Đề bài: Giải thích bình luận câu nói của Nam Cao trong Đời thừa “Văn chương <br />
không cần đến những người thợ khéo tay…”<br />
Bài làm<br />
Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao tuy chỉ trên dưới mười năm nhưng nhà văn đã để lại cho <br />
đời những tác phẩm văn chương có giá trị lâu dài. Suốt thời gian cầm bút, Nam Cao luôn <br />
suy tư, trăn trở để tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, nhằm đạt được những sáng tạo <br />
nghệ thuật đích thực.<br />
Giữa lúc trên văn đàn nảy sinh nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau, thậm chí đối <br />
lập nhau, Nam Cao đã bày tỏ quan điểm một cách lặng lẽ nhưng quyết liệt trong một số <br />
truyện ngắn của mình.<br />
Theo ông, nghệ thuật phải nói lên sự thực, không được thi vị hóa cuộc sống, đừng làm <br />
ánh trăng lừa dối trên nỗi khổ đau của con người (Trăng sáng) và khẳng định: Văn chương <br />
không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn <br />
chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai <br />
khơi và sáng tạo những cái gì chưa có (Đời thừa).<br />
Nam Cao cũng đã từng thử tài trong nhiều thể loại và phong cách khác nhau. Thời gian <br />
đầu, ông có chịu ảnh hưởng của thơ văn lãng mạn, loại dễ dãi, thời thượng không mấy <br />
giá trị. Sau đó, ông nhanh chóng hiểu ra rằng thứ văn chương ấy chỉ là phù phiếm, không <br />
dính dáng gì tới đời sống của muôn kiếp người đang rên xiết, khổ đau vì đói rét và nô lệ. <br />
Nó giống như ánh trăng xanh huyền ảo đang tỏa mộng xuống trần gian, vô cùng quyến rũ <br />
nhưng chính cái vẻ đẹp thơ mộng ấy lại chứa đựng sự lừa dối bởi nó làm đẹp đến cả <br />
những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa.<br />
Nhà văn cho rằng nghệ thuật chân chính phải chứa đựng sự thực, vì vậy, nó có thể chỉ là <br />
những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Quan điểm này có tính hiện <br />
thực và nhân đạo sâu sắc. Nam Cao từ bỏ khuynh hướng văn chương lãng mạn thơ mộng <br />
chính là từ bỏ con đường thoát li ích kỉ. Lựa chọn con đường nghệ thuật hiện thực là tìm <br />
về chỗ đứng của mình ở phía quần chúng lao khổ, là tự vượt lên mình để vươn tới một <br />
nghệ thuật chân chính.<br />
Muốn trở thành nhà văn cần phải có hai yếu tố: cái tâm và cái tài. Cái Tâm là cội nguồn <br />
của mọi giá trị trên đời. Nói như đại thi hào Nguyễn Du: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ <br />
tài. Tác phẩm văn chương là đứa con tinh thần, là tâm huyết nhà văn nên nhà văn phải hết <br />
sức, hết lòng với nó. Văn chương không chấp nhận những nhà văn có trái tim lạnh lùng, <br />
vô cảm trước đời sống, không biết rung động trước niềm vui, nỗi đau của con người, dù <br />
anh ta có khéo tay đến mức nào. Bởi lẽ văn chương không đơn thuần là trò chơi chữ <br />
nghĩa. Cao hơn thế, tác phẩm là nơi nhà văn gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình đối <br />
với con người và cuộc sống. Vì vậy, văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, biết <br />
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. Nam Cao khẳng <br />
định nghệ thuật là sự sáng tạo đích thực. Một tác phẩm phải mang sắc thái, phong cách <br />
của riêng nhà văn sinh ra nó chứ không phải của một ai khác. Văn chương tối kị sự đơn <br />
điệu, công thức và sáo mòn bởi những điều đó sẽ gây ra cho người đọc cảm giác tẻ nhạt, <br />
nhàm chán. Nhà văn là người sáng tạo ra cái đẹp nên phải luôn luôn đào sâu suy nghĩ <br />
trước cuộc sống muôn màu muôn vẻ để phát hiện ra sự phong phú, đa dạng của nó, lấy <br />
nó làm cơ sở cho những sáng tác của mình. Từ đó tạo cho mình một bản sắc riêng, tiếng <br />
nói riêng trên văn đàn.<br />
Muốn vậy, nhà văn phải bám sát hiện thực, biết mở lòng ra đón lấy tất cả những vang <br />
động của đời. Độ dày vốn sống cùng với tài năng là tiền đề vững chắc cho mọi hoạt <br />
động sáng tạo của nhà văn. Những vấn đề mới mẻ, độc đáo cả về nội dung lẫn nghệ <br />
thuật thể hiện sẽ là những cống hiến thực sự có giá trị của nhà văn cho nghệ thuật và <br />
cuộc sống.<br />
Ở Nam Cao có sự thống nhất triệt để giữa quan điểm và thực tiễn sáng tác. Ông là một <br />
trong những nhà văn được đánh giá là có lương tâm nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm <br />
cao.<br />
Có thể coi Điền trong Trăng sáng và Hộ trong Đời thừa chính là nhân vật – tư tưởng của <br />
nhà văn và hai truyện ngắn này là tuyên ngôn nghệ thuật của ông.<br />
Hộ là một văn sĩ nghèo, có tài năng, muốn sống một cuộc sống tốt đẹp, muốn trở thành <br />
nhà văn có tâm huyết nhưng anh bị cuộc đời nghiệt ngã níu kéo và vùi dập.<br />
Khát vọng vươn tới những điều cao đẹp mâu thuẫn với thực tế đen tối phũ phàng đã đưa <br />
tới sự giằng xé triền miên trong nội tâm anh. Với tư cách một nhà văn, Hộ hằng mong <br />
ước tạo ra những tác phẩm thật có giá trị vượt lên tất cả các bờ cõi và giới hạn, bằng <br />
cách khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. Nhưng vì miếng <br />
cơm manh áo hằng ngày, anh đành phải viết vội vàng, cẩu thả, phải cho in thứ văn <br />
chương quấy loãng để kiếm chút tiền ít ỏi nuôi vợ nuôi con. Là người có liêm sỉ, nhiều <br />
khi Hộ đỏ mặt, tự mắng mình là một thằng khốn nạn, một kẻ bất lương, không đem đến <br />
cho văn chương một cái gì mới mẻ và hữu ích. Nỗi đau này không ngớt giày vò lương tâm <br />
Hộ, một nhà văn có tâm, có tài mà phải sống giữa cuộc đời đen bạc.<br />
Truyện ngắn Đời thừa thể hiện quan niệm về nghề văn và trách nhiệm xã hội của nhà <br />
văn. Nam Cao cho rằng nghề văn là một hình thái lao động xã hội nghiêm túc và sáng tạo, <br />
mục đích nghề văn nhằm tới là nhân đạo. Nó có tác dụng giáo dục, cảm hóa rất lớn đối <br />
với con người. Một tác phẩm có giá trị phải : chứa đựng được một cái gì đó lớn lao mạnh <br />
mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… <br />
Nó làm cho người gán người hơn.<br />
Bên cạnh đó, Nam Cao cũng nêu lên quan điểm về mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật <br />
và đời sống. Ông muốn đặt cuộc sống lên trên văn chương. Nhà văn muốn viết cho tốt <br />
trước hết phải sống cho tốt, cho nhân đạo.<br />
Nhân vật Điền trong truyện ngắn Trăng sáng cũng chính là bóng dáng của Nam Cao. <br />
Giống như Hộ, Điền rơi vào bi kịch của mâu thuẫn gay gắt giữa khát vọng cao đẹp và <br />
hiện thực tầm thường. Mộng văn chương của Điền thật lớn nhưng nó bị giam cầm, bó <br />
buộc trong cái khung chật hẹp của cuộc sống khốn khổ, cơ cực hàng ngày. Bị áo cơm ghì <br />
sát đất, Điền trở nên tầm thường như bao kẻ khác. Anh chỉ có một con đường duy nhất <br />
để đến với văn chương là phải chấp nhận hiện thực, phải mở lòng ra đón lấy tất cả <br />
những vang động của đời và ngòi bút của anh phải nói lên nỗi khổ đau đang đè nặng lên <br />
mỗi kiếp người.<br />
Nam Cao viết về người nông dân rất sâu sắc và cảm động. Nhà văn phát hiện đằng sau <br />
cái vẻ lam lũ, thô kệch của họ là những đức tính VÔ cùng đáng quý: lòng vị tha, đức hi <br />
sinh (Lão Hạc, Dì Hảo), khát vọng được sống, được yêu thương (Lang Rận, Chí Phèo…). <br />
Nhà văn đi sâu phân tích đời sống tâm linh của mỗi số phận trong từng cảnh huống khác <br />
nhau để cảm thông, chia sẻ nỗi đau thương, bất hạnh bao phủ lên mọi cuộc đời nghèo <br />
khổ (Một bữa no, Nghèo, Nửa đêm…).<br />
Điều lớn lao mà Nam Cao phát hiện ra chính là cái cốt lõi bản chất của con người. Cho dù <br />
hiện thực xã hội có đen tối, phũ phàng đến đâu cũng không dập tắt nổi tiếng nói của <br />
lương tri, không thể hủy diệt hoàn toàn nhân cách. Nhà văn yêu thương con người nên <br />
căm phẫn tất cả những xâm hại đến quyền sống, quyền làm người. Những tác phẩm của <br />
ông đều chứa đựng những bài học nhân sinh sâu sắc đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh <br />
xã hội: Hãy cứu lấy con người! Nội dung tư tưởng tiến bộ ấy có giá trị lâu dài.<br />
Bên cạnh những tìm tòi, phát hiện mới mẻ về nội dung, Nam Cao còn có những đóng góp <br />
to lớn trong lĩnh vực nghệ thuật, ông đã đem lại một sự đổi mới rất mạnh bạo cho văn <br />
xuôi Việt Nam thời ấy. Văn phong Nam Cao gọn gàng, trong sáng và hiện đại. Đặc biệt, <br />
ông đã cống hiến cho văn chương và cuộc đời những hình tượng nhân vật bất hủ như Chí <br />
Phèo, bá Kiến, lão Hạc,… cùng với những Thứ, Hộ, Điền,… mà ấn tượng của những <br />
nhân vật này đối với người đọc thật là sâu sắc.<br />
Tóm lại, vấn đề lớn lao nhất, phổ biến nhất mà Nam Cao đề cập đến trong các tác phẩm <br />
của ông chính là những bi kịch tinh thần của con người trong thời đại ấy. Họ luôn khát <br />
khao vươn tới cái lương thiện, cái tốt đẹp nhưng cứ bị trói buộc vào cuộc sống vật chất <br />
đói khổ, tầm thường, thậm chí bị xã hội bất công, thối nát cướp đoạt cả quyền làm người <br />
chân chính.<br />
Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao rất đặc sắc. Ông có biệt tài trong việc phân tích và <br />
diễn tả tâm lí nhân vật (Chí Phèo, Thứ, Hộ, Điền, lão Hạc…). Ngòi bút sắc sảo của ông <br />
lột tả được chân dung tinh thần của từng nhân vật, đi sâu khám phá quá trình diễn biến <br />
tâm lí của họ. Giọng văn Nam Cao linh hoạt, biến hóa, mỗi truyện một giọng điệu, có khi <br />
một truyện được kể và tả bằng nhiều giọng điệu khác nhau, do đó tác phẩm của ông có <br />
sức hấp dẫn đặc biệt.<br />
Cần phải nói đến tính triết lí trong văn Nam Cao. Mỗi truyện, dù ngắn hay dài, nhà văn <br />
đều gửi gắm những suy nghĩ, quan điểm nhân sinh của mình vào đó (Đời thừa, Trăng <br />
sáng, Lão Hạc, Sống mòn, Chí Phèo…), ông không triết lý suông như nhiều nhà văn khác <br />
mà triết lý bằng hình tượng nghệ thuật, do vậy mà có sức thuyết phục lớn. Những tìm tòi, <br />
phát hiện và sáng tạo của Nam Cao đã đưa ông lên vị trí hàng đầu trong các cây bút văn <br />
xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Sự nghiệp sáng tác của ông là một chứng minh hùng <br />
hồn cho quan điểm nghệ thuật đúng đắn và tiến bộ mà ông đã nêu ra.<br />
<br />