BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
*****
DIỆP QUỐC KHANG
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG HỢP ĐỒNG
QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Ngân hàng
Mã s ố : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM VĂN NĂNG
TP.HỒ CHÍ MINH-2010
2
LỜI CAM ĐOAN
- Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi
- Những số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, được trích dẫn và có tính
kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được
công bố, các website,….
- Các giải pháp nêu trong luận văn được rút ra từ những cơ sở lý luận và quá
trình nghiên cứu thực tiễn.
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- HOEx : Ho Chi minh Exchange ( Sàn giao dịch hợp đồng quyền chọn TP.
HCM)
- SEOCH (The Stock Exchange of Vietnam Options Clearing House Ltd)
- OCC (Option Clearing Corporation) : Trung tâm thanh toán bù trừ
- IPOs: Initial Public Offers : Lần đầu phát hành cổ phiếu ra công chúng
- UBCK: Ủy ban Chứng khoán
- ACH: Australia Clearing House : trung tâm thanh toán bù trừ của sàn giao
dịch Úc.
- TTCK: Thị trường chứng khoán
- In the money : trạng thái giá thực hiện có lợi hơn so với giá giao ngay
- Out of the money : trạng thái giá thực hiện bất lợi so với giá giao ngay
- At the money : trạng thái giá thực hiện và giá giao ngay bằng nhau
4
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề chung về hợp đồng quyền chọn chứng khoán …...10
1. Lý luận chung về hợp đồng quyền chọn chứng khoán ………………..10
1.1 Sơ lược về hợp đồng quyền chọn chứng khoán …………………………….10
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng quyền chọn……………………………10
1.1.2. Kiểu hợp đồng quyền chọn ………………………………….11
1.2 Lợi ích của hợp đồng quyền chọn chứng khoán ………………………………11
2. Những điều kiện cần thiết để thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng
khoán………………………………………………………………………………14
3. Những rủi ro liên quan đến hợp đồng quyền chọn chứng khoán………...17
4. Kinh nghiệm thực hiện giao dịch hợp đồng quyền chọn ở Úc ………….. 22
5. Bài học kinh nghiệm về hoạt động của hợp đồng quyền chọn cho thị
trường chứng khoán Việt Nam ……………………………………………….. 33
Kết luận chương 1 ……………………………………………………………… 34
5
Chương 2 : Thực trạng thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt
Nam…………………………………………………………………………… ... 35
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam ………….. 35
2.1.1 Lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam ………. 35
2.1.2. Các giai đoạn phát triển của TTCK VN ……………………… 38
2.2. Thực trạng áp dụng hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt
Nam………………………………………………………………………………. 43
2.2.1. Thực trạng của TTCK VN ………………………………………43
2.2.2. Thực trạng thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt
Nam …………………………………………………………………………….. ...44
Kết luận chương 2 ……………………………………………………………… 52
Chương 3: Giải pháp để thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt
Nam ……………………………………………………………………………. 52
3.1. Định hướng và giải pháp phát triển TTCK VN …………………………. 52
3.2. Đề xuất mô hình xây dựng thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán tại
Việt Nam ………………………………………………………………………. 55
3.3. Các giải pháp để thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam
………………………………………………………………………………… 62
3.3.1 Giải pháp vĩ mô ………………………………………………… 62
3.3.1.1 Xây dựng và kiện toàn khung pháp lý cho hoạt động giao dịch
hợp đồng quyền chọn chứng khoán Việt Nam ………………………………… 62
6
3.3.1.2 Triển khai hoạt động bán khống chứng khoán …………… 63
3.3.1.3 Phát triển thị trường vốn vững mạnh …………………….…66
3.3.2 Giải pháp các công ty chứng khoán ………………………………68
3.3.2.1 Tổ chức các cuộc hội thảo và cung cấp dịch vụ định giá cho khách
hàng …………………………………………………………………………… 69
3.3.2.2 Tổ chức các khóa đào tạo giúp nhân viên am hiểu nghiệp vụ hợp
đồng quyền chọn chứng khoán ………………………………………………… 70
3.3.2.3 Ứng dụng công nghệ tin học hiện đại trong các giao dịch mua bán
…………………………………………………………………………………… 70
3.3.2.4 Đưa ra thị trường các sản phẩm phái sinh mới ………………… 71
3.3.3 Giải pháp cho các nhà đầu tư tham gia thị trường ………………… 73
Kết luận chương 3 …………………………………………………………… 74
Tài liệu tham khảo …………………………………………………………… 75
Phụ lục
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả hoạt động kinh doanh luôn là mục tiêu
quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của bất kỳ một
doanh nghiệp, tổ chức nào. Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả hoạt động các
doanh nghiệp cần phải chú trọng đến những rủi ro có thể xảy ra và tìm kiếm
những công cụ để hạn chế rủi ro đến mức tối thiểu. Cần phát triển các sản phẩm
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán để giúp thị trường
chứng khoán có nhiều tính thanh khoản và phát triển bền vững, bên cạnh đó có
thể bảo vệ các nhà đầu tư tránh khỏi rủi ro trong hoạt động đầu tư
Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán chỉ trong giai đoạn mới hình thành, chưa
thật sự phát triển hoàn toàn, vì vậy, đa số các hoạt động đầu tư chứng khoán của
nhà đầu tư đều hàm chứa nhiều rủi ro. Vì vậy, việc bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư
tránh được những rủi ro trong việc biến động giá cả trên thị trường là vấn đề hết
sức cấp bách. Để làm được điều này, cần giúp cho nhà đầu tư làm quen với
những công cụ giao dịch phái sinh mới như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền
chọn, hợp đồng tương lai,…. nhằm giúp bảo hiểm rủi ro về giá cho họ và kế tiếp
là tiến hành xây dựng một thị trường phái sinh chứng khoán tại Việt Nam để có
thể giúp thị trường chứng khoán phát triển một cách toàn diện mà còn có thể thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia để làm đa dạng hơn các hàng hóa giao
dịch làm tăng tính thanh khoản của thị trường chứng khoán.
Xuất phát từ đó, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài :” Giải pháp xây dựng
thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam” làm đề tài luận văn
Thạc Sỹ Kinh tế.
8
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề về lý luận cơ bản liên quan đến hợp đồng quyền chọn
chứng khoán
- Phân tích thực trạng và hiệu quả hoạt động của một số thị trường hợp đồng
quyền chọn trong khu vực, và sự cần thiết để xây dựng thị trường hợp đồng
quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm để xây dựng và phát triển thị trường
hợp đồng quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam
3. Đối tượng Phạm vi Nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến
việc xây dựng và phát triển thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán tại
Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đề cập đến những giải pháp và kiến nghị để
thành lập một thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích, so sánh , logic, tổng
hợp,….
5. Cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần tích cực vào việc xây dựng và
nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán
tại Việt Nam
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng, biểu, tài liệu tham khảo luận
văn được chia thành 3 chương :
Chương 1: Một số vấn đề chung về hợp đồng quyền chọn chứng khoán
Chương 2: Thực trạng thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt
Nam
9
Chương 3: Giải pháp để thực hiện hợp đồng quyền chọn ở thị trường chứng
khoán Việt Nam
Chương 1: Một số vấn đề chung về hợp đồng quyền chọn chứng khoán
1. Lý luận chung về hợp đồng quyền chọn chứng khoán
1.1 Sơ lược về hợp đồng quyền chọn chứng khoán
1.1.1 Định nghĩa hợp đồng quyền chọn
- Hợp đồng quyền chọn chứng khoán : là một hợp đồng quyền chọn cho phép người
mua có quyền để mua chứng khoán (call option) hay quyền để bán chứng khoán
(put option) ở một mức giá được xác định trước và trong một khoảng thời gian đã
được xác định trước trong tương lai.
- Đặc điểm chính trong hợp đồng này là người sở hữu hợp đồng có quyền chứ
không phải nghĩa vụ để thực hiện hợp đồng. Nếu người nắm giữ hợp đồng quyền
chọn không thực hiện quyền của họ trước ngày đã được xác định trong hợp đồng,
thì quyền chọn và cơ hội để thực hiện hợp đồng sẽ chấm dứt
- Tuy nhiên, người bán hợp đồng quyền chọn phải có nghĩa vụ thực hiện quyền
của người mua khi hợp đồng quyền chọn được thực hiện .Trong trường hợp hợp
đồng quyền chọn mua chứng khoán (call option), thì người bán đã bán quyền để
mua chứng khoán đó .Vì vậy, người bán hợp đồng quyền chọn mua phải có nghĩa
vụ bán chứng khoán cho người mua hợp đồng quyền chọn nếu hợp đồng quyền
chọn được thực hiện.Trong trường hợp hợp đồng quyền chọn bán chứng khoán,
người bán hợp đồng quyền chọn đã bán quyền để bán chứng khoán đó. Người bán
hợp đồng quyền chọn bán vì vậy có nghĩa vụ phải mua chứng khoán từ người sở
hữu quyền chọn bán nếu hợp đồng quyền chọn được thực hiện
1.1.2 Kiểu hợp đồng quyền chọn
- Hợp đồng quyền chọn chứng khoán kiểu Mỹ (American - Style options): là hợp
đồng quyền chọn cho phép người sở hữu hợp đồng có quyền (chứ không phải nghĩa
10
vụ) để thực hiện hợp đồng ở một mức giá đã được xác định trước ở bất kỳ thời gian
nào trước ngày đáo hạn
-Hợp đồng quyền chọn chứng khoán kiểu Châu âu ( European - Style options): là
hợp đồng quyền chọn cho phép người sở hữu có quyền được hiện hợp đồng tại mức
giá đã được xác định trước chỉ khi đến ngày đáo hạn
- Sự khác biệt giữa hai hợp đồng kiểu Châu âu và kiểu Mỹ không phải là sự khác
nhau về mặt địa lý, mà sự khác biệt ở đây là ở quyền được thực hiện hợp đồng trước
hay đến ngày đáo hạn. Đến khi Sàn Chicago Board of Exchange (CBOE) đưa ra
quyền chọn kiểu Châu âu trên chỉ số S&P 500 vào ngày 1/7/1983 thì sự phân biệt
giữa hai lọai hợp đồng này đã không còn quan trọng đối với các nhà đầu tư trên thị
trường quyền chọn, bởi vì lúc này chỉ có những hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ là
được niêm yết trên sàn; kể từ sau đó trở đi thì nhiều hợp đồng quyền chọn kiểu châu
âu mới được niêm yết một cách phổ biến. Do đặc điểm linh họat của quyền chọn
kiểu Mỹ trong việc thực hiện hợp đồng sớm hơn thời gian đáo hạn cho nên thỉnh
thoảng phí dành cho hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ cao hơn hợp đồng quyền chọn
kiểu Châu âu
1.2 Lợi ích của hợp đồng quyền chọn chứng khoán
Đặc điểm quan trọng của hợp đồng quyền chọn chính là bản chất rủi ro của hợp
đồng quyền chọn và các nhà đầu tư phải thật sự nhận thức rõ được những rủi ro
tiềm tàng của hợp đồng quyền chọn trước khi quyết định tham gia vào thị trường
quyền chọn chứng khoán .Tuy nhiên,bên cạnh những rủi ro đó, hợp đồng quyền
chọn còn đem lại cho nhà đầu tư một số ích lợi như sau:
1.2.1 Cơ hội thu lãi
Đối với hợp đồng quyền chọn, nhà đầu tư có thể tìm được cơ hội để thu lãi bất kể
thị trường chứng khoán tăng hay giảm .Hơn nữa, có nhiều cách thức để nhà đầu tư
có cơ hội thu lãi khi sử dụng hợp đồng quyền chọn như mua hoặc bán hợp đồng
quyền chọn. Chẳng hạn, một người nắm giữ hợp đồng quyền chọn mua và người
bán hợp đồng quyền chọn bán sẽ kỳ vọng thị trường tăng giá để có cơ hội thu lãi,
11
ngược lại một người nắm giữ hợp đồng quyền chọn bán và người bán hợp đồng
quyền chọn mua sẽ kỳ vọng thị trường giảm giá để có cơ hội thu lãi
Có nhiều chiến lược để thu lãi ngay khi thị trường không biến động nhiều khi sử
dụng hợp đồng quyền chọn .Ví dụ như thực hiện bán hợp đồng quyền chọn và khai
thác đặc điểm hợp đồng quyền chọn là một tài sản bị hao mòn bởi thời gian, có
nghĩa khi thời gian càng gần ngày đáo hạn thì giá trị hợp đồng quyền chọn sẽ càng
giảm, nhà đầu tư bán hợp đồng quyền chọn có thể sẽ thu lãi được từ việc thị trường
không biến động, đến khi ngày đáo hạn , giá cổ phiếu vẫn không biến động nhiều và
lúc đó hợp đồng quyền chọn sẽ không được thực hiện và nhà đầu tư bán hợp đồng
quyền chọn sẽ thu được phí bán hợp đồng quyền chọn được xem như lãi khi người
mua hợp đồng quyền chọn không thực hiện hợp đồng .Tuy nhiên, những chiến lược
này chỉ được dùng khi nhà đầu tư hòan toàn có nhiều kinh nghiệm trên thị trường
hợp đồng quyền chọn và xác định chính xác được khi nào thị trường có độ biến
động thấp và khi nào thị trường biến động cao.
1.2.2 Bảo hiểm
Hợp đồng quyền chọn có thể dùng để bảo vệ những cổ đông hiện tại hoặc những cổ
đông tiềm năng .Chẳng hạn, nếu một cổ đông dự định nắm giữ cổ phiếu trong một
khoản thời gian, nhưng họ sợ giá cổ phiếu sẽ giảm và làm giảm giá trị cổ phần .Nhà
đầu tư có thể mua một hợp đồng quyền chọn bán sẽ cho họ quyền để bán cổ phiếu ở
một mức giá được định trước gọi là giá thực hiện .Giá thực hiện sẽ trở thành giá sàn
của cổ phiếu và bất kể giá cổ phiếu đó trên thị trường giảm đến mức nào thì nhà đầu
tư vẫn có quyền bán cổ phiếu trước hoặc ngay ngày đáo hạn tại mức giá thực hiện
.Cùng lúc đó,nếu giá cổ phiếu trên thị trường tăng, nhà đầu tư vẫn có lợi từ việc
nắm giữ cổ phiếu đó. Vì vậy, khi sử dụng hợp đồng quyền chọn, nhà đầu tư có lợi
từ việc giá tăng trong khi được bảo vệ ở mức giá sàn khi giá cổ phiếu trên thị trường
giảm mạnh
12
1.2.3 Gia tăng thu nhập
Hợp đồng quyền chọn có thể đựơc dùng để tạo thu nhập đối với một danh mục đầu
tư những cổ phiếu hiện đang tồn tại thông qua việc bán hợp đồng quyền chọn và thu
lãi từ việc nhận phí hợp đồng quyền chọn .Nhà đầu tư có thể bán hợp đồng quyền
chọn mua được bảo đảm bằng số cổ phiếu hiện đang có trong danh mục của mình,
ví dụ cho người mua hợp đồng quyền chọn có quyền mua cổ phiếu trong danh mục
của nhà đầu tư. Nếu hợp đồng quyền chọn mua không được thực hiện, phí hợp đồng
quyền chọn nhận được từ người mua được xem như một khoản thu nhập thêm cho
nhà đầu tư. Dĩ nhiên, nếu giá cổ phiếu tăng cao hơn giá thực hiện, hợp đồng quyền
chọn mua mới được thực hiện và người bán hợp đồng quyền chọn phải bán cổ phiếu
ở mức giá thực hiện và mất đi những khoản lãi tiềm ẩn khi giá cao hơn giá thực
hiện lớn hơn những gì nhận được từ phí hợp đồng quyền chọn khi bán hợp đồng
quyền chọn mua.
1.2.4 Đòn bẩy nợ
Hợp đồng quyền chọn là một cộng cụ đòn bẩy nợ .Trong trường hợp mua một hợp
đồng quyền chọn mua, nhà đầu tư trả một khoản phí để có được quyền mua cổ
phiếu ở một mức giá được xác định trước trong một khoản thời gian trong tương lai
Phí hợp đồng quyền chọn chỉ là một phần trong số tiền mà nhà đầu tư phải bỏ ra khi
quyết định mua cổ phiếu thực sự .Nếu giá cổ phiếu tăng một phần trăm nhất định
nào đó thì hầu hết giá trị các hợp đồng quyền chọn mua trên cổ phiếu đó sẽ tăng ở
một phần trăm lớn hơn sự tăng giá của cổ phiếu đó. Số tiền từ lợi nhuận thu được
của hợp đồng quyền chọn có thể nhỏ hơn số lợi nhuận thu được từ việc mua cổ
phiếu trên thị trường, nhưng so về tỷ suất lợi nhuận thì việc mua bán hợp đồng
quyền chọn sẽ có tỷ suất sinh lợi cao hơn và số tiền mà người mua hợp đồng quyền
chọn có thể bị mất sẽ ít hơn rất nhiều. Tuy nhiên, hiệu ứng đòn bẩy cũng có mặt trái
của nó, nếu trường hợp giá cổ phiếu trên thị trường giảm và làm cho hợp đồng
13
quyền chọn mua rơi vào trạng thái out-of-the-money, thì lúc này giá trị của hợp
đồng sẽ giảm nhiều hơn so với sự giảm giá của cổ phiếu, tuy nhiên, sự tổn thất này
tối đa chỉ bằng mức phí của hợp đồng quyền chọn.
Việc mua hợp đồng quyền chọn không được xem như một hình thức khác của việc
mua bán qua tài khoản ký quỹ là trường hợp nhà đầu tư trả cho nhà môi giới một
khoản tiền ký quỹ ban đầu bằng một phần tỷ lệ phần trăm so với giá mua cổ phiếu.
Đối với việc mua bán cổ phiếu bằng tài khoản ký quỹ khi giá cổ phiếu giảm đáng
kể, nhà đầu tư có thể sẽ bị gọi nộp thêm tiền vào tài khoản ký quỹ hoặc bị mất đi
khoản tiền ký quỹ .Ngược lại, đối với một trạng thái mua hợp đồng quyền chọn
mua, khi giá giảm thì nhà đầu tư không phải bị buộc nộp thêm tiền và quyền chọn
có thể giữ được cơ hội thu lãi khi giá cổ phiếu tăng trở lại cho đến khi hợp đồng hết
hạn, hoặc người mua hợp đồng quyền chọn mua có thể bán lại hợp đồng quyền
chọn mua của mình trên thị trường để hưởng lợi từ giá trị còn lại của hợp đồng
quyền chọn .Chiến lược tương tự có thể áp dụng bằng cách mua hợp đồng quyền
chọn bán để hưởng lợi của tính đòn bẩy khi thị trường giảm giá.
2. Những điều kiện cần thiết để thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán
- Do đặc điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường mới nổi,
tính thanh khoản chưa cao, việc đầu tư chứng khoán có thể đem đến lợi nhuận cao
nhưng cũng hàm chứa rất nhiều rủi ro do thị trường chứng khoán Việt Nam còn khá
thô sơ chưa có đủ nghiệp vụ và công cụ đầu tư cần thiết giúp thị trường phát triển
ổn định trong dài hạn. Chẳng hạn như nghiệp vụ bán khống (short sales), mua ký
quỹ (margin account) và đặc biệt là công cụ phái sinh như quyền chọn để tạo tính
thanh khoản cho thị trường và bảo vệ rủi ro cho nhà đầu tư trong những lúc giá biến
động mạnh. Các nghiệp vụ này không hề xa lạ đối với các nhà đầu tư, tuy nhiên vấn
đề là làm thế nào để đưa chúng vào thực tiển, thời điểm nào là hợp lý ? Việc chưa
sử dụng các nghiệp vụ như mua ký quỹ, bán khống chủ yếu là do những lo ngại về
rủi ro mất khả năng thanh toán của nhà đầu tư .Trên thực tế các nghiệp vụ này có
tác dụng nhất định trong việc bình ổn thị trường, điều hòa cung cầu trong dài hạn.
14
Xét về quy mô thị trường cũng như môi trường đầu tư hiện tại, việc nghiên cứu đưa
vào áp dụng các công cụ đầu tư là hết sức cần thiết. Một sản phẩm đặc trưng cho
công cụ phái sinh là hợp đồng quyền chọn chứng khoán sẽ giúp nâng cao tính thanh
khoản cho thị trường chứng khoán .
Đối với nhà đầu tư, thay vì phải bỏ ra ngay một khoản tiền lớn để mua chứng
khoán, họ chỉ cần bỏ ra một khoản phí nhất định để mua hợp đồng quyền chọn mua
hoặc quyền chọn bán để tự bảo vệ tránh rủi ro, bởi hợp đồng quyền chọn cho phép
họ có quyền chứ không phải nghĩa vụ phải thực hiện .Với tính chất như vậy, hợp
đồng quyền chọn đặc biệt hấp dẫn nhà đầu tư .Ngoài ý nghĩa cải thiện tình hình thị
trường, các công cụ phái sinh còn mang tới cho thị trường thêm nhiều nhà đầu tư
mới. Ví dụ, nhà đầu tư A đang sở hữu cổ phiếu SAM, thị giá 31.500 đồng/cp, nhưng
ông A không bán vì nghĩ rằng giá cp sẽ còn lên cao. Nhưng đề phòng trường hợp
giá giảm đột ngột, nhà đầu tư mua hợp đồng quyền chọn bán với giá 31.500
đồng/cp với mức phí 5.000 đồng/cp. Nếu giá bất ngờ giảm xuống còn 28.000 đồng
/cp, ông A không phải bán tháo vì đã mua được hợp đồng quyền chọn bán với giá
31.500 đồng/cp. Tính ra ông A vẫn có lợi được 1.500 đồng/cp. Hơn nữa, ông A
cũng có thể dự đoán giá cổ phiếu SAM sẽ tăng cao hơn 31.500 đồng/cp trong thời
gian tới. Vậy thay vì bỏ khoản tiền lớn để mua thêm cổ phiếu, ông A chỉ bỏ ra một
ít phí để mua quyền chọn mua với giá 31.500 đồng/cp. Đến khi giá cp SAM vọt lên
38.000 đồng/cp, ông A sẽ thực hiện hợp đồng quyền chọn mua với giá chỉ có
31.500 đồng/cp.
- Hơn nữa thông tin từ Ủy ban chứng khoán (UBCK) và mới đây là công văn số
319 của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc sẽ cho phép công ty chứng khoán
áp dụng nghiệp vụ margin trading (giao dịch tài khoản ký quỹ) .Nếu nghiệp vụ này
được triển khai, thị trường sẽ có thêm điều kiện để tăng tính sôi động, đồng thời
mang lại nguồn thu không nhỏ cho công ty chứng khoán .Với nghiệp vụ margin
trading , nhà đầu tư có thể nhanh kiếm lời khi thị trường đi lên, nhưng khả năng
15
phòng ngừa rủi ro không cao .Ngoài ra, nghiệp vụ mua –bán khống cũng được coi
là cách để nhà đầu tư có thể kiếm lời trong ngắn hạn ngay cả khi thị trường đi
xuống. Mặt khác, có thể nghiên cứu, xem xét việc đưa các công cụ phái sinh vào
giao dịch như: hợp đồng quyền chọn chứng khoán, hợp đồng tương lai. Các nghiệp
vụ phái sinh này không chỉ là công cụ quản lý rủi ro tốt mà còn giúp nhà đầu tư
nhận biết được tình hình thị trường thông qua xu hướng đặt mua, đặt bán các hợp
đồng quyền chọn cũng như những diễn biến giá của chúng, qua đó có thêm căn cứ
để ra quyết định đầu tư .Bên cạnh ưu điềm đã nêu trên, hợp đồng quyền chọn chứng
khoán còn giúp tăng khả năng sinh lời trên thị trường với mức phí không quá lớn.
Tuy nhiên, nhà đầu tư sử dụng quyền chọn có nguy cơ bị mất toàn bộ khoản đầu tư
trong tình huống thị trường diễn biến không đúng như mong đợi của nhà đầu tư.
- Hiện nay, không chỉ các thị trường toàn cầu nói chung và thị trường Việt Nam
nói riêng, mọi người đều lo ngại về vấn đề quản lý rủi ro và đây cũng là thời điểm
để một thị trường non trẻ với nhiều biến động về giá trong thời gian qua như Việt
Nam có thể xem xét đến việc áp dụng những hình thức giao dịch hợp đồng quyền
chọn này. Công cụ phái sinh có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý rủi ro nên
hình thức giao dịch này giúp nhà đầu tư có thêm tự tin khi tham gia thị trường, điều
này giúp thu hút thêm nhà đầu tư tham gia thị trường. Vì vậy, cơ hội của các công
cụ phái sinh như hợp đồng quyền chọn chứng khoán trên những thị trường chứng
khoán mới nổi như Việt Nam được đánh giá là khá nhiều và trong định hướng phát
triển thị trường các cơ quan quản lý cũng có tính đến phương án áp dụng các hình
thức giao dịch này .Đã đến lúc các công cụ phái sinh cần được triển khai và xem
như một sản phẩm dịch vụ để các nhà đầu tư áp dụng lựa chọn .Mặt khác, khi các
công cụ này được áp dụng sẽ là điều kiện tốt để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
16
3. Những rủi ro liên quan đến hợp đồng quyền chọn chứng khoán
Hợp đồng quyền chọn được xem như là một công cụ bảo hiểm rủi ro cho các tài
sản cơ sở như ngọai tệ, vàng, cổ phiếu …., tuy nhiên, bản thân hợp đồng quyền
chọn cũng có những rủi ro riêng của nó .Mặc dù, có rất nhiều chiến lược mua bán
hợp đồng quyền chọn, nhưng có một số chiến lược phù hợp với điều kiện đầu tư của
mình và có một số chiến lược không thích hợp.Do vậy, nhìn chung vẫn có một số
rủi ro tiềm tàng cho những người mua bán hợp đồng quyền chọn .Sau đây chúng ta
sẽ phân lọai một số rủi ro mà các nhà đầu tư nắm giữ hợp đồng quyền chọn chứng
khoán và những người bán hợp đồng quyền chọn có thể gặp phải
3.1 . Những rủi ro mà những người nắm giữ hợp đồng quyền chọn có thể
gặp
- Những người nắm giữ hợp đồng quyền chọn cổ phiếu có rủi ro mất hết khoản tiền
phí trả cho việc mua hợp đồng quyền chọn: cách duy nhất để tránh việc mất toàn bộ
phí hợp đồng quyền chọn là đóng trạng thái mua trước khi đến hạn hợp đồng hoặc
thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán trước ngày đến hạn (đối với hợp đồng
quyền chọn kiểu mỹ). Không giống như cổ phiếu, hợp đồng quyền chọn bị giới hạn
về thời gian thực hiện hợp đồng .Vì vậy, mua bán hợp đồng quyền chọn cần phải
lưu ý đến khoảng thời gian mà hợp đồng có thể thực hiện có lãi .Tuy nhiên, nếu
mục đích của việc mua hợp đồng quyền chọn là để bảo hiểm trạng thái cổ phiếu
hiện tại, thì việc mất chi phí mua quyền chọn là có thể chấp nhận được, bởi vì nó
được xem như một chi phí để mua bảo hiểm
- Hợp đồng quyền chọn ở trạng thái out-of-the-money khi càng đến gần ngày đến
hạn, thì khả năng không thể đóng trạng thái hợp đồng hay thực hiện hợp đồng ở
trạng thái có lãi là rất lớn: Thời gian không đứng về phía của những người nắm giữ
hợp đồng quyền chọn.Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp những hợp đồng
quyền chọn ở trạng thái out-of-the-money, thỉnh thoảng thu hút nhà đầu tư mua nó,
bởi vì chúng trông rất rẻ khiến cho các nhà đầu tư có thể chấp nhận khả năng rất lớn
bị mất phí hợp đồng quyền chọn .
17
Có nhiều hợp đồng quyền chọn có phí rất rẻ vì lý do nó không thật sự không bao
giờ được thực hiện có lãi .Vì vậy, thật cẩn thận cân nhắc khi có một lượng lớn hợp
đồng quyền chọn được mua với giá rất rẻ với hy vọng sử dụng đòn bẩy để thu lãi.
- Những hợp đồng quyền chọn trên sàn giao dịch có rủi ro sẽ không luôn luôn được
thực hiện một cách tự động khi đến hạn: Để có thể thu được lãi từ việc mua hợp
đồng quyền chọn trước hoặc đến ngày giao dịch cuối cùng của hợp đồng, thì nhà
đầu tư cần thiết phải chú ý việc ra lệnh hay chỉ thị cho nhà môi giới để thực hiện
hay đóng trạng thái của hợp đồng quyền chọn trước hoặc ngay ngày đáo hạn hợp
đồng. Trung tâm giao dịch hợp đồng quyền chọn chứng khoán sẽ tự động thực hiện
hợp đồng quyền chọn của những hợp đồng ở trạng thái deep in-the-money khi đến
hạn, nhưng nhà môi giới có thể quên hay bỏ qua việc thực hiện hợp đồng một cách
tự động nếu không có chỉ thị từ nhà đầu tư .Nhà môi giới không có nghĩa vụ phải
thông báo cho nhà đầu tư về việc hợp đồng sắp đến hạn .Nếu nhà đầu tư quên thực
hiện hợp đồng nhà môi giới sẽ không thông báo cho nhà đầu tư biết, lúc đó nhà đầu
tư có thể sẽ bị mất đi những khoản lợi nhuận này.
- Nếu nhà đầu tư thực hiện hợp đồng quyền chọn mà không được bảo hiểm
(hedged) trên thị trường chứng khoán, nhà đầu tư phải chuẩn bị tiền để trả cho
toàn bộ giá trị của cổ phiếu trong hợp đồng quyền chọn ( trong trường hợp hợp
đồng quyền chọn mua), hoặc giao cổ phiếu (trong trường hợp hợp đồng quyền chọn
bán): nếu nhà đầu tư không sắp xếp việc bán cổ phiếu ngay lập tức ( trong trường
hợp hợp đồng quyền chọn mua) hoặc nắm giữ cổ phiếu ( trong trường hợp hợp đồng
quyền chọn bán), nhà đầu tư phải đảm bảo rằng họ có sẵn tiền để thực hiện nghĩa vụ
của mình. Có trường hợp nhà đầu tư sẽ không thể đóng trạng thái hợp đồng quyền
chọn ở trạng thái in-the-money trước khi đến hạn và vì vậy chỉ có thể thu lãi bằng
việc thực hiện hợp đồng quyền chọn .Nếu nhà đầu tư có trạng thái dùng đòn bẩy nợ
cao, thì số lượng cổ phiếu được giao dịch bằng việc thực hiện hợp đồng lớn hơn
18
việc nhà đầu tư tham gia vào giao dịch mua cổ phiếu, và kết quả có thể dẫn đến việc
tổn thất lớn.
- Nhà đầu tư có thể bị yêu cầu trả tiền ký quỹ (margin) trên trạng thái hợp đồng
quyền chọn được thực hiện: Ngay cả khi nhà đầu tư là người nắm giữ hợp đồng
quyền chọn và vì vậy không cần phải trả tiền ký quỹ trên trạng thái mua, hệ thống
tiền ký quỹ của trung tâm thanh toán bù trừ (Clearing House) có thể yêu cầu trả tiền
ký quỹ trên trạng thái cổ phiếu đang mở sau khi thực hiện hợp đồng quyền chọn
.Điều này có thể xảy ra nếu giá cổ phiếu hiện tại biến động đáng kể theo sau việc
thực hiện hợp đồng quyền chọn để giá thực hiện không bao giờ ở trạng thái in-the-
money khi hợp đồng được thực hiện .Điều này khác biệt hòan toàn với thị trường
chứng khoán ở đó nhà đầu tư không cần phải trả tiền ký quỹ trước khi thanh toán
giao dịch cổ phiếu.
3.2. Những rủi ro người bán hợp đồng quyền chọn phải gánh chịu
- Người bán hợp đồng quyền chọn mua có nghĩa vụ phải chuyển cổ phiếu cho
người mua khi hợp đồng quyền chọn được thực hiện: nếu như người bán hợp đồng
quyền chọn mua không có sẵn cổ phiếu, khi hợp đồng được thực hiện, người bán
bắt buộc phải mua lại cổ phiếu ngay lập tức trên thị trường hay vay mượn số cổ
phiếu tương ứng đó. Trong cả hai trường hợp, sẽ có sự khác biệt đáng kể giữa giá cổ
phiếu mà người bán hợp đồng quyền chọn mua lại và giá thực hiện mà người bán
phải bán cho người mua hợp đồng quyền chọn, và kết quả sẽ dẫn đến sự tổn thất
cho người bán hợp đồng quyền chọn mua, bởi vì lúc này số tiền người bán hợp
đồng quyền chọn nhận được từ người mua không đủ để bù đắp cho khoảng chênh
lệch giữa giá mua và giá bán cổ phiếu.
- Người bán hợp đồng quyền chọn bán được yêu cầu khi người mua thực hiện hợp
đồng quyền chọn và trả tiền cho việc mua cổ phiếu khi hợp đồng quyền chọn được
thực hiện : Người bán hợp đồng quyền chọn bán sẽ có nghĩa vụ mua cổ phiếu ở giá
19
thực hiện khi hợp đồng quyền chọn được thực hiện.Vì vậy, người bán hợp đồng
quyền chọn được yêu cầu phải trả một số tiền đáng kể hơn giá cổ phiếu trên thị
trường, kết quả sẽ dẫn đến tổn thất đáng kể.
- Đối với những hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ, người bán hơp đồng quyền chọn
mua và hợp đồng quyền chọn bán có thể được thực hiện bất kể lúc nào: đa phần khi
bán hợp đồng quyền chọn sẽ thu được lãi nhiều hơn so với việc thực hiện hợp đồng
sớm hơn, tuy nhiên cũng có những ngọai lệ người nắm giữ hợp đồng quyền chọn sẽ
thực hiện sớm hơn. Điều này cụ thể có thể xảy ra xung quanh khoảng thời gian cổ
phiếu giao dịch không hưởng quyền cổ tức (ex-dividend) hoặc khi tính thanh khoản
cao của những hợp đồng quyền chọn đang ở trạng thái in-the-money mà những
người nắm giữ hợp đồng quyền chọn nhận thấy khó mà bán hợp đồng quyền chọn
của họ cao hơn giá trị nội tại .Người bán hợp đồng quyền chọn luôn nhận thức khả
năng thực hiện sớm hơn ngày đến hạn của người nắm giữ hợp đồng quyền chọn, và
họ phải luôn chuẩn bị một số tiền để đáp ứng nghĩa vụ thanh toán và chuyển giao,
số tiền này nhìn chung có thể cao hơn nhiều so với số tiền mà người bán nhận được
từ việc bán hợp đồng quyền chọn.
- Tất cả trạng thái bán hợp đồng quyền chọn phụ thuộc vào sự gia tăng đột ngột
yêu cầu tiền ký quỹ (margin requirements): đặc tính đòn bẩy nợ của hợp đồng
quyền chọn có nghĩa là giá trị hợp đồng quyền chọn và yêu cầu tiền ký quỹ có thể
gia tăng đáng kể suốt một thời gian ngắn .Nhà môi giới có quyền đóng trạng thái
của nhà đầu tư, và nắm giữ những khoản ký quỹ và tài sản cầm cố của nhà đầu tư
trong trường hợp người bán hợp đồng quyền chọn không có khả năng đáp ứng yêu
cầu đóng thêm tiền ký quỹ (margin call).
- Người bán hợp đồng quyền chọn có cổ phiếu đảm bảo (Covered call writers) sẽ
mất quyền khi giá cổ phiếu gia tăng nhưng vẫn bị rủi ro tổn thất khi giá cổ phiếu
giảm: Một người bán hợp đồng quyền chọn mua có cổ phiếu đảm bảo sẽ không bị
rủi ro tổn thất đối với chính bản thân hợp đồng quyền chọn mua .Cổ phiếu sẽ bù đắp
20
những rủi ro bị thực hiện hợp đồng quyền chọn .Tuy nhiên, bản chất của rủi ro này
là người bán hợp đồng quyền chọn không thể có lãi từ bất cứ sự gia tăng nào của
giá cổ phiếu miễn là trạng thái bán hợp đồng quyền chọn mua vẫn còn mở. Hơn
nữa, nếu giá cổ phiếu giảm, người bán hợp đồng quyền chọn sẽ gánh chịu tổn thất
nặng ngay cả khi có số tiền phí thu đựơc do bán hợp đồng quyền chọn
3.3. Những rủi ro liên quan khác
- Có nhiều lý do, một số hợp đồng quyền chọn không thể thanh khoản được .
Nếu không có thanh khoản thì trạng thái hợp đồng quyền chọn hiện tại không thể
đóng được và vì vậy sẽ dẫn đến rủi ro cho nhà đầu tư mua bán hợp đồng quyền
chọn, lợi nhuận sẽ có thể bị mất đi
Ví dụ:
+ Giao dịch một cổ phiếu nhất định có thể bị tạm ngưng hoặc toàn bộ thị trường
chứng khoán bị ngưng giao dịch ( như do bão ) .Trong trường hợp này, những
hợp đồng quyền chọn trên cổ phiếu đó cũng bị ngưng giao dịch vào thời gian đó
.Nếu thời gian ngưng giao dịch kéo dài qua ngày đến hạn của hợp đồng, thì hợp
đồng quyền chọn có thể được thanh toán bằng tiền mặt.
+ Ngay cả trong trường hợp ít nghiêm trọng hơn, hợp đồng quyền chọn không bị
ngưng giao dịch, nhưng khả năng mất thanh khoản của hợp đồng quyền chọn
vẫn xuất hiện .Hợp đồng quyền chọn có thể vẫn còn giao dịch nhưng tính thanh
khoản rất kém do kém hấp dẫn những nhà đầu tư.
+ Mặc dù, trên thị trường giao dịch hợp đồng quyền chọn luôn có một hệ thống
những nhà tạo lập thị trường, tuy nhiên số lượng những nhà tạo lập thị trường có
giới hạn và vì vậy sẽ xuất hiện trường hợp nhà tạo lập thị trường ( market
makers) ở một thời điểm nào đó sẽ không đáp ứng được nghĩa vụ của mình
- Khi giao dịch hợp đồng quyền chọn, nhà đầu tư có mối liên hệ chặt chẻ về mặt tài
chính với nhà môi giới, điều này dẫn đến rủi ro cho nhà đầu tư trong trường hợp
nhà mội giới bị mất khả năng thanh toán: luôn có rủi ro mất khả năng thanh toán
của nhà môi giới đối với các giao dịch chứng khoán. Nhưng đối với hợp đồng
21
quyền chọn sẽ có mối quan hệ về mặt hợp đồng giữa nhà đầu tư và nhà môi giới
trong suốt thời hạn hợp đồng quyền chọn
- Những rủi ro của hợp đồng quyền chọn sẽ còn tiếp tục suốt thời gian tồn tại của
hợp đồng. Những sự kiện bất ngờ có thể xảy ra cần có sự có mặt của nhà đầu tư
ngay lập tức: Rất quan trọng khi nhà đầu tư có thể tiếp cận dễ dàng với nhà môi
giới trong trường hợp đang mở trạng thái hợp đồng quyền chọn, đặc biệt là trạng
thái bán (short position). Chẳng hạn trong trường hợp nhà môi giới gọi nhà đầu tư
nộp thêm tiền vào tài khoản ký quỹ trong trường hợp giá thị trường đang bất lợi,
nếu nhà đầu tư không có mặt kịp thời hay không chỉ thị lệnh kịp lúc, nhà môi giới
sẽ tự động đóng trạng thái bán hoặc thanh lý tài sản cầm cố của nhà đầu tư .Kết quả,
nhà đầu tư hợp đồng quyền chọn sẽ gặp rủi ro gây tổn thất lớn nếu không dễ dàng
tiếp cận với nhà môi giới trong những trường hợp cần thiết nếu như nhà đầu tư vắng
mặt, có thể sắp xếp sẵn những chỉ thị thực hiện hợp đồng khi cần thiết hay chuẩn bị
sẳn tiền ký quỹ hay tài sản cầm cố liên quan đến việc đóng mở trạng thái
4. Kinh nghiệm thực hiện giao dịch hợp đồng quyền chọn ở Úc.
Sàn giao dịch hợp đồng quyền chọn ở Úc (ASX) đã đang họat động từ năm 1976
.Từ khi thi trường thành lập, khối lượng giao dịch đã gia tăng đáng kể .Hiện nay đã
có hơn 100 công ty khác nhau và nhiều chỉ số chứng khoán khác nhau để chọn lựa.
Danh sách của những công ty và những chỉ số giao dịch trên sàn giao dịch hợp đồng
quyền chọn có thể tìm thấy trên website www.asx.com.au/options
Những hợp đồng quyền chọn chứng khoán giao dịch trên sàn Australia (ASX)
được tiêu chuẩn hóa về một số đặc điểm của hợp đồng như về chứng khoán cơ sở,
số lượng hợp đồng, ngày đáo hạn, giá thực hiện và nhân tố còn lại là giá hợp đồng
quyền chọn không được tiêu chuẩn hóa nhưng được xác định chủ yếu do các lực
mua bán của thị trường. ASX điều hành họat động của thị trường hợp đồng quyền
chọn, trong khi trung tâm thanh toán bù trừ Australia – Australian Clearing House
Pty Ltđ – (ACH) phụ trách họat động thanh toán các hợp đồng quyền chọn trên thị
22
trường hợp đồng quyền chọn Australia. Một trong những trách nhiệm của ASX là
thiết lập tiêu chuẩn giao dịch cho những thành phần của hợp đồng quyền chọn
4.1 Chứng khoán, chỉ số chứng khoán cơ sở
Hợp đồng quyền chọn được giao dịch trên thị trường hợp đồng quyền chọn
Australia (AXS) chỉ giao dịch dựa trên những chứng khoán hay chỉ số cơ sở nhất
định, những chứng khoán cơ sở này được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán
Australia và được lựa chọn bởi trung tâm thanh toán bù trừ (ACH) theo những
hướng dẫn cụ thể. Những công ty phát hành những cổ phiếu cơ sở này không tham
gia vào vịêc chọn lựa chứng khoán cơ sở cho hợp đồng quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn mua và quyền chọn bán của cùng một chứng khoán cơ sở
được gọi là những lọai quyền chọn (classes of options) .Ví dụ, tất cả hợp đồng
quyền chọn mua và chọn bán của cổ phiếu công ty Lend Lease Corporation (LLC)
bất kể giá thực hiện và ngày đáo hạn đều hình thành một lọai hợp đồng quyền chọn.
Danh sách của tất cả những lọai hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường
quyền chọn Australia (ASX) có thể được tìm trên website
www.asx.com.au/options
4.2 Số lượng của hợp đồng
Trên sàn giao dịch quyền chọn Australia (ASX), số lượng của một hợp đồng
quyền chọn chứng khoán được tiêu chuẩn hóa bằng 1.000 cổ phiếu cơ sở .Điều đó
có nghĩa, một hợp đồng quyền chọn có 1.000 cổ phiếu cơ sở .Số lượng cổ phiếu
trong hợp đồng quyền chọn có thể thay đổi trong trường hợp có sự chia tách hay
chia cổ tức bằng cổ phiếu của cổ phiếu cơ sở .Trong trường hợp của hợp đồng
quyền chọn chỉ số chứng khoán, giá trị của hợp đồng được cố định bằng số đôla
nhất định trên số điểm của chỉ số chứng khoán (ví dụ, $10/ một điểm index). Số
lượng hợp đồng bằng mức điểm của chỉ số nhân với giá trị đôla trên điểm (ví dụ:
khi chỉ số ở mức 6000 điểm, một hợp đồng sẽ là 6.000x $10= $60.000)
23
4.3 Ngày đáo hạn
Hợp đồng quyền chọn có thời gian đáo hạn giới hạn nhất định theo chuẩn của
trung tâm thanh toán bù trừ quy định (ACH) .Ngày đáo hạn là ngày mà tất cả những
hợp đồng chưa được thực hiện bị hết hạn và là ngày giao dịch cuối cùng của một
lọai hợp đồng cụ thể .Đối với cổ phiếu, ngày đáo hạn thường là ngày thứ 5 trước
ngày thứ sáu của tuần cuối cùng trong tháng .Đối với những chỉ số chứng khoán,
ngày đáo hạn thường là ngày thứ năm của tuần thứ ba của tháng đáo hạn của hợp
đồng .Tuy nhiên, trung tâm thanh toán có quyền thay đổi ngày đáo hạn này nếu cần
thiết .Nhìn chung, tất cả hợp đồng quyền chọn đối với cùng một lọai hợp đồng theo
sau một trong những ba chu kỳ quý sau đây:
- Tháng 1, tháng 4, tháng 7, tháng 10
- Tháng 2, tháng 5, tháng 8, tháng 11 hoặc
- Tháng 3, tháng 6, tháng 9, tháng 12
Hợp đồng quyền chọn thông thường được niêm yết trong 3 tháng kế tiếp trong
chu kỳ đáo hạn hàng quý.
Ví dụ: hôm nay là tháng 6 năm 2008 và Ngân hàng ANZ theo sau chu kỳ đáo
hạn tháng 1, tháng 4, tháng 7, tháng 10. Vì vậy, những tháng đáo hạn kế tiếp của
hợp đồng quyền chọn của ngân hàng ANZ là tháng 7/2008, tháng 10 năm 2008 và
tháng 1 năm 2009.. Khi những hợp đồng quyền chọn tháng 7 đáo hạn, một hợp
đồng quyền chọn tháng 4 năm 2009 sẽ được niêm yết .Khi hợp đồng tháng 10/2007
đáo hạn, hợp đồng tháng 7/2008 sẽ được niêm yết.
Ví dụ: một hợp đồng đáo hạn tháng 11 có nghĩa là thời gian đáo hạn của hợp
đồng quyền chọn vào ngày đáo hạn trong tháng 11. Nếu ngày thứ 5 không phải là
ngày kinh doanh, thì ngày đáo hạn sẽ đựơc tính dời sang ngày kinh doanh liền kề.
Những thông tin của ngày đáo hạn được yết trên trang web
www.asx.com.au/options
24
4.4 Giá thực hiện
Giá thực hiện là giá mua, bán đã được xác định trước đối với một cổ phiếu cơ sở
nếu hợp đồng quyền chọn được thực hiện
Trung tâm thanh toán (ACH) thiết lập giá thực hiện cho những hợp đồng quyền
chọn được niêm yết trên thị trường hợp đồng quyền chọn ASX với một lọat những
giá thực hiện có sẵn cho những hợp đồng quyền chọn trong cùng một ngày đáo hạn.
Giá thực hiện mới sẽ được niêm yết khi giá chứng khoán cơ sở thay đổi.
Ví dụ: nếu cổ phiếu cơ sở đang giao dịch ở mức $3.5, thì hợp đồng quyền chọn sẽ
có những giá thực hiện được niêm yết như sau: $3.00, $3.25, $3.5, $ 3.75 và $4.00.
Một lọat những giá thực hiện cho phép nhà đầu tư dễ dàng tìm được những mức giá
thực hiện đúng theo kỳ vọng của mình theo sự biến động của chứng khoán cơ sở tùy
theo trạng thái hợp đồng của họ. Giá thực hiện cũng có thể được điều chỉnh suốt
trong thời gian của hợp đồng nếu có một sự phát hành mới cổ phiếu hoặc có một sự
tái cấu trúc vốn của chứng khoán cơ sở.
4.5 Phí hợp đồng quyền chọn
Phí hợp đồng quyền chọn là giá của hợp đồng do hai bên mua và bán hợp đồng
thương lượng chấp nhận .Phí hợp đồng quyền chọn được yết bằng 1 cent/cổ phiếu.
Để tính toàn bộ phí trả cho một hợp đồng quyền chọn theo chuẩn sẽ nhân cho phí
quyền chọn được yết với số lượng cổ phiếu trên hợp đồng, thường là 1.000
Ví dụ, một mức phí được yết là 16 cents có nghĩa tổng chi phí cho hợp đồng là
$160.00 ($0.16x1000) trên hợp đồng .Để tính toàn bộ phí hợp đồng quyền chọn cho
chỉ số chứng khoán chỉ đơn giản lấy số nhân chỉ số nhân cho phí hợp đồng quyền
chọn .Ví dụ, phí hợp đồng quyền chọn là 30 điểm, với một số nhân chỉ số là $10, có
nghĩa tổng chi phí hợp đồng quyền chọn là $300 trên hợp đồng.
25
4.6 Tiền ký quỹ
Tiền ký quỹ được dùng để bảo vệ sự an toàn về mặt tài chính trên thị trường
.Nếu nhà đầu tư bán hợp đồng quyền chọn, thì họ có nghĩa vụ tiềm ẩn đối với thị
trường bởi vì người mua hợp đồng có thể thực hiện trạng thái hợp đồng của họ
Khoản tiền ký quỹ là số tiền được tính toán bởi trung tâm thanh toán (ACH) khi cần
thiết để đảm bảo cho nhà đầu tư có thể đáp ứng được nghĩa vụ vào ngày giao dịch
đó .Lưu ý, mối quan hệ này là mối quan hệ giữa trung tâm thanh toán với nhà môi
giới chứ không phải mối quan hệ trực tiếp với nhà đầu tư. Một khi một giao dịch
hợp đồng quyền chọn được đăng ký với trung tâm thanh toán bù trừ (ACH), thì
trách nhiệm đối với tiền ký quỹ được thực hiện theo trình tự sau: Trung tâm thanh
toán kêu gọi tiền ký quỹ từ nhà môi giới, sau đó nhà môi giới kêu gọi nộp tiền ký
quỹ từ nhà đầu tư.
Tiền ký quỹ được tính toán như thế nào
Trung tâm thanh toán bù trừ (ACH) tính toán tiền ký quỹ bằng cách sử dụng hệ
thống TIMS (Theoretical Intermarket Margining System) .TIMS ghi nhận độ biến
động của chứng khoán cơ sở khi tính toán nghĩa vụ tiền ký quỹ
Tổng số tiền ký quỹ cho các hợp đồng quyền chọn giao dịch trên sàn (ETOs)
được hình thành từ hai thành phần:
- The premium margin là giá trị thị trường của trạng thái hợp đồng vào cuối ngày
giao dịch mỗi ngày. Nó chính là số tiền sẽ được yêu cầu đóng trạng thái của nhà đầu
tư
- The risk margin bao gồm sự thay đổi tiềm năng về giá của hợp đồng đó là khả
năng biến động giá tối đa trong ngày , độ biến động giá hàng ngày được biểu hiện
bằng số phần trăm, được gọi là margin interval
Mỗi tuần ACH công bố margin interval cho tất cả các lọai hợp đồng quyền chọn .
Nếu nhà đầu tư đang có trạng thái hợp đồng mở, TIMS sẽ tính toán rủi ro liên quan
đến toàn bộ danh mục đầu tư hợp đồng quyền chọn và tính toàn bộ nghĩa vụ khoản
26
tiền ký quỹ của nhà đầu tư .Các trạng thái hợp đồng quyền chọn có thể bù trừ lẫn
nhau dẫn đến sự sụt giảm trong toàn bộ nghĩa vụ của nhà đầu tư.
Nhà môi giới sẽ yêu cầu nhà đầu tư cung cấp tiền ký quỹ có thể bằng tiền mặt hay
những khoản cầm cố. Số tiền ký quỹ yêu cầu tối thiểu do trung tâm thanh toán xác
định, nhưng đến lượt nhà môi giới sẽ xác định mức tiền ký quỹ bắt buộc cao hơn.
Có nhiều khoản cầm cố có thể được trung tâm thanh toán bù trừ (ACH) chấp nhận
như cổ phiếu, những chứng quyền,chứng chỉ được ngân hàng đảm bảo và những cổ
phiếu được bảo lãnh bởi trung tâm thanh toán Australia ( Austraclear pledged
securities) .Trung tâm thanh toán đặt ra một giới hạn đối với giá trị của những
khoản cầm cố đảm bảo cho số tiền ký quỹ để bảo vệ nghĩa vụ của nhà đầu tư trong
trường hợp có sự sụt giảm đột ngột giá trị của những khoản cầm cố. Ví dụ, ACH
thường áp dụng giới hạn 30% đối với giá trị hiện tại của cổ phiếu, và 40% được áp
dụng cho những chứng quyền
Thanh toán tiền ký quỹ
Tiền ký quỹ được tính toán lại mỗi ngày để đảm bảo số tiền ký quỹ đủ để duy trì
trạng thái .Có nghĩa là nhà đầu tư có thể phải trả thêm nếu giá thị trường đi ngược
chiều với trạng thái của mình .Nếu giá thị trường đi cùng chiều với trạng thái của
nhà đầu tư thì số tiền ký quỹ sẽ giảm .Việc thanh toán tiền ký quỹ rất nghiêm khắc
trong trường hợp giao dịch hợp đồng quyền chọn .Nhà đầu tư phải trả số tiền ký quỹ
thêm trứơc thời gian đựơc ấn định trong hợp đồng .Thường là trong vòng 24 giờ kể
từ khi nhà môi giới ra lệnh gọi nộp thêm tiền ký quỹ .Nếu nhà đầu tư không nộp
thêm tiền ký quỹ đúng giờ quy định trong hợp đồng, nhà môi giới có quyền đóng
trạng thái của nhà đầu tư mà không cần thông báo ra lệnh của nhà đầu tư
4.7 Giao dịch hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán (index options)
- Hợp đồng quyền chọn chứng khoán khác với hợp đồng quyền chọn chỉ số
chứng khoán như thế nào?
Ngòai những hợp đồng quyền chọn chứng khoán được giao dịch trên thị trường
phái sinh Australia (ASX), các nhà đầu tư còn có thể giao dịch những hợp đồng
27
quyền chọn chỉ số chứng khoán (một nhóm những cổ phiếu được niêm yết trên sàn).
Hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán cung cấp những lợi ích và tính linh họat
tương tự như hợp đồng quyền chọn chứng khoán được giao dịch trên sàn .Tuy
nhiên, hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán cho nhà đầu tư tiếp cận rộng hơn
đến nhiều cổ phiếu chứ không phải từng cổ phiếu riêng lẻ, nhà đầu tư có thể phân
tích trên một nhóm cổ phiếu hay trên một khu vực ngành nào đó.
Có một số sự khác biệt quan trọng giữa hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán
và hợp đồng quyền chọn chứng khoán như sau:
+ Hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán được thanh toán chủ yếu bằng
tiền mặt hơn là thanh toán bằng việc chuyển nhượng cổ phiếu, bởi vì trên thực tế
không thể chuyển giao tất cả cổ phiếu bao gồm trong một chỉ số. Nhà đầu tư sẽ
nhận được tiền mặt khi thực hiện hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán ở trạng
thái in-the-money
+ Hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán toàn bộ là kiểu Châu âu, điều đó
có nghĩa không có rủi ro trong việc thực hiện sớm hợp đồng đối với những người
bán
+ Giá thực hiện và phí quyền chọn của hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng
khoán thường được biểu hiện bằng số điểm
- Phương thức thanh toán (Settlement method)
Giá thanh toán hợp đồng chỉ số chứng khoán được dựa trên giá mở cửa của mỗi cổ
phiếu trong chỉ số vào buổi sáng của ngày đáo hạn .Nó không phải được dựa trên
mức giá đóng cửa của chỉ số chứng khoán .Khi những cổ phiếu trong chỉ số mở cửa,
giá giao dịch đầu tiên của mỗi cổ phiếu được ghi lại .Một khi tất cả cổ phiếu trong
chỉ số mở cửa, thì chỉ số này được tính bằng những mức giá mở cửa này. Quá trình
này gọi là phương pháp tính chỉ số theo giá mở cửa (Opening Price Index
Calculation- OPIC) .Sau khi chỉ số này được tính toán bởi ASX và ACH thì nhanh
chóng sẽ được công bố trên thị trường .Phương pháp tính toán chỉ số này thường
được sử dụng trên các thị trường quốc tế .Nó được xem như một cách hiệu quả nhất
28
để quản lý độ biến động tiềm năng xung quanh ngày đáo hạn của hợp đồng chỉ số
chứng khoán và hợp đồng tương lai.
Thị trường Úc sắp xếp việc mở cửa của các cổ phiếu, với những cổ phiếu mở
cửa theo thứ tự 5 nhánh theo những chữ cái đầu tiên của tên cổ phiếu:
• A và B
o C đến F
(cid:131) G đến M
• N đến R
o S đến Z
Giá mở cửa được sắp xếp theo nhánh có nghĩa là toàn bộ thị trường không thể giao
dịch một lần suốt trong thời gian mở cửa .Việc thanh khoản những trạng thái lớn để
có thể phù hợp với ngày đáo hạn của hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán một
cách có thứ tự .Hơn nữa, khi thị trường mở cửa là thời điểm giao dịch có tính thanh
khoản cao hơn, và vì vậy thời gian đó thị trường có thể hấp thụ được những lệnh mà
các nhà đầu tư đặt để thanh khoản những chiến lược arbitrage chỉ số .
- Một số những thuận lợi của việc giao dịch hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng
khoán:
+ Hợp đồng quyền chọn chỉ số giúp cho nhà đầu tư có thể tiếp cận thị trừơng
một cách toàn diện: đầu tư vào hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán tương
tự như đầu tư vào một danh mục đầu tư các cổ phiếu biến động theo sự biến
động của một chỉ số cụ thể .Điều này giúp cho nhà đầu tư tránh được rủi ro xuất
phát từ một công ty riêng lẻ .Thông thường hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng
khoán thường chọn những chỉ số cơ sở tiêu chuẩn để giao dịch như Dowjones,
Nasdaq,…
29
+ Tính đòn bẩy cao : tương tự như hợp đồng quyền chọn chứng khoán,hợp đồng
quyền chọn chỉ số chứng khoán cũng cho nhà đầu tư cơ hội thu lãi dựa vào tính
đòn bẩy nợ. Khi thị trường tăng hay giảm thì phần trăm tăng (giảm) của hợp
đồng quyền chọn chỉ số cao hơn so với chỉ số chứng khoán cơ sở
+ Dùng để bảo vệ cho một danh mục các cổ phiếu: Nếu nhà đầu tư muốn bảo vệ
giá trị của một danh mục đầu tư các cổ phiếu, thì có thể mua hợp đồng quyền
chọn bán chỉ số chứng khoán .Nhà đầu tư có thể lo sợ về khả năng giảm giá của
thị trường, nhưng có những lý do cho việc không muốn bán cổ phiếu. Bằng cách
mua hợp đồng quyền chọn bán chỉ số, nhà đầu tư có thể thu lãi khi chỉ số chứng
khoán giảm .Lợi nhuận thu được từ việc mua hợp đồng quyền chọn bán sẽ bù
đắp cho sự sụt giảm giá trị của những cổ phiếu trong danh mục đầu tư. Ví dụ,
chỉ số hiện đang ở mức 6.300 điểm, nhà đầu tư mua hợp đồng quyền chọn bán
chỉ số thời hạn 3 tháng với giá thực hiện 6.300 với giá 60 điểm (hay $600 cộng
phí hoa hồng) .Vào ngày đáo hạn chỉ số chứng khoán này giảm còn 6.000 điểm.
Nhà đầu tư nhận được khoản thanh toán bằng tiền mặt tương đương với khoản
chênh lệch 6.300 và 6.000 lúc đáo hạn hay $3000 (300 điểm *$10) .Nếu cổ
phiếu trong danh mục đầu tư giảm cùng với mức độ giảm của chỉ số chứng
khoán cơ sở, thì lợi nhuận thu được từ việc mua hợp đồng quyền chọn bán chỉ số
chứng khoán sẽ bù đắp phần lớn tổn thất do giá trị sụt giảm của cổ phiếu trong
danh mục của nhà đầu tư
- Những ví dụ về giao dịch hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán
• Ví dụ 1: dùng hợp đồng quyền chọn bán chỉ số chứng khoán để bảo vệ
danh mục các cổ phiếu
Khi nhà đầu tư quyết định mua cổ phiếu trên thị trường sẽ phải đối mặt với hai
lọai rủi ro:
+ Rủi ro của công ty: là rủi ro của từng công ty riêng lẻ mà nhà đầu tư đã
mua cổ phiếu của công ty đó gặp phải
+ Rủi ro thị trường: là rủi ro của toàn bộ thị trường bao gồm cả những cổ
phiếu mà nhà đầu tư đã mua
30
Có nhiều cách để bảo vệ cổ phiếu chống lại rủi ro thị trường bằng cách sử dụng
hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán .Chẳng hạn, nhà đầu tư có thể mua
những cổ phiếu mà họ tin tưởng và mua hợp đồng quyền chọn bán chỉ số chứng
khoán để bảo vệ danh mục cổ phiếu khỏi sự sụt giảm giá trị của toàn bộ thị
trường .
Tùy thuộc vào số lượng rủi ro mà nhà đầu tư có thể gánh chịu, họ có thể chọn
bảo hiểm một phần hay toàn bộ danh mục của họ. Ví dụ, chỉ số thị trường tháng
8 là 6300 điểm, nhà đầu tư có danh mục cổ phiếu trị giá $126.000 .Nhà đầu tư
tin rằng sẽ có một sự sụt giảm trên thị trường trong 3 tháng tới .Thay vì phải bán
cổ phiếu ngay bây giờ , họ sẽ thay thế bằng cách mua một hợp đồng quyền chọn
bán chỉ số chứng khoán để bảo vệ danh mục đầu tư của họ .Hợp đồng quyền
chọn chỉ số chứng khoán có giá trị $63,000 (6300 điểm* $10/điểm), nhà đầu tư
có thể bảo vệ danh mục đầu tư trị giá $126,000 bằng cách mua hai hợp đồng
quyền chọn, với 60 điểm cho một hợp đồng .Tổng chi phí cho việc mua hai hợp
đồng quyền chọn lúc này là $1200 (không tính chi phí giao dịch).
Hợp đồng quyền chọn 3 tháng cho nhà đầu tư quyền chứ không phải nghĩa vụ để
bán chỉ số ở mức 6300 lúc đáo hạn, bỏ qua chi phí hoa hồng, giá hòa vốn sẽ
là 6300-60=6240 . Vào ngày đáo hạn, chỉ số chứng khoán giảm còn 6000 điểm
và giá trị của hợp đồng quyền chọn như sau:
Trạng thái thuần của nhà đầu tư là lỗ $1200, đây là chi phí của hợp đồng quyền
chọn hay chi phí bảo hiểm
31
Mặt khác, nhà đầu tư có thể mua hợp đồng quyền chọn bán chỉ số với giá thực
hiện lớn hơn giá trị của danh mục cổ phiếu mà nhà đầu tư muốn bảo hiểm . Việc
này sẽ cung cấp cho nhà đầu tư lợi nhuận lớn hơn trên giao dịch hợp đồng quyền
chọn nếu chỉ số chứng khoán giảm đúng như kỳ vọng của nhà đầu tư .Tuy nhiên,
nhà đầu tư phải trả phí cao hơn cho hợp đồng quyền chọn mà họ đã mua
Date index Share Portforlio 6300 PUT Premium
2 contracts
Today 6300 $126,000 60 points x$600=$1200
• Ví dụ 2: sử dụng hợp đổng quyền chọn mua chỉ số chứng khoán để giao contracts 2
dịch theo xu hướng tăng giá của thị trường x$3000=$6000 $120,000 6000 Expiry 300 points
contracts 2
x Nhà đầu tư kỳ vọng thị trường chứng khoán sẽ tăng trong thời gian 3 tháng tới. P/L ($6,000) $2400=$4800
Giả định hiện tại chỉ số là 6300 .Thay vì phải mua cổ phiếu trực tiếp, nhà đầu tư
quyết định mua một hợp đồng quyền chọn mua chỉ số chứng khoán ở mức 6300
với giá 70 điểm hay $700 .Hợp đồng này sẽ cho nhà đầu tư quyền chứ không
phải nghĩa vụ để mua chỉ số chứng khoán ở mức 6300 vào lúc đáo hạn. Bỏ qua
chi phí môi giới, giá hòa vốn là 6300+70=6370 .Rủi ro cao nhất mà nhà đầu tư
phải gánh chịu là chi phí để mua hợp đồng quyền chọn $700, nhưng nhà đầu tư
có một khoản lợi nhuận tiềm năng không giới hạn .Vào lúc đáo hạn, mỗi điểm
của chỉ số tăng cao hơn điểm hòa vốn 6370, nhà đầu tư sẽ có lãi $10/một điểm.
Hai tháng sau, nếu dụ đóan của nhà đầu tư đúng thì giá trị của hợp đồng quyền
chọn sẽ như sau:
Date Index 6300 CALL Premium
Now 6300 70 points $700
2 months later 6615 (5%) 315 points $3,150
P/L $2450 ( 350%)
32
Hợp đồng quyền chọn có giá trị gấp đôi nếu chỉ số chứng khoán chỉ tăng nhẹ 5%.
Đây là ích lợi do tính đòn bẩy của hợp đồng quyền chọn chỉ số đem lại cho nhà đầu
tư. Bởi vì hợp đồng quyền chọn chưa đến ngày đáo hạn, nên sự lựa chọn của nhà
đầu tư hiện tại như sau:
1. Bán hợp đồng quyền chọn và thu lãi
2. Tiếp tục giữ trạng thái hợp đồng quyền chọn và kỳ vọng chỉ số chứng
khoán tăng hơn nữa.
5. Bài học kinh nghiệm về hoạt động của hợp đồng quyền chọn cho thị
trường chứng khoán Việt Nam
Qua một số kinh nghiệm hoạt đồng về hợp đồng quyền chọn tại một số nước trên
thế giới, ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho thị trường Việt Nam trong việc
triển khai hợp đồng quyền chọn như sau:
- Cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc (hệ thống luật, công nghệ thông
tin, kiến thức chứng khoán,…) cho thị trường chứng khoán để giúp cho các
nhà đầu tư có thể làm quen dần với những sản phẩm phái sinh như hợp đồng
quyền chọn chứng khoán .Ngay lúc đầu chỉ nên triển khai những nghiệp vụ
đơn giản như hợp đồng quyền chọn mua, hợp đồng quyền chọn bán (plain
vanilla options)
- Xây dựng mức ký quỹ cho phù hợp với thị trường chứng khoán Việt Nam,
biến nó thành công cụ để kích thích thị trường trong lúc thị trường ảm đạm
như hạ mức ký quỹ tham gia hợp đồng quyền chọn hoặc tăng mức ký quỹ
tham gia hợp đồng quyền chọn trong lúc thị trường đang “nóng sốt”.
- Chọn lựa một số cổ phiếu có tính thanh khoản cao, vốn hóa trên thị trường
phải lớn và tránh bị làm giá để làm những chứng khoán cơ sở cho hợp đồng
quyền chọn để khi hợp đồng được thực hiện, nhà đầu tư sẽ dễ dàng mua bán
trên thị trường
Cần phải trang bị một hệ thống thanh toán bù trừ thật vững mạnh để giúp xử lý các
giao dịch hợp đồng quyền chọn nhanh chóng và an toàn, giúp bảo vệ các nhà đầu tư
và làm thị trường phát triển ổn định hơn.
33
Kết luận chương 1
Thị trường phái sinh là một thị trường đã được hình thành từ rất lâu và hiện
nay thị trường hợp đồng quyền chọn đã được nhiều nước trên thế giới triển khai xây
dựng và đã thể hiện được vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế .Thị
trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán là phương tiện làm cho thị trường chứng
khoán được phát triển hơn và có nhiều loại hàng hóa giao dịch trên thị trường, dùng
để giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro trong hoạt động đầu tư, và cũng là phương
tiện tìm kiếm lợi nhuận cho các tổ chức tài chính.
Thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán là phong vũ biểu cho nền kinh
tế trong tương lai và nó gần như phản ánh những diễn biến của tình hình giá cả trên
thị trường chứng khoán trong tương lai gần .Do đó, thị trường hợp đồng quyền chọn
chứng khoán đã trở thành một công cụ để nhà nước quản lý nền kinh tế và cũng là
một công cụ cho các nhà đầu tư có thể dự đoán được những biến động của giá.
Ở Việt Nam cho đến nay khái niệm về thị trường phái sinh nói chung và thị
trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán nói riêng còn nhiều mới mẻ, mặc dù thị
trường này là một công cụ thích hợp và rất quan trọng để giúp thị trường chứng
khoán phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế .Vì vậy, thành lập và phát triển thị
trường hợp đồng quyền chọn là một việc làm hết sức cần thiết .Tuy nhiên, để có thể
xây dựng thị trường hợp đồng quyền chọn một cách hiệu quả, Việt Nam cần tìm
hiểu quá trình hình thành thị trường hợp đồng quyền chọn và cách thức hoạt động
của thị trường tại một số nước trên Thế Giới, từ đó ta cần rút ra bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam khi xây dựng thị trường này trong giai đoạn hậu WTO
34
Chương 2: Thực trạng thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt
Nam
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam
2.1.1. Lịch sử phát triển của thị trường Chứng khoán Việt Nam
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số
48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường
chứng khoán Việt Nam ra đời .Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho
TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng nghị định
75/CP ngày 28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập
theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt
động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời vào
ngày 8/3/2005 .Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch
chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN
nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) được thành lập
tháng 7 năm 2000, là một đơn vị trực thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và
quản lý hệ thống giao dịch chứng khoán niêm yết của Việt Nam. Chỉ số giá cổ
phiếu trong một thời gian nhất định (phiên giao dịch, ngày giao dịch) của các công
ty niêm yết tại trung tâm này được gọi là VN-Index. Sở Giao dịch Chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động như một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên Nhà nước với số vốn điều lệ là một nghìn tỷ đồng. Hiện nay các sở giao dịch
chứng khoán trên thế giới thường hoạt động dưới dạng công ty cổ phần.
Tên tiếng Anh của sở giao dịch này là Ho Chi Minh Stock Exchange, viết tắt là
HOSE. Tuy nhiên, vì lý do chưa giải thích được, tên theo trang web của sở này lại
là HSX (www.hsx.vn).
35
Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh khánh thành ngày 20
tháng 7 năm 2000, và các giao dịch bắt đầu từ ngày 28 tháng 7 năm 2000. Từ khi
thành lập đến ngày 7 tháng 8 năm 2007, nó mang tên Trung tâm giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSTC). Từ ngày 8 tháng 8 năm 2007, HSTC
mới được đổi tên thành Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
(HOSE).
Ngày đầu, có hai đơn vị được niêm yết, đó là Công ty cổ phần Cơ điện lạnh
(REE) và Công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông (Sacom). Một tuần chỉ có hai
phiên giao dịch. Đến 18 tháng 9 năm 2008 có 161 công ty và 3 chứng chỉ quỹ đầu
tư đăng ký niêm yết. Hiện Sở tổ chức giao dịch 5 ngày mỗi tuần.
Ban đầu, tổng sở hữu của người nước ngoài bị giới hạn 20% cổ phiếu (kể cả
chứng chỉ quỹ đầu tư) và 40% trái phiếu. Tháng 7 năm 2003, nhằm nâng cao sức
hấp dẫn của thị trường và thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng như
tăng tính thanh khoản, chính phủ đã nâng tỷ lệ sở hữu chứng khoán của nước ngoài
lên 30% đối với cổ phiếu và hủy bỏ hoàn toàn tỷ lệ sở hữu hạn chế đối với trái
phiếu. Cuối năm 2005, giới hạn sở hữu cổ phiếu của người nước ngoài được tăng
lên 49%, trừ đối với ngân hàng vẫn giữ là 30%. Để kiểm soát giới hạn này, các nhà
đầu tư nước ngoài tham gia giao dịch tại hai trung tâm giao dịch chứng khoán của
Việt Nam phải đăng ký để được cấp một mã số giao dịch.
Cuối năm 2006, có 35 công ty chứng khoán được cấp giấy phép. Trong số
này, có 9 công ty được phép thực hiện tất cả năm nghiệp vụ chứng khoán: môi giới,
lưu ký, tư vấn đầu tư và bảo lãnh phát hành, quản lý quỹ và tự doanh. Vốn điều lệ
tối thiểu bắt buộc để công ty được phép thực hiện cả năm nghiệp vụ như vậy là 43
tỷ đồng. Theo Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, mức vốn
điều lệ tối thiểu đó là 200 tỷ đồng; các công ty đã được cấp phép hoạt động trước đó
được gia hạn một thời gian để tăng vốn cho đủ mức quy định.
Đến cuối năm 2007, có 210 công ty niêm yết trên cả hai sàn Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh với mức vốn hóa trên thị trường đạt trên 40% GDP, nếu tính cả trái
phiếu, quy mô thị trường đạt gần 50% GDP, đến cuối năm 2007 có khoảng 300.000
nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch trên thị trường.
36
Theo xếp hạng tín dụng của Trung tâm Thông tin Tín dụng thuộc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, đến thời điểm đầu tháng 12 năm 2007, có 55 doanh nghiệp
niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng AAA,
chiếm 49,55%, con số tương tự tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội là 19
doanh nghiệp, chiếm 21,84%.
Chức năng của Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh:
Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một thể chế
chính thức mà thông qua đó các trái phiếu chính phủ mới được phát hành và nó có
chức năng như một thị trường thứ cấp cho một số phát hành trái phiếu hiện hữu. Tất
cả các chứng khoán niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam là
bằng đồng Việt Nam. Mệnh giá mỗi cổ phiếu (và chứng chỉ quỹ đầu tư) được quy
định thống nhất là 10.000 đồng, đơn giá trái phiếu là 100.000 đồng. Việc giao dịch
được thực hiện vào buổi sáng, từ thứ hai đến thứ sáu trong tuần. Giao dịch cổ phiếu
và chứng chỉ quỹ có ba đợt khớp lệnh từ 8 h 20 đến 10 h 30, một đợt giao dịch thỏa
thuận từ 10 h 30 đến 11 h; giao dịch trái phiếu là giao dịch thỏa thuận, từ 8 h 20 đến
11 h.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC), chính thức thành lập năm 1996, chịu
trách nhiệm đối với việc phát triển thị trường vốn, cấp giấy phép niêm yết chứng
khoán cho các công ty và giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán, ban
hành các quy định. Để được niêm yết, một công ty phải có lãi hai năm liên tục, có
vốn điều lệ tối thiểu 5 tỷ đồng và có ít nhất 50 cổ đông ngoài công ty, nắm giữ ít
nhất là 20% cổ phiếu. Các công ty liên doanh với nước ngoài về mặt kỹ thuật thì đủ
tư cách niêm yết, nhưng để được niêm yết trên sàn, các công ty này phải được tổ
chức lại thành công ty cổ phần. Các công ty muốn được niêm yết thì phải được một
công ty kiểm toán độc lập, được chấp thuận thực hiện kiểm toán và công khai báo
cái tài chính cũng như bản cáo bạch bốn lần theo bốn quý trong năm.
Cơ chế giao dịch trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là
một hệ thống đặt-khớp lệnh tự động. Năng lực của hệ thống là 300.000 lệnh mỗi
ngày. Giá chứng khoán giao dịch bị giới hạn biên độ thay đổi hàng ngày là cộng-trừ
5% so với giá đóng cửa ngày hôm trước. Riêng trong ngày niêm yết đầu tiên của
một cổ phiếu, chỉ thực hiện một đợt khớp lệnh, giá giao dịch được thực hiên với
biên độ cộng-trừ 20%.
37
2.1.2 Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
- Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường chứng khoán
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào
vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 .Ở thời điểm lúc bấy giờ,
chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ
đồng và một số ít trái phiếu Chính Phủ được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái ảm đạm, loại trừ cơn sốt vào
năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng
chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã
mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001
xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong khoảng thời gian “hoảng
loạn” này, nhiều nhà đầu tư đã nản chí và đã rút lui khỏi thị trường . Lý do chính là
ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn
nhà đầu tư trong nước, trong khi "room" cũng hết.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính
thức đi vào hoạt động .Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm
giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan
tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra
tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng
như tới cuộc sống của mỗi người dân. Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước, tính đến hết năm 2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần
40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69% tổng thu nhập quốc nội (GDP).
- Giai đoạn 2006: Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”,
tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt
động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”:
38
Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường
OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng
khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới. Và sự
bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng “hút hồn” các nhà đầu tư trong
và ngoài nước .Năm 2006 , TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-
Index tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn
giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng 152,4%
Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so
đầu năm.
Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP)
giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD,
chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường .Năm 2006, kỷ lục mới của VN-
Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm .Với HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260
điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số VN-Index đã có mức tăng trưởng tới
146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây là những mức tăng mà các thị trường
trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng
- Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường
phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế Tính
công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
VN Index đạt đỉnh 1.170,67 điểm, HASTC Index chạm mốc 459,36 điểm.
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên giao
dịch có nhiều biến động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ giao động
mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm, Hastc-Index
dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được mức
tăng trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào cuối
năm 2006.
39
Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên giao
dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với
tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và
2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2
triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng.
TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng
giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị
giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8
lần về giá trị giao dịch so với năm 2006.
- Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam
khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh .
Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: Index
giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi xuống dưới
mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các
cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.Tính từ đầu năm đến hết
ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai đoạn chính. Trong năm 2008, lượng
cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần
hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt CP
Nhà nước trong các DN đã cổ phần hóa, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty
chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn
đến tình trạng thị trường CK có nguy cơ thừa “hàng”.
• Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác động từ
tác động của kinh tế vĩ mô .
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và trở
thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa đầu
năm 2008 .
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đ ầu tư trong giai đoạn này chủ yếu xuất
phát từ nội tại nền kinh tế .Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách thắt
40
chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía
ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều hành bắt
đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:
(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) NHTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn, và thị
trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động tới tâm
lý các nhà đầu tư. Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN
phải can thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008
.Tổng cộng trong năm 2008, UBCKNN đã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá
trên cả 2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị tr ường, ngăn đà
suy giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra
nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị
trường, kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ phiếu
quỹ....
• Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 - Phục hồi trong ngắn hạn
VNIndex và Hastc-Index liên tiếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan trọng và
thường xuyên có được những chuỗi tăng điểm kéo dài . Đây cũng là giai đoạn thị
trường hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao dịch và
giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao .VNIndex tăng được 168,55 điểm, tương
đương 45,52% .Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16,9 triệu cổ phiếu và chứng chỉ
quỹ, tương đương 599,18 tỷ đồng/phiên.
• Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do
tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu .
41
Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập
được trong giai đoạn đầu của năm 2008 .Tổng kết cả giai đoạn này, VNIndex mất
223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình đạt 15,82 triệu
cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan tỏa
mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Cùng với nỗ lực giải cứu
nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ NHNN, xen lẫn giữa những phiên giảm
điểm , TTCK Việt Nam vẫn có những phiên phục hồi mạnh .Tuy nhiên, các “cơn
sóng” trên thị trường thường rất ngắn và không ổn định .Kết thúc giai đoạn này,
VNIndex giảm mất 239,52 điểm, tương đương 43,15%.
Nguồn vốn FII vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư .Tuy nhiên, kể từ
cuối tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói chung, TTCK Việt
Nam cũng giảm mạnh .Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm
2008 được thực hiện thông qua việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản nhằm kích cầu
sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách
- Quý 1 năm 2009
dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín dụng cho các ngân hàng thương mại .
TTCK Việt Nam là thị trường tăng trưởng tệ nhất châu Á tính từ đầu năm
2009 đến nay .Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm tới 30%.Thị trường chứng
khoán Việt Nam vẫn tiếp tục đi xuống trong năm 2009 .Giá trị giao dịch cổ phiếu
trung bình trong ngày tháng 2/2009 tại Sàn giao dịch chứng khoán TPHCM và Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội chỉ là 13 triệu USD. Tổng giá trị vốn hoá thị trường
rơi xuống mức khoảng 10 tỷ USD, không một cổ phiếu niêm yết nào có giá trị vốn
hoá thị trường lớn hơn 1 tỷ USD và chỉ có 4 cổ phiếu có giá trị vốn hóa hơn 500
triệu USD .
Nhà đầu tư nước ngoài đã giảm bán, sau khi bán ra số cổ phiếu với tổng giá trị 127
triệu USD trong khoảng thời gian từ tháng 9/2008 đến hết tháng 12/2008 . Nguyên
nhân chính cho điều này là phần lớn tiền đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài,nếu
42
không tính đến những quỹ đóng, đã rút hết khỏi thị trường Việt Nam đã làm cho thị
trường giảm sâu .
Bất ngờ, sáng (11/3) thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam trở nên rất sôi
động, mở đầu cho một loạt các phiên tăng điểm của thị trường chứng khoán .Các
nhà đầu tư đã chứng kiến một tháng 3 tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11/2008
.VN-Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh
trong hai tuần cuối tháng, mức tăng kỷ lục trong nửa năm qua. Kết thúc tháng 3,
VN-Index đã tăng lên 280,67 điểm, tăng 14%. Chỉ số HASTC tăng 17% lên 98,37
Cho đến thời điểm tháng 10/2009, VN index đã chính thức phá ngưỡng 600 điểm
do các nhà đầu tư lạc quan về sự phục hồi của thị trường thế giới và hưởng ứng
nhửng nổ lực của Chính phủ thong qua các gói kích cầu thúc đẩy nền kinh tế thoát
khỏi tình trạng trì trệ .
2.2 Thực trạng áp dụng hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam
2.2.1. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam
Sau chín năm thành lập, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi qua những bước
thăng trầm với những bước đi đa dạng, có bước ngắn, bước dài, bước vững chắc, và
cả những bước đi bị vấp ngã.
Vấn đề thanh khoản trên TTCK Việt Nam vẫn còn là một vấn đề rất đáng lo ngại
Bên cạnh đó, do thiếu nhà tạo lập thị trường nên một đặc trưng riêng có của TTCK
Việt Nam là khi giá cổ phiếu cao thì hầu như không ai bán, còn khi giá thấp lại rất
hiếm người mua. Những yếu tố này khiến thị trường dễ rơi vào trạng thái giao dịch
một chiều và tác động của nó là làm cho cổ phiếu thực hiện những bước nhảy lớn
liên tiếp và cũng luôn hàm chứa rủi ro.
Sau khi đón nhận khá nhiều tin tốt cả từ thế giới lẫn trong nước như nền kinh tế thế
giới đã có dấu hiệu phục hồi sau một số nổ lực của Chính phủ các nước về gói kích
cầu, hạ lãi suất thúc đẩy sản xuất và ngay cả trong nước Chính phủ nới biên độ giao
43
dịch thị trường chứng khoán, thực hiện gói kích cầu thứ nhất dành cho mục đích
kích cầu trong ngắn hạn và chuẩn bị triển khai gói kích cầu thứ hai dùng cho trung
và dài hạn, đã làm cho chỉ số VN index tăng từ mức thấp 230 lên mức gần 700 .
Tuy nhiên, thị trường đã có dấu hiệu của sự phục hồi, nhưng hiện tượng mua bán
theo bầy đàn, thiếu tính thanh khoản của thị trường vẫn còn tồn tại
2.2.2 Thực trạng thực hiện hợp đồng quyển chọn chứng khoán ở Việt
Nam
- Thực tế hiện nay hợp đồng quyền chọn chứng khoán chưa được triển khai một
cách rộng rãi trên thị trường chứng khoán việt Nam và cũng như chưa có một văn
bản hướng dẫn cụ thể chi tiết về cách thức giao dịch hợp đồng quyền chọn chứng
khoán từ ủy ban chứng khoán nhà nước. Đây là một nghiệp vụ hoàn toàn mới đối
với thị trường chứng khoán non trẻ như Việt Nam, và khi có một công cụ mới trên
thị trường, vấn đề được lưu tâm nhất vẫn là mức độ “sẵn sàng” của thị trường .Tuy
nhiên, việc áp dụng một hình thức giao dịch mới điển hình như hợp đồng quyền
chọn chứng khoán vào một thị trường mới thì cũng cần nghiên cứu rất kỹ lưỡng và
cần xây dựng những khuôn khổ pháp lý chuẩn mực cho nghiệp vụ này .Có thể
nghiên cứu để áp dụng từng bước, khi các thành viên đã sẵn sàng thì thị trường mới
vận hành được .
- Hơn nữa, một thách thức lớn cho việc thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng
khoán ở Việt Nam là chưa có thị trường làm cho việc định giá hợp đồng quyền chọn
chứng khoán rất phức tạp và không mang tính thị trường .Vì vậy, các nhà đầu tư
phải gánh chịu mức phí rất cao trong khi họ chưa nhận được những ích lợi từ việc
mua hợp đồng quyền chọn. Chẳng hạn, khi định giá hợp đồng quyền chọn chứng
khoán, chúng ta cần đến độ biến động giá (implied volatility),… để tính được khả
năng biến động giá chứng khoán trong suốt thời gian tồn tại của hợp đồng quyền
chọn .Chính vì vậy, việc định giá hợp đồng quyền chọn phụ thuộc nhiều vào sự định
giá chủ quan của từng người hơn. Do vậy, thị trường Việt Nam nên sớm hình thành
44
thị trường giao dịch các sản phẩm phái sinh và cố gắng hình thành nhiều nhà tạo lập
thị trường cho các sản phẩm phái sinh như option, futures, ….
Mặc dù có một số hạn chế khó khăn xuất hiện khi đưa hợp đồng quyền chọn vào
giao dịch chính thức trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng với mục đích
phòng rừa rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận, các nhà đầu tư đã tiến hành thực hiện một
số các hợp đồng quyền chọn với tư cách là sự thỏa thuận giữa các bên tham gia, chứ
chưa thể giao dịch một cách chính thức như các cổ phiếu niêm yết trên sàn giao
dịch. Chẳng hạn, trong thời gian thị trường chứng khoán giảm giá vừa qua, các nhà
đầu tư là các công ty chứng khoán hay các quỹ đầu tư đều muốn tìm kiếm lợi nhuận
và phòng ngửa rủi ro giá cổ phiếu tiếp tục đi xuống, điều này đã dẫn đến việc các
quỹ đầu tư vốn sở hữu một lượng cổ phiếu lớn và đa dạng không muốn đối mặt với
việc giảm giá hàng ngày của danh mục đầu tư và muốn tìm kiếm cơ hội thu lợi
nhuận đã tiến hành thực hiện bán một số hợp đồng quyền chọn mua các cổ phiếu
blue chips cho các công ty chứng khoán với mục đích bán được cổ phiếu giá cao và
thu lợi nhuận từ việc thu phí hợp đồng quyền chọn. Với ưu thế có một danh mục
đầu tư cổ phiếu lớn và đa dạng các quỹ đầu tư có thể thực hiện nghĩa vụ bán cổ
phiếu khi hợp đồng quyền chọn được thực hiện, trong khi các công ty chứng khoán
với vai trò mội giới có thể dễ dàng tìm kiếm khách hàng tham gia mua hợp đồng
quyền chọn.
Hơn nữa, trong trường hợp thị trường chứng khoán phục hồi từ tháng 3/2009
đến tháng 8/2009, các công ty chứng khoán đã tận dụng thời cơ này để đưa ra một
số hợp đồng quyền chọn mua dựa trên một số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ với một
số lượng lớn, trong khi các nhà đâu tư sợ mất cơ hội mua cổ phiếu trong khi thị
trường tăng giá , nên họ lựa chọn mua các hợp đồng quyền chọn.
Ngoài ra, các hợp đồng quyền chọn chứng khoán còn được xuất hiện dưới dạng
các trái phiếu chuyển đồi hay các chứng quyền do các công ty lớn trên thị trường
phát hành. Trong suốt thời gian các công ty gặp khó khăn trong việc vay mượn với
các ngân hàng do các ngân hàng bị giới hạn về hạn mức tín dụng và phải đảm bảo
mức tăng trưởng tín dụng nằm trong mức cho phép của Ngân hàng nhà nước, vì
45
vậy, việc phát hành trái phiếu sẽ có lợi rất nhiều cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên,
trong suốt thời gian năm 2009 và đầu năm 2010, thị trường trái phiếu tỏ ra không
hấp dẫn với nhà đầu tư do sự thiếu thanh khoản tiền đồng ở các ngân hàng dẫn đến
lãi suất tăng cao làm cho yield ( hay lợi tức trái phiếu) không còn hấp dẫn các nhà
đầu tư). Chính vì vậy, các doanh nghiệp bắt đầu triển khai phát hành một số sản
phẩm phái sinh như các trái phiếu có kèm theo một số điều kiện liên quan đến cổ
phiếu đang được niêm yết giao dịch trên sàn, như trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu
có đính kèm theo chứng quyền (warrants).Tiên phong trong vấn đề này là công ty
cổ phần FPT đã phát hành 1,800 tỷ trái phiếu có kèm theo chứng quyền vào tháng
10/2009 với thời hạn trái phiếu là 3 năm, mệnh giá 1 tỷ đồng/trái phiếu, tương ứng
với 2,084,440 chứng quyền, tương đương 1 trái phiếu được 1,158 chứng quyền vá 1
chứng quyền đổi được 10 cổ phiếu với giá thực hiện 92,020 VND/cổ phiếu. Tiếp
theo trái phiếu có kèm theo chứng quyền của công ty FPT, công ty cổ phần Hoàng
Anh gia lai cũng đã tiến hành phát hành 1,450 tỳ trái phiếu chuyển đổi với thời hạn
1 năm, lãi suất 0%, mệnh giá 1 triệu đồng/trái phiếu với giá chuyển đổi là 98,615/cổ
phiếu. Kế đến là tập đoàn Hòa Phát cũng phát hành trái phiếu chuyển đổi với lãi
suất 0%, thời hạn 1 năm và giá chuyển đổi là 56,000 VND/cổ phiếu (Giá hiện tại
HPG 65,000 VND/cp, trái phiếu chuyển đổi này đang ở trạng thái lãi in the
money)…
Thực tế, xuất phát từ cung cầu trên thị trường, hợp đồng quyền chọn đã manh
nha xuất hiện mặc dù chưa chính thức, nhưng cũng đã phần nào giúp cho tính thanh
khoản của thị trường được cải thiện nhiều hơn và giúp nhà đầu tư làm quen dần với
nghiệp vụ phái sinh như hợp đồng quyền chọn chứng khoán. Tuy nhiên, trong thời
gian vừa qua , việc thực hiện các hợp đồng quyền chọn trên thị trường chứng khoán
việt Nam cũng phát sinh một số những vấn đề cần được khắc phục khi đưa hợp
đồng quyền chọn vào giao dịch chính thức trên sàn thứ nhất như các hợp đồng
quyền chọn mua do công ty chứng khoán bán cho nhà đầu tư đa phần đều dựa trên
tài sản cơ sở là cổ phiếu mà bản thân công ty chứng khoán đó đang nắm giữ và có ý
46
định làm giá cổ phiếu đó, vì vậy nhà đầu tư lúc nào cũng nắm phần bất lợi trong
giao dịch hợp đồng quyền chọn này, bởi vì số lượng cổ phiếu lưu hành của tài sản
cơ sở không nhiều và thiếu thanh khoản nên rất dễ bị làm giá. Thứ hai, giá thực hiện
của hợp đồng quyền chọn có thể nằm ngoài biên độ giao dịch của sàn ngay tại thời
điểm thực hiện hợp đồng quyền chọn. Thí du, hợp đồng quyền chọn mua cổ phiếu
Sacombank (STB) trên sàn hồ chí minh với giá thực hiện 60,000 VND/cổ phiếu,
trong thời gian 4 tháng, với giá hiện tại là 28,000 VND/cổ phiếu. Nếu ngay ngày
thực hiện hợp đồng quyền chọn, giá 60,000 vượt quá biên độ giao dịch trong ngày
của sàn hồ chí minh, thì phần chênh lệch giữa giá giao dịch trong biên độ và giá
thực hiện sẽ được chuyển nhượng bằng tiền mặt bên ngoài sàn. Điều đó dẫn tới
trường hợp nhà đầu tư sẽ phải gặp rủi ro về thanh toán. Ngoài ra, theo hợp đồng
thỏa thuận giữa hai bên, người bán hợp đồng quyền chọn phải đảm bảo vào ngày
hợp đồng được thực hiện, số cổ phiếu nắm giữ phải lớn hơn số cổ phiếu trong hợp
đồng quyền chọn. Nhưng trên thực tế đây chỉ là thỏa thuận giữa hai bên, chưa có
bên thứ ba tham gia vào , nên hàm chứa rủi ro người bán hợp đồng quyền chọn
không có đủ số cổ phiếu để bán cho người mua vào ngày thực hiện hợp đồng. Hơn
nữa, đối với việc giao dịch các trái phiếu có kèm theo điều kiện quyền chọn như trái
phiếu chuyển đổi, hay chứng quyền đã được phát hành trong năm vừa qua cũng gặp
rất nhiều khó khăn về việc định giá, thanh khoản ,… Bởi do, thị trường Việt Nam
chưa hình thành được nhà tạo lập thị trường cho những công cụ phái sinh này, cộng
thêm việc các nhà đầu tư sở hữu trái phiếu này chưa có đủ điều kiện để định giá
quyền chọn này dẫn đến việc các nhà đầu tư chỉ muốn nắm giữ cho đến hạn để
chuyển đổi sang cổ phiếu, chứ không mua bán trên thị trường thứ cấp dẫn đến việc
mất thanh khoản cho các loại trái phiếu chuyển đổi, và làm cho các loại chứng
khoán phái sinh mất đi tính hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư hay các quỹ đầu tư nước
ngoài.
Trên thế giới việc giao dịch các hợp đồng quyền chọn chứng khoán rất phổ biến
với khối lượng giao dịch đáng kể góp phần làm cho thị trường chứng khoán trở nên
sôi động và thanh khoản hơn và khối lượng giao dịch về các loại hợp đồng quyền
47
chọn hay trạng thái mở của hợp đồng quyền chọn cũng góp phần giúp cho các nhà
đầu tư dự đoán được xu hướng biến động của thị trường chứng khoán. Số lượng hợp
đồng quyền chọn chứng khoán giao dịch trên sàn Chicago năm 2008 là :
1,193,355,070 hợp đồng, tăng cao nhất trong những năm 2000-2007. Sau đây là
bảng thống kê số lượng hợp đồng quyền chọn chứng khoán, chỉ số chứng khoán
trên sàn Chicago trong hơn 10 năm qua:
Nguồn : CHICAGO BOARD OPTIONS EXCHANGE
48
Nguồn : Chicago Board options exchange
49
Nguồn : Chicago Board options exchange
Trong năm 2010, việc đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam trở nên
càng khó khăn, do một số những biến động về việc thay đổi chính sách vĩ mô như
lạm phát, tỷ giá, thâm hụt ngân sách và cán cân thương mại làm cho việc dư đoán
xu hướng thị trường chứng khoán trở nên khó khăn và kèm theo đó là thị trường
chứng khoán năm 2010 chứa đựng nhiều biến động ( volatility). Đây là cơ hội cho
việc triển khai các sản phẩm phái sinh như hợp đồng quyền chọn chứng khoán như
phát hành các hợp đồng quyền chọn mua hay hợp đồng quyền chọn bán trong
trường hợp thị trường có nhiều biến động và xu hướng chưa rõ ràng. Do vậy, việc
50
tiến hành triển khai xây dựng mô hình và giải pháp để phát triển thị trường hợp
đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam là vô cùng cấp thiết.
51
Kết luận chương 2
Trên cơ sở phân tích thực trạng về tình hình thị trường chứng khoán tại Việt
Nam và những rủi ro mà nhà đầu tư phải gánh chịu, ta thấy được sự cần thiết và lợi
ích của việc phát triển thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam
.Thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán giúp bảo vệ lợi ích của các nhà đầu
tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận từ việc thu phí do bán hợp
đồng quyền chọn chứng khoán , giúp tăng tính thanh khoản trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Việc thành lập thị trường hợp đồng quyền chọn là cần thiết, tuy nhiên, Việt
Nam là một nước đang phát triển, hệ thống pháp luật chưa thống nhất và đồng bộ,
nhà đầu tư thì chưa thật sự quan tâm đến vấn đề rủi ro xảy ra trong hoạt động đầu
tư, trình độ nhận thức của người dân về pháp luật thì chưa cao, tính sẵn sàng của thị
trường chưa có, dẫn đến khó khăn trong việc định giá hợp đồng quyền chọn. Điều
này có thể dẫn đến những thách thức cho việc phát triển thị trường quyền chọn ở
Việt Nam
52
Chương 3: Giải pháp để thực hiện hợp đồng quyền chọn ở thị trường chứng
khóan Việt Nam
3.1 Định hướng và giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Sự phát triển ổn định và bền vững của thị trường chứng khoán Việt Nam đang là
một trong những vấn đề lớn trong chiến lược phát triển thị trường vốn của Việt
Nam từ nay đến năm 2010 và 2020. Việc làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam
khắc phục được những bất cập hiện nay để làm đúng với chức năng vốn có của nó
là “kênh dẫn vốn cho nền kinh tế” đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của các chuyên
gia kinh tế trong và ngoài nước.
Thị trường chứng khoán là nơi mua và bán các loại công cụ đầu tư như cổ phiếu,
trái phiếu, các quỹ tương hỗ, các quyền lựa chọn, và các trái phiếu địa phương…
Do vậy, tính bền vững của TTCK không những chịu tác động bởi nhiều nhân tố
kinh tế-chính trị-xã hội của mỗi quốc gia, của nhiều quốc gia khác trên toàn cầu; mà
còn được được quyết định bởi tính bền vững của các loại công cụ đầu tư trên thị
trường. Ngoài ra, chúng ta cần phải tổng hợp từ thực tiễn thị trường chứng khoán
Việt Nam, kết hợp với các nước có điều kiện tương đồng như Trung Quốc, Hàn
Quốc,… để tìm ra các phương pháp tối ưu nhất cho lộ trình phát triển của thị trường
chứng khoán Việt Nam. Mặc dù quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá
nhỏ bé, nhưng vẫn còn tiềm năng phát triển. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt
Nam mới thu hút được khoảng 0.1 tỷ USD vốn đầu tư, trong khi một số nước khác
như Iran cũng thu hút được 5,9 tỷ USD vào thị trường chứng khoán hoặc
NewZealan là 18,2 tỷ USD. Ở thị trường Việt Nam, trái phiếu giao dịch thấp, trái
phiếu công ty cũng còn rất thô sơ và không có thị trường cho các sản phẩm phái
sinh. Trong lộ trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010, khi
GDP của Việt Nam đạt được khoảng 65 tỷ USD thì quy mô vốn trong thị trường
chứng khoán phải đạt 19,5 tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP, chúng ta cần phải đưa
ra một số giải pháp sau:
53
3.1.1 Giải pháp vĩ mô
- Vai trò của Chính phủ đối với TTCK được đánh giá cao với 3 vai trò chủ
yếu là người bảo vệ, người tạo điều kiện và người hỗ trợ cho thị trường .Ðặc biệt,
đối với thị trường đang phát triển thì vai trò người bảo vệ cần phải được đề cao, bởi
do thị trường vẫn còn nhỏ hẹp nên chưa thể thực hiện tốt các chức năng . Chính phủ
phải thực hiện vai trò tích cực và công bằng, nếu Chính phủ không đưa ra được các
chính sách hiệu quả, thì họ khó có thể quản lý tốt được thị trường
Cần thiết lập Ban Phát triển thị trường vốn với vị Chủ tịch là một phó thủ tướng và
thành viên là đại diện các bộ ngành liên quan như UBCKNN, Bộ Tài chính, Ngân
hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Ðầu tư... Ngoài ra, Việt Nam cần có công ty định
mức tín nhiệm, giúp UBCKNN và các đối tượng tham gia có thể đánh giá thị trường
một cách toàn diện hơn
- Về mô hình tổ chức của TTCK Việt Nam, do quy mô thị trường của Việt
Nam không lớn, nên chỉ thiết lập một Sở giao dịch chứng khoán với 4 bộ phận là
Trung tâm Giao dịch Hà Nội, Trung tâm Giao dịch TP. Hồ Chí Minh, thị trường trái
phiếu và thị trường các sản phẩm phái sinh .Ngoài Sở giao dịch cần có 2 chi nhánh
là Trung tâm Thanh toán bù trừ và Trung tâm Công nghệ thông tin.
- Việt Nam cũng cần phải thành lập Hiệp hội ngành chứng khoán với các
thành viên thuộc tất cả các lĩnh vực hoạt động trong ngành chứng khoán . Hiệp hội
này sẽ hoạt động như một cơ quan quản lý tất cả các thành viên .Ngoài ra, trong nội
dung đề án phát triển thị trường thì Việt Nam vẫn nên tách biệt rõ hoạt động của
ngân hàng thương mại với hoạt động của các công ty chứng khoán.
3.1.2 Các giải pháp vi mô
Bên cạnh những giải pháp duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, có một số giải pháp cần
thực hiện để ổn định TTCK trong các năm tới.
Thứ nhất là giải pháp về thuế
Khi thị trường thế giới bất ổn thì Việt Nam chính là nơi có điều kiện đầu tư tốt hơn,
sẽ thu hút được nhiều hơn .Do đó, nếu có những chính sách đúng đắn thì thị trường
sẽ tăng hợp lý và điều này phụ thuộc vào các chính sách nuôi dưỡng và khuyến
khích của Nhà nước.
54
Hiện TTCK Việt Nam vẫn chưa đủ độ lớn và độ mạnh như từng được đánh giá cho
nên bất kể sự chuyển dịch nguồn vốn nào cũng sẽ khiến thị trường bị hụt hẫng .Vì
vậy, các chính sách của cơ quan quản lý nhà nước phải theo hướng khuyến khích
nhà đầu tư tham gia .Vì vậy, cần nới lỏng chính sách về nguồn vốn, thuế thu nhập
chứng khoán .Có thể áp dụng thuế trong kinh doanh chứng khoán, nhưng nên áp
mức thuế suất 0% trong một thời gian .Nếu thuế thu nhập cá nhân chỉ luôn bảo vệ
quan điểm điều tiết thu nhập mà quên vai trò đòn bẩy kinh tế thì chưa hiểu đầy đủ
vai trò của thuế.
Giải pháp thứ hai là tăng cung hàng có chất lượng ra thị trường
Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong 5 - 10 năm tới phụ thuộc
vào chủ trương và chiến lược cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước .Hiện thị trường
chứng khoán vẫn nghèo nàn về hàng hóa và đang mất dần sự hấp dẫn một phần là
do các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đại diện cho sức mạnh kinh tế của Việt
Nam hầu như chưa cổ phần hóa và niêm yết nhiều.Thật ra trong điều kiện thị trường
như hiện nay, lạm phát đang ở mức thấp và có thể kiềm soát được, tăng trưởng kinh
tế đang có dấu hiệu hồi phục trở lại thong qua các gói kích cầu và các giải pháp cứu
trợ của Chính phủ, chính sách tín dụng không bị siết chặt,…, đây là thời điểm thích
hợp để tăng nguồn cung hàng hóa ra thị trường chứng khoán bằng việc lựa chọn các
doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn lớn để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Về giải pháp thứ ba
Vấn đề nâng cao quản trị doanh nghiệp, bảo vệ nhà đầu tư kém công khai hóa là
một trong các vấn đề lớn của quản trị công ty hiện nay .Cụ thể, cổ đông không nhận
được một cách kịp thời, chính xác và đầy đủ thông tin cơ bản về công ty, từ tổng số
tài sản đến đánh giá chính xác về thực trạng tài chính hiện nay và thông tin về lưu
chuyển tiền tệ trong quá khứ .Đó là những thông tin chuẩn mực cho phép nhà đầu tư
đánh giá trị giá công ty theo thực trạng .Cổ đông cũng không nhận được thông tin
về dự tính tương lai, bao gồm những dự đoán của Hội đồng quản trị hay cán bộ
quản lý khác về những biến đổi giá có thể xảy ra trên mỗi loại thị trường mà công ty
đang hoạt động (sản phẩm, cung ứng nguyên liệu, thị trường vốn, lao động…) và
ước tính thay đổi cầu đối với sản phẩm của công ty.
55
Thông tin loại này là không thể thiếu để đánh giá giá trị công ty trong dòng vận
động, vì nó cho phép nhà đầu tư dự tính được những thay đổi có thể xảy ra trong
tương lai trong lưu chuyển tiền tệ. Các thông tin trực tiếp liên quan đến lợi ích của
những người quản lý cũng rất ít, thậm chí không được công khai như tiền lương, thù
lao và lợi ích khác. Hiện nay thông tin về đối tượng mà nhà đầu tư đầu tư tiền bạc
và tương lai của mình đến từ 3 nguồn: bản cáo bạch (do công ty soạn ra), các báo
cáo tài chính (cũng do công ty đưa ra) và các tin đồn đại.
3.2 Đề xuất mô hình xây dựng thị trường hợp đồng quyền chọn chứng
khoán tại Việt Nam
SÀN GIAO DỊCH (HCM,HN,…)
Trung tâm bù trừ
Các thành viên
Các nhà môi giới
Các quỹ
Các bàn đặt lệnh tại sàn
Các bàn giao dịch
Người mua bán trên sàn giao dịch
Các nhà đầu tư
3.2.1 Sàn giao dịch hợp đồng quyền chọn ở Việt Nam
- Ở Việt Nam, Sàn giao dịch hợp đồng quyền chọn chứng khoán (HOEx) điều
hành một thị trường giao dịch những hợp đồng quyền chọn trên những cổ phiếu
được giao dịch trực tiếp trên sàn. Bất cứ người nào muốn giao dịch hợp đồng
quyền chọn, đầu tiên phải liên hệ với nhà môi giới được đăng ký giao dịch
chứng khoán trên sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh hoặc sàn Hà Nội.
56
Không có bất kỳ quy định luật pháp nào ngăn cấm nhà đầu tư mua bán hợp đồng
quyền chọn, nhưng những nhà môi giới được yêu cầu là phải đảm bảo các khách
hàng của họ phải thật sự hiểu được hợp đồng quyền chọn được thực hiện như thế
nào và những rủi ro tiềm ẩn của nó trước khi tham gia giao dịch trên thị trường
quyền chọn. Trên thực tế, trước khi mở tài khoản cho khách hàng, nhà môi giới
nên yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin về mục tiêu đầu tư của khách hàng
3.2.2 Trung tâm thanh toán bù trừ (Central Clearing House)
Tất cả các hợp đồng quyền chọn được giao dịch trên sàn giao dịch Hồ Chí
Minh hoặc Hà nội đều được thanh toán thông qua trung tâm thanh toán bù trừ-
Công ty thanh toán bù trừ (The Stock Exchange of Vietnam Options Clearing
House Ltđ. (SEOCH)) được sở hữu toàn bộ bởi một công ty con của Sàn giao
dịch.SEOCH họat động như một đối tác đối với những thành viên của nó đối với
những mỗi hợp đồng quyền chọn được giao dịch trên sàn (HOEx) và thực hiện
quản lý rủi ro của những đối tác bằng cách theo dõi tiền ký quỹ của những thành
viên tham gia mỗi ngày .Và trung tâm cũng đưa ra những giới hạn về số lượng
hợp đồng giao dịch và lọai trạng thái mà các thành viên của SEOCH đang nắm
giữ .Chức năng chính của trung tâm này là quản lý rủi ro và đảm bảo thực hiện
hợp đồng của các thành viên tham gia giao dịch trên sàn chứ không có những
chức năng kinh doanh khác.
Tuy nhiên, vai trò là một đối tác giao dịch của trung tâm thanh toán bù trừ chỉ
áp dụng đối với những thành viên tham gia trên sàn, chứ không áp dụng đối với
những khách hàng hoặc những đối tác khác ngòai những thành viên tham gia
giao dịch trực tiếp trên sàn. Khi một thành viên tham gia giao dịch hợp đồng
quyền chọn trên sàn hay một thành viên tham gia họat động môi giới hợp đồng
quyền chọn trên sàn bị mất khả năng thanh toán hay thanh toán chậm trễ đối với
khách hàng, thì khách hàng chỉ có thể kiện đối với những thành viên này, chứ
không có mối liên hệ gì về mặt hợp đồng quyền chọn SEOCH và những người
không phải là thành viên của sàn giao dịch, cụ thể là khách hàng của các thành
viên tham gia
57
Không phải tất cả những nhà môi giới hay những thành viên giao dịch hợp đồng
quyền chọn trên sàn đều là thành viên của SEOCH .Muốn trở thành thành viên
của SEOCH trước tiên cần thiết phải là thành viên giao dịch hợp đồng quyền
chọn trên sàn và phải đáp ứng thêm một số những yêu cầu về tài chính và họat
động.
3.2.3 Các thành viên tham gia:
- Những thành viên tham gia trên sàn là những người có thể thực hiện những
giao dịch hợp đồng quyền chọn trên sàn được gọi là những thành viên tham gia
giao dịch hợp đồng quyền chọn trên sàn .Những thành viên này có thể thực hiện
giao dịch những hợp đồng quyền chọn cho khách hàng bằng cách tham gia vào
những giao dịch khớp với nhau ( matching trades) với một thành viên khác được
biết như những thành viên tham gia vào họat động môi giới quyền chọn trên sàn
.Trên sàn giao dịch có niêm yết sẵn những thành viên tham gia giao dịch hợp
đồng quyền chọn trên sàn và những thành viên tham gia họat động môi giới hợp
đồng quyền chọn trên sàn. Để có thể giao dịch hợp đồng quyền chọn qua một
trong hai thành viên trên thì nhà đầu tư phải tham gia vào một hợp đồng khách
hàng quyền chọn
- Nhà môi giới hợp đồng quyền chọn: khi một tài khoản giao dịch hợp đồng
quyền chọn được mở, khách hàng sẽ chỉ thị những lệnh mua, bán cho nhà môi
giới tương tự như cách thức chỉ thị lệnh mua bán cổ phiếu. Nhưng có sự khác
biệt lớn khi giao dịch trên thị trường chứng khoán và thị trừơng quyền chọn
chứng khoán cụ thể là: trên thị trường chứng khoán khi một cổ phiếu được
chuyển nhượng cho người mua và việc thanh toán tiền cho người bán hòan thành
thì mối quan hệ về mặt hợp đồng giao dịch hòan toàn chấm dứt. Còn đối với
những hợp đồng quyền chọn, mối quan hệ này vẫn còn tiếp tục duy trì giữa
khách hàng và nhà môi giới đến khi hợp đồng quyền chọn hết hạn và thời gian
này có thể kéo dài trong vài giờ hoặc vài tháng .Điều này làm cho việc mua bán
hợp đồng quyền chọn trở nên phức tạp hơn nhiều so với việc giao dịch cổ phiếu
thông thường
58
- Thành viên tham gia trên sàn giao dịch: những hợp đồng quyền chọn được
giao dịch trên sàn giao dịch nên được giao dịch qua một hệ thống giao dịch điện
tử tự động .Những người có quyền tiếp cận trực tiếp đến hệ thống giao dịch tự
động này chính là những thành viên tham gia trên sàn giao dịch, là những người
đăng ký trên sàn như là những thành viên tham gia trên sàn giao dịch quyền
chọn chứng khoán .Sàn giao dịch hợp đồng quyền chọn ở Việt nam nên sử dụng
một hệ thống quan sát tự động dùng để kiểm soát và quản lý những lệnh đặt và
những giao dịch phát sinh trong ngày để kiểm soát những họat động giao dịch
nhằm giúp cho thị trường duy trì được trật tự và công bằng.
- Những nhà tạo lập thị trường: có thể là các quỹ đầu tư lớn hay các công ty
chứng khoán,…
Để tạo tính thanh khoản cho thị trường, sàn giao dịch quyền chọn cũng tạo ra
một hệ thống những nhà tạo lập thị trường cho thị trường hợp đồng quyền chọn
chứng khoán .Những thành viên tham gia trên sàn giao dịch hợp đồng quyền
chọn được chọn làm những nhà tạo lập thị trường và những nhà tạo lập thị
trường này phải tuân theo những quy định của sàn giao dịch hợp đồng quyền
chọn để cung cấp một mức giá cố định cho một số những lô giao dịch tối thiểu
trong một số hợp đồng quyền chọn và nằm trong một chênh lệch tối đa giữa giá
mua-giá bán bất cứ khi nào được yêu cầu để thực hiện bởi một thành viên tham
gia giao dịch trên sàn khác. Vì vậy, những nhà đầu tư hợp đồng quyền chọn rất
dễ dàng mua bán bất kỳ lọai hợp đồng quyền chọn nào đang giao dịch trên thị
trường ( thị trường có tính thanh khoản cao). Tuy nhiên, có những trường hợp
khi những hợp đồng quyền chọn gần đến thời gian đáo hạn, có giá trị rất thấp
nên nhà đầu tư sẽ rất khó khăn để có được giá mua bán từ những nhà tạo lập thị
trường
59
Vai trò của SEOCH trong việc thực hiện định giá theo thị trường (Marking to
Market) và kêu gọi nộp thêm tiền ký quỹ (Calling Margin) và nắm giữ tài sản
cầm cố
Sau khi đóng cửa ngày giao dịch, SEOCH sẽ định giá lại tất cả những trạng
thái hợp đồng quyền chọn còn đang mở (open positions) (cũng như trạng thái
của những cổ phiếu còn chưa đóng xuất phát từ việc thực hiện hợp đồng của
những thành viên với nhau) với giá thanh toán của mỗi lọai hợp đồng quyền
chọn và tính toán yêu cầu tiền ký quỹ dựa vào giá trị của hợp đồng hiện tại. Quá
trình này được gọi là định giá trị hợp đồng quyền chọn theo giá thị trừơng.
SEOCH sẽ thu tiền ký quỹ được định giá theo giá thị trường mỗi ngày và có thể
sẽ thu tiền ký quỹ thêm vào những lúc cần thiết.
Quá trình thu tiền ký quỹ theo phương pháp định giá theo giá thị trường biểu
hiện cho việc định giá chi phí thanh khoản của SEOCH trên trạng thái hợp đồng
mở tại mức giá thị trường. Ngòai ra, để cung cấp một tấm đệm chống lại những
sự biến động giá theo chiều hướng bất lợi mạnh trên thị trường có thể xuất hiện
trước khi tính toán số tiền ký quỹ kế tiếp, SEOCH cũng sẽ thu thêm một số tiền
cao hơn số tiền đã ký quỹ theo phương pháp định giá theo giá thị trường, được
gọi là số tiền ký quỹ thêm
SEOCH có thể chấp nhận ký quỹ bằng tiền mặt, tín dụng thư (letters of
credit), giấy đảm bảo của ngân hàng , chứng khoán, …., những hình thức ký quỹ
này sẽ được thay đổi theo từng thời điểm và được quyết định bởi chủ tịch của
SEOCH. Nhà đầu tư nên hỏi nhà môi giới về hình thức cầm cố như số tiền ký
quỹ có thể được chấp nhận
60
3.2.4 Việc thực hiện và thanh toán hợp đồng quyền chọn trên sàn giao dịch
quyền chọn ở Việt Nam
Trên thực tế hầu như đa số các hợp đồng quyền chọn đều được đóng trước
ngày đáo hạn trên thị trường hợp đồng quyền chọn hoặc không thực hiện hợp
đồng khi đến hạn .Vì vậy, việc thực hiện một hợp đồng quyền chọn hơn là việc
đóng trạng thái hợp đồng có thể là một vần đề nhạy cảm đối với những người
nắm giữ hợp đồng quyền chọn.
Vì vậy, những người nắm giữ hợp đồng hay những ngườn bán hợp đồng
quyền chọn phải chắc rằng họ quen với quá trình thực hiện này .Một người nắm
giữ hợp đồng phải chỉ thị cho nhà môi giới của họ để thực hiện một hợp đồng
quyền chọn .Đối với công ty môi giới họ có một giờ giới hạn nhất định mỗi ngày
, nếu sau thời gian này Trung tâm thanh toán bù trừ sẽ không chấp nhận chỉ thị
thực hiện hợp đồng và vì vậy các công ty môi giới phải đưa ra thời gian giới hạn
nhận lệnh chỉ thị từ những khách hàng sớm hơn thời gian của Trung tâm thanh
toán áp đặt cho công ty môi giới
Mặc dù SEOCH có một hệ thống để thực hiện những hợp đồng quyền chọn ở
trạng thái deep in-the-money một cách tự động vào ngày đáo hạn, nhưng nhà
môi giới có thể bỏ qua việc thực hiện hợp đồng tự động này .Vì vậy, rất quan
trọng đối với các nhà đầu tư khi thông báo trước cho nhà môi giới của họ nếu
muốn thực hiện hợp đồng
Khi một hợp đồng quyền chọn được thực hiện, SEOCH sẽ lựa chọn một cách
ngẫu nhiên những trạng thái bán hợp đồng còn mở ngược lại với hợp đồng được
đóng để thực hiện .Nếu tài khoản của những khách hàng của thành viên giao
dịch trên sàn được thực hiện, đến lượt tài khoản của những thành viên trên sàn
cũng thực hiện một cách ngẫu nhiên những trạng thái bán còn mở của khách
hàng.
61
Những khách hàng được thực hiện sau đó sẽ được yêu cầu chuyển nhượng cổ
phiếu (trong trường hợp người bán hợp đồng quyền chọn mua) hoặc mua cổ
phiếu hiện tại ( trong trường hợp người bán hợp đồng quyền chọn bán). Những
giao dịch cổ phiếu từ việc thực hiện những hợp đồng quyền chọn được thanh
toán theo hệ thống thanh toán thuần liên tục của trung tâm thanh toán Hồ Chí
Minh (the Continuous Net Settlement System of HoChiMinh Clearing) .Việc
thực hiện này không chỉ làm đơn giản hóa quá trình thanh toán, mà còn làm tăng
cường các biện pháp quản lý rủi ro giữa các thị trường với nhau, bằng cách kết
hợp tất cả các trạng thái thanh toán cổ phiếu từ việc thực hiện hợp đồng quyền
chọn và những giao dịch trên thị trường cổ phiếu vào cùng một danh mục đầu tư
với mục đích quản lý rủi ro. Một trạng thái hợp đồng quyền chọn được thực hiện sẽ yêu cầu các đối tác thực
hiện chuyền giao cổ phiếu hoặc trả cho việc mua cổ phiếu trong thời gian thanh
toán được quy định (hiện tại là 4 ngày kinh doanh) .Lưu ý việc thực hiện những
hợp đồng quyền chọn cổ phiếu mà kết quả là chuyển giao số cổ phiếu thực sự sẽ
hòan toàn trái ngược với những dạng hợp đồng quyền chọn được thực hiện mà
kết quả là thanh toán bằng tiền mặt (cash settlement)
3.2.5 Việc điều chỉnh vốn (Capital Adjustments)
Khi một công ty thay đổi cấu trúc vốn bằng cách phát hành những quyền
mua, thưởng, ,,,, thì giá cổ phiếu đó đang giao dịch trên sàn sẽ bị thay đổi ngay
ngày giao dịch không hưởng quyền và điều này sẽ gây ảnh hưởng đến những
trạng thái của những hợp đồng quyền chọn còn đang mở
Nếu tất cả các yếu tố khác không đổi, thì giá trị danh mục đầu tư của một cổ
đông sẽ không thay đổi vào ngày giao dịch không hưởng quyền .Nhưng đối với
những người nắm giữ hay bán hợp đồng quyền chọn trên những cổ phiếu này thì
giá trị của danh mục sẽ thay đổi nếu không có sự điều chỉnh vốn thích hợp về
mặt hợp đồng của quyền chọn.
62
Nếu không có sự thay đổi của giá thực hiện hay số lượng cổ phiếu trong hợp
đồng quyền chọn, sự điều chỉnh giá cổ phiếu sẽ gây ra ảnh hưởng không công
bằng và tạo cơ hội thực hiện kinh doanh chênh lệch giá đến giá trị của trạng thái
hợp đồng quyền chọn
SEOCH sẽ tính tỷ lệ điều chỉnh thích hợp để duy trì hiện giá của hợp đồng
quyền chọn .Giá thực hiện của tất cả những dạng hợp đồng mà lọai hợp đồng (
call hay put) được nhân với tỷ lệ này và số cổ phiếu trong mỗi hợp đồng sẽ được
chia bởi tỷ lệ này
Những sự điều chỉnh giá này chỉ được thực hiện đối với những sự thay đổi
đáng kể, chứ không dùng cho những sự thay đổi do việc chia cổ tức thông
thường .Những thành viên giao dịch hợp đồng quyền chọn trên sàn và những
thành viên là môi giới giao dịch hợp đồng quyền chọn trên sàn có nghĩa vụ phải
thông báo cho khách hàng biết về những sự thay đổi này.
3.3 Các giải pháp để thực hiện hợp đồng quyền chọn chứng khoán ở Việt
Nam
3.3.1 Giải pháp vĩ mô
3.3.1.1 Xây dựng và kiện toàn khung pháp lý cho hoạt động giao
dịch quyền chọn chứng khoán
UBCK NN nên đưa ra một khung pháp lý và xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụ thể cho
việc áp dụng quyền chọn chứng khoán vào thị trường chứng khoán Việt Nam như:
+ Quy định về mối quan hệ ràng buộc trách nhiệm giữa các thành viên tham gia trên
sàn, các nhà môi giới thành viên với trung tâm thanh toán bù trừ của sàn giao dịch
chứng khoán.
+ Trước mắt, không phải cổ phiếu nào cũng được chọn làm cổ phiếu cơ sở mà sẽ
chọn một danh mục gồm một số cổ phiếu có đủ một số điều kiện để có thể làm tài
sản cơ sở để thực hiện cho nghiệp vụ quyền chọn ( như lượng vốn hóa của thị
trường phải đủ lớn, lĩnh vực công ty hoạt động, cổ phiếu có tính thanh khoản
63
cao,…như FPT, SSI, STB, HPG). Cơ quan quản lý sẽ xây dựng tỷ lệ ký quỹ tối
thiểu trên mỗi hợp đồng quyền chọn.
Thực tế ở các thị trường quốc tế cho thấy, tỷ lệ ký quỹ phù hợp sẽ khuyến khích các
nhà đầu tư tham gia giao dịch quyền chọn, đồng thời hạn chế rủi ro cho người bán
quyền chọn. Theo nghiên cứu thực nghiệm thì tỷ lệ ký quỹ phù hợp cho TTCK Việt
Nam là khoảng 30-40% giá trị hợp đồng.
+ Với điều kiện của thị trường Việt Nam hiện nay thì có thể lựa chọn và cho phép
một số CTCK đủ tiềm lực tài chính được tự doanh quyền chọn chứng khoán, xây
dựng mức tối đa trên vốn điều lệ mà một công ty chứng khoán có thể tự kinh doanh
sản phẩm này .UBCKNN cần quy định về giới hạn giá và số lượng hợp đồng quyền
chọn nhằm tránh hiện tượng thao túng giá, yêu cầu vốn, mức ký quỹ và tài sản thế
chấp để tránh tình trạng lừa đảo, mất khả năng thanh toán.
3.3.1.2 Triển khai hoạt động bán khống chứng khoán
UBCKNN cần sớm cho triển khai nghiệp vụ bán khống (short- sales) để tạo
tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán Việt nam và giúp cho nhà đầu tư quen
dần với cách thức giao dịch bán khống cổ phiếu để sau này có thể áp dụng quyền
chọn bán một cách dễ dàng.
Bán khống trong tài chính có nghĩa là một cách kiếm lãi từ sự kỳ vọng tụt
giảm giá của một loại chứng khoán .Trong giao dịch chứng khoán, bán khống là bán
một loại chứng khoán mà người bán không sở hữu tại thời điểm bán, cụ thể là bán
chứng khoán vay mượn .Bán khống một cổ phiếu là giao dịch hoàn toàn đối lập với
việc mua cổ phiếu. Bán khống một cổ phiếu có nghĩa là người bán đang cho rằng
giá cổ phiếu đó sẽ sụt giảm chứ không giống như khi mua một cổ phiếu và hy vọng
giá của nó tăng lên .Khi nhà đầu tư dự đoán trong tương lai giá cổ phiếu sẽ giảm, họ
sẽ đi vay cổ phiếu của CTCK để bán; sau khi giá hạ, họ sẽ mua lại cổ phiếu đó trên
thị trường để trả lại và hưởng khoản chênh lệch giá. Nhưng nếu giá trên thị trường
64
không giảm như dự đoán của nhà đầu tư mà lại tăng lên, khi đến hạn trả lại cổ
phiếu, nhà đầu tư phải mua lại cổ phiếu với giá cao hơn và chấp nhận lỗ.
Để đảm bảo an toàn, CTCK triển khai nghiệp vụ này thường yêu cầu người
vay chứng khoán phải ký quỹ một khoản tiền nhất định, tuy nhỏ hơn giá trị chứng
khoán đi vay nhưng đủ để bù đắp khoản lỗ nếu có. Trong quá trình chưa trả được
nợ, nếu giá thị trường tăng lên thì người bán khống phải bổ sung thêm tiền ký quỹ.
Ngược lại, nếu giá giảm thì người bán khống (người vay) có thể rút bớt ra để sử
dụng .Bán khống chứng khoán cũng là một hình thức khuyến khích nhà đầu tư tham
gia thị trường, bởi họ vẫn có thể kiếm lãi được khi cổ phiếu giảm giá, trong khi mua
bán theo cách bình thường, họ chỉ kiếm lời khi cổ phiếu tăng giá.
Bán khống là một khái niệm tài chính còn tương đối mới mẻ đối với TTCK
Việt Nam .Tuy nhiên, trên thế giới, nghiệp vụ bán khống đã được một số TTCK
trên thế giới thực hiện từ rất lâu và hiện trở nên phổ biến ở TTCK các nước phát
triển. Nghiệp vụ bán khống cũng được thực hiện rất phổ biến trên lĩnh vực tiền tệ
ngoại hối do tính thanh khoản rất cao
Năm 2009 Việt Nam sẽ có bán khống chứng khoán: Khoản 9, Điều 71 Luật
Chứng khoán quy định nghĩa vụ của CTCK như sau: “Thực hiện việc bán hoặc cho
khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay
chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài Chính” .Như vậy, luật thì không cấm
nhưng phải chờ hướng dẫn của Bộ Tài chính .Theo lộ trình phát triển công ty chứng
khoán của UBCKNN thì đến năm 2009 nghiệp vụ bán khống chứng khoán mới có
quy chế hướng dẫn thực hiện. Theo quy định hiện hành, khách hàng phải ký quỹ đủ
100% tiền thì mới được mua chứng khoán, có nghĩa là không được “mua khống”
.Tuy nhiên, vẫn có nhiều hoạt động lách được quy định này .Chẳng hạn với hoạt
động repo hoặc cầm cố chứng khoán thì khách hàng có thể nhận thêm vốn để tiếp
tục mua cổ phiếu. Cả cầm cố và repo đều là những nghiệp vụ lách luật hợp pháp
nhằm giúp nhà đầu tư được “mua khống”
Hoạt động cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán cũng đã xuất hiện với
tên gọi: “ứng trước tiền bán chứng khoán”.Hiện nay, để thực hiện nghiệp vụ này,
65
các CTCK phải hợp tác với ngân hàng, đứng ra làm trung gian nhằm giúp khách
hàng có thể nhận được tiền bán chứng khoán trước ngày T+3 .
Chỉ cần có thông báo kết quả lệnh bán đã được khớp là khách hàng hoàn toàn có thể
làm hợp đồng xin ứng trước tiền chứng khoán đã bán với mức phí quy định .Một số
công ty thực hiện ứng trước tiền cho khách hàng ngay sau khi có kết quả khớp lệnh
và khách hàng có thể dùng để mua chứng khoán ngay trong phiên giao dịch.
Rõ ràng không phủ nhận là hoạt động bán khống chứng khoán có những rủi
ro nhất định cho nhà đầu tư, công ty chứng khoán, hoặc có thể gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực đến thị trường - như trường hợp vay mượn quá nhiều để bán chứng
khoán làm cho thị trường chứng khoán giảm mạnh. Chẳng hạn, trong thời gian vừa
qua, ở thị trường chứng khoán Mỹ giá cổ phiếu giảm rất mạnh do ảnh hưởng của
việc các ngân hàng và các công ty tín dụng liên tục công bố phá sản dẫn đến tâm lý
hoang mang lo lắng của nhà đầu tư và dẫn đến hiện tượng bán tháo cổ phiếu trên
Phố Wall, làm giá chứng khoán Mỹ giảm mạnh nhất trong những năm qua. Để đối
phó với việc sụt giảm mạnh của thị trường chứng khoán, Ủy Ban chứng khoán Mỹ
đã liên tục ra quyết định tạm ngưng việc bán khống cổ phiếu của các ngành tài
chính, ngân hàng để giảm bớt sự sụt giá không có điểm dừng của cổ phiếu ngành tài
chính.Tuy nhiên, trong thời gian tới theo lộ trình mở về dịch vụ tài chính thì việc
thực hiện nghiệp vụ bán khống trong lĩnh vực chứng khoán là xu thế tất yếu để đảm
bảo lợi ích của các nhà đầu tư, cũng như các tổ chức môi giới chứng khoán chuyên
nghiệp.
Luật Chứng khoán nước ta cho phép thực hiện nghiệp vụ này nhưng gắn chặt
trách nhiệm của công ty chứng khoán với nhà đầu tư bằng việc quy định các công ty
này phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc trích lập quỹ bảo vệ cho nhà
đầu tư để bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư do sự cố công ty gây ra.
Bản thân việc quy định số tiền ký quỹ vào tài khoản margin cũng góp phần đảm bảo
an toàn cho đối tượng tham gia. Chẳng hạn ban đầu công ty cho nhà đầu tư vay 50%
số tiền cần để mua chứng khoán .Nếu khi mua chứng khoán xong mà sau đó giá
chứng khoán giảm, tức là nhà đầu tư bị lỗ, thì tài khoản margin sẽ bị trừ dần.
Nếu số dư tài khoản này giảm xuống dưới một mức giới hạn (mức ký quỹ) thì nhà
66
đầu tư phải nộp tiền thêm vào tài khoản theo yêu cầu của công ty chứng khoán. Nếu
nhà đầu tư không nộp thêm tiền, công ty chứng khoán sẽ bán chứng khoán đi và
đóng tài khoản lại để tự bảo vệ mình và nhà đầu tư.
3.3.1.3 Phát triển thị trường vốn vững mạnh
Việc áp dụng quyền chọn chứng khoán hay bất cứ một nghiệp vụ phái sinh
nào mới vào thị trường thì cần phải có một thị trường vốn vững mạnh .Vì vậy, trước
mắt cần phải cũng cố, xây dựng một thị trường vốn phát triển vững chắc .Thị trường
vốn ở nước ta đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển .Thể chế và cấu trúc thị trường
đang từng bước được hoàn thiện .Tuy đã đạt được những kết quả khả quan, nhưng
thị trường này còn tồn tại nhiều mặt hạn chế .Vì vậy, thúc đẩy thị trường này ngày
càng phát triển là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Mục tiêu phát triển
thị trường đã được Nhà nước đưa ra là phát triển nhanh, đồng bộ và vững chắc
.Từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường
tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải
cách nền kinh tế .Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương
đương thị trường các nước trong khu vực. Vì vậy, cần có những giải pháp để phát
triển thị trường vốn trong thời gian tới, bao gồm các giải pháp sau:
+ Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa để đáp ứng nhu
cầu thị trường: đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, tổng công ty,
ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc cổ phần hóa với niêm yết trên thị trường
chứng khoán; mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị
trường. Đối với những doanh nghiệp đã cổ phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện
việc niêm yết, đồng thời tiến hành rà soát, thực hiện ngay việc bán tiếp phần vốn
nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Chuyển
đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hình thức công ty cổ phần và
niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán. Mở rộng quy mô và đa dạng hóa
các phương thức phát hành trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, doanh
nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh
nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc
67
gia; phát triển các loại chứng khoán phái sinh như quyền chọn mua, quyền chọn bán
chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn,…
+ Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc,
được quản lý, giám sát bởi Nhà nước và có khả năng liên kết với thị trường khu vực
quốc tế : tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị
trường trái phiếu chuyên biệt. Từ sau năm 2010 nghiên cứu hình thành và phát triển
thị trường giao dịch tương lai cho các công cụ phái sinh, thị trường chứng khoán
các khoản cho vay trung dài hạn của ngân hàng…
+ Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường: tăng số lượng,
nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính cho các công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán,… Đa dạng hóa các loại hình dịch
vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ;
đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường; mở rộng phạm vi
hoạt động Trung tâm lưu ký chứng khoán, áp dụng các chuẩn mực lưu ký quốc tế,
thực hiện liên kết giao dịch thanh toán giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ
.Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cho phép thành
lập các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam và cho phép một số tổ chức định
mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở
Việt Nam
+ Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước: khuyến khích các
định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm,…) tham gia
đầu tư trên thị trường. Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tư chuyên
nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam theo lộ trình đã cam kết. Đa dạng hóa
các loại quỹ đầu tư, tạo điều kiện cho phép Bảo hiểm xã hội Việt nam, tiết kiệm bưu
điện… tham gia đầu tư trên thị trường vốn; từng bước phát triển các quỹ hưu trí tư
nhân để thu hút các vốn dân cư tham gia đầu tư; khuyến khích việc thành lập các
quỹ đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam
68
+ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước; hoàn thiện
hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ đáp ứng được yêu cầu quản lý,
giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu vực và quốc tế. Bổ sung các chế tài
nghiêm khắc về dân sự, hình sự để phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trong
hoạt động trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán; nghiên cứu hoàn chỉnh các
chính sách thuế, phí, lệ phí đối với hoạt động chứng khoán để khuyến khích thị
trường phát triển, đồng thời góp phần giám sát hoạt động của thị trường chứng
khoán và từng đối tượng, thành viên tham gia thị trường. Thực hiện mở cửa thị
trường vốn theo lộ trình hội nhập đã cam kết, mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế
trên các mặt tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển thị trường, đẩy mạnh công
tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thị trường vốn. Tăng cường phổ cập kiến
thức về thị trường vốn, thị trường chứng khoán cho công chúng doanh nghiệp và
các tổ chức kinh tế.
- Phát triển thị trường giao sau hàng hóa để làm tiền đề cho thị trường
phái sinh chứng khoán:
Thị trường hàng hóa Việt Nam ra đời từ rất lâu,nhưng công cụ phái sinh là
khái niệm mới mẻ với nhiều thành viên trên thị trường. Trong khi đó, khi thị trường
chứng khoán mới được 9 năm tuổi đời với sự bất ổn trong tâm lý của nhà đầu tư,
quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam trong so sánh với thị trường chứng
khoán thế giới vẫn là một sự “khập khiểng” rõ nét .Vì vậy, áp dụng các nghiệp vụ
phái sinh mới này cần thiết phải được áp dụng cho thị trường hàng hóa trước rồi sau
đó mới đến thị trường chứng khoán. Chẳng hạn nên xem xét việc áp dụng các
nghiệp vụ phái sinh này cho các loại hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như
gạo, cà phê, cao su và loại hàng hóa nhập khẩu khá lớn và có nhiều biến động trong
thời gian qua là vàng.
69
- Tăng cường tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán
Để có thể phát triển được thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam,
trước hết UBCKNN cần nên xem xét để giảm số ngày thanh toán chứng khoán lại ,
hiện tại là T+3 , để tạo tính thanh khoản cho thị trường; thứ hai, cần phải nới rộng
biên độ giao dịch trong ngày , chẳng hạn như 20-30% lần đầu, sau đó sẽ tiến tới
việc nới rộng biên độ hoàn toàn. Bời vì, không có giới hạn biên độ giao dịch hay
biên độ được mở rộng sẽ làm cho thị trường có nhiều rủi ro hơn do có độ biến động
lớn. Và đây cũng chính là cơ hội cho các hợp đồng quyền chứng khoán phát huy ưu
điểm của mình và nhà đầu tư có thể áp dụng được những chiến lược quyền chọn để
thu lợi nhuận từ hợp đồng quyền chọn.
3.3.2 Giải pháp của các công ty chứng khoán
Đối với các tổ chức trung gian, môi giới như các công ty chứng khoán thì
việc giao dịch hợp đồng quyền chọn hay các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường
chứng khoán sẽ đem lại một nguồn thu phí rất lớn. Vì vậy, tiềm năng của Việt Nam
hiện nay khi phát triển thị trường này, thì các tổ chức trung gian môi giới như các
công ty chứng khoán nên quan tâm và đầu tư những vấn đề sau:
3.3.2.1 T ổ chức các cuộc hội thảo và cung cấp dịch vụ định giá cho
khách hàng
Để tiếp thị khách hàng, các tổ chức này cần phải thường xuyên tổ chức các
buổi giới thiệu sản phẩm mới đến khách hàng .Ngoài ra, cần phải chăm sóc khách
hàng bằng việc kết hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức các buổi hội thảo, giảng
dạy về nhận định thị trường, phân tích về ngành và công ty.Việc tổ chức các hội
thảo là việc làm hết sức cần thiết, bởi do đặc tính của những sản phẩm phái sinh
dùng để bảo vệ rủi ro về giá như futures, options, swaps…. là rất phức tạp và khó
hiểu. Vì vậy, để có thể triển khai thành công, thu hút các nhà đầu tư tham gia thì
trước hết cần phải giúp cho họ hiểu rõ những thế mạnh hay rủi ro của những sản
phẩm phái sinh này, lúc đó nhà đầu tư mới có thể thấy được lợi ích trong việc bảo
vệ rủi ro trong hoạt động đầu tư của mình mà tham gia vào thị trường quyền chọn
chứng khoán. Trên cơ sở danh sách các doanh nghiệp lớn, các trung gian tài chính ,
môi giới cho hoạt động của thị trường quyền chọn chứng khoán cần phải chủ động
70
trao đổi và làm việc, tìm hiểu nắm bắt thông tin khách hàng, từ đó giới thiệu cho họ
những hình thức giao dịch phù hợp. Ngoài ra, công ty chứng khoán là người nắm rõ
trạng thái hợp đồng quyền chọn của các nhà đầu tư, vì vậy, nên thực hiện dịch vụ
cung cấp giá thị trường cho những loại chứng khoán ít được giao dịch, hoặc thực
hiện chức năng là nhà tạo lập thị trường để tạo tính thanh khoản cho các loại hợp
đồng quyền chọn chứng khoán chẵng hạn cung cấp giá thị trường cho các loại trái
phiếu có kèm chứng quyền hay các trái phiếu chuyển đổi sang cổ phiếu,….
3.3.2.2 Tổ chức các khóa đào tạo giúp nhân viên am hiểu nghiệp
vụ hợp đồng quyền chọn chứng khoán
Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về nghiệp vụ quyền chọn chứng
khoán để nghiên cứu biến động thị trường và tiếp thị sản phẩm đến khách hàng. Tổ
chức một mô hình của phòng giao dịch phái sinh chứng khoán theo đúng chuẩn
gồm có hai bộ phận: brokers phụ trách hoạt động môi giới giữa khách hàng với
trung tâm giao dịch chứng khoán; traders chuyên phụ trách nghiên cứu và phân tích
tình hình biến động của giá cả chứng khoán, phụ trách định giá các hợp đồng quyền
chọn nhằm mục đích đầu cơ tự doanh cho công ty và cung cấp thông tin cho bộ
phận môi giới để hỗ trợ cho khách hàng.Để có thể hình thành một bộ phận những
nhà đầu tư chuyên nghiệp như vậy thì công tác đào tạo nhân viên nghiệp vụ là
không thể sơ sài. Phải thường xuyên tổ chức những khóa đào tạo đội ngũ cán bộ này
đặc biệt là về nghiệp vụ định giá hợp đồng quyền chọn bằng cách cho họ đi học tập
các đối tác ở nước ngoài, khảo sát thực tế trên thị trường thế giới, phối hợp với các
đối tác nước ngoài để tổ chức các buổi chuyên đề, các buổi đào tạo nghiệp vụ… để
họ có thể làm tốt vai trò của mình.
3.3.2.3 Ứng dụng công nghệ tin học hiện đại trong các giao dịch
mua bán
Trang bị các phương tiện giao dịch hiện đại, có thể xử lý thông tin một cách
nhanh nhất, tránh làm trì trệ các giao dịch có thể ảnh hưởng đến kết quả của khách
hàng .Có thể thuê những kênh thông tin nổi tiếng về cung cấp tin tức có tốc độ
71
nhanh nhất như Reuters, Bloomberg, hoặc trang bị những phần mềm giao dịch có
tốc độ xử lý nhanh những lệnh đặt của khách hàng với Trung tâm giao dịch
3.3.2.4 Đưa ra thị trường các sản phẩm phái sinh mới
Các công ty chứng khoán chủ động tìm kiếm những sản phẩm giao dịch mới
để góp phần làm cho nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn để đầu tư và để có thêm thu
nhập cho chính công ty .Chẳng hạn, trong thời gian gần đây, thị trường chứng
khoán Việt nam đã đang có dấu hiệu hồi phục trở lại sau một đợt giảm giá rất mạnh
trong năm vừa qua.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có người nào có thể khẳng định những việc tồi
tệ nhất đã chấm dứt ngay cả đối với thị trường chứng khoán toàn cầu nói chung và
thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng .Chính ngay lúc này sẽ xuất hiện rất
nhiều cơ hội để nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận .Bên cạnh đó, các công ty chứng
khoán sẽ đóng vai trò là người đưa ra những cộng cụ để cho các nhà đầu tư kiếm
tiền .Khi thị trường phái sinh chứng khoán chưa chính thức có mặt trên thị trường
Việt nam, nhưng chúng ta có thể đưa ra những sản phẩm tương tự hay những hình
thức biến thể của các hợp đồng phái sinh để giúp thị trường làm quen dần với những
đặc tính của thị trường phái sinh chứng khoán như: các hợp đồng kỳ hạn chứng
khoán, các dạng hợp đồng quyền chọn có chứng khoán đảm bảo ( covered call
option),.... Đối với hợp đồng kỳ hạn: nhà đầu tư có thể tự thỏa thuận với nhau để
mua lại cổ phiếu của một người khác với một mức giá được xác định trước ngay
ngày thực hiện hợp đồng, nhưng ngày giao dịch chuyển giao cổ phiếu sẽ được xác
định cụ thể vào một ngày trong tương lai .Thí dụ, một nhà đầu tư A phân tích thấy
giá cổ phiếu FPT có khả năng sẽ tăng mạnh trong hai tuần tới , nhưng do vì một vài
lý do như cổ phiếu FPT đang ít người bán ra hay do họ chưa có tiền vào thời điểm
này , nên nhà đầu tư sẽ tìm người đồng ý bán cổ phiếu FPT vào thời điểm hai tuần
tới với mức giá được thỏa thuận trước thông qua các công ty chứng khoán, và đến
ngày đáo hạn của hợp đồng hai bên sẽ tiến hành đặt lệnh thỏa thuận trên sàn giao
dịch .
72
Đối với hợp đồng quyền chọn mua có cổ phiếu đảm bảo (covered call
option): Công ty chứng khoán sẽ đóng vai trò là người trung gian tìm kiếm những
nhà đầu tư nào đã sở hữu một danh mục các cổ phiếu trên thị trường đang muốn bảo
vệ danh mục đầu tư khỏi sự sụt giảm của giá và những nhà đầu tư muốn tìm kiếm
thu nhập từ sự tăng giá của cổ phiếu .Họ sẽ tiến hành thực hiện hợp đồng quyền
chọn mua có chứng khoán đảm bảo .Thí dụ: Một nhà đầu tư A ( thường là các quỹ
đầu tư hay các công ty chứng khoán) đang sở hữu một danh mục gồm nhiều cổ
phiếu blue-chip, họ nhận định sự tăng giá hiện nay của thị trường chỉ là sự điều
chỉnh tạm thời trong khoản thời gian 3 tháng nên họ nhân cơ hội tăng giá này để
bán cổ phiếu của mình sở hữu ra thị trường .
Trong khi đó, có một nhà đầu tư B dự đoán thị trường chứng khoán đã có dấu hiệu
tăng trong 3 tháng, nên họ quyết định mua hợp đồng quyền chọn mua chứng khoán
để kiếm lời từ sự tăng giá trong 3 tháng tới .Công ty môi giới sẽ giúp cho hai nhà
đầu tư này gặp nhau và họ sẽ ký hợp đồng mua bán với nhau trong thời gian 3 tháng
với một mức phí nhất định (phí hợp đồng quyền chọn) .Nếu trong thời gian 3 tháng
tới, cổ phiếu tăng giá như kỳ vọng của người mua hợp đồng quyền chọn, người mua
sẽ thực hiện hợp đồng này và hưởng chênh lệch từ sự tăng giá của cổ phiếu, trong
khi người bán vừa thu được phí do bán hợp đồng quyền chọn mua vừa bán được cổ
phiếu với giá cao. Còn công ty chứng khoán thì thu được phí môi giới .Ba bên đều
có lợi từ việc thực hiện hợp đồng phái sinh. Tuy nhiên, tất cả những hợp đồng này
đều là thỏa thuận cá nhân giữa hai bên, chưa có sự can thiệp của UBCK do thị
trường phái sinh chưa chính thức hình thành ở Việt Nam và cũng chưa có cơ sở
pháp lý để quy định cho việc giao dịch các sản phẩm phái sinh .Vì vậy, các nhà đầu
tư phải hết sức cẩn thận trong việc lựa chọn đối tác mua bán, phải là những tổ chức
hay những cá nhân có mức độ tín nhiệm cao.
Các công ty chứng khoán có thể đưa ra sản phẩm mới như giao dịch các hợp
đồng quyền chọn trên các chứng chỉ ETF, chỉ số chứng khoán….
73
3.3.3 Giải pháp cho các nhà đầu tư tham gia thị trường
Để cải thiện và phát triển thị trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán thì
trước hết phải cải thiện tính thanh khoản về hàng hóa của thị trường cũng chính
là cải thiện sự cung cầu hàng hóa. Giải pháp cho các công ty chứng khoán ở trên
thể hiện cho giải pháp phát triển cung hàng hóa cho thị trường hợp đồng quyền
chọn chứng khoán và giải pháp cho các nhà đầu tư tham gia thị trường thể hiện
cho nhu cầu về hàng hóa của thị trường. Thị trường phái sinh nói chung hay thị
trường hợp đồng quyền chọn chứng khoán nói riêng rất phức tạp và hàm chứa
nhiều rủi ro tiềm ẩn. Vì vậy, nó đòi hỏi những người tham gia phải thật sự am
hiểu và nhận thức được rủi ro của thị trường hợp đồng quyền chọn. Những
người tham gia phải tự trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để không bị
đào thải bởi sự chuyên môn hóa của thị trường.
Dựa vào sự đa dạng của các hợp đồng quyền chọn, nhà đầu tư có thể lựa
chọn đầu tư các hợp đồng quyền chọn cho phù hợp với mục đích đầu tư của
mình. Chẳng hạn, khi mới tham gia vào thị trường, các nhà đầu tư chỉ nên đầu tư
các hợp đồng quyền chọn plain-vanila (như covered call, covered put, protective
put…) với đặc tính đơn giản và hiệu quả và nên chọn dạng hợp đồng kiểu Mỹ sẽ
giúp nhà đầu tư linh hoạt hơn trong việc thực hiện hợp đồng bất kể thời gian nào
trong suốt thời gian tồn tại của hợp đồng quyền chọn. Những dạng hợp đồng
quyền chọn này với mục đích giúp nhà đầu tư bảo hiểm được trạng thái của danh
mục đầu tư. Ngoài ra, đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp và có kinh nghiệm
trên thị trường , họ có thể áp dụng các hợp đồng quyền chọn kết hợp với mục
đích đầu cơ trên độ biến động giá chứng khoán ( volatility) như các hợp đồng
straddle, strangle hay condor options…
74
KẾT LUẬN
Hình thành và phát triển thị trường quyền chọn có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc phát triển thị trường chứng khoán và phát triển nền kinh tế, đưa đất
nước đi lên ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Vì vậy, để phát triển thị trường này một cách hiệu quả theo như định hướng
phát triển của Nhà nước, ngay từ lúc này, chúng ta cần nghiên cứu, học tập về sự
phát triển thị trường quyền chọn của các nước. Và trên cơ sở thực tế tại Việt Nam
nhằm đưa ra các giải pháp thiết thực cụ thể cho các đối tượng có vai trò quan trọng
giúp thị trường phát triển là Nhà nước - các cơ quan chức năng; Doanh nghiệp; Các
tổ chức trung gian - môi giới và cuối cùng là các nhà đầu tư cá nhân. Trong đó, Nhà
nước có vai trò quan trọng nhất trong việc xây dựng những quy định pháp luật về
thị trường quyền chọn để sớm hình thành một thị trường phái sinh chứng khoán tại
Việt Nam, tuyên truyền, vận động, thúc đẩy, tạo điều kiện cho các thành phần khác
tham gia thị trường một cách dễ dàng và có thể kiểm soát. Các giải pháp của đề tài
chỉ mang tính lý luận và định hướng, vì vậy, cần kết hợp với những giải pháp mang
tính kỹ thuật để hướng tới xây dựng một thị trường quyền chọn chứng khoán hiệu
quả, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển .
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Options Essetial Concepts and trading Strategies - Second Edition
- Understanding Stock Option and their risks- HKE Derivative Markets
- CBOE 2008 Market statistics
- Thời báo kinh tế Sài Gòn
- www.vnse.org
- www.ssc.gov.vn