LUẬN VĂN:
Giải quyết tốt vấn đề thu nhập
trong địa bàn nông thôn tỉnh Sóc Trăng
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Sóc Trăng là một tỉnh nông nghiệp, nông thôn nằm ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, có số dân 1.234.000 người, là một tỉnh giàu tiềm năng để phát triển. Mặc dù vậy,
khu vực nông thôn của tỉnh hiện vẫn còn nhiều khó khăn: số họ nghèo còn chiếm tỷ lệ cao
(28,2%), tình trạng phân hoá giàu nghèo do chênh lệch thu nhập vẫn diễn ra hết sức phức
tạp. Gắn liền với các chính sách của Đảng và Nhà nước, từ năm 1990 đến nay, tỉnh uỷ và
uỷ ban nhân dân tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện chương trình “xoá đói giảm nghèo”,
lồng thép với các chương trình giải quyết việc làm và các chương trình nhân đạo khác
trong khu vực nông thôn, nhưng kết quả còn rất nhiều hạn chế... những hạn chế này đang
là vấn đề hết sức bức xúc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu tìm ra cơ sở lý thuyết của tình trạng phân hoá giàu
nghèo, đánh giá thực trạng và nguyên nhân của tình trạng giàu nghèo và sự phân hoá thu
nhập của các hộ gia đình ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng, từ đó đề cập đến những phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt vấn đề thu nhập ở địa bàn nông thôn tỉnh
Sóc Trăng hiện nay, đồng thời nêu lên những kiến nghị để giải quyết tốt vấn đề này.
Để đạt được mục đích nêu trên, tiểu luận có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý thuyết của việc giải quyết tốt vấn đề thu nhập ở địa bàn nông thôn
của tỉnh Sóc Trăng.
- Đánh giá thực trạng và nguyên nhân của tình trạng phân hoá giàu nghèo của các
hộ gia đình ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng.
- Đề xuất những phương hướng, những giải pháp và những kiến nghị chủ yếu nhằm
giải quyết tốt vấn đề thu nhập trong địa bàn nông thôn tỉnh Sóc Trăng.
3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
“Thu nhập” là một vấn đề có ngoại diên rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề phức tạp,
do điều kiện thực tế có nhiều hạn chế tiểu luận này chỉ tập trung nghiên cứu về thực trạng
và nguyên nhân của tình trạng thu nhập thấp, phân hoá thu nhập trong các hộ gia đình ở
địa bàn nông thôn tỉnh Sóc Trăng nói chung cùng với quá trình giải quyết vấn đề thu nhập
trong địa bàn nông thôn của tỉnh. Tiểu luận chưa thể đi sâu cụ thể đối với từng ngành, từng
lĩnh vực.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lấy lý thuyết về phân tầng xã hội làm cơ sở lý luận và phương pháp luận,
tiểu luận phân tích vấn đề: “Giải quyết tốt vấn đề thu nhập trong địa bàn nông thôn tỉnh
Sóc Trăng” chủ yếu dưới góc độ chính trị - xã hội, gắn với thực tiễn, kết hợp với khảo sát,
phân tích, tổng hợp các vấn đề mà đề tài xác định.
Tiểu luận thuộc chuyên ngành xã hội học nên sử dụng các phương pháp của chuyên
ngành là chủ yếu để tiếp cận với vấn đề đặt ra trong đề tài.
PHẦN I
I. Chính sách xã hội tác động vào quá trình phân tầng xã hội và phân hoá giàu
nghèo
Chính sách xã hội tác động vào quá trình phân tầng xã hội và phân hoá giàu -
nghèo. Do tác động của quy luật giá trị và quan hệ hàng hoá - tiền tệ ở nước ta, hiện tượng
phân tầng xã hội và phân hoá giàu - nghèo đã xuất hiện, nên thực tế ở các thành phố mức
chênh lệch về thu nhập đã từ vài lần đến vài chục lần. Ở nông thôn tuy ít hơn, nhưng
khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo hàng năm ngày một tăng, trung
bình cũng từ 5 lần đến 10 lần. Tình hình này kéo theo hàng loạt những vấn đề xã hội như
sự khác biệt về mức sống, lối sống, cách sinh hoạt, tâm lý và nhất là mối quan hệ của mỗi
nhóm người do cuộc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế đang diễn ra. Tệ nạn tiêu cực còn
rất trầm trọng. Một bộ phận người giàu có lên không hoàn toàn dựa vào tài năng, hay do
cơ may sản xuất - kinh doanh mà là nhờ những khoản thu nhập phi pháp mang lại.
Hiện nay, chính sách xã hội cần hướng tới việc khuyến khích làm giàu chính đáng,
kiên quyết trừng trị việc làm giàu phi pháp. Cần có chính sách động viên toàn xã hội tham
gia phong trào xoá đói, giảm nghèo, giúp đỡ những người đang có khó khăn về vốn, vật tư,
kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất... để họ tự vươn lên. Đồng thời, thực hiện chính sách
thuế thu nhập, điều chỉnh hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, bảo đảm vừa phát triển
sản xuất, vừa cân đối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội. Ngoài ra, cần thực hiện chính sách
phúc lợi xã hội thích hợp nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động và những người nghèo,
giúp đỡ họ giải quyết tốt các nhu cầu tối thiểu về giáo dục, bảo vệ sức khoẻ, đi lại, giải trí,
nghỉ ngơi và hưởng thụ những thành quả văn hoá đã được sáng tạo ra.
II. Thực trạng thu nhập và phân hoá giàu nghèo ở nông thôn Sóc Trăng trong
thời gian qua
1. Về những chủ trương, giải pháp của tỉnh Sóc Trăng nhằm giải quyết tốt vấn
đề thu nhập
Vấn đề thu nhập không đơn thuần chỉ là vấn đề chính trị, kinh tế, mà còn là vấn đề
xã hội liên quan trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của mọi quốc gia. Con người nghèo
đói dễ phát sinh bệnh tật, nòi giống không phát triển tốt, lao động không có năng suất cao,
đất nước không phát triển, nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh... Ngược lại, người có thu nhập cao
(giàu có) nếu không có chính sách, giải pháp để họ nâng cao thêm thu nhập thì đất nước
cũng không phát triển được... Do đó sẽ không có điều kiện phục vụ con người tốt hơn. Đây
là vòng luẩn quẩn của mối quan hệ chằng chịt giữa kinh tế - chính trị, văn hoá, xã hội
trong việc giải quyết tốt vấn đề thu nhập.
Xuất phát từ quan điểm: con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển và từ
thực trạng thu nhập của tỉnh, kể từ năm 1995 Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đưa ra
nhiều chính sách và giải pháp nhằm giải quyết tốt vấn đề thu nhập nhằm khắc phục tình
trạng phân hoá giàu nghèo như sau:
Thứ nhất, quyết định số 1094/13/05/95 của Uỷ ban nhân dân tỉnh xác định, toàn
tỉnh Sóc Trăng có 43 xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn và tỉnh uỷ phân công 71 đơn vị doanh
nghiệp giúp đỡ 20 xã khó khăn nhất. Với chủ trương này của tỉnh uỷ, số lượng xã nghèo
của tỉnh Sóc Trăng đã giảm đi nhiều (chỉ sau 3 năm, đến năm 1998 số xã nghèo giảm
xuống còn 43 xã), thu nhập của người dân ở những xã này được nâng lên đáng kể, làm cho
thu nhập bình quân đầu người của toàn tỉnh được nâng lên (năm 1995 thu nhập bình quân
đầu người của tỉnh là 216 USD/ người /năm thì đến năm 1997 là 298USD/ người /năm,
năm 2005 là 412 USD/người/năm). Quả thật, người dân có thu nhập thấp đã tận dụng được
sự trợ giúp về vốn và kỹ thuật của 71 đơn vị doanh nghiệp, tiến hành tổ chức sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, nâng cao được thu nhập.
Thứ hai, chính quyền tỉnh đã thi hành chính sách bù lãi suất, cho vay vốn họ nghèo,
miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ nghèo, trợ giá cho 7 mặt hàng thiết yếu cho
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc Khơmer. Với quyết định số 53 của Chính phủ,
tỉnh đã giành trọn khoản 2 cảng cá lớn ở Long Phú và Vĩnh Châu để đầu tư cho các xã có
đông đồng bào Khơmer và xã nghèo.
Cơ chế này đã thực sự tạo nên động lực hết sức to lớn cho vùng nông thôn tỉnh nhà
phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo: Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân
tỉnh Sóc Trăng đã quán triệt sâu rộng chính sách 135 của Đảng trong cả hệ thống chính trị
từ tỉnh đến cơ sở và các tầng lớp nhân dân. Tỉnh đã giành phần kinh phí rất lớn cho xây
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (năm 2004, tổng kinh phí đầu tư là 26 tỷ đồng). Đặc biệt là
đầu tư cho xây dựng đường giao thông từ huyện xuống xã và đường giao thông liên xã.
Đây sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá của bà con nông dân từ
xã lên huyện, giảm được chi phí sản xuất do đó nâng cao được mức thu nhập cho người
dân.
Thứ tư, là chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cho cả người nghèo và người
giàu. Người nghèo có thể tận dụng được vốn vay để đầu tư cho sản xuất, nâng cao thu
nhập, thoát khỏi cảnh nghèo đói, còn người giàu thì vay vốn mở rộng sản xuất, nâng cao
thêm mức thu nhập. Với chính sách này thì người giàu mạnh dạn hơn trong đầu tư phát
triển sản xuất .
Thứ năm, là Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã rất táo bạo khi thi hành chính sách
“đổi đất lấy công trình”, cho tư nhân đầu tư vốn vào những vùng còn lạc hậu, tỉnh chấp
nhận hy sinh một phần đất, ngược lại tỉnh có được những công trình lớn thúc đẩy cho
những vùng còn lại phát triển, người dân ở đây sẽ có được việc làm nâng cao được thu
nhập của mình.
Với những chính sách, chủ trương và giải pháp nêu trên Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân
dân tỉnh Sóc Trăng đã bước đàu giải quyết tốt được vấn đề thu nhập ở địa bàn nông thôn
của tỉnh và khắc phục được phần nào sự chênh lệch giàu nghèo. Cùng với những chủ
trương, chính sách này mà bộ mặt nông thôn tỉnh Sóc Trăng bước đầu đã khởi sắc.
2. Tình hình phân hoá thu nhập của các hộ nông dân ở nông thôn tỉnh Sóc
Trăng
Trong những năm vừa qua, cùng với những chính sách đổi mới được ban hành và
đưa vào cuộc sống, bộ mặt nông thôn tỉnh Sóc Trăng nhìn chung đã có thay đổi lớn, đời
sống nông dân được cải thiện rõ rệt, mức sống đã tăng lên đáng kể.
a. Thực trạng hộ giàu ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng
Số hộ nông dân giàu có, mức thu nhập cao, đã xuất hiện ở khắp nơi và ngày càng
nhiều. Đánh giá tổng quát thực trạng hộ giàu có thể rút ra một số nhận xét.
Một là, tỷ lệ hộ giàu của tỉnh mấy năm qua có xu hướng tăng rõ rệt. Năm 1990 tỷ lệ
hộ giàu là 9,4% trong đó hộ cực giàu là 2%, đến nay (2005) là 20 - 21%. Mức thu nhập
bình quân hàng năm tăng khá năm 1999 khoảng 348 USD/ người /năm, năm 2005 - 412
USD/ người/năm.
Hai là, hộ giàu ở Sóc Trăng là hộ đã tiến hành sản xuất hàng hoá với mô hình tổ
chức sản xuất đa dạng,phù hợp với yêu cầu của thị trường. Chủ yếu là họ làm giàu theo mô
hình kinh tế VAC, nông nghiệp - ngành nghề, nông nghiệp - ngành nghề - dịch vụ... Điều
này cho thấy, muốn làm giàu phải theo xu hướng sản xuất hàng hoá, hình thành doanh
nghiệp nhỏ ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Ba là, phân tích các điều kiện, các yếu tố làm giàu, cũng cho chúng ta những nhận
định rất đáng chú ý, cụ thể là:
Về điều kiện đất đai, bình quân hộ giàu ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng có 1,6 ha đất
nông nghiệp, do đó hộ giàu ở đây không phải giàu nhờ hoa lợi ruộng đất (phát canh thu tô
như địa chủ trước đây) mà do biết tổ chức sản xuất kinh doanh, có vốn, có kỹ thuật và
bằng lao động của mình. Riêng ở huyện Long Phú - tỉnh Sóc Trăng, hơn 65% số hộ giàu
hiện nay là do phát triển ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ, không phải từ ruộng đất.
Về vốn, hộ giàu ở nông thôn của tỉnh là hộ có vốn, có khả năng huy động vốn và sử
dụng vốn có hiệu quả. Sau khi có những chính sách đối với nông thôn, các hộ giàu mạnh
dạn hơn trong việc đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh: ruộng, vườn cây, vườn rừng, đầm
nuôi thuỷ hải sản... Vốn là điều kiện rất quan trọng để phát triển sản xuất hàng hoá ở nông
thôn. Kết quả điều tra cho thấy, hầu hết các hộ giàu ở nông thôn Sóc Trăng đều có nhu cầu
vay vốn.
Về quan hệ lao động: hộ giàu ở nông thôn của tỉnh hiện nay về cơ bản vẫn là hộ có
nhiều lao động, đặc biệt là lao động nam giới có kỹ thuật. Bình quân một hộ giàu có 4,3
lao động, 65% lao động có trình độ văn hoá cấp II và cấp III, có sức khoẻ; chủ hộ của các
gia đình giàu tuổi đời (từ 31 - 50 tuổi) chiếm 51 - 52%, chủ hộ giàu xuất phát là người
nông dân bình thường chiếm 53%, bộ đội xuất ngũ là 20%... Như vậy, hộ giàu ở nông thôn
hiện nay ở Sóc Trăng chủ yếu làm giàu bằng lao động, không bóc lột giá trị thặng dư, quan
hệ thuê mướn lao động đơn giản, chưa hình thành quan hệ lao động thực sự.
Khái quát lại, có thể đánh giá thực trạng vấn đề giàu ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng
như sau: hộ giàu ở nông thôn vừa qua là những hộ nằm trong nhóm “vượt trội” nhờ đổi
mới cơ chế chính sách làm cho tính năng động xã hội được thức tỉnh và phát huy. Họ là
những người có vốn, có lao động, có kỹ thuật, có kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh
doanh. Song hộ giàu hiện nay cơ bản vẫn sản xuất kinh doanh ở quy mô gia đình (quy mô
trang trại chưa phát triển mạnh), sử dụng vốn tự có là chính, bản thân trực tiếp tham gia lao
động, quan hệ thuê mướn lao động còn phôi thai, kinh doanh trong các ngành phi nông
nghiệp chiếm tỷ lệ cao. Tỷ trọng hộ giàu chưa cao trong tổng số hộ nông thôn, nhưng đang
có xu hướng tăng nhanh, trở thành lực lượng tiên tiến, tích cực trong phát triển và xây
dựng xã hội nông thôn mới.
b. Về thực trạng hộ nghèo ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng
Qua tìm hiểu thực tế tình hình kinh tế - xã hội của Sóc Trăng trên diện rộng, có thể
khái quát thực trạng người nghèo ở nông thôn của tỉnh như sau:
Những năm 1992- 1993 nghèo tuyệt đối khoảng 12, 6%, trong đó: 16 - 17% thiếu
đói, 12 - 13% đói gay gắt; nghèo tương đối khoảng 51 - 53%. Thực hiện chủ trương xoá
đói giảm nghèo, mỗi năm bình quân tỷ lệ nghèo giảm 4%. Song đến năm 2000 tỷ lệ nghèo
vẫn chiếm 38 -39% dân số nông thôn, đến năm 2005 là 27 - 28% (theo chuẩn mới).
Sóc Trăng hiện có 43 xã nghèo, xã vùng sâu, vùng xa và đặc biệt khó khăn. Toàn
tỉnh có 230.449 hộ trong đó có 44.347 hộ nghèo (chiếm 10,18%); có 3.869 hộ dân tộc
thiểu số nghèo chiếm (29,42%)/tổng số đồng bào dân tộc.
Về nguyên nhân tình trạng người nghèo ở tỉnh Sóc Trăng có thể phân thành các
nhóm cơ bản sau:
Nhóm 1: Do bản thân người nghèo không biết làm ăn, thiếu hoặc không có vốn;
đông con, neo đơn, thiếu lao động, ăn tiêu lãng phí, lười lao động, mắc tệ nạn xã hội...
Nhóm 2: Do điều kiện tự nhiên và môi trường như: đất canh tác ít, đất xấu, điều
kiện thời tiết khí hậu không thuận lợi, đặc biệt ở nông thôn Sóc Trăng bất lợi về địa lý, do
địa hình hầu hết là sông nước (mặt nước lại nhiều phèn, mặn rất lớn), đường xá lại xa xôi,
hẻo lánh, đường giao thông nông thôn đi lại hết sức khó khăn. Do đó khó vận chuyển hàng
hoá.
Nhóm 3: Do thể chế và chính sách như: chính sách đầu tư hạ tầng cơ sở yếu kém,
chưa hoàn thiện về chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, tự tạo việc làm, xoá đói
giảm nghèo (thuế tín dụng ưu đãi); thiếu chính sách trợ giúp đối với gia đình chính sách xã
hội cũng như chính sách hạn chế tệ nạn xã hội, áp dụng chính sách cứng nhắc, không phù
hợp; thiếu sự quan tâm của chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội, không thực hiện
tốt chính sách phát triển dân số...
Nhóm 4: Các nguyên nhân tổng hợp. Nói cách khác nhóm 1 chủ yếu do đối tượng
(chủ quan), nhóm 2 và 3 có tính chất khách quan ; cả 3 nhóm đều tác động vào đối tượng
dẫn đến khả năng nghèo càng lớn.
Qua khảo sát ở huyện Thạnh Trị - tỉnh Sóc Trăng về nguyên nhân nghèo của các hộ
gia đình cho thấy:
Thiếu vốn: chiếm 70 - 80% tổng số hộ được điều tra (số liệu điều tra của Cục
Thống kê Sóc Trăng tháng 12/2005).
Đông con: chiếm 30 - 40%
Thiếu kinh nghiệm làm ăn 40 - 50%
Gặp rủi ro, đau ốm nặng: 10 - 15%
Neo đơn thiếu lao động: 6 - 15%
Lười lao động ăn tiêu lãng phí: 5-6%
Mắc các tệ nạn xã hội : 4 - 5%
Qua đây, ta có thể khái quát thực trạng nghèo ở nông thôn Sóc Trăng có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, đặc điểm cơ bản nhất là tình trạng nghèo ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng
thường rơi vào nhóm hộ thuần nông, độc canh một loại cây và tự cung, tự cấp, thiếu việc
làm nghiêm trọng, việc làm kém hiệu quả, thu nhập thấp, không có khả năng tích luỹ để tái
sản xuất giản đơn, chịu nhiều thiếu thốn trong cuộc sống.
Thứ hai, nghèo ở nông thôn Sóc Trăng có quan hệ và thường là hậu quả trực tiếp
của thiên tai, của điều kiện địa lý bất lợi (vùng sâu, vùng xa), nơi diện tích đất nhiều phèn
và mặn.
Thứ ba, do thành quả của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ và chính sách về tư liệu
sản xuất, chính sách ruộng đất đúng đắn nên mặc dù hộ dói, nghèo ở Việt Nam nói chung
và nông thôn Sóc Trăng nói riêng còn lớn, song về cơ bản ít nhiều họ vẫn còn tư liệu sản
xuất (trước hết là ruộng đất), tức là người nghèo đói ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng không
phải là người bị bần cùng hoá. Vì vậy là điều kiện cực kỳ quan trọng để thực hiện có hiệu
quả chính sách xoá đói giảm nghèo. Nếu chính quyền các cấp ở tỉnh Sóc Trăng có chính
sách tốt, tạo điều kiện trợ giúp người nghèo đói về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm làm ăn... thì
chí ít người nghèo đói cũng tổ chức sản xuất kinh doanh được trên mảnh ruộng ấy và có
thể có cơ hội thoát khỏi tình trạng đói nghèo.
Thứ tư, hiện tượng đói nghèo ở nông thôn Việt Nam nói chung và ở Sóc Trăng nói
riêng ở trạng thái đất nước đổi mới và phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động,
trong một xã hội nông thôn không ngừng phát triển và tiến bộ, trong một cộng đồng dân cư
mang một bản sắc truyền thống dân tộc tốt đẹp “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “lá lành
đùm lá rách”, tình làng nghĩa xóm đậm đà. Đây là điều kiện thuận lợi rất cơ bản để thực
hiện có hiệu quả các chính sách và chương trình xoá đói giảm nghèo ở tỉnh nhà.
Mặc dù, Sóc Trăng là một tỉnh rất giàu tiềm năng, có nhiều điều kiện thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội; đặc biệt là kể từ năm 1995 đến nay mức thu nhập của người dân
trong tỉnh ngày càng được nâng cao: 412USD/ người/năm (2005), đời sống ngày càng
được cải thiện. Thế nhưng, trên thực tế nhiều hộ ở vùng nông thôn sâu, vùng đồng bào dân
tộc Khơmer vẫn còn tình trạng đói nghèo, thu nhập thấp đời sống hết sức cơ cực... Tình
hình này ở một tỉnh có bình quân lương thực đầu người vào loại cao nhất nước thật là một
nghịch lý. Đây là điều trăn trở không chỉ riêng đồng bào ở vùng nông thôn sâu, vùng đồng
bào dân tộc Khơmer mà là chung của cả Đảng bộ và chính quyền tỉnh Sóc Trăng.
3. Về những hạn chế trong giải quyết vấn đề thu nhập và nguyên nhân của nó
Bên cạnh những kết quả đạt được đáng tự hào nêu trên, việc giải quyết vấn đề thu
nhập nhằm khắc phục tình trạng phân hoá giàu nghèo ở địa bàn tỉnh Sóc Trăng còn bộc lộ
những hạn chế và thiếu xót đáng quan tâm là.
Tình hình kinh tế xã hội vùng nông thôn tỉnh nhìn chung còn rất khó khăn; tốc độ
phát triển chậm hơn so với các vùng khác trong tỉnh; đời sống vật chất và tinh thần của
người nông dân còn thấp, hiện có 8.669 hộ nông dân trong tỉnh còn thuộc dạng nghèo (thu
nhập: 100.700 đ/ người/ tháng) (trong đó đáng chú ý là 2 huyện có tỷ lệ hộ nông dân nghèo
còn cao: Thạnh Trị: 2.604 hộ chiếm 43,44%; Mỹ Tú: 2103 hộ chiếm 33,82%). Hiện ở tỉnh
còn 23 xã nghèo, xã vùng sâu, vùng xa có đông đồng bào dân tộc Khơmer và xã đặc biệt
khó khăn, trong đó có 16 xã đặc biệt khó khăn cần sự trợ giúp, đầu tư của Trung ương.
Đồng hành với mức thu nhập còn thấp, điều kiện về giao thông, điện nước sinh hoạt
của đồng bào ở vùng nông thôn cũng còn rất khó khăn. Điều kiện về đi lại của người dân ở
vùng đồng bào dân tộc Khơmer lên các thị trấn thị tứ hết sức vất vả do đường giao thông
yếu kém. Điều này làm cho việc lưu thông, trao đổi hàng hoá trở nên khó khăn, do đó mà
chi phí vận chuyển hàng hoá của người dân tăng lên rất nhiều. Về điện nước sinh hoạt,
theo số liệu điều tra 7/2005 của Ban chỉ đạo vấn đề chính sách xã hội của tỉnh, cả tỉnh còn
623 hộ chưa dùng điện lưới quốc gia, chiếm 16,2%. Tuy nhiên số hộ này tập trung nhiều ở
các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc Khơmer. Tương tự như vậy, ở nông thôn còn
trên 20% số hộ chưa được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh phục vụ sinh hoạt và đời sống.
Đối với hộ giàu ở vùng nông thôn của tỉnh còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc
tiếp tục mở rộng sản xuất. Họ thiếu vốn đầu tư, thiếu những thông tin cần thiết về thị
trường, thiếu những kiến thức về quản lý kinh tế. Các số liệu điều tra cho thấy, chỉ có
35,3% số hộ có thu nhập khá và cao cho rằng họ có đủ vốn sản xuất; còn lại có 58,8% số
hộ cho biết họ cần thêm vốn để sản xuất. Qua khảo sát thực tế ở huyện Long Phú cho thấy,
ở nhiều hộ nông dân họ đầu tư cho sản xuất trên một diện tích rất lớn thế nhưng do thiếu
những thông tin cần thiết về thị trường và thiếu kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh
doanh nên đến khi thu hoạch và đem hàng hoá ra thị trường để bán thì gặp tình trạng “dội
hàng” - cung vượt quá cầu, hàng hoá giá thấp không đủ để bù cho chi phí bỏ ra. Đây là
một hạn chế yếu kém trong việc giải quyết tốt vấn đề thu nhập ở vùng nông thôn tỉnh Sóc
Trăng.
Qua đây, chúng ta cần thấy rằng sự phân hoá giàu nghèo hiện nay ở nông thôn tỉnh
Sóc Trăng diễn ra khá rõ nét và là kết quả tất yếu của quá trình phát triển sản xuất hàng
hoá theo cơ chế thị trường. Trong cơ chế bao cấp, do phân phối mang tính bình quân, nên
hiện tượng phân hoá về thu nhập bị che mờ đi và nay được bọc lộ rõ hơn. Thực trạng này ở
địa bàn nông thôn của tỉnh diễn ra một cách khách quan, phù hợp với quy luật phát triển
sản xuất nói chung. Để khắc phục một số nhược điểm của cơ chế thị trường trong quá trình
phân hoá thu nhập một cách tự nhiên ở địa bàn nông thôn của tỉnh, vấn đề không phải là
quay về hình thức quản lý và phân phối bình quân như trước, mà chính là cần xem xét cụ
thể các nguyên nhân cần khắc phục nhằm giảm dần tỷ lệ các hộ nghèo, có thu nhập thấp,
tăng tỷ lệ hộ có thu nhập trung bình, khá và khuyến khích các hộ làm giàu không hạn chế.
Xuất phát từ thực trạng của việc giải quyết vấn đề thu nhập và những khó khăn, yếu
kém nói trên, người viết nhận thấy có những nguyên nhân sau đây:
Một là, nguyên nhân khách quan do môi trường sống và điều kiện tự nhiên không
thuận lợi. Sóc Trăng là một tỉnh nông thôn vùng sâu thuộc đồng bằng sông Cửu Long,
phần lớn diện tích là đất ngập phèn, mặn, do đó gây nhiều hạn chế cho phát triển nông
nghiệp. Vài năm gần đây tuy được đầu tư cải tạo đất để tăng vụ, tăng năng suất... nhưng
nguồn đầu tư không đồng bộ, đất được cải tạo chưa nhiều nên kinh tế phát triển rất chậm
chạp so với các vùng khác trong tỉnh. Tình hình này làm cho lao động nông nhàn ở nông
thôn của tỉnh còn cao chiếm trên 65%. Để kiếm sống tìm kế sinh nhai họ phải bỏ quê lên
Thành phố Hồ Chí Minh.
Hai là, các nguyên nhân chủ quan: do sự chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện và do
cơ chế chính sách:
- Về quan điểm nhận thức của một số ngành, một số cấp đối với mục tiêu, nhiệm vụ
và tầm quan trọng của công tác chính sách xã hội chưa đồng bộ, chưa tập trung chỉ đạo,
phối hợp trong hành động, có nơi khoán trắng cho ban chỉ đạo chính sách xã hội các cấp,
không kịp thời kiểm tra, sơ tổng kết để có chỉ đạo uốn nắn kịp thời.
- Ban chỉ đạo chính sách xã hội của tỉnh tuy dã xây dựng được chương trình, kế
hoạch hành động, nhưng bước triển khai tổ chức thực hiện chưa đến nơi, đến chốn, khi gặp
khó khăn trở ngại thì lúng túng. Mặt khác nhiều thành viên trong ban chỉ đạo chính sách xã
hội lại đồng thời lại là thành viên trong ban chỉ đạo của các chương trình kinh tế - xã hội
khác, chưa có sự thống nhất về quan điểm chỉ đạo, nên khi triển khai lồng ghép với các
chương trình khác thì mạnh ai nấy làm, mỗi người làm mỗi kiểu, dẫn đến tình trạng có hộ
cần vốn sản xuất để thoát khỏi đói nghèo hay cần vốn mở rộng sản xuất nâng cao thu nhập
thì không được nhận còn những hộ không cần vẫn được nhận.
- Công tác đào tạo nghề cũng như nội dung dạy nghề của trung tâm dạy nghề ở tỉnh
chưa chú trọng đúng mức địa bàn nông thôn, điều kiện tiếp nhận của nông dân, nên hiệu
quả dạy nghề chưa cao, giải quyết lao động thất nghiệp ở nông thôn chưa được nhiều.
Ba, các nguyên nhân chủ quan do bản thân các hộ gia đình ở nông thôn:
- Đối với hộ nghèo: Do thiếu vốn hoặc không đủ vốn (70 - 80%) số hộ có thu nhập
thấp); trình độ dân trí thấp, thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn (40 - 50%); thất nghiệp
hoặc việc làm không ổn định. Ngoài ra các hộ có thu nhập thất thường gặp những bất trắc,
rủi ro trong cuộc sống như ốm đau, bệnh tật và thiên tai... Không những thế còn do chính
bản thân họ chây lười lao động, tiêu xài phóng túng, đông con, cờ bạc, rượu chè, bê tha...
Đối với hộ giàu: Do thiếu vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất; Do thiếu thông tin về
thị trường; thiếu các kiến thức về quản lý kinh tế... Đối với bản thân hộ giàu là do họ thiếu
ý chí tiến thủ vươn lên làm giàu hơn nữa, họ tự mãn với những gì mình có...
Đây là những nguyên nhân trực tiếp đã đưa đẩy nhiều hộ gia đình, kể cả những hộ
gia đình khả giả lâm vào cảnh “màn trời chiếu đất”, thậm chí đi vào con đường tội lỗi.
Tóm lại: Sóc Trăng là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển, nhất là công nghiệp
và du lịch. Kể từ năm 1986 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới của cả nước, Sóc Trăng
có những bước tiến khá toàn diện: Kinh tế tăng trưởng nhanh với tốc độ cao, sự nghiệp
giáo dục - đào tạo, chăm sóc con người có chuyển biến tích cực; phong trào xoá đói giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa ngày càng đi vào chiều sâu và mang tính xã hội hoá cao... Tuy
nhiên, vùng nông thôn tỉnh Sóc Trăng vẫn còn tình trạng người dân nghèo đói, thu nhập
thấp, phân hoá giàu nghèo gay gắt... Đây là một trong những lực cản lớn trên con đường
phát triển của Sóc Trăng, đây cũng là một nhân tố có thể gây mất ổn định về chính trị - xã
hội. Vì vậy, việc phân tích đầy đủ thực trạng và nguyên nhân của vấn đề thu nhập trong địa
bàn nông thôn của tỉnh Sóc Trăng và những vấn đề cấp thiết đang đặt ra cần được tiếp tục
nghiên cứu, giải quyết là một việc làm cần thiết và cấp bách để từ đó làm cơ sở xác định
những chủ trương và giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn nữa vấn đề thu nhập trên địa bàn
nông thôn của tỉnh Sóc Trăng trong những năm sắp tới.
PHẦN II
Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt vấn đề
thu nhập ở địa bàn nông thôn tỉnh Sóc Trăng hiện nay
1. Phương hướng chung
Hơn 15 năm trong công cuộc đổi mới và gần 10 năm triển khai thực hiện chương
trình nâng cao thu nhập cho đồng bào nông thôn, tình hình kinh tế, xã hội, chính trị tỉnh
Sóc Trăng có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện
và nâng lên; xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất, chí thú làm ăn, tự vươn lên
thoát khỏi đói nghèo và làm giàu chính đáng. Tuy còn một số tồn tại trong nhận thức và
khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, tỉ lệ hộ nghèo trong đồng bào nông thôn của
tỉnh còn lớn, số hộ giàu tăng lên chưa nhiều, nhưng những kết quả đạt được vừa qua chứng
tỏ “giải quyết tốt vấn đề thu nhập ở địa bàn nông thôn” là một chủ trương đúng đắn, hợp
lòng dân, thể hiện tính hiện thức của định hướng xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường,
theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Song, dưới tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, làm cho nền
kinh tế còn những biểu hiện chưa vững chắc; tình trạng thu nhập thấp và phân hoá giàu
nghèo diễn ra gay gắt, cản trở lớn cho sự phát triển kinh tế và có thể trở thành nhân tố bất
ổn định vè chính trị và xã hội của đất nước. Do đó, việc giải quyết vấn đề thu nhập không
thể nóng vội thực hiện trong vài năm, mà là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, đòi
hỏi sự tập trung thống nhất, đồng bộ trong lãnh đạo, trong đó vai trò nòng cốt là của mặt
trận và các đoàn thể quần chúng. Cần phát động phong trào quần chúng rộng rãi hơn với
sự tham gia của các cấp, các ngành, từ cán bộ đảng viên, đến mọi người dân, không phân
biệt tôn giáo, dân tộc tham gia và phong trào này bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và
khả năng của mình nhằm từng bước thực hiện sự công bằng xã hội, ổn định tình hình chính
trị - xã hội, tạo đà cho phát triển kinh tế bền vững, lâu dài theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Để thực hiện, tư tưởng chỉ đạo nêu trên, các cấp, các ngành, trực tiếp là “Ban chỉ
đạo giải quyết vấn đề thu nhập” ở cơ sở phải tổ chức tiến hành điều tra nắm chắc số hộ
thuộc diện nghèo, số hộ giàu, phân loại nguyên nhân cho từng đối tượng cụ thể. Từ đó xây
dựng các dự án, chương trình, mục tiêu và giải pháp cụ thể để huy động sức mạnh hỗ trợ
của toàn xã hội. Mục tiêu từ nay đến năm 2010 là: tập trung xây dựng các công trình kết
cấu hạ tầng thiết yếu về giao thông, thuỷ lợi, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt.... nhằm
làm chuyển biến căn bản vùng nông thôn của tỉnh; phấn đấu hạ tỷ lệ đói nghèo xuống dưới
2%, nâng tỷ lệ hộ giàu lên trên 30%, nâng mức thu nhập ở địa bàn nông thôn 320 USD/
người/năm.
2. Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Để đạt được mục tiêu năng cao thu nhập cho các hộ nông dân, chương trình “giải
quyết tốt vấn đề thu nhập ở địa bàn nông thôn của tỉnh" phải thực hiện nhiều giải pháp trợ
giúp cụ thể cho các hộ nghèo và hộ giàu: Vừa trực tiếp hỗ trợ, tạo điều kiện để từng hộ
nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo bằng sức lực và trí tuệ của mình, vừa giúp cho các hộ
giàu mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao thêm thu nhập; Vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế,
tạo những điều kiện thuận lợi mới và cơ hội mới về việc làm, thu hút lao động. Với tư
tưởng và phương châm chỉ đạo nêu trên, cần tập trung thực hiện những giải pháp chủ yếu
như sau đây:
a. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
việc làm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình ở nông thôn
Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”, là một chủ trương nhất quán, lâu dài trên con đường phát triển của nước ta, thể
hiện tính dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống kinh tế - xã hội. Chủ trương này không
những phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, mà còn là yêu cầu, giải
pháp để giải phóng sức sản xuất, huy động và tận dụng các tiềm năng, nguồn lực trong
nước cho phát triển kinh tế, tạo cơ hội giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời
sống người lao động. Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy: phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần... là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân nên đã nhanh
chóng đi vào cuộc sống, cho phép người lao động có cơ hội tự lựa chọn loại hình kinh tế
phù hợp để phát triển sản xuất, kinh doanh theo pháp luật, nhiều hộ gia đình ở nông thôn
tỉnh Sóc Trăng thoát khỏi tình trạng đói nghèo vươn lên khá giả và giàu có, trở thành
những điển hình sản xuất giỏi ở địa phương và trong cả nước. Chính điều này đã tạo ra
động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội làm thay đổi bộ mặt nông thôn, giảm
dần sự cách biệt về thu nhập giữa các hộ nông dân ở nông thôn, giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng và các dân tộc trong tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực được nêu trên, quá trình tổ chức triển khai
thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cũng bộc lộ những hạn
chế nhược điểm trong công tác quản lý; sự phân hoá giàu nghèo, tình trạng thiếu việc làm,
tình tạng thu nhập thấp ở nông thôn còn diễn biến phức tạp, lợi ích của người lao động
chưa được bảo đảm.
Để khắc phục tình hình trên và bảo đảm nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề có tính nguyên tắc là tiếp tục củng cố, đẩy
mạnh phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế hộ gia đình và kinh tế Nhà nước, bảo đảm cho 2
thành phần kinh tế này phát triển đủ mạnh, giữ vai trò chủ đạo chi phối toàn bộ nền kinh
tế, tạo nền tảng vững chắc cho chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển các
loại hình kinh tế hợp tác, trước hết là hợp tác xã, không đơn thuần chỉ xuất phát từ mục
đích chính trị của Đảng, mà quan trọng hơn còn là thể hiện lợi ích của người lao động.
Điều đó không mâu thuẫn với kinh tế hộ gia đình mà còn tạo điều kiện cho kinh tế gia đình
phát triển bền vững, tạo cơ hội cho người lao động, hộ nông dân nghèo có công ăn việc
làm, có thu nhập từng bước vươn lên giàu có và các hộ gia đình giàu ngày càng giàu hơn
trở thành những “ông chủ lớn” ở nông thôn. Tuy nhiên, không vì thế mà xây dựng và phát
triển các loại hình kinh tế hợp tác tràn lan, mang tính hình thức bề ngoài. Điều quan trọng
là phải xuất phát từ lợi ích thiết thân của người lao động, phải thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Đúng như Ăngghen đã chỉ rõ: hãy để cho
người lao động kịp suy nghĩ trên luống cày của mình, tự lựa chọn và thể hiện các quan hệ
kinh tế của mình mà không trái với pháp luật.
Xuất phát từ quan điểm đó, việc xây dựng, củng cố và phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần ở nông thôn Sóc Trăng những năm tới cần hướng vào lĩnh vực du lịch, chế biến
hàng nông - lâm - thuỷ sản, ngành dịch vụ và một số sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp thu hút nhiều lao động nhằm phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
phân bố lại lực lượng lao động hợp lý giữa các ngành và các vùng, giảm bớt áp lực về dân
số, lao động và việc làm ở trung tâm xã, thị trấn, vùng đồng bào dân tộc Khơmer. Nhà
nước cần tạo điều kiện xây dựng các khu kinh tế mới ở các vùng sâu, vùng xa, dân cư thưa
thớt để góp phần hình thành các khu trung tâm kinh tế - xã hội nhỏ và vừa cho các địa
phương vùng nông thôn.
b. Hỗ trợ vốn cho các hộ nông dân ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng và hướng dẫn sử
dụng vốn có hiệu quả
Vốn luôn là yếu tố quan trọng của sản xuất và đời sống. Người lao động, hộ sản
xuất - kinh doanh có đủ vốn là điều kiện ổn định cuộc sống, có thể mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh và giải quyết được nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động nghèo.
Nhưng giải quyết đủ vốn cho các hộ nông dân qủa thực còn là bài toán nan giải của các
cấp, các ngành của tỉnh Sóc Trăng.
Qua khảo sát thực tế ở một số huyện vùng nông thôn tỉnh Sóc Trăng, thì việc giải
quyết vốn cho các hộ nông dân thiếu vốn hiện nay nên chú ý đồng bộ các giải pháp từ huy
động vốn, cho vay mượn vốn, hướng dẫn, sử dụng vốn sao có hiệu quả, và giải pháp thu
hồi nợ vay, để đồng vốn luôn sinh lợi và lớn lên, để nhiều hộ nông dân có điều kiện vay
được vốn.
Một là, đa dạng hoá các hình thức và biện pháp tạo nguồn vốn và các khả năng đầu
tư vốn phục vụ cho chương trình giải quyết vấn đề thu nhập. Ngoài nguồn vốn tín dụng
của ngân hàng phục vụ người nghèo, vốn hỗ trợ từ qũu quốc gia cho việc làm, cho đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh, vốn hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn... do Trung
ương phân bổ hàng năm, cần chú ý tạo nguồn vốn ở địa phương thông qua các hình thức:
- Tổ chức vận động phong trào toàn xã hội ủng hộ “quỹ nâng cao thu nhập cho các
hộ nông dân nghèo ở nông thôn” “quỹ xoá đói giảm nghèo” các cấp. Đối tượng vận động
bao gồm: Cán bộ công chức Nhà nước, lực lượng vũ trang hộ nhân dân thuộc diện khá
giàu; các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả trên địa bàn tỉnh.
- Các ngân hàng ở địa phương cần có hình thức, cơ chế thu hút vốn nhàn rỗi trong
dân, số vốn từ nguồn này ở địa bàn tỉnh rất lớn. Đồng thời, tiếp tục sử dụng vốn tự có, tự
vận động của các đoàn thể quần chúng như: phụ nữ tiết kiệm giúp nhau làm kinh tế gia
đình; chương trình thanh niên lập nghiệp; hùn vốn, cho mượn vốn cất nhà, cải tạo vườn tạp
của nông dân... Các nguồn vốn này tuy không lớn nhưng lại có tác dụng rất lớn giúp hàng
ngàn người có việc làm ổn định, thể hiện sự đoàn kết, tương trợ cộng đồng, “lá lành đùm
lá rách”. Đây cũng là đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Hai là, đa dạng hoá các phương thức hỗ trợ vốn, gắn chặt với các giải pháp khác,
phục vụ có hiệu quả các nhu cầu về sản xuất và cuộc sống phù hợp với các đối tượng để
nâng cao thu nhập.
Nông dân rất cần vốn để phát triển kinh tế gia đình và thoả mãn các nhu cầu của
cuộc sống hàng ngày. Nhưng lượng cần cho mỗi hộ gia đình không giống nhau và không
phải ai sử dụng vốn cũng có hiệu quả. Hơn nữa, trên thực tế không phải chỉ đầu tư vốn cho
hộ nghèo là giải pháp tốt nhất để giải quyết tốt vấn đề thu nhập. Do đó, việc hỗ trợ vốn
một mặt đưa vốn trực tiếp cho đối tượng nghèo cần vốn với số lượng cần thiết thoả mãn
nhu cầu phát triển kinh tế gia đình ổn định; mặt khác đầu tư vốn cho những đối tượng khác
có thể tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho việc giải quyết tốt vấn đề thu nhập. Với
phương châm này việc đầu tư vốn cho các hộ gia đình ở nông thôn nên quan tâm giải
quyết theo các hướng sau đây:
- Hỗ trợ vốn cho hộ nghèo có nhu cầu cần vốn để tự làm ăn sinh sống gắn chặt với
việc tổ chức hướng dẫn cách làm ăn có thể sinh lợi nhanh để sớm vượt qua khó khăn trước
mắt, từng bước vươn lên thoát khỏi đói nghèo và trở thành giàu có.
- Hỗ trợ vốn cho các hộ khá làm ăn có hiệu quả tại địa phương tạo điều kiện phát
huy những kinh nghiệm quý về khả năng quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức
cuộc sống của những hộ này để họ giúp đỡ lại những hộ chưa vượt qua đói nghèo. Giải
pháp này thể hiện cụ thể ỡ chỗ: hoặc là mạnh dạn đầu tư vốn theo nhu cầu để mở rộng khả
năng sản xuất kinh doanh hộ, tạo điều kiện cho các hộ này thu nhận thêm lao động nghèo
cùng làm để có thu nhập, ổn định cuộc sống, hoặc là vừa đầu tư vốn cho hộ khá, vừa vận
động các hộ thuộc các chương trình khác còn khó khăn sử dụng vốn vay mượn của họ hùn
vốn hợp tác với hộ khá này, hình thành các tổ, nhóm giúp nhau làm giàu.
Những cách làm giàu trên vừa khắc phục được nguồn vốn hạn hẹp của ngân sách
địa phương, hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi, vừa tạo điều kiện cho người nghèo có
việc làm, có thu nhập ổn định, cải thiện cuộc sống gia đình, vừa tạo điều kiện để các hộ
giàu mở rộng quy mô sản xuất để làm giàu hơn nữa. Đồng thời đó cũng là cách tốt nhất
chuyển giao công nghệ, cung cách làm ăn mới cho các hộ nông dân.
- Đầu tư thêm vốn cho các cơ sở sản xuất, các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả trên địa bàn nông thôn để thu nhận được lao động nghèo vào
vừa làm việc, vừa học nghề để có thu nhập ổn định. Để làm được điều này, cần có hợp
đồng trách nhiệm giữa 3 bên: chủ đầu tư, tổ chức kinh tế và người lao động , nhằm bảo
đảm lợi ích của đôi bên.
- Đồng thời, Nhà nước có giải pháp đầu tư vốn thoả đáng cho các trung tâm dạy
nghề, trung tâm xúc tiến việc làm,... để tổ chức đào tạo ngành nghề cho thanh niên nông
thôn.
Tóm lại, nguồn vốn đầu tư cho việc giải quyết tốt vấn đề thu nhập ở nông thôn của
các cấp tuy có hạn, chưa đủ sức thoả mãn các đối tượng bà con nông dân, nhưng nếu biết
cách đầu tư và đầu tư đúng đối tượng thì vốn đầu tư chẳng những được bảo toàn, phát triển
mà còn tạo nhiều cơ hội cho các hội giàu ngày càng giàu hơn, các hộ nghèo có cơ hội có
công ăn việc làm ổn định, có thu nhập chính đáng, biết cách làm ăn và tự tin vươn lên xây
dựng cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc, góp phần cùng với bà con nhân dân xây
dựng xóm ấp văn hoá, nhà văn hoá ở địa phương.
Ba là, đổi mới và cải tiến thủ tục cho vay vốn, tránh tình trạng ngân hàng thì thừa
vốn nhưng nông dân lại không vay được vốn chỉ vì những thủ tục rườm rà, những ràng
buộc mà nông dân không thể thoả mãn được, để rồi có tình trạng như hiện nay: vốn phục
vụ người nghèo, nhưng chỉ có người giàu vay được.
c. Hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ gắn với đào tạo nghề và nâng cao dân trí
cho các hộ gia đình ở nông thôn; đồng thời “nhân rộng” các điển hình tiên tiến trong sản xuất
kinh doanh ở vùng nông thôn tỉnh Sóc Trăng
Đại bộ phận nông dân nghèo thường ít có nghề ổn định, không có kinh nghiệm,
thậm chí không biết cách làm ăn, trình độ dân trí thấp và không dược đào tạo, hướng dẫn.
Mặt khác, họ có rất ít tư liệu sản xuất, kể cả các công cụ thô sơ rẻ tiền, còn các hộ giàu thì
thiếu thông tin về thị trường, thiếu trình độ quản lý sản xuất kinh doanh. Do vậy, cần phải
hướng dẫn, giúp đỡ nâng cao nhận thức, trình độ, kỹ năng sản xuất kinh doanh, cung cấp
thông tin kinh tế cho các hộ nông dân ở nông thôn. Có như vậy mới đảm bảo cho họ có thể
tự tin, chủ động chen chân và đứng vững trong cơ chế thị trường để làm ăn sinh lợi, vừa
đảm bảo cuộc sống gia đình vừa giúp ích cho xã hội. Để giải quyết những vấn đề này, cần
tập trung thực hiện những nội dung cụ thể sau đây:
Về nội dung trước mắt cần chú ý trang bị và cập nhật hoá những kiến thức phổ
thông phục vụ thiết thực cuộc sống hàng ngày như về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, hướng
dẫn cách làm ruộng, làm vườn, rẫy, kỹ thuật VAC, hướng dẫn cách bảo quản, sơ chế sản
phẩm, một số nghề tiểu, thủ công nghiệp, cách buôn bán, dịch vụ... cho các hộ nông dân.
Đây là những kiến thức hết sức cần thiết để người nông dân tổ chức sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, nâng cao thu nhập, vươn lên giàu có. Nhưng, về lâu dài, cần đặc biệt chú
trọng công tác đào tạo nghề cho người lao động, nhất là tầng lớp thanh niên ở nông thôn.
Vì không có nghề nghiệp cơ bản ổn định thì khó có thể tồn tại trong môi trường cạnh
tranh. Nhưng việc đào tạo nói chung và việc đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn
nói riêng cần phù hợp với từng đối tượng theo khu vực và theo vùng, gắn với chương trình
kinh tế - xã hội của địa phương . Mặt khác, nên chú ý theo hướng “thạo một nghề và biết
nhiều nghề” để tạo cho người lao động luôn luôn có cơ hội tìm được việc làm trong cơ chế
thị trường.
Để thực hiện những công việc nêu trên, một mặt cần tổ chức và sử dụng tốt lực
lượng hướng dẫn viên và kỹ thuật viên, các cán bộ chuyên môn ở các trung tâm dạy nghề,
trung tâm khuyến nông, khuyến ngư, hoặc các trung tâm xúc tiến việc làm ở địa phương,
hoặc những cá nhân có nhiều kinh nghiệm, những điển hình trong phong trào sản xuất giỏi,
có khả năng và điều kiện hướng dẫn người khác. Tất cả đó là lực lượng nòng cốt thực hiện
việc hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho những người nông dân ở
nông thôn từng bước hội nhập vào đời sống xã hội, nâng cao thu nhập, vươn lên giàu có
đứng vững trong cơ chế thị trường.
Về mặt hình thức hướng dẫn và đào tạo nghề cần đa dạng, linh hoạt và phù hợp với
từng đối tượng, từng ngành nghề. Có thể thực hiện bằng cách trực tiếp hướng dẫn cho từng
hộ hoặc từng nhóm hộ cùng sản xuất kinh doanh làm ăn như các “Câu lạc bộ I.P.M đầu
bờ”, “Câu lạc bộ trồng rừng giỏi” ở Long Phú, “Câu lạc bộ nuôi tôm sú giỏi” ở Vĩnh
Châu... Đây là cách thức hướng dẫn, dạy nghề nhanh nhất và có hiệu quả nhất. Bà con
nông dân vừa tiếp thu thông tin mới vừa có thể thực hành ngay. Riêng đối với việc đào tạo
nghề cơ bản nhằm tạo cơ hội cho lực lượng lao động mới, trẻ và đối tượng thiếu việc làm,
cần chú trọng những ngành nghề truyền thống ở địa phương như nghề điêu khắc, nghề
mộc, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ, sửa chữa, lắp ráp, may...Điều đó vừa tạo cho người lao
động có thể tìm được việc ngay, vừa phục vụ yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Việc thực hiện nội dung đào tạo này
không nhất thiết phải tập trung tại các trung tâm dạy nghề hay các trung tâm xúc tiến việc
làm của tỉnh huyện mà có thể thông qua việc lập và thực hiện các dự án ở địa phương có
qui mô lớn và thu hút nhiều lao động tại chỗ. Thông qua thực hiện các dự án này mà các
cán bộ chuyên môn thực hiện việc chuyển giao công nghệ, từng bước tạo dựng một lực
lượng lao động có tay nghề cao ở địa phương. Có như vậy, mới tạo ra được nhiều cơ hội
cho người dân ở nông thôn nâng cao được mức thu nhập của mình và giảm sự chênh lệch
giữa giàu và nghèo.
d. Xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở vùng nông thôn tỉnh Sóc Trăng
Người nông dân ở Sóc Trăng có đặc điểm chung là đa số sinh sống ở những vùng
sâu, vùng xa, ven biển, sông. ở những nơi này điều kiện sinh sống hết sức khó khăn, giao
thông, điện nước sinh hoạt, trường lớp đào tạo khó khăn và thiếu thốn...
Để giải quyết thực trạng trên, giải pháp đầu tư xây dựng và phát triển đồng bộ kết
cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội được xem là khâu đột phá tạo môi trường thuận lợi cho phát
triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thu hẹp khoảng
cách chênh lệch giữa giàu và nghèo. Tuy nhiên để làm được việc này phải có thời gian và
nguồn vốn lớn, cần xác định trọng tâm để đầu tư có hiệu quả. Trước mắt, cần tập trung đầu
tư cho các xã nghèo, có tỉ lệ hộ nghèo trên 25%, đặc biệt là các xã đặc biệt khó khăn ở 2
huyện: Thạnh Trị và Mỹ Tú. Mặt khác, quá trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở
cũng phải chú ý đến đặc điểm, yêu cầu cụ thể của từng xã, tránh dàn đều mang tính bình
quân kém hiệu quả.
Đối với những xã nông thôn ở vùng núi cao cần tập trung xây dựng đường giao
thông. Vì đây chính là nguyên nhân quan trọng nhất gây nên sự cách biệt, nhưng nếu giải
quyết tốt sẽ là cơ hội của người nghèo ở vùng nông thôn miền núi tỉnh Sóc Trăng nâng cao
thu nhập, thoát khỏi đói nghèo, vươn lên khá giả.
Bên cạnh việc xây dựng đường giao thông mới thì một vấn đề cũng hết sức quan
trọng là việc duy trì và bảo dưỡng đường giao thông miền núi. Do địa hình sông ngòi, kênh
rạch chằng chịt, độ xói mòn lớn, mưa gió bất thường nền đường thường xuyên hư hỏng
nặng sau mùa mưa. Biện pháp tốt nhất là nên giao công việc này cho cơ quan địa phương
phối hợp với cung, hạt giao thông và được Nhà nước giúp đỡ một phần kinh phí sữa chữa.
Về lâu dài cần có kế hoạch từng bước nâng cấp đường theo hướng nhựa hoá tỉnh lộ và mở
rộng đường liên thôn, liên xã các phương tiện giao thông có thể đi lại dễ dàng.
Cái lợi đầu tư vào đường giao thông vùng sâu, vùng xa đã được khẳng định nhiều ở
các địa phương. Do đó tỉnh Sóc Trăng cần phải làm tốt vấn đề này nếu muốn nâng cao thu
nhập của người dân ở những nơi này. Có thể việc đầu tư này không mang lại lợi ích nhanh
chóng như đầu tư vào các lĩnh vực khác. Nhưng cái lợi lớn nhất là giải thoát thế bí cho
kinh tế địa phương, tạo cơ hội cho đồng bào ở nơi đây tiếp cận với kinh tế thị trường, giao
lưu buôn bán, trao đổi để cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập.
Đối với những xã nông thôn vùng sâu, ven biển cần đặc biệt quan tâm hoàn chỉnh
các công trình thuỷ lợi, nhất là thuỷ lợi nội đồng, hệ thống cống ngăn mặn, tưới tiêu dọc
tuyến đê biển phục vụ sản xuất và sinh hoạt (phục vụ cho nuôi trồng thuỷ hải sản).
Việc xây dựng công trình giao thông, thuỷ lợi phải gắn với phân cấp quản lý, bảo
dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả, bảo đảm mỗi công trình đều có chủ và phát huy
tác dụng phục vụ sản xuất và đời sống, thúc đẩy hình thành các cụm dân cư hợp lý trên
từng địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điện khí hoá nông thôn, phát triển hệ thống
trường lớp, các trạm y tế, thông tin liên lạc. Đây cũng là nội dung yêu cầu cơ bản của công
nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn mà Đảng ta đã xác định.
Đối với các xã vùng nông thôn xa, cần quan tâm giải quyết các vấn đề về trường
học, nước sinh hoạt hợp vệ sinh phục vụ sinh hoạt sản xuất; từng bước tiến hành vận động
nhân dân xây dựng hình thành các cụm dân cư mới tập trung, tiến tới xây dựng các đô thị
nông thôn mới hoàn chỉnh.
e. Chính sách giá cả đối với các hộ nông dân ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng
Tỉnh cần có chính sách bảo trợ giá nông sản nhằm ổn định sản xuất nông nghiệp,
tránh các ảnh hưởng lớn của thị trường theo nguyên tắc: Có chính sách bảo trợ về giá riêng
đối với từng loại nông sản và mức bảo hộ về giá được xét và công bố từng loại nông sản và
mức bảo hộ về giá được xét và công bố từng năm; bảo đảm cho các hộ nông dân có thể
tiêu thụ sản phẩm với mức giá không thấp hơn chi phí sản xuất chung.
Chính sách bảo trợ về giá tập trung ưu tiên cho các đối tượng sau: các sản phẩm có
số lượng hàng hoá lớn; các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh; các loại cây, con đặc sản
có giá trị, phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
f. Xây dựng cho người nông dân tỉnh Sóc Trăng có bản lĩnh thích ứng với cơ chế thị
trường, phát huy truyền thống đoàn kết cộng đồng; xoá bỏ các tập tục lạc hậu, tiết kiệm
trong tiêu dùng
Cũng như những người nông dân ở Việt Nam, người nông dân Sóc Trăng có truyền
thống cách mạng sâu đậm, thuỷ chung với Đảng , với Bác Hồ, anh hùng trong chiến đấu,
cần cù trong lao động sản xuất, vật lộn với khó khăn thiếu thốn để thoát khỏi đói nghèo và
vươn lên khá giả, giàu có. Đây là bản chất tốt đẹp của người nông dân tỉnh Sóc Trăng.
Tuy nhiên, khi chuyển sang môi trường kinh tế mới, dưới tác động tiêu cực của mặt
trái của cơ chế thị trường và cạnh tranh nhiều hộ nông dân rơi vào tình cảnh khó khăn,
nghèo đói, cuộc sống bấp bênh... Bên cạnh đó cũng có một số hộ nông thích ứng với cơ
chế thị trường vươn lên giàu có. Điều này đã làm cho sự phân hoá giàu nghèo, phân hoá
thu nhập ở địa bàn nông thôn của tỉnh diễn ra gay gắt. Thực trạng trên đây có nhiều
nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân chủ quan rất quan trọng nhưng đôi khi chúng
ta lại ít chú ý đến - đó là các hộ nông dân còn thiếu bản lĩnh thích ứng với cơ chế thị
trường và cạnh tranh. Có thể nói bản lĩnh vững vàng tự chủ và quyết đoán luôn luôn là yếu
tố quan trọng có tính quyết định sự thành đạt và mang lại điều tốt đẹp cho con người trong
hoạt động sản xuất và cuộc sống. Ngược lại, nhút nhát, thụ động, chùn bước trước khó
khăn và thử thác thì chỉ chuốc lấy thất bại và đau khổ.
Để xây dựng cho người nông dân có bản lĩnh đứng vững trong cơ chế thị trường,
ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn, chuyển giao công nghệ, hướng dẫn cách làm giàu,
một biện pháp rất quan trọng cần quan tâm là giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống
cách mạng, giáo dục ý thức tự lực tự cường, tính vượt khó, làm chủ cuộc sống bản thân và
gia đình. “Hãy tự cứu lấy mình trước khi người khác cứu” - Đó là bản lĩnh, là truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam cần được giáo dục cho mọi người.
Gắn liền với nội dung nói trên, cấp ủy Đảng và chính quyền, các đoàn thể ở tỉnh cần
quan tâm tuyên truyền, vận động người nông dân khắc phục tư tưởng tự ti, mình là người
nông thôn - nhà quê, tư tưởng thụ động, trông chờ, dựa dẫm vào sự hỗ trợ của xã hội, của
Nhà nước như thời bao cấp, vì sự hỗ trợ này có lớn thế nào cũng là yếu tố bên ngoài chứ
không thể thay thế ý thức phấn đấu tự vươn lên của bản thân hộ nông dân. Đồng thời mạnh
dạn xoá bỏ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, triệt để tiết kiệm trong tiêu dùng, nhất là
trong các ngày tết, lễ hội, thờ cũng, gả - cưới góp phần xây dựng cuộc sống mới ở nông
thôn và khu dân cư theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
h. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, quản lý của chính quyền trong quá trình
giải quyết vấn đề thu nhập ở địa bàn nông thôn tỉnh Sóc Trăng
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu nâng cao thu nhập cho người lao động ở nông thôn.
Tỉnh uỷ và chính quyền cơ sở cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Trước hết, cần điều tra nắm bắt tình hình diễn biến thu nhập, hộ giàu, hộ nghèo,
nguyên nhân của tình hình này ở địa phương cũng như của từng hộ để có kế hoạch,
chương trình và giải pháp thiết thực; phân công cán bộ phụ trách, hướng dẫn, giúp đỡ từng
hộ, từng xóm ấp. Đây là thể hiện cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ phục vụ nhân dân của cán
bộ đảng viên. Định kỳ hàng tháng, quý, cấp uỷ có kiểm điểm, sơ kết đánh giá uốn nắn, bổ
sung kịp thời, tránh khoán trắng cho cán bộ phụ trách.
Thứ hai, nâng cao thu nhập cho người lao động ở nông thôn không phải là việc
riêng của Đảng và chính quyền mà là của toàn xã hội. Do đó cần coi trọng công tác tuyên
truyền, giáo dục vận động sức mạnh của toàn xã hội, huy động nguồn lực của Nhà nước,
của cộng đồng dân cư, sự đoàn kết tương trợ lẫn nhau giữa những người lao động.
Thứ ba, để việc giải quyết vấn đề thu nhập có hiệu quả , bên cạnh sự hỗ trợ, giúp đỡ
của Nhà nước và cộng đồng dân cư về vốn, tư liệu sản xuất, kinh nghiệm làm ăn... Cần
tăng cường giáo dục ý thức trách nhiệm, tinh thần tự lực, tự cường tiết kiệm, ý thức vươn
lên của bản thân người lao động. Đây là yếu tố mang tính quyết định nhất. Sự hỗ trợ của
Nhà nước, của xã hội sẽ vô nghĩa nếu bản thân họ không nỗ lực vươn lên.
Tóm lại: Phân hoá giàu nghèo, phân hoá thu nhập là một hiện tượng xã hội không
chỉ bắt nguồn từ kinh tế và có quan hệ tới nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó để giải
quyết tốt vấn đề thu nhập, Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương, chính sách kinh tế
- xã hội đồng bộ, phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể từng vùng, địa phương và mỗi
dân tộc. Những phương hướng và giải pháp nêu trên chủ yếu nhằm góp phần đẩy mạnh
việc thực hiện nâng cao thu nhập trong các hộ nông dân tỉnh Sóc Trăng những năm trước
mắt. Giải quyết tốt vấn đề thu nhập trong địa bàn nông thôn tỉnh Sóc Trăng và trên cả nước
ta chính là thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
KẾT LUẬN
Phân hoá giàu nghèo, phân hoá thu nhập là một hiện tượng phổ biến mang tính toàn
cầu. Nó có nguồn gốc sâu xa từ chế độ sở hữu tư nhân, tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Nó là một cản trở cho sự phát triển kinh tế, một nhân tố mất ổn định về chính trị và
xã hội của mỗi quốc gia. Đối với nước ta phân hoá giàu nghèo và phân hoá thu nhập có thể
làm lu mờ bản chất nhân đạo tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Do đó “Giải quyết tốt vấn đề
thu nhập” có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, cuộc đấu tranh chống đói nghèo, nâng
cao thu nhập cho người lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng gần 10 năm qua đã đạt được
thành tựu đáng khích lệ. Căn bản xoá được hộ đói từ năm 1997, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh
chóng, đời sống của đại bộ phận nhân dân lao động ở nông thôn được cải thiện và nâng
lên, thu nhập bình quân đầu người ở vùng nông thôn của tỉnh nhảy vọt, số hộ khá và giàu
xuất hiện ngày càng nhiều làm cho nội lực phát triển của tỉnh được tăng cường và bổ sung.
Tuy nhiên, đó mới là thắng lợi bước đầu chưa vững chắc, vẫn còn nhiều hộ gia đình rất
nghèo, nhất là các hộ gia đình nông dân ở nông thôn. Vì vậy, “Giải quyết tốt vấn đề thu
nhập” nói chung và trong địa bàn nông thôn tỉnh Sóc Trăng nói riêng còn phải tiếp tục
hằng ngày, hằng giờ. Nó là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và cấp bách của Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh, chứ không phải là trách nhiệm của cá nhân người
lao động.
Đảng ta nhiều lần khẳng định: Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là một chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, động lực thúc đẩy xã hội phát triển;
khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng.
Để giải quyết tốt vấn đề thu nhập, bên cạnh việc điều tra, phân tích sâu sắc thực
trạng diễn biến của vấn đề thu nhập, chỉ ra nguyên nhân cụ thể cho từng đối tượng, còn cần
phải áp dụng đồng bộ các chính sách và giải pháp hỗ trợ ưu đãi của Nhà nước, bao gồm cả
giải pháp kinh tế và giải pháp xã hội vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, tạo nhiều cơ hội mới cho người lao động vươn lên đứng vững trong môi
trường cạnh tranh.
Xuất phát từ những ý tưởng trình bày trên và với một thái độ nghiêm túc, tôi mạnh
dạn đề xuất một số kiến nghị cụ thể như sau:
1. Đối với Trung ương:
Một là, tăng cường hơn nữa vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc
biệt là các xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc Khơmer.
Hai là, tăng cường các nguồn vốn cho người lao động ở nông thôn vay.
2. Đối với tỉnh:
Một là, nhanh chóng kiện toàn ban chỉ đạo chính sách xã hội các cấp, nhất là cấp
xã, phường, thị trấn đủ mạnh gồm những cán bộ có năng lực, uy tín và trách nhiệm, nhiệt
tình...
Hai là, chủ động xây dựng và triển khai các dự án, chương trình, mục tiêu để huy
động các nguồn vốn nhằm giải quyết tốt vấn đề thu nhập.
3. Đối với bản thân người lao động ở nông thôn:
Phải nêu cao tinh thần vượt khó, phát huy truyền thống đoàn kết, ý thức tự lực, tự
cường, tự tìm việc làm thích hợp để có thu nhập chính đáng, không tự mãn với những gì đã
có mà phải mạnh dạn đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, từng bước vươn lên vững chắc.
Mặt khác, chịu khó học hỏi, đoàn kết giúp đỡ nhau, tự giác phấn đấu với chính mình và
với những biểu hiện tiêu cực ngoài xã hội để gạt bỏ những tập quán, thói quen lạc hậu, yếu
kém, mặc cảm và thụ động; triệt để tiết kiệm trong tiêu dùng, thực hiện lối sống lành
mạnh.