại và nếu có bán thì phải sau một thời gian

dài.

Như vậy, qua thực tế hoạt động của TTCK trong 06 tháng có thể thấy

TTCK Việt nam dưới mô hình TTGDCK đang ở trong những bước thử

nghiệm ban đầu, điều này có tác động không nhỏ tới việc triển khai nghiệp vụ

của các công ty chứng khoán.

2.5.2. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của các công ty

chứng khoán.

Hiện nay, có 07 công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động. Qua 06

tháng hoạt động, nhìn chung các công ty chứng khoán tuân thủ Nghị định

48/19998/ NĐCP của Chính phủ, các quy định của UBCKNN và luật doanh

nghiệp, đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng.

a. Môi giới:

43

Hầu hết các công ty chứng khoán hiện nay mới tập trung trung triển khai

hoạt động môi giới. Tính đến 01/2003, tổng số tài khoản của các nhà đầu tư

mở để giao dịch tại các công ty chứng khoán là 3249, tăng 2 lần so với khối

lượng tài khoản mở trong tháng 08/2001 (là tháng bắt đầu hoạt động của các

công ty).

Tổng số chứng khoán lưu ký qua các công ty chứng khoán là 19.254.000

chứng khoán chiếm 60% trong tổng số 32 triệu chứng khoán đăng ký niêm

yết. Một số công ty do điều kiện thuận lợi đã thu hút được khách hàng đến mở

tài khoản và có tổng giá trị môi giới mua bán chứng khoán cho khách hàng

khá cao. Từ đó doanh thu của các công ty này từ nguồn phí môi giới cũng cao

hơn các công ty khác (trung bình trên 50 triệu VNĐ/ tháng), các công ty này

bao gồm: Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt, Công ty cổ phần chứng

khoán Sài Gòn, công ty TNHH chứng khoán ACB. Các công ty khác như

công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất, Công ty cổ phần chứng khoán Thăng

Long do mở chi nhánh hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu nhận

lệnh của khách hàng ở Bình Dương và Hà Nội nên giá trị mua bán chứng

khoán và doanh thu từ phí môi giới mua bán chứng khoán là thấp (doanh thu

từ phí môi giới chỉ đạt 10-15 triệu VNĐ/ tháng).

b. Tự doanh.

Ngoài nghiệp vụ môi giới, hầu hết các công ty chứng khoán (trừ 2 công ty

chứng khoán Sài Gòn và Thăng Long không đăng kí hoạt động tự doanh) đều

đã triển khai hoạt động tự doanh nhưng tỷ trọng vẫn còn thấp hơn nhiều so

với hoạt động môi giới. Tuy nhiên, phần lớn các chứng khoán mà các công ty

đầu tư đều mang lại lợi nhuận do giá cả cổ phiếu liên tục tăng.

c. Các hoạt động khác.

Các hoạt động khác như bảo lãnh phát hành, quản lí danh mục đầu tư đều

chưa được triển khai. Riêng các hoạt động tư vấn đầu tư hiện nay mới chỉ

mang tính chất hướng dẫn người đầu tư thực hiện đúng các thủ tục mua, bán

chứng khoán chứ chưa thực sự tư vấn cho người đầu tư biết cách đầu tư vốn

44

của họ một cách có hiệu quả. Do đó, các công ty chưa thu phí đối với hoạt

động này.

Các công ty chứng khoán đang có kế hoạch mở thêm chi nhánh và tuyển

nhân viên cho các bộ phận nghiệp vụ để mở rộng phạm vi phục vụ nhà đầu tư.

Tuy nhiên, trong thời gian qua quy mô của TTGDCK còn nhỏ bé, do đó

doanh thu hoạt động của các công ty chứng khoán chưa bù đắp được chi phí

cho các hoạt động giao dịch thường xuyên cũng như cho các chi phí ban đầu.

Đến hết năm 2000 theo báo cáo sơ bộ, hầu hết các công ty chứng khoán đều

bị lỗ.

45

CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT

TRIỂN CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY.

3.1. Mục tiêu và phương hướng trong thời gian tới.

Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán các nước và thực tiễn hoạt

động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam thời gian qua chúng ta có thể

rút ra một số bài học nhằm hoàn thiện các công ty chứng khoán ở các mặt: mô

hình công ty; đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong các công ty chứng khoán

và hệ thống tin học phục vụ giao dịch và triển khai các nghiệp vụ. Đồng thời,

rút ra một số bài học nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán

trong thời gian tới.

Thứ nhất, về mô hình công ty. Qua mô hình của các nước ta có thể nhận

thấy hầu như các thị trường từ phát triển đến các thị trường mới nổi đều kết

hợp giữa hai mô hình ngân hàng đa năng một phần và mô hình công ty

chuyên doanh chứng khoán. Sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào

hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ phát huy được các lợi thế về mạng lưới

kinh doanh tiền tệ sẵn có, kinh nghiệm trong việc đánh giá các dự án đầu tư

vv..nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xẩy ra. Tuy nhiên nếu chỉ có duy nhất

ngân hàng thương mại hoạt động trên thị trường chứng khoán thì sẽ vấp phải

hạn chế là khi thị trường chứng khoán xẩy ra biến động thì sẽ tác động tới hệ

thống ngân hàng gây ra khủng hoảng trên thị trường tiền tệ. Do đó phải có sự

tham gia của các công ty chuyên doanh chứng khoán nhằm khắc phục hạn

chế trên. Như vậy, trong thời gian trước mắt chúng ta cần phải duy trì mô

hình ngân hàng đa năng một phần và công ty chuyên doanh chứng khoán.

Thứ hai, về chế độ quản lí. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai chế độ quản lí

việc thành lập các công ty chứng khoán: đó là chế độ cấp phép thành lập và

đăng kí thành lập. Chỉ một số nước có thị trường chứng khoán phát triển mới

áp dụng chế độ đăng ký hoạt động và không đưa ra bất kỳ quy định nào về

46

mức vốn pháp định tối thiểu. Tuy nhiên hầu hết các nước khác, ngay cả Nhật

Bản là nước có thị trường chứng khoán phát triển ở mức độ cao, cũng áp dụng

chế độ cấp phép hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư. Vì

vậy, việc duy trì chế độ cấp phép đồi với các công ty xin hoạt động kinh

doanh chứng khoán ở Việt Nam là điều tất yếu và đặc biệt cần thiết.

Thứ ba, về hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán. Điều bắt buộc

chung là các tổ chức muốn kinh doanh chứng khoán phải là một công ty cổ

phần hay một công ty TNHH nhằm bảo vệ lợi ích của khách hàng, tránh tình

trạng thâu tóm, thao túng doanh nghiệp phục vụ lợi ích của một số người. Bên

cạnh đó công ty cổ phần hay công ty TNHH tuân thủ chế độ thông tin báo cáo

chặt chẽ hơn cũng như yêu cầu về quản lý cao hơn.

Thứ tư, về sự tham gia của nước ngoài. Trong thời gian trước mắt chúng ta

cần hạn chế sự tham gia của các bên nước ngoài vào thành lập các tổ chức

kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam do một số nguyên nhân:

- Các công ty chứng khoán nước ngoài có bề dày kiến thức và kinh nghiệm

trong kinh doanh chứng khoán nên sẽ tạo thành một chênh lệch rất xa, đặc

biệt trong giai đoạn đầu của thị trường, với các công ty chứng khoán trong

nước.

- Môi trường pháp lý ban đầu của ta chưa hoàn thiện; kiến thức, kinh nghiệm

cũng như trình độ quản lý của ta chưa cao sẽ tạo ra những khó khăn nhất định

trong việc hạn chế và giám sát sự thao túng thị trường của các công ty nước

ngoài.

Nhưng sự hạn chế cũng không ở mức chặt chẽ quá như một số nước khi

thiết lập thị trường vào những năm 60-70 vì môi trường kinh doanh quốc tế

hiện nay đã có những thay đổi đáng kể, nhu cầu về vốn đầu tư cũng như tình

hình quốc tế hoá đã có sự phát triển khá mạnh trong những năm gần đây. Việc

hạn chế qua chặt chẽ sẽ làm giảm sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam đối với

các nhà đầu tư nước ngoài.

47

Thứ năm, trong hoạt động kinh doanh chứng khoán của các công ty chứng

khoán sẽ cần phải có sự tách bạch giữa nghiệp vụ chứng khoán và các nghiệp

vụ tài chính khác, giữa hoạt động môi giới chứng khoán và hoạt động tự

doanh. Hầu hết các nước, kể cả các nước có thị trường chứng khoán phát triển

đều đưa ra quy định tách biệt giữa môi giới và tự doanh chứng khoán như

công ty chứng khoán phải quản lý tài sản chứng khoán của khách hàng tách

biệt với tài sản chứng khoán của công ty; phải ưu tiên thực hiện lệnh của

khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty.... những quy định này nhằm

tránh các xung đột về lợi ích của khách hàng với các công ty chứng khoán ở

Việt Nam.

Thứ sáu, trong thời gian tới số lượng các công ty chứng khoán cần được

mở rộng nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động của thị trường chứng khoán, nâng

cao tính thanh khoản cho thị trường, cung cấp các dịch vụ nhanh chóng, kịp

thời, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư và các nhà phát hành vào thị

trường chứng khoán.

Để thực hiện được các mục tiêu trên cần có những giải pháp hoàn thiện

các công ty chứng khoán ở các mặt như mô hình công ty, nguồn nhân lực....

trong các công ty chứng khoán, đồng thời có các điều kiện tiền đề để mở rộng

và phát triển các công ty chứng khoán. Sau đây là một số giải pháp nhằm

hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện công ty chứng khoán.

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện mô hình công ty chứng khoán.

Hiện nay, chúng ta đang kết hợp mô hình ngân hàng đa năng một phần và

mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán. Theo đó, các ngân hàng muốn

tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con là

một pháp nhân riêng biệt, hạch toán độc lập. Các công ty chuyên doanh là

những công ty chuyên môn hóa trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán,

không tham gia kinh doanh các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm.

48

Tuy nhiên, việc duy trì mô hình này đang gặp khó khăn về khung pháp lý.

Trong quá trình thành lập và hoạt động, các công ty chứng khoán chịu sự điều

chỉnh của nhiều Luật khác nhau dẫn tới sự chồng chéo, không nhất quán.

Chẳng hạn, các công ty chứng khoán ngân hàng ngoài việc phải chịu sự điều

chỉnh của Luật công ty, Luật doanh nghiệp còn phải chịu sự điều chỉnh của

Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Trong khi đó, các

công ty chuyên doanh không phải chịu sự điều chỉnh của Luật ngân hàng Nhà

nước và Luật các tổ chức tín dụng. Mặt khác, Luật các tổ chức tín dụng không

qui định các ngân hàng được phép thành lập công ty chứng khoán, trong khi

đó Nghị định 48/1998/NĐ-CP lại có qui định về việc ngân hàng được phép

thành lập công ty chứng khoán. Điều này cho thấy, việc áp dụng mô hình các

công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay còn thiếu cơ sở pháp lí hoàn thiện.

Để mô hình ngân hàng đa năng một phần kết hợp với công ty chuyên

doanh chứng khoán hoàn thiện và phát huy hiệu quả thì vấn đề đặt ra hiện nay

là chúng ta phải sớm ban hành Luật về chứng khoán và thị trường chứng

khoán làm cơ sở pháp lí chung điều chỉnh hoạt động của hệ thống các công ty

chứng khoán chuyên doanh và ngân hàng, không gây nên sự điều chỉnh chồng

chéo của các văn bản pháp qui lên hoạt động của các công ty này.

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện nguồn nhân lực trong các công ty chứng

khoán.

Đây là một trong những vấn đề được xem là khó khăn và phức tạp nhất

trong việc xây dựng và hình thành hệ thống các công ty kinh doanh chứng

khoán.Trước hết, vì ở Việt Nam mới có hoạt động kinh doanh chứng khoán

và do đó về cơ bản nhân lực được trang bị kiến thức về hoạt động này còn ít.

Mặt khác, do nền kinh tế Việt Nam hiện đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ

nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với cơ chế quản lí kinh tế được thực hiện

bằng biện pháp hành chính là chủ yếu sang nền kinh tế thị trường với định

hướng xã hội chủ nghĩa, nên những nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường

49

đang trong thời kỳ thiết lập và khẳng định. Điều này, đương nhiên cũng ảnh

hưởng đến sự vận hành và cơ chế quản lí kinh tế của nền kinh tế, tập quán

kinh doanh, đội ngũ nhân lực cho hoạt động kinh doanh của Việt Nam. Tuy

nhiên, sau gần 15 năm thực hiện đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những

bước tiến hết sức quan trọng. Trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, bảo hiểm, các

nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa

về cơ bản đã được xác lập và đi kèm với nó là đội ngũ nhân lực có chuyên

môn tốt, đã được đào tạo và đang từng bước khẳng định vị thế trong công

việc. Đây là điều kiện thuận lợi trong việc phát triển nhân lực ngành chứng

khoán nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng.

Đối với công ty chứng khoán, là lĩnh vực hoạt động kinh doanh trên thị

trường vốn, các cá nhân thực hiện kinh doanh chứng khoán phải đáp ứng

nhiều tiêu chuẩn về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp rất khắt khe có tính

đặc thù riêng có của hoạt động này. Trên thế giới, việc đào tạo nhân lực cho

ngành chứng khoán do các trường đại học về kinh tế, hiệp hội các nhà kinh

doanh chứng khoán đảm nhiệm. Ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu hoạt động

của thị trường chứng khoán, UBCKNN phải đảm nhận việc đào tạo nhân lực

cho ngành chứng khoán (nhân lực quản lí ngành chứng khoán và nhân lực

hoạt động kinh doanh chứng khoán) và trong thời gian đầu UBCKNN tổ chức

các khoá đào tạo cơ bản về chứng khoán, đào tạo về phân tích và đầu tư

chứng khoán, đào tạo về khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh chứng

khoán và các kiến thức về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Cá nhân tham

gia tốt các khoá đào tạo tốt của UBCKNN sẽ được cấp chứng chỉ và là cơ sở

để cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán. Để được cấp giấy phép

hành nghề, cá nhân phải qua 4 khoá đào tạo:

- Khóa đào tạo cơ bản.

- Khoá đào tạo nâng cao.

- Khoá đào tạo về luật pháp.

- Khoá đào tạo về nghiệp vụ.

50

Sau khi đã đạt được các yêu cầu về nghiệp vụ chuyên môn, các cá nhân

phải qua kỳ thi sát hạch do cơ quan quản lí Nhà nước về chứng khoán tổ

chức. Điều còn gây ít nhiều tranh luận là nên chăng quy định thời hạn có hiệu

lực của giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán. Là lĩnh vực kinh

doanh hết sức phức tạp, còn ít quen thuộc đối với Việt Nam, do vậy việc quy

định thời hạn của giấy phép hành nghề là cần thiết. Hết thời hạn của giấy

phép hành nghề, các cá nhân phải làm thủ tục cần thiết và tham dự kỳ sát hạch

về chuyên môn để được cấp giấy phép.

Mặc dù UBCKNN đã nỗ lực phối hợp cùng các ngành liên quan thực hiện

công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các công ty chứng khoán song kết quả

đạt được vẫn chưa cao, đội ngũ cán bộ quản lí cho các công ty chứng khoán

vẫn là vấn đề nan giải, trình độ của nhân viên trực tiếp thực hiện các nghiệp

vụ kinh doanh còn thấp. Nhiều trường hợp để ra sai sót trong quá trình tiến

hành nghiệp vụ giao dịch cho khách hàng. Vì vậy, để nâng cao hơn nữa trình

độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, nhân viên trong các công ty chứng khoán

đồng thời bổ sung thêm đội ngũ nhân lực cho các công ty này thì vấn đề đặt ra

trước mắt là UBCKNN cần thường xuyên mở các lớp đào tạo về nghiệp vụ

chứng khoán, phổ biến các kinh nghiệm quản lí cho đội ngũ nhân sự trong các

công ty này. Bên cạnh đó cần có biện pháp thích hợp nhằm đưa việc đào tạo

nhân lực cho ngành chứng khoán trở lên phổ biến trong các trường đại học

khối kinh tế. Có như vậy vấn đề nguồn nhân lực cho các công ty chứng khoán

mới được giải quyết triệt để trong thời gian tới.

3.2.4. Giải pháp hoàn thiện hệ thống tin học cho các công ty chứng khoán.

Các giải pháp tin học cho hoạt động và quản lí của công ty chứng khoán

được thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất là mỗi công ty chứng khoán xây

dựng một hệ thống tin học - tự động hoá cho riêng mình. Cách thứ hai là các

công ty cùng hợp tác và phát triển một hệ thống chung. Mỗi phương thức nêu

trên đều có mặt mạnh và mặt hạn chế.

51

Phương thức thực hiện tự động hoá từng công ty có ưu điểm cho phép từng

công ty có hệ thống tin học - tự động hoá của riêng mình và từ đó công ty

chứng khoán có thể cung cấp các dịch vụ ưu đãi riêng có cho khách hàng,

đồng thời cho phép công ty có thể tự điều chỉnh hệ thống một cách nhanh

chóng khi tình huống thay đổi và bảo đảm ưu thế cạnh tranh nhất định của

công ty đối với các công ty khác. Nhược điểm chính của phương thức này là

chi phí cao cho công ty và đòi hỏi nhiều nhân lực, nhất là trong giai đoạn đầu

thành lập. Mặt khác, nó có thể gây ra sự lãng phí nếu xét tổng thể do phát

triển nhiều hệ thống tin học có chức năng tương tự.

Phương thức cùng phát triển một hệ thống dưới sự hướng dẫn của cơ quan

ngành chứng khoán có thể khắc phục được những yếu điểm của phương thức

nêu trên, mặt khác cho phép thực hiện thống kê về hoạt động kinh doanh được

thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho quản lí, giám sát hoạt động kinh doanh

chứng khoán của nhà chức trách. Nhược điểm chính của phương thức này là

khó thực hiện việc cung cấp dịch vụ ưu đãi riêng có của từng công ty cho

khách hàng. Mặt khác, khi có thay đổi về môi trường và điều kiện thì việc

điều chỉnh cả hệ thống như vậy chắc chắn sẽ khó khăn và mất nhiều công sức,

thời gian.

Vì vậy, các thị trường chứng khoán trên thế giới cũng có cách thức khác

nhau khi giải quyết vấn đề này. Ở các thị trường chứng khoán phát triển, các

công ty chứng khoán lựa chọn phương thức phát triển hệ thống riêng biệt do

cơ cấu tổ chức quản lí đã phát triển tốt và có tiềm lực tài chính, nguồn nhân

lực phù hợp. Tại các thị trường chứng khoán mới nổi, như thị trường Trung

Quốc, các công ty chứng khoán cùng với Sở giao dịch cùng phát triển một hệ

thống tin học. Đối với trường hợp của Việt Nam, chúng ta đã học tập kinh

nghiệm của Trung Quốc và giao cho Trung tâm giao dịch chứng khoán cùng

với các công ty chứng khoán Việt Nam xây dựng hệ thống tin học thống nhất

cho hoạt động kinh doanh của công ty. Đương nhiên, hệ thống tin học - tự

động hoá giao dịch của công ty gắn liền và phù hợp với hệ thống giải pháp tin

52

học của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Cách thức này cho phép xây dựng

hệ thống tin học thống nhất từ công ty chứng khoán đến các hệ thống giao

dịch, thanh toán và giám sát của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Đồng thời

trong thời gian đầu, khi các công ty chứng khoán chưa đủ điều kiện về vốn và

kinh nghiệm thì cách thức này sẽ hỗ trợ rất lớn cho các công ty chứng khoán.

Về nguyên tắc, các giải pháp tin học cho việc hoạt động, quản lí và giám

sát của công ty chứng khoán phải đáp ứng các yêu cầu sau:

- Tăng tốc độ, khối lượng và qui mô thực hiện các giao dịch chứng khoán.

- Bảo đảm chi phí giao dịch chứng khoán cho khách hàng ở mức độ thấp

nhất.

- Bảo đảm thời gian thực hiện giao dịch chứng khoán là ngắn nhất.

- Bảo đảm khả năng kiểm soát tốt nhất tài khoản khách hàng và tài khoản

của công ty, cũng như việc đăng ký, lưu giữ chứng khoán cho khách hàng.

- Giảm thiểu rủi ro trong việc thực hiện giao dịch chứng khoán và tăng khả

năng thanh toán cho công ty.

- Bảo đảm khả năng kiểm soát nội bộ một cách hữu hiệu và quản lý tốt

nhất việc phân cấp trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán.

- Cho phép các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán thực hiện quản

lí, giám sát việc chấp hành các tiêu chuẩn và hạn mức kinh doanh đối với

công ty chứng khoán.

Hiện nay, các công ty chứng khoán trên thế giới đang hết sức quan tâm và

đầu tư mạnh mẽ cho việc tự động hoá hoạt động kinh doanh chứng khoán

nhằm tăng tốc độ giao dịch, giảm chi phí giao dịch và tăng cường áp dụng

các biện pháp và mô hình kinh doanh, quản lý được tự động hoá để quản lý

rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mặt khác việc nhiều công ty

chứng khoán trên thế giới đã bắt đầu thực hiện giao dịch chứng khoán trên

mạng Internet đã đặt ra những yêu cầu mới đối với hệ thống tin học cho hoạt

động kinh doanh chứng khoán.

53

Vì vậy, các công ty chứng khoán của Việt Nam nên cùng phối hợp thực

hiện chương trình tự động hoá. Điều kiện tương đối thuận lợi là chi phí cho hệ

thống tin học cho hoạt động kinh doanh và quản lý ngày càng có xu hướng

giảm. Tuy nhiên, trong thời gian đầu do thị trường chứng khoán Việt Nam

chưa sôi động, quy mô giao dịch còn nhỏ, các công ty chứng khoán kinh

doanh sẽ chưa có lãi nhiều nên để tiết kiệm có thể chỉ lắp đặt hệ thống tự

động có công suất xử lý thông tin vừa phải, song phải là hệ thống mở để khi

cần thiết có thể tăng ngay công suất. Cách làm này cho phép tiết kiệm chi phí

khi thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán mà vẫn bảo đảm khả

năng nâng cấp và phát triển liên tục của hệ thống tin học của công ty khi thị

trường chứng khoán phát triển.

Sau này, khi thị trường chứng khoán đã phát triển và các công ty chứng

khoán Việt Nam đã đủ mạnh, Việt Nam nên chuyển sang phương thức tự xây

dựng hệ thống tin học riêng nhằm bảo đảm sự cạnh tranh cần thiết giữa các

công ty và khuyến khích các công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ tốt hơn

cho khách hàng.

Về mô hình hệ thống trong thời gian đầu, hệ thống giao dịch thanh toán

của trung tâm giao dịch kết nối trực tiếp với các trạm làm việc của công ty

chứng khoán thông qua mạng nội bộ.

Phác thảo sơ đồ hệ thống thông tin nội bộ.

Công ty CK

Trung tâm GDCK

Mạng LAN

Công ty CK

Hệ thống giao dịch

Hệ thống thanh toán

Công ty CK

Giám sát tại Sở GD

54

Về lâu dài khi thị trường phát triển, hệ thống thông tin và giao dịch của Sở

giao dịch sẽ kết nối với công ty chứng khoán qua mạng diện rộng và các công

ty chứng khoán có thể trực tiếp giao dịch tại trụ sở của mình.

3.3. Các giải pháp nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán.

3.3.1. Giải pháp tạo hành lang pháp lý cho các công ty chứng khoán.

Cơ sở pháp lí trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và giám sát hoạt động của

các công ty chứng khoán là:

- Luật Công ty (từ 1/1/2001 áp dụng Luật Doanh nghiệp) qui định các

nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lí công ty (Công ty cổ

phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân); Luật Doanh nghiệp Nhà

nước qui định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quả lí

Doanh nghiệp nhà nước; Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín

dụng qui dịnh các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lí

Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.

- Các luật như Luật dân sự, Luật Thương mại, Luật phá sản, Luật đầu tư

nước ngoài, Luật hợp đồng quy định quyền sở hữu về chứng khoán, phương

thức chuyển giao quyền sở hữu này và vấn đề phá sản công ty chứng khoán.

- Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ban hành ngày 11/7/1998 về chứng khoán

và thị trường chứng khoán, và các văn bản hướng dẫn, qui chế về thành lập và

hoạt động của công ty chứng khoán.

Các văn bản pháp lí nêu trên là nền tảng pháp lí cơ bản điều chỉnh việc

phát hành chứng khoán ra công chúng, việc hình thành và hoạt động của các

chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán

nói riêng. Tuy nhiên, ở chừng mực nhất định, các văn bản pháp lí nêu trên

còn thiếu sự đồng bộ và nhất quán trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan

đến hoạt động chứng khoán nói chung và hoạt động kinh doanh chứng khoán

nói riêng.

55

Một trong những vấn đề lớn về pháp lí đối với hoạt động kinh doanh của

các công ty chứng khoán là khung pháp lí điều chỉnh các hoạt động kinh

doanh, thâu tóm, mua bán công ty, phá sản, giải thể và thanh lí công ty...Ở

mặt này, khung pháp lí ở Việt Nam còn nhiều điểm bất đồng. Ví dụ: Luật dân

sự không cho phép bán tài sản khi chưa thuộc quyền sở hữu của người bán,

như vậy chúng ta cũng không thể cho phép công ty chứng khoán, nhà đầu tư

thực hiện hoạt động bán khống; Luật doanh nghiệp không có qui định rõ điều

chỉnh việc thâu tóm, mua bán công ty và bảo vệ lợi ích hợp pháp của cổ đông

thiểu số ở các công ty ty cổ phần; trong khi khung pháp lí về chứng khoán

hiện đang ở mức nghị định, như Nghị định 48/1998/NĐ-CP lại chưa qui định

cụ thể và chi tiết về vấn đề này; hay như luật phá sản coi tất cả các chủ nợ như

nhau, không phân biệt, trong khi luật này ở các nước trên thế giới phân biệt

chủ nợ ra nhiều loại, trong đó các chủ nợ phụ trợ là loại hình rất phổ biến và

ảnh hưởng rất lớn đến việc phá sản của các công ty nói chung và công ty

chứng khoán nói riêng; Bộ Luật hình sự chưa có qui định rõ ràng về các tội

danh trong hoạt động của thị trường chứng khoán...

Qua tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán 6 tháng vừa qua,

chúng ta thấy cần thiết phải sớm nghiên cứu và chuẩn bị ban hành Luật về

chứng khoán và giao dịch chứng khoán để hoạt động kinh doanh chứng khoán

có khung pháp lí đầy đủ và hoàn thiện hơn.

Trong thời gian trước mắt việc quy định các loại hình pháp nhân và thể

nhân tham gia kinh doanh chứng khoán là hết sức cần thiết. Nó phải dựa trên

một số nguyên tắc sau:

* Công ty hoạt động kinh doanh chứng khoán phải là công ty cổ phần, công

ty TNHH do các pháp nhân và thể nhân hợp pháp thành lập.

* Các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng Đầu tư Phát triển,

Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, các công ty tài chính,

công ty bảo hiểm trong nước hoặc các Tổng công ty tham gia kinh doanh

56

chứng khoán phải thành lập ( hoặc liên doanh thành lập) công ty chứng khoán

trực thuộc, hạch toán độc lập.

* Các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài muốn tham gia kinh

doanh chứng khoán tại Việt Nam phải thành lập công ty chứng khoán liên

doanh với công ty chứng khoán trong nước theo qui định của Nghị định

48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tỷ lệ phần vốn

góp tối đa của bên nước ngoài trong liên doanh sẽ được qui định phù hợp với

điều kiện và khả năng cũng như yêu cầu phát triển của thị trường chứng

khoán Việt Nam.

Sau này, tuỳ thuộc vào sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam,

UBCKNN có thể qui định bổ sung các loại hình doanh nghiệp khác tham gia

kinh doanh chứng khoán phù hợp với sự phát triển của từng thời kì.

3.3.2. Giải pháp tăng cường việc quản lý, thanh tra, giám sát các công ty

chứng khoán.

Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán được thực hiện một

cách công bằng, trung thực, công khai, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư và

công chúng tham gia đầu tư, các chủ thể kinh doanh chứng khoán phải chấp

hành các quy định về đạo đức kinh doanh, quy định và hạn mức áp dụng đối

với kinh doanh về sử dụng vốn, chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất, chế độ

kế toán và kiểm toán... do UBCKNN và sở giao dịch quy định.

3.3.2.1. Tăng cường công tác giám sát tài chính và quản lí rủi ro đối với công

ty chứng khoán.

Các thị trường chứng khoán có nhiều cách xử lý khác nhau. Ví dụ Hàn

Quốc đã sử dụng nhiều cách để thực hiện giám sát tài chính như:

- Quy định về vốn (tài sản) thuần tối thiểu phải đạt mức nhất định (áp dụng

từ năm 1962). Theo quy định này, vốn thuần tối thiểu (VTTT) được xác định

theo công thức sau:

57

VTTT =Tổng tài sản - Tổng nợ - Tài sản không thuộc tài sản lưu động

Nếu công ty chứng khoán không thoả mãn yêu cầu của quy định này thì

công ty có thể bị buộc ngừng hoạt động hoặc bị thu hồi giâý phép hoạt động.

Điểm yếu của quy định này là không phản ánh được giá trị thị trường của các

tài sản thuộc công ty, do vậy không dự báo và quản lí được rủi ro đối với các

tài sản thuộc công ty. Vì vậy, năm 1991 Hàn Quốc đã bỏ không áp dụng mô

hình này.

- Qui định về chỉ số nợ áp dụng từ 1968 đến 1977. Theo qui định này, chỉ

số nợ (dept ratio) không được vượt quá mức nhất định và được tính như sau:

Chỉ số nợ = Tổng nợ/ (Vốn cổ phần + Vốn dự trữ cho hoạt động kinh

doanh ).

Nhược điểm của mô hình này là chỉ số nợ không phản ánh hết được tình

hình tài chính của công ty, đồng thời việc khống chế tỷ lệ nợ có thể ảnh

hưởng tới hoạt động của công ty, do chính sách huy động vốn của các công ty

khác nhau.

Từ năm 1998, Hàn Quốc áp dụng qui định về tỉ lệ vốn thuần bao gồm chỉ

số vốn thuần nhằm đánh giá thực trạng tài chính và rủi ro kinh doanh mà công

ty chứng khoán đang gặp phải và hệ thống cảnh báo và giải pháp khắc phục.

Theo qui định này, chỉ số vốn thuần là:

Chỉ số vốn thuần = Vốn thuần / Tổng rủi ro.

Trong đó:

Vốn thuần = Tổng tài sản - Tổng nợ - Tài sản không thuộc tài sản lưu động.

Tổng rủi ro = Rủi ro thị trường + Rủi ro đối tác + Rủi ro tín dụng + Rủi ro

cơ bản + Rủi ro bù trừ.

58

Khi chỉ số vốn thuần của công ty chứng khoán xuống dưới mức qui định thì

tuỳ thuộc vào mức độ cụ thể công ty chứng khoán phải tuân thủ các yêu cầu

của Uỷ ban giám sát Tài chính Hàn Quốc để giảm bớt rủi ro.

Một số thị trường khác thì áp dụng qui định về vốn khả dụng điều chỉnh.

Cũng như yêu cầu về tỷ lệ vốn ròng mà Hàn Quốc áp dụng, qui định về vốn

khả dụng điều chỉnh được áp dụng nhằm yêu cầu các công ty chứng khoán

thực hiện các nghiệp vụ môi giới và tự doanh phải có đủ nguồn tài sản có khả

dụng có thể đáp ứng ngay yêu cầu của khách hàng. Qui định về vốn khả dụng

được xem là qui định quan trọng nhất nhằm bảo đảm khả năng thanh toán và

chi trả trong hoạt động của công ty chứng khoán. Yêu cầu về vốn khả dụng

được nhiều nước trên thế giới áp dụng nhằm bảo đảm an toàn cho công ty

chứng khoán. Mãi đến năm 1944, Mỹ mới bắt đầu áp dụng qui chế này và

năm 1976 Uỷ ban Chứng khoán Mỹ ban hành qui chế về vốn khả dụng áp

dụng thống nhất cho các công ty chứng khoán Mỹ. Hiện nay các công ty

chứng khoán Mỹ phải bảo đảm lượng vốn khả dụng điều chỉnh tối thiểu ở

mức 6.666% tổng dư nợ của công ty. Tại Thái Lan, sau khi một loạt các công

ty tài chính - chứng khoán bị phá sản vào năm 1997, Uỷ ban chứng khoán

Thái Lan ban hành qui chế vốn khả dụng điều chỉnh và bắt đầu yêu cầu các

công ty chứng khoán phải bảo đảm lượng vốn khả dụng điều chỉnh tối thiểu ở

mức 3% tổng dư nợ của công ty và sẽ điều chỉnh yêu cầu này lên mức 7% vào

năm 2001.

Vốn khả dụng điều chỉnh là tổng mức vốn khả dụng của công ty chứng

khoán sau khi đã điều chỉnh, bổ sung theo qui định của UBCKNN. Vốn khả

dụng điều chỉnh của công ty chứng khoán thực tế là giá trị tài sản có khả dụng

(tức là tài sản của công ty sẵn sàng chuyển đổi được ra tiền mặt trong một thời

hạn nhất định, thông thường trong thời hạn 1 tháng ) trừ đi tổng tài sản nợ của

công ty. Khi tính giá trị tài sản khả dụng phải khấu trừ đi một giá trị nhất định

59

theo qui chế để phòng trưòng hợp giảm giá trị do biến động của giá chứng

khoán trên thị trường.

Ở Việt Nam, kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động kinh doanh chứng khoán

còn ít, mặt khác kinh nghiệm của Hàn Quốc, Mỹ, Thái Lan, Hồng Kông cho

thấy việc qui định tỷ lệ nợ trên vốn mà vẫn bảo đảm hoạt động kinh doanh

chứng khoán của công ty chứng khoán là hết sức khó khăn. Vì vậy, việc áp

dụng quy định về vốn khả dụng điều chỉnh đã được quy định trong Nghị định

48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán là bước đi hợp lí.

Tuy nhiên, quy định này yêu cầu công ty chứng khoán phải thường xuyên duy

trì một lượng vốn khả dụng điều chỉnh tối thiểu ở mức 8% tổng dư nợ của

công ty là còn cao gây ảnh hưởng đến lượng vốn cho hoạt động kinh doanh

của các công ty chứng khoán. Tỷ lệ này cần được điều chỉnh lại xuống 6%.

Theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP, UBCKNN cần nghiên cứu và hướng dẫn cụ

thể cách tính vốn khả dụng điều chỉnh và cách thức xử lí các công ty chứng

khoán vi phạm quy định này.

3.3.2.2. Quy định về việc trích lập quỹ dự phòng vốn điều lệ.

Quy định này yêu cầu công ty chứng khoán trong quá trình hoạt động phải

trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự phòng, bổ sung vốn điều lệ cho đến

mức bằng 10% vốn điều lệ của công ty. Việc sử dụng quỹ này được thực hiện

theo quy định hiện hành đối với loại hình công ty cổ phần và trách nhiệm hữu

hạn.

3.3.2.3. Quy định về bảo vệ lợi ích các nhà đầu tư.

Để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư, các quốc gia trên thế giới áp dụng

nhiều biện pháp, trong đó biện pháp cơ bản nhất là quy định yêu cầu công ty

chứng khoán phải quản lí tách biệt tài khoản chứng khoán và tiền của khách

hàng với chứng khoán và tiền của công ty. Theo quy định này, công ty chứng

khoán không được sử dụng tiền và chứng khoán của khách hàng vào các mực

60

đích kinh doanh của công ty, đồng thời mọi giao dịch về tài khoản tiền và

chứng khoán của khách hàng phải được sự đồng ý của khách hàng.

Tại Trung Quốc, theo quy định của luật chứng khoán có hiệu lực từ

01/07/1999, các công ty chứng khoán phải thực hiện việc quản lí tách bạch tài

khoản chứng khoán và tiền của khách hàng là các nhà đầu tư với các tài khoản

chứng khoán và tiền của công ty. Tại Mỹ, sau khi nhiều công ty chứng khoán

bị phá sản do sự rối loạn trong việc quản lí tiền và tài sản của khách hàng

trong những năm 1967-1969 và đã làm suy giảm hoạt động của thị trường

chứng khoán vào cuối năm 1969, đầu năm 1970, luật bảo vệ nhà đầu tư chứng

khoán đã được ban hành năm 1970 và sau năm 1973 Uỷ ban chứng khoán Mỹ

ban hành quy chế về quản lí tách biệt chứng khoán của khách hàng với chứng

khoán thuộc sở hữu của công ty.

Theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng

khoán và quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán do

UBCKNN ban hành, công ty chứng khoán Việt nam phải tuân thủ quy định

về quản lí tách bạch tài khoản tiền và chứng khoán của khách hàng với tài

khoản tiền và chứng khoán của công ty, đồng thời mọi giao dịch của công ty

chứng khoán với khách hàng phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mở tài

khoản mà công ty chứng khoán kí với khách hàng.

Ngoài quy định về quản lý tài khoản nêu trên, nhằm bảo vệ lợi ích của các

nhà đầu tư, chúng ta cần áp dụng chế độ bảo hiểm cho hoạt động đầu tư

chứng khoán và áp dụng quy chế yêu cầu các công ty chứng khoán phải đóng

góp vào quỹ bảo hiểm đầu tư chứng khoán, quỹ bảo đảm thanh toán. Các quy

định này do Sở giao dịch chứng khoán quy định và áp dụng đối với các công

ty chứng khoán là thành viên của Sở giao dịch.

3.3.2.4. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin.

Chúng ta phải đẩy mạnh việc áp dụng và thực hiện quy định này vào thị

trường chứng khoán, theo đó các công ty chứng khoán phải công khai hoá các

thông tin về hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công chúng, phải tuân

61

thủ chế độ báo cáo định kì cho các cơ quan quản lí ngành chứng khoán và Sở

giao dịch chứng khoán nếu công ty là thành viên. Ngoài báo cáo định kì, công

ty chứng khoán phải có trách nhiệm báo cáo đột xuất khi có sự kiện bất

thường ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán xảy ra. Đáng chú ý

là các báo cáo định kì hàng năm, quy định hàng quý, của công ty chứng khoán

phải được công ty kiểm toán đã được cơ quan quản lí Nhà nước ngành chứng

khoán chấp thuận xác nhận.

3.3.2.5. Cần hạn chế một số hoạt động kinh doanh chứng khoán ở thị trường

chứng khoán Việt Nam trong thời gian đầu hoạt động.

Khác với các thị trường chứng khoán ở các nước đang phát triển, ở thị

trường chứng khoán Mỹ, Nhật, các nước phát triển châu Âu, các công ty

chứng khoán thực hiện rất nhiều nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và đang

mở rộng lĩnh vực hoạt động sang cả hoạt động ngân hàng (như ở Mỹ, Nhật

hiện nay). Tuy nhiên trong giai đoạn đầu xây dựng và phát triển ngành chứng

khoán ở các nước đang phát triển, nhiều hoạt động kinh doanh chứng khoán

bị hạn chế, nhiều công cụ để thực hiện kinh doanh chứng khoán chưa có đủ

điều kiện áp dụng.Trước hết là nhiều nước không cho phép công ty chứng

khoán thực hiện "bán khống" chứng khoán như ở Trung Quốc, hoặc có biện

pháp hạn chế "bán khống" chứng khoán như ở Hồng Kông, nhằm giảm thiểu

yếu tố đầu cơ trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán khi trình độ quản lí còn

thấp như trường hợp Trung Quốc hoặc nhằm bảo vệ sự ổn định của thị trường

chứng khoán, thị trường tiền tệ trước các nhà đầu cơ quốc tế như trường hợp

Hồng Kông trong thời gian gần đây. Hoạt động "bán khống" là việc cho phép

người bán chứng khoán được thực hiện việc bán chứng khoán không thuộc sở

hữu của họ theo quy định cụ thể đặc biệt là quy định thời hạn của hoạt động "

bán khống". Khi đó các công ty chứng khoán, về nguyên tắc, sẽ cho khách

hàng vay chứng khoán để thực hiện việc giao dịch và khách hàng sẽ chịu

trách nhiệm mua chứng khoán trả lại cho công ty vào một thời gian nhất định

sau này. Đương nhiên, nếu giá chứng khoán đang có xu thế giảm, tức là khách

62

hàng mua chứng khoán với mức giá thấp hơn giá bán thì nhà đầu tư sẽ thu

được lợi nhuận. Trường hợp ngược lại thì nhà đầu tư sẽ bị thua lỗ.

Một hoạt động kinh doanh chứng khoán khác cũng bị hạn chế ở một số thị

trường chứng khoán mới nổi như Trung Quốc hiện đang áp dụng, đó là hoạt

động giao dịch kí quỹ. Giao dịch kĩ quỹ về bản chất là việc công ty chứng

khoán được trợ giúp tài chính cho khách hàng, các nhà đầu tư của công ty

mua chứng khoán với giá trị nhiều hơn số tiền đang có trên tài khoản tiền của

họ tại công ty. Các thị trường chứng khoán khác nhau, tuỳ theo mức độ phát

triển và khả năng quản lí, áp dụng các quy định khác nhau đối với giao dịch kí

quỹ, như quy định tỷ lệ kí quỹ, thời hạn, quy định về thế chấp chứng

khoán.v.v. Đối với giao dịch kí quỹ, các nhà đầu tư với sự hỗ trợ về tài chính

của các công ty chứng khoán có thể nắm giữ số lượng chứng khoán lớn và có

thể thu được tỷ suất lợi nhuận rất cao khi giá chứng khoán mà họ đang nắm

giữ tăng trong thời hạn cho phép. Tất nhiên, nếu giá chứng khoán mà các nhà

đầu tư nắm giữ giảm thì họ đã bị thua lỗ trong khoản mục đầu tư này.

Như vậy về lí thuyết, việc cho phép thực hiện "bán khống" và thực hiện

giao dịch kí quỹ một mặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển và ổn

định của thị trường chứng khoán, nâng cao tính thanh khoản của thị trường

bằng cách khuyến khích giao dịch trên thị trường, tạo ra nhiều cơ hội đầu tư

tốt hơn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư tư nhân với lượng vốn

có hạn. Mặt khác đây lại là công cụ để các nhà đầu cơ, nhất là các tập đoàn tài

phiệt lớn đầu cơ, lũng đoạn thị trường chứng khoán và kết hợp với thị trường

tiền tệ, ngoại hối nhằm thu lợi nhuận một cách nhanh chóng để lại các hậu

quả hết sức nặng nề đối với các thị trường chứng khoán bị đầu cơ. Những bài

học về đầu cơ tại thị trường chứng khoán các nước Đông Nam Á, Hồng

Kông, của các tập đoàn tài chính lớn như của nhà tài phiệt Soros là ví dụ hết

sức sinh động về vấn đề này.

Vì vậy, ở Việt Nam trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán, nhằm

bảo đảm an toàn cho thị trường và từng bước tạo dựng lòng tin của các nhà

63

đầu tư, việc không cho các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động "bán

khống", giao dịch kí quỹ và cung cấp tín dụng cho khách hàng là hợp lí. Đồng

thời việc giao dịch các công cụ phái sinh, như hợp đồng kì hạn, giao dịch chỉ

số...cũng không được phép thực hiện. Sau này tuỳ thuộc vào sự phát triển của

thị trường và khả năng quản lí, UBCKNN cần chủ động xem xét và từng bước

mở rộng lĩnh vực hoạt động kinh doanh đối với công ty chứng khoán. Ngoài

ra các quy định về đầu tư, nắm giữ chứng khoán niêm yết và không niêm yết

của các công ty chứng khoán cũng được áp dụng nhằm hạn chế tối đa rủi ro

tiềm tàng đối với hoạt động của công ty chứng khoán.

3.3.3. Giải pháp tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán.

Các công ty chứng khoán sau một thời gian hoạt động đã triển khai các

nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, hoạt động của các công ty vẫn

còn ở mức rất hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này do nhiều phía. Một

trong những nguyên nhân quan trọng là khối lượng hàng hoá niêm yết và giao

dịch trên thị trường chưa nhiều, phạm vi hoạt động của thị trường còn hẹp,

nhiều doanh nghiệp chưa muốn tham gia niêm yết vì thực tế họ chưa có nhu

cầu về vốn (một số còn dược Ngân sách cấp hoặc được vay ưu đãi). Điều này

gây ảnh hưởng lớn tới giá trị và khối lượng chứng khoán giao dịch trên thị

trường đồng thời hạn chế hoạt động của các công ty chứng khoán. Để thúc

đẩy hoạt động và phát triển các công ty chứng khoán thì vấn đề quan trọng

trước mắt là cần phải tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Muốn vậy,

UBCKNN cần phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện một số giải

pháp sau:

1) Lựa chọn một số doanh nghiệp khi cổ phần hoá phải gắn với việc phát

hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết tại TTGDCK, áp dụng hình thức

bảo lãnh phát hành cổ phiếu khi thực hiện cổ phần hoá.

2) Cho phép một số ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết tại Trung tâm

giao dịch chứng khoán.

64

3) Chỉ định một số công ty thành viên của các Tổng công ty lớn tham gia

niêm yết trên thị trường (cả phát hành cổ phiếu cũng như phát hành trái phiếu

doanh nghiệp cho các dự án lớn).

4) Cần có qui định cho phép giảm hoặc bán số cổ phần của Nhà nước trong

các doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm giữ.

5) Cho phép thực hiện thí điểm một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài chuyển thành công ty cổ phần và niêm yết trên thị trường chứng khoán.

6) Hạn chế việc cấp vốn cho doanh nghiệp từ Ngân sách Nhà nước và vốn

vay ưu đãi để doanh nghiệp huy động vốn qua thị trường chứng khoán phục

vụ cho đầu tư, mở rộng sản xuất.

7) Có chính sách của Nhà nước về việc phát hành Trái phiếu Chính phủ

cho thị trường chứng khoán trong đó cải tiến phương thức bảo lãnh phát hành

cũng như cách thức đấu thầu theo phương thức khác nhau, cạnh tranh và

không cạnh tranh lãi suất và phát hành trái phiếu có thời hạn khác nhau tạo

nên tính đa dạng, hấp dẫn hơn của trái phiếu Chính phủ.

KẾT LUẬN.

Để thị trường chứng khoán có thể phát triển nhanh chóng, yếu tố quan

trọng không thể thiếu là hình thành các tổ chức tham gia kinh doanh trên thị

trường. Đối tượng này sẽ góp phần nâng cao tính thanh khoản cho các loại

chứng khoán, bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt động có trật tự, công

bằng và hiệu quả. Vì vậy, việc thành lập và phát triển các tổ chức kinh tế hoạt

động trên thị trường chứng khoán, trong đó có các công ty chứng khoán, là

65

phù hợp với nhu cầu khách quan về phát triển thị trường vốn và thị trường

chứng khoán Việt Nam.

Đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty

chứng khoán ở Việt nam giai đoạn hiện nay" được thực hiện nhằm đáp ứng

yêu cầu cấp bách của thực tiễn phát triển thị trường chứng khoán Việt nam

trong việc hoàn thiện hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Trên cơ

sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặc thù của Việt nam

(như hệ thống pháp lý hiện hành, tiềm lực tài chính và nhân lực của các chủ

thể Việt nam, xu hướng phát triển kinh tế Việt nam...). Đề tài đã đề xuất các

giải pháp hoàn thiện hệ thống các công ty chứng khoán ở Việt nam hiện nay,

đồng thời tìm ra các biện pháp nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng

khoán trong thời gian tới.

Là lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới đối với Việt nam, việc hoàn thiện và

phát triển hệ thống công ty kinh doanh chứng khoán là một công việc rất quan

trọng và hết sức khó khăn. Nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động và

quản lý của công ty kinh doanh chứng khoán cần phải có nghiên cứu sâu hơn,

như nội dung các hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán, cơ chế kiểm

soát nội bộ và quản lý rủi ro của công ty chứng khoán; mối quan hệ của công

ty chứng khoán với các tổ chức tài chính tiền tệ (Ngân hàng, Bảo hiểm, Công

ty tài chính...) trong hoạt động ở thị trường chứng khoán nói riêng và thị

trường vốn nói chung; hệ thống các giải pháp (mang tính chất hành chính và

kinh tế) thực hiện quản lý việc thành lập và hoạt động của công ty chứng

khoán trong điều kiện đa dạng hoá các loại hình sở hữu đối với các công ty

chứng khoán... Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài này các kết quả nghiên cứu

chỉ là những định hướng hết sức cơ bản ban đầu về mô hình công ty, đề xuất

các giải pháp hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam

hiện nay. Những nội dung quan trọng về hoạt động và quản lý các công ty

chứng khoán sẽ được nghiên cứu sâu hơn ở những đề tài sau.

66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thị trường chứng khoán.

GS, T S Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân NXB Thống kê.

2. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.

3. Luật ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp.

Miskin NXB Thống kê.

4. Tạp chí NH, tạp chí Tài chính, tạp chí Chứng khoán các số năm 2000,

2001, 4 tháng đầu năm 2003, và một số sách báo, tạp chí khác.

67

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................1

CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. .......................................................................................3

1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán. ............................................. 3

1.1.1. Quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán. ......................... 3

1.1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán........................................... 4

1.1.3. Các thành viên của thị trường chứng khoán. .................................. 4

1.2. Công ty chứng khoán. ......................................................................... 5

1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. .............. 5

68

1.2.1.1. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán........................ 5

1.2.1.2. Những nét đặc trưng trong tổ chức của các công ty chứng

khoán. .................................................................................................... 6

1.2.2 Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán. ............................ 7

1.2.3. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán............................. 9

1.2.3.1. Nghiệp vụ môi giới ................................................................... 9

1.2.3.2 Nghiệp vụ bảo lãnh. ................................................................ 13

1.2.3.3 Nghiệp vụ tự doanh. ................................................................ 16

1.2.3.4. Các nghiệp vụ phụ trợ............................................................ 17

1.2.4. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán.... 19

1.2.4.1. Nguyên tắc đạo đức................................................................ 19

1.2.4.2. Nguyên tắc tài chính. ............................................................. 20

1.2.5. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán. ................................... 22

1.3. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới.......................... 23

1.3.1. Mô hình Mỹ................................................................................... 24

1.3.2. Mô hình Nhật. ............................................................................... 25

1.3.3. Mô hình Đức. ................................................................................ 26

1.3.4. Mô hình tại một số nước Châu Á điển hình.................................. 27

CHƯƠNG II: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................................................................29

2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán. ............................... 29

2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán........................ 29

2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán............................... 30

2.2. Mô hình công ty chứng khoán ở Việt Nam...................................... 32

2.3. Những quy định pháp lý đối với các công ty chứng khoán............ 33

2.3.1. Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán. ......................... 33

2.3.2. Sự tham gia kinh doanh chứng khoán của các tổ chức tín dụng,

công ty bảo hiểm và tổng công ty. .......................................................... 34

2.3.3. Chế độ quản lý. ............................................................................. 35

69

2.4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các công ty chứng khoán........... 35

2.4.1. Phòng giao dịch (Phòng kinh doanh):........................................... 36

2.4.2. Phòng Tài chính- Kế toán: ............................................................ 36

2.4.3. Phòng Marketing:.......................................................................... 37

2.4.4. Phòng quản trị hành chính-tổng hợp: Có nhiệm vụ:.................... 37

2.4.5. Phòng đăng ký, lưu ký và lưu trữ thông tin: ................................. 37

2.5. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh............................... 38

2.5.1. Hoạt động của TTGDCK. ............................................................. 38

2.5.1.1. Giao dịch chứng khoán .......................................................... 38

2.5.1.2. Tình hình giá giao dịch chứng khoán. ................................... 40

2.5.1.3. Hoạt động lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. ........... 41

2.5.2. Tình hình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của các công ty

chứng khoán. ........................................................................................... 43

CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG TY

CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ..................................................................46

3.1. Mục tiêu và phương hướng trong thời gian tới............................... 46

3.2. Các giải pháp hoàn thiện công ty chứng khoán. ............................. 48

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện mô hình công ty chứng khoán. ................... 48

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện nguồn nhân lực trong các công ty chứng

khoán. ...................................................................................................... 49

3.2.4. Giải pháp hoàn thiện hệ thống tin học cho các công ty chứng

khoán. ...................................................................................................... 51

3.3. Các giải pháp nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng

khoán. ......................................................................................................... 55

3.3.1. Giải pháp tạo hành lang pháp lý cho các công ty chứng khoán. .. 55

3.3.2. Giải pháp tăng cường việc quản lý, thanh tra, giám sát các công ty

chứng khoán. ........................................................................................... 57

70

3.3.2.1. Tăng cường công tác giám sát tài chính và quản lí rủi ro đối

với công ty chứng khoán. .................................................................... 57

3.3.2.2. Quy định về việc trích lập quỹ dự phòng vốn điều lệ. ........... 60

3.3.2.3. Quy định về bảo vệ lợi ích các nhà đầu tư............................. 60

3.3.2.4. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin. ...... 61

3.3.2.5. Cần hạn chế một số hoạt động kinh doanh chứng khoán ở thị

trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian đầu hoạt động. ......... 62

3.3.3. Giải pháp tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán.................... 64

KẾT LUẬN..........................................................................................................................65

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................67

MỤC LỤC ...........................................................................................................................68

71