BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KHUYÊN

VÊN §Ò GI¸O DôC TÊM G¦¥NG §¹O §øC Hå CHÝ MINH

CHO SINH VI£N C¸C TR¦êNG §¹I HäC ë T¢Y NGUY£N HIÖN NAY

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 9229001

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS. TS. Nguyễn Thị Thọ

2. TS. Nguyễn Thị Vân

HÀ NỘI – 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi

dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thị Thọ và TS. Nguyễn

Thị Vân, các kết quả của luận án là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Khuyên

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ vô

cùng quý báu của các tập thể và cá nhân.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thị Thọ và

TS. Nguyễn Thị Vân, những người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi

trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa Triết

học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, các nhà khoa học ở các cơ sở nghiên cứu

và giáo dục khác đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi hoàn thành luận án này.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các giảng viên và sinh viên Trường

Đại học Đà Lạt, Trường Đại học Buôn Ma Thuột, Trường Đại học Tây

Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi tiến hành phát phiếu điều tra, khảo

sát phục vụ nghiên cứu đề tài luận án.

Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động

viên, khuyến khích và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, tháng … năm 2021

Tác giả

Nguyễn Thị Khuyên

iii

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án ................................................. 4

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 4

5. Những đóng góp của luận án: ....................................................................... 5

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu ................................... 5

7. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 6

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ....................................................................................... 7

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận về

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và về giáo dục tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh ............................................................................................ 7

1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng và các

giải pháp giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh ............................... 18

1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã tổng

quan và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án .......... 28

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 30

CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TẤM

GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN CÁC

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY ............................... 31

2.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................ 31

2.1.1. Sinh viên, đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên ..................... 31

2.1.2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh .................................................... 37

2.1.3. Giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ...................................... 41

iv

2.2. Nội dung và đặc trƣng của tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh .......... 43

2.2.1. Nội dung của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ............................... 43

2.2.2. Đặc trưng của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ............................. 61

2.3. Sự cần thiết và các thành tố cơ bản của giáo dục tấm gƣơng đạo

đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trƣờng đại học ở Tây Nguyên ......... 65

2.3.1. Đặc điểm của sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên ................. 65

2.3.2. Sự cần thiết giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh

viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay ........................................ 70

2.3.3. Các thành tố cơ bản của giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay ................ 76

Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 87

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

TRONG GIÁO DỤC TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở TÂY NGUYÊN

HIỆN NAY ..................................................................................................... 88

3.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí

Minh cho sinh viên các trƣờng đại học ở Tây Nguyên hiện nay .............. 88

3.2. Thực trạng giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh

viên các trƣờng đại học ở Tây Nguyên hiện nay ........................................ 97

3.2.1. Những thành tựu đạt được trong giáo dục tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay ......... 97

3.2.2. Những hạn chế trong giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay ........................ 113

3.2.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong giáo dục tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở Tây

Nguyên hiện nay ....................................................................................... 123

v

3.3. Một số vấn đề đặt ra trong giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí

Minh cho sinh viên các trƣờng đại học ở Tây Nguyên hiện nay ............ 128

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 131

CHƢƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ

GIÁO DỤC TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO SINH

VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY ...............132

4.1. Nâng cao nhận thức của Đảng ủy, Ban giám hiệu và trách nhiệm

nêu gƣơng của các chủ thể giáo dục .......................................................... 132

4.1.1. Nâng cao nhận thức của Đảng ủy, Ban giám hiệu .......................... 132

4.1.2. Nâng cao trách nhiệm nêu gương của các chủ thể giáo dục ........... 135

4.2. Nâng cao hiệu quả giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh

thông qua hoạt động giảng dạy các môn lý luận chính trị ...................... 138

4.2.1. Khai thác triệt để, hợp lý các nội dung về tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh trong giảng dạy các môn lý luận chính trị .................................. 138

4.2.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị ............... 143

4.3. Nâng cao hiệu quả giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh

thông qua các phong trào của tổ chức Đoàn, Hội .................................... 147

4.4. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội

trong giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên ............. 151

4.5. Phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên trong học tập và

rèn luyện theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh .................................... 156

Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................ 160

KẾT LUẬN .................................................................................................. 161

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...................... 164

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 165

PHỤ LỤC

vi

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

1. CNXH: Chủ nghĩa xã hội

2. ĐH: Đại học

3. GV: Giảng viên

4. KTTT: Kinh tế thị trường

5. LLCT: Lý luận chính trị

6. SV: Sinh viên

7. TGĐĐ: Tấm gương đạo đức

8. XHCN: Xã hội chủ nghĩa

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1. Ý kiến của GV về những hành động của họ để bảo vệ cái

đúng, bảo vệ lợi ích của tập thể ................................................ 101

Bảng 3.2. Ý kiến của GV về những hành động của họ để giúp đỡ SV và

những người sống xung quanh .................................................... 103

Bảng 3.3. Nhận thức của SV về vai trò của tư tưởng và TGĐĐ Hồ

Chí Minh .......................................................................... 105

Bảng 3.4. Nhận thức của SV về sự cần thiết vận dụng, học tập và rèn

luyện của SV đối với các phẩm chất của TGĐĐ Hồ Chí Minh 107

Bảng 3.5. Hành động của SV đối với các luận điệu của thế lực thù địch . 109

Bảng 3.6. Những việc làm cụ thể của SV giúp đỡ những người xung quanh 112

Bảng 3.7. Ý kiến của SV về những biểu hiện đáng lo ngại về đạo đức,

lối sống của SV hiện nay .......................................................... 120

viii

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 3.1. Nhận thức của SV về sự cần thiết giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV ........................................................................... 106

Biểu đồ 3.2. Mức độ tin tưởng của SV vào sự nghiệp đổi mới của đất nước .... 108

Biểu đồ 3.3. Điều SV quan tâm nhất hiện nay ............................................ 117

Biểu đồ 3.4. Tỉ lệ SV tốt nghiệp lần đầu của Trường ĐH Tây Nguyên ..... 119

Biểu đồ 3.5. Những lý do SV tham gia vào các hoạt động tình nguyện ..... 123

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít những lãnh tụ trên thế giới

dành sự quan tâm đặc biệt của mình đến một lĩnh vực tinh thần đặc trưng cho

dân tộc, cho cộng đồng người đó là đạo đức. Hơn thế, Người đã khéo khơi

dậy, phát huy các giá trị đạo đức, biến nó thành sức mạnh to lớn góp phần xóa

bỏ chế độ xã hội cũ đã trở nên lạc hậu, thối nát, phản động và xây dựng một

xã hội mới tiến bộ, tốt đẹp. Với di sản lý luận đồ sộ mà Người để lại thuộc về

nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao, quân sự,…lĩnh vực

đạo đức là độc đáo nhất bởi đó không chỉ là những quan điểm, lý luận quý

báu về đạo đức mà còn là tấm gương tiêu biểu, thể hiện sinh động, cụ thể của

những quan điểm đó.

Nếu như toàn bộ tư tưởng và cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh

nhằm mục đích là mang lại nền độc lập thực sự cho đất nước, để đồng bào

thoát cảnh nô lệ, lầm than thì đạo đức Hồ Chí Minh cũng là phục vụ cho mục

đích ấy. Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp mà Hồ Chí Minh là hiện thân đã

trở thành mục tiêu mà mỗi người Việt Nam hướng đến. Đồng thời, tấm gương

đạo đức (TGĐĐ) của Người cũng tượng trưng cho những gì là tinh hoa,

những điều tốt đẹp nhất về đạo đức của dân tộc và nhân loại đã động viên, lôi

cuốn mọi tầng lớp nhân dân biến thành động lực, sức mạnh không lực lượng

nào ngăn cản và đưa lý tưởng cao đẹp của Hồ Chí Minh trở thành hiện thực

cách mạng sinh động. Không chỉ nhìn thấy những công việc cần giải quyết

trong hiện tại mà Người còn thấy những công việc của mai sau và lực lượng

đảm nhiệm không ai khác là thế hệ trẻ. Vì vậy, Hồ Chí Minh đặc biệt dành sự

yêu thương, quan tâm đến sự phát triển của lớp người kế tiếp sự nghiệp của

thế hệ cha anh. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh về việc Đảng, nhà nước và xã hội

cần vạch ra kế hoạch và thực hiện để giáo dục, bồi dưỡng họ thành những con

2

người có các yếu tố của sự phát triển toàn diện là có “đức”, có “tài”, xứng

đáng trở thành thế hệ cách mạng kế cận thế hệ cha anh. Trong Di chúc, Người

dặn dò: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo

họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa

chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng

và rất cần thiết” [93, tr.622].

Là những thanh niên có học thức, nhanh chóng nắm bắt, tiếp thu thông

tin, tri thức, kỹ năng mới, năng động, ham học hỏi, có óc sáng tạo, sinh viên

(SV) là lực lượng sẵn sàng bổ sung cho đội ngũ trí thức trong tương lai, có vai

trò hết sức quan trọng. Do vậy, họ được gia đình, nhà trường và xã hội yêu

thương, săn sóc, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất với mục tiêu đào tạo, phát

triển họ thành những người có “phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ

năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng

khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đạo tạo; có sức khỏe; có khả

năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp” [34, tr.10].

SV các trường đại học (ĐH) ở Tây Nguyên vừa mang những đặc điểm

chung của SV Việt Nam, vừa có những đặc điểm mang tính đặc thù. Học tập

trên địa bàn các tỉnh miền núi, là nơi cư trú của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số

với trình độ kinh tế, xã hội nhìn chung còn kém phát triển, SV vẫn đang là đối

tượng mà các lực lượng phản động ở nước ngoài hướng đến lôi kéo, dụ dỗ,

kích động để tham gia các vụ bạo loạn, gây rối của chúng. Trên cơ sở nhận

thức được tầm quan trọng của giáo dục đạo đức và giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03- CT/TW, Chỉ thị 05 – CT/TW

và Nghị quyết 29 – NQ/TW của Đảng, công tác này ở các trường ĐH ở Tây

Nguyên đã đạt được những thành tựu bước đầu đáng ghi nhận. Đa số SV các

trường ĐH ở Tây Nguyên tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào định hướng

phát triển đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), có nhiều SV tích cực phấn

đấu để đứng trong hàng ngũ của Đảng, nhiệt tình với các hoạt động tình

3

nguyện, cống hiến sức trẻ cho cộng đồng, nỗ lực trong học tập, chủ động

nghiên cứu khoa học và rèn luyện đạo đức. Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận SV

chưa chú ý bồi dưỡng đạo đức, có lối sống đề cao lợi ích của bản thân, đề cao

vật chất, xem nhẹ các giá trị tinh thần vì không đem đến những điều họ quan

tâm, có lợi cho họ, chưa có động cơ đúng đắn nên lười biếng trong học tập, lao

động, thiếu nỗ lực vươn lên vượt khó trong học tập và cuộc sống, thiếu trung

thực, thờ ơ với tình hình đời sống các mặt của địa phương, của đất nước, chưa

thể hiện trách nhiệm cần phải có của một thành viên, một công dân tích cực đối

với gia đình, cộng đồng, xã hội. Trong thời gian tới, để góp phần làm cho hiệu

quả của công tác giáo dục và đào tạo được cải thiện và ngày càng nâng cao,

nhất là giáo dục đạo đức cho SV, các trường ĐH ở Tây Nguyên cần nghiên cứu

và đề ra cách thức giải quyết vấn đề và hoạt động sao cho phù hợp với đặc

điểm riêng của mỗi trường, đồng thời tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05 – CT/TW

“Về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”.

Xuất phát từ cơ sở lý luận và đặc biệt là trước yêu cầu của thực tiễn

trên, em chọn đề tài: “Vấn đề giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay” làm đề tài luận án

của mình.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, phân tích thực trạng về giáo

dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên, luận án đề

xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho

SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án;

- Làm rõ những vấn đề lý luận về giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho

SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay;

4

- Phân tích thực trạng và nêu lên những vấn đề đặt ra của việc giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay;

- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho

SV các trường ĐH ở Tây Nguyên.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên thông qua hai phương thức chính

là hoạt động giảng dạy các môn khoa học xã hội & nhân văn, đặc biệt là các

môn lý luận chính trị (LLCT) và các hoạt động thực tiễn do Đoàn thanh niên

và Hội SV tổ chức.

- Về không gian: Giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH

ở Tây Nguyên hiện nay, qua khảo sát 3 trường: Trường ĐH Tây Nguyên,

Trường ĐH Đà Lạt và Trường ĐH Buôn Ma Thuột.

- Về thời gian: Từ năm 2011 đến nay. Tác giả lấy mốc 2011 là thời

điểm Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 03 – CT/TW (14/5/2011) về “Tiếp tục

đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về SV và

giáo dục đạo đức cho SV.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nhiệm vụ của luận án, tác giả đã sử dụng phương pháp

luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kết hợp

với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

5

- Phương pháp lịch sử - logic: Dùng để nắm cái chủ yếu, bản chất, tất

nhiên và xu hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu, đồng thời, bám sát sự

vận động của nó trong sự cụ thể, phong phú với những tác động của các yếu

tố khác.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Dùng để khai thác thông tin từ các

nguồn tài liệu, văn bản từ đó có thể đánh giá các yếu tố, các quá trình liên

quan đến đề tài nghiên cứu, đồng thời, thu thập, khái quát nội dung các văn

bản, tài liệu để phục vụ cho nhiệm vụ của đề tài.

- Phương pháp so sánh: Dùng chỉ ra sự khác biệt, tính đặc thù trên cơ

sở đánh giá nhiều đối tượng khác nhau trong các vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp điều tra xã hội học: Dùng để thu thập thông tin từ SV,

GV thông qua các phiếu hỏi, giúp cho việc nhìn nhận, đánh giá thực trạng,

những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ của đề tài.

- Phương pháp thống kê: Sử dụng phần mềm chuyên dụng SPSS và

phần mềm văn phòng Excel để xử lý các số liệu điều tra phục vụ đề tài.

5. Những đóng góp của luận án:

- Luận án góp phần làm rõ khái niệm TGĐĐ Hồ Chí Minh, khái niệm

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh, hệ thống hóa và làm rõ các nội dung, đặc trưng

của TGĐĐ Hồ Chí Minh;

- Chỉ ra các nhân tố tác động, thực trạng và nguyên nhân của những

thành tựu và hạn chế trong công tác giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các

trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay;

- Chỉ ra mâu thuẫn cơ bản và các vấn đề đặt ra trong giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay, từ đó, đề xuất

các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh

cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ bổ sung và làm sáng rõ thêm những

vấn đề lý luận về TGĐĐ Hồ Chí Minh, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV

6

các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay. Luận án có thể trở thành tài liệu tham

khảo phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, học tập và giảng dạy các môn học

như: Đạo đức học, Tư tưởng Hồ Chí Minh...

Luận án cung cấp thêm những luận cứ khoa học phục vụ công tác giáo

dục nói chung và giáo dục đạo đức cho SV nói riêng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình công bố của tác giả,

danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương, 15 tiết.

7

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận về

tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh và về giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ

Chí Minh

Phạm Văn Đồng trong “Hồ Chủ tịch, tinh hoa của dân tộc, lương tâm

của thời đại” (1975) [47] đã chỉ rõ, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống

Pháp và Mỹ ở Việt Nam xuất phát từ sự tài tình trong lãnh đạo và đoàn kết

toàn thể dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sự đoàn kết đó có được là do

mục tiêu của Hồ Chủ tịch thống nhất với ước nguyện của mọi người dân Việt

Nam. Hơn nữa, nhân cách lớn của Người đã thức tỉnh, cảm hóa khiến mọi

người xóa bỏ định kiến, khác biệt để đoàn kết cùng nhau chiến đấu. Trong

suốt cuộc đời hoạt động, thông qua những hành động tích cực, sự quan sát và

chiêm nghiệm ở Hồ Chí Minh đã thấm đẫm các giá trị tinh thần, tinh túy văn

hóa của dân tộc và nhân loại. Điều đặc biệt ở Người là sự hòa quyện một cách

tự nhiên giữa đời sống cá nhân giản dị với hoạt động chính trị có tầm vóc

quốc tế. Người đã trở thành TGĐĐ trong sáng với những nét tiêu biểu: “trung

với nước, hiếu với dân”; “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; mà mỗi một

người Việt Nam cần ra sức học tập để có quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm

lược và xây dựng đất nước mạnh giàu. Như vậy, tác giả luận án có thể kế thừa

tri thức về TGĐĐ được thể hiện một cách sinh động thông qua sinh hoạt hàng

ngày và hoạt động của một chiến sĩ cách mạng, một nhà chính trị chuyên

nghiệp Hồ Chí Minh đã được một trong những người học trò, người đồng chí

gần gũi nhất ghi lại trong tài liệu này.

Vũ Khiêu trong“Mấy vấn đề về đạo đức cách mạng” (1978) [67] đã đi

tìm bản chất của nền đạo đức mà Hồ Chí Minh đã sáng lập và ra sức giáo dục

8

cho nhân dân là đạo đức của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp

tiên tiến và cách mạng nhất. Các quan điểm cơ bản về đạo đức được xây dựng

dựa trên lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp công nhân, đồng thời là

đạo đức của quần chúng lao khổ chống lại những kẻ áp bức, bóc lột, là đạo

đức cách mạng hoàn toàn đối lập với đạo đức tư sản. Nếu đạo đức tư sản xây

dựng trên cơ sở kinh tế là lợi nhuận của giai cấp tư sản, là chủ nghĩa cá nhân

vị kỉ thì Hồ Chí Minh lại luôn nêu cao tinh thần tập thể và chống lại chủ nghĩa

cá nhân. Đạo đức cách mạng cũng không thể dung hòa với đạo đức phong

kiến và tập quán xấu của xã hội cũ. Đạo đức cách mạng đã góp phần thực

hiện sự nghiệp chính trị của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam khi đã

biến sức mạnh tinh thần của lòng yêu nước, đoàn kết, ý chí kiên cường, bất

khuất bảo vệ độc lập tự do biến thành hành động cách mạng của cả dân tộc,

trở thành sức mạnh vô địch. Đây là những nội dung mà tác giả luận án có thể

kế thừa để phân biệt đạo đức cách mạng khác về nội dung, cơ sở đánh giá so

với đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản. Đặc biệt, tài liệu cung cấp luận cứ

khoa học khẳng định vai trò sức mạnh mà đạo đức cách mạng đã tạo ra.

Thành Duy trong “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” (1996) [38] đã

chỉ rõ, Hồ Chí Minh trước hết đã tiếp cận và khai thác giá trị đạo đức cổ

truyền Việt Nam. Những dấu ấn khá rõ nét của lý tưởng, quan điểm truyền

thống dân tộc và Nho giáo trong các quan điểm, lý luận của Hồ Chí Minh nói

chung, về đạo đức nói riêng. Tuy vậy theo tác giả, Người đã xây dựng tư

tưởng mang đặc trưng, khác biệt về chất đó là đạo đức cách mạng. Khi đến

với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu phương pháp

làm việc biện chứng mà còn tiếp thu phép biện chứng ấy để xây dựng và rèn

luyện đạo đức. Nhờ đó, Người đã thực hiện quá trình “phủ định biện chứng”

trong lĩnh vực đạo đức, khi giữ lại những nội dung hợp lý của quá khứ và phát

triển nó khi cơ sở xã hội đã thay đổi. Tác giả đã khẳng định vai trò to lớn của

đạo đức Hồ Chí Minh đối với những bước chuyển biến của cách mạng và lịch

9

sử dân tộc Việt Nam. Đạo đức Hồ Chí Minh với sự gắn bó hữu cơ giữa tư

tưởng và TGĐĐ Hồ Chí Minh đã đạt đến cái chân, thiện, mỹ trở thành di sản

quý báu giúp cho thế hệ ngày mai tháo gỡ những khó khăn. Do đó, cần khai

thác và vận dụng di sản tinh thần ấy ngay từ bây giờ nhằm bảo đảm nền tảng

tư tưởng đạo đức xã hội khỏi chệch hướng. Như vậy, với tài liệu này, tác giả

luận án có thể kế thừa tri thức về nguồn gốc, đặc điểm, vai trò của tư tưởng,

đặc biệt vai trò của TGĐĐ Hồ Chí Minh đối với xã hội Việt Nam hiện nay.

Nguyễn Văn Khoan trong “Bác Hồ - con người và phong cách” (2007)

[74], đã dành phần lớn nội dung kể lại những câu chuyện chân thực trong

những cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với các tầng lớp nhân dân. Qua đó góp

phần khắc họa rõ hơn về con người, phong cách Hồ Chí Minh. Cuốn sách cho

người đọc cảm nhận một cách rõ nét, chân thực tình yêu, sự quan tâm chan

chứa thường trực mà Hồ Chí Minh dành cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã

hội. Những câu chuyện đó còn phản ánh rất rõ TGĐĐ Hồ Chí Minh với

những phẩm chất khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm,… mà Người thường xuyên

giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phần cuối cuốn sách, tác giả tập

hợp một số bài viết phân tích về những ảnh hưởng, dấu ấn của Nho giáo, nhất

là những điều hợp lý của học thuyết này đối với quá trình xây dựng nền tảng

và phát triển các quan điểm, lý luận của Hồ Chí Minh, đóng góp của Người

đối với thời đại, phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, bao dung Hồ Chí Minh.

Hoàng Chí Bảo trong “Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh” (2009) [20], đã

chỉ rõ, văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh đã đạt đến độ chuẩn mực của văn hóa

đạo đức, bởi ở đó sự thống nhất hữu cơ giữa tư tưởng với hành vi, ứng xử với

đời sống đạo đức hiện thực của Người. Theo tác giả: “Đạo đức Hồ Chí Minh

là đạo đức của một nhà tư tưởng lớn mang tầm vóc vĩ nhân thời đại, danh

nhân văn hóa của thế giới hiện đại, cốt cách hiền triết Á Đông, tiêu biểu cho

tinh hoa đặc sắc của truyền thống dân tộc” [tr.12]. Vì vậy, đạo đức và nhân

cách Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng rộng lớn không chỉ giới hạn trong phạm

10

vi dân tộc mà còn lan tỏa đến với nhân loại. Nếu như trí tuệ, tư tưởng và tâm

hồn vĩ đại bao nhiêu thì cử chỉ, ứng xử của Người lại giản dị, gần gũi, ấm áp

bấy nhiêu. Trong cuốn sách, tác giả còn làm rõ khái niệm “đạo đức Hồ Chí

Minh”. Theo tác giả, sự độc đáo, đặc biệt mà Hồ Chí Minh đã tạo ra trên

phương diện đạo đức là đạo đức học của Người mang tính thực hành, chủ yếu

bằng nêu gương, trong đó Hồ Chí Minh là một chủ thể văn hóa đạo đức. Có

bốn phương diện rất căn bản của đạo đức Hồ Chí Minh: phạm trù “trung

hiếu”; “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; tình thương yêu con người vô

hạn, bao dung nhân ái vĩ đại; tình cảm quốc tế trong sáng. Phần cuối cuốn

sách, tác giả làm rõ những nội dung của “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét

sạch chủ nghĩa cá nhân”, một tác phẩm đã kết tinh những quan điểm chủ yếu

của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.

Mạch Quang Thắng trong “Nhân cách Hồ Chí Minh” (2010) [121], đã

khắc họa rõ nét những đặc trưng của nhân cách Hồ Chí Minh là lòng nhân ái

cao cả; tâm trong sáng; quyết tâm đấu tranh đến cùng để giải phóng con

người; “trung với nước, hiếu với dân”, vì nước, vì dân; “cần kiệm liêm chính,

chí công vô tư”. Nhân cách của Người trước hết đã có sức ảnh hưởng, sự lan

tỏa sâu rộng trong toàn Đảng. Nhờ đó, Hồ Chí Minh đã thành lập và rèn luyện

để Đảng trở thành một tổ chức tiên phong, sáng tạo, dũng cảm, đoàn kết từ

Trung ương đến chi bộ, góp phần đào tạo đội ngũ đảng viên ngày càng hoàn

thiện, trưởng thành qua mỗi giai đoạn cách mạng. Nhân cách cao đẹp của Hồ

Chí Minh cũng đã có sức ảnh hưởng trong toàn dân tộc, nhờ đó đã lôi cuốn,

tác động mạnh mẽ, làm cho tất cả mọi người trong xã hội bỏ qua những khác

biệt để đoàn kết thành một khối chặt chẽ. Như vậy, cuốn sách đã nêu lên

những đặc điểm chính trong nhân cách cũng là đặc điểm chính của TGĐĐ Hồ

Chí Minh tác giả luận án có thể tham khảo và kế thừa.

“Hồ Chí Minh – một người châu Á của mọi thời đại” (2010) [96], công

trình thể hiện một cách cô đọng suy nghĩ, tình cảm chân thành nhất của những

11

người bạn quốc tế, những người có cơ may được gặp gỡ, tiếp xúc với Hồ Chí

Minh. Qua mỗi bài viết, người đọc có thể cảm nhận rất rõ sự ngưỡng mộ với

trí tuệ kiệt xuất, nhân cách cao đẹp của người con tiêu biểu của dân tộc Việt

Nam. Hơn hết, các bạn quốc tế dành cho Hồ Chí Minh sự kính trọng về sự hi

sinh bằng cả cuộc đời trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng nhân dân, dân tộc

Việt Nam, đồng thời, còn góp vào sự nghiệp giải phóng chung của các dân tộc

và nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Trần Văn Giàu trong “Hồ Chí Minh – vĩ đại một con người” (2010)

[50], đã thể hiện tình cảm của một người con miền Nam chân thành, giản dị

nhưng vô cùng sâu sắc dành cho người anh hùng và cũng là người cha đáng

kính của dân tộc. Tác giả cho rằng, khi đề cập đến một trong những thắng lợi

vẻ vang nhất của lịch sử dân tộc ta không thể tách rời với tên tuổi của một con

người Việt Nam vĩ đại nhất đó là Hồ Chí Minh. Với niềm kính yêu vô hạn,

tác giả đã cố gắng khái quát, khắc họa những nét chính về nhân cách vĩ đại đó

cũng là những phương diện chính về TGĐĐ Hồ Chí Minh: một là, con người

luôn coi trọng và đặt đạo đức lên hàng đầu; thứ hai, con người không nghĩ

đến mình chỉ biết đến đất nước, nhân dân; ba là, nhẫn nại, không khuất phục

trước bất kỳ khó khăn, gian khổ; bốn là, hết sức khiêm tốn, giản dị; năm là,

yêu thương, quý trọng con người; sáu là, gần gũi, gắn bó với thiên nhiên.

Cuốn sách đã góp phần khái quát TGĐĐ Hồ Chí Minh với những nét chính,

đây là nền tảng lý luận quan trọng để tác giả luận án kế thừa, phát triển.

“Kỷ yếu hội thảo “Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh – Những giá trị lịch sử

và thời đại”” của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (2010) [39]. Kỷ yếu

gồm bảy mươi sáu bài viết của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học với sáu

chủ đề chính. Chủ đề thứ năm “Muôn vàn tình thương yêu” các tác giả đã phân

tích, làm rõ tình cảm cao đẹp của Hồ Chí Minh được kết tinh trong Di chúc dành

cho đồng bào, cho thương binh liệt sĩ, cho phụ nữ và nhất là cho thế hệ mầm

non, tương lai của đất nước, cho thanh niên, thiếu niên và các cháu nhi đồng. Có

12

thể kể đến các bài viết tiêu biểu, như: “Vì hạnh phúc con người – Tư tưởng bao

trùm trong Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh” của Lê Hanh Thông, “Hồ Chí

Minh – Tình thương dành cho thương binh liệt sĩ” của Nguyễn Thị Thu Trang,

“Mấy vấn đề về giáo dục thanh niên để thực hiện Di chúc của Bác Hồ” của

Phạm Thị Ngọc Thu, “Bác Hồ viết về vai trò của phụ nữ” của Nguyễn Văn

Đạo… Với tài liệu này, tác giả luận án có thêm hiểu biết cụ thể, sâu sắc về tình

cảm cao đẹp mà Hồ Chí Minh đã chắt chiu và gửi gắm trong tác phẩm cuối

cùng. Nổi bật nhất vẫn là tình yêu thương chan chứa, sự quan tâm, lo lắng cho

mỗi tầng lớp nhân dân, qua đó càng củng cố những giá trị của TGĐĐ Hồ Chí

Minh.

Song Thành trong “Hồ Chí Minh – nhà văn hóa kiệt xuất” (2010)

[117], đã khẳng định, Hồ Chí Minh là người đã đặt nền móng và “thiết kế

tổng thể” nền văn hóa mới Việt Nam. Đặc biệt, tác giả dành chương VI để

phân tích sâu về “Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh” với ba nội dung chính: Thứ

nhất, làm rõ vai trò nền tảng cho sự phát triển bền vững của một nhân cách tốt

đẹp, của một xã hội ổn định của đạo đức. Thứ hai, thực hiện nghiêm túc và

triệt để những quan điểm quý báu của Hồ Chí Minh trong xây dựng văn hóa

đạo đức mới. Thứ ba, vấn đề thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Theo tác giả, TGĐĐ Hồ Chí Minh là “tấm

gương của một vĩ nhân, đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người

bình thường, ai cũng có thể học theo để làm một người cách mạng, một người

công dân tốt hơn” [tr.134]. Đó là tấm gương dấn thân vì nước, vì dân, tấm

gương của tinh thần “thắng không kiêu, bại không nản”, là đạo đức của một

người đứng đầu chính phủ luôn tâm niệm mình là “công bộc” phục vụ đem lại

những điều tốt đẹp nhất cho nhân dân. Đồng thời, đó là tấm gương điển hình

về lòng yêu thương con người, cuộc đời thanh cao, trong sáng, giản dị, vị tha.

Một trong những nội dung của cuốn sách đã giúp cho tác giả luận án hiểu rõ

hơn về những nét chính của TGĐĐ Hồ Chí Minh.

13

Kỷ yếu hội thảo“Chủ tịch Hồ Chí Minh hành trình tìm đường cứu nước”

(2011) [120]. Hội thảo diễn ra để kỷ niệm sự kiện 100 năm Hồ Chí Minh đi tìm

đường cứu nước. Kỷ yếu gồm 135 bài tham luận của một số đồng chí lãnh đạo,

những nhà khoa học và những người nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Trong đó,

một số bài viết đã khắc họa tình cảm cao đẹp nhất của Hồ Chí Minh là tình yêu

đất nước sâu sắc và chỉ ra nguồn gốc đã hun đúc tình cảm thiêng liêng đó, đồng

thời thúc đẩy Người dấn thân vào sự nghiệp của dân tộc. Nổi bật nhất là các bài

viết: “Từ yêu nước, thương dân, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh xuất hiện

đúng lúc, ra đi đúng thời cơ, tìm con đường đúng đắn cho cách mạng Việt

Nam” của Phan Xuân Biên, “Hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Chủ

tịch Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Kim Dung, “Chủ nghĩa yêu nước Việt

Nam – động lực mạnh mẽ thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu

nước” của Lý Việt Quang – Ngô Xuân Dương… Kỷ yếu là tài liệu có giá trị

với những căn cứ khoa học về vai trò, động lực của chủ nghĩa yêu nước đối với

tư tưởng và hành trình dài hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.

Bùi Đình Phong trong “Hồ Chí Minh – Đạo đức là gốc của người cách

mạng” (2016) [108] đã cho rằng, Hồ Chí Minh mang phong cách rất rõ của

một nhà chính trị đặc biệt coi trọng đạo đức. Sự quan tâm đến đạo đức ở Hồ

Chí Minh được thể hiện từ những ngày bắt đầu hoạt động cách mạng và

thường trực trong suốt cuộc đời Người. Hồ Chí Minh đã để lại cho hậu thế hệ

thống tư tưởng về đạo đức đặc sắc, có giá trị to lớn và Người chính là sự hiện

thân sinh động, phong phú nhưng gần gũi, dễ hiểu của lý thuyết đạo đức đó.

Một nội dung sâu sắc, xuyên suốt trong di sản Hồ Chí Minh là chiến lược

“trồng người”, đó phải là những con người đầy đủ tố chất “hồng”, “chuyên”.

Theo Người, con người được hạnh phúc, được phát triển tất cả các năng lực

vốn có là đích hướng đến của cách mạng, đồng thời không ai khác chính

những con người đó thực hiện sự nghiệp đem lại hạnh phúc và điều kiện sống

tốt nhất cho bản thân mình. Vì vậy, Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho con

14

người đạo đức mới để làm nên cuộc đời, làm nên lịch sử, đưa đất nước ta phát

triển theo kịp với thế giới. Dù thời gian trôi đi, có nhiều điều biến đổi trong

đời sống của đất nước và thế giới, nhưng những giá trị cốt lõi của tư tưởng và

TGĐĐ Hồ Chí Minh sẽ còn mãi.

Song Thành trong “Bác Hồ - Tấm gương đạo đức sáng ngời” (2016)

[118], đã khẳng định TGĐĐ Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người

không chỉ tiêu biểu cho những gì tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam mà còn

trở thành tấm gương với những giá trị nhân loại, được nhân dân tiến bộ trên

thế giới ngưỡng mộ và noi theo. Xuất phát của tấm gương đó là lý tưởng sống

suốt đời vì Tổ quốc và nhân dân. Tác giả cho rằng, điểm nổi bật ở Hồ Chí

Minh là tấm gương về khơi dậy, đoàn kết và phát huy sức mạnh của nhân dân,

về sự tin yêu và tận tụy, hết lòng với nhân dân. Dù ở đâu, làm gì, việc lớn

cũng như việc nhỏ, lúc nào Người cũng thường trực nỗi lo cho đời sống của

nhân dân, lo làm sao cho dân bớt khổ, được ấm no. Bên cạnh đó, Hồ Chí

Minh đã nêu cao gương của một lãnh tụ sống và làm việc siêng năng, hiệu

quả, tiết kiệm, giản dị để phục vụ nhiều nhất cho nhân dân, cho cách mạng.

Với các tầng lớp nhân dân, với cán bộ, đảng viên, Người luôn dành “muôn

vàn tình thương yêu”, sự vị tha, khoan dung để đối xử với họ. Người đã “sắp

xếp” trong trái tim đầy ắp yêu thương vị trí cho tất cả mọi người Việt Nam.

Như vậy, cuốn sách đã khái quát những nét chính về TGĐĐ Hồ Chí Minh,

qua đó tác giả luận án có thể kế thừa.

Trần Viết Hoàn trong “Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời”

(2017) [57], đã khắc họa TGĐĐ Hồ Chí Minh với những gì cao đẹp nhất

nhưng không mất đi sự chân thực. Theo tác giả, Hồ Chí Minh – con người đã

vì đồng bào, vì dân tộc mà hi sinh tất cả. Nhờ ơn Người, đất nước có độc lập,

chủ quyền và thống nhất, nhân dân có tự do, được sống, được lao động, học

tập, cống hiến, được làm chủ. Việt Nam ngày càng có những ấn tượng sâu

đậm với bạn bè trên thế giới. Bởi mỗi nghĩ suy, hành động của Người đều vì

15

và liên quan trực tiếp đến sự sống còn độc lập dân tộc, cuộc đời của mỗi một

người dân. Từ sự quan sát và chiêm nghiệm của mình, tác giả đã khẳng định

mỗi chúng ta cần và có thể học tập, rèn luyện theo TGĐĐ Hồ Chí Minh, đó

là: sự trung thành với Tổ quốc, với đồng bào; yêu thương con người; đối với

dân phải tôn kính và làm gương, sống khiêm tốn, giản dị, …

Hoàng Chí Bảo trong “Sự kết tinh tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ

Chí Minh trong Di chúc của Người” (2017) [21], đã khẳng định: Điều mà con

người ta khó thực hiện là khi ở đỉnh cao của danh vọng và quyền lực khó lòng

giữ được sự trong sáng về đạo đức thì Hồ Chí Minh đã làm được điều đó, vẫn

là TGĐĐ về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, không gợn lên dù một

chút sự ham danh lợi, chỉ có một nhu cầu và ham muốn là đem lại quyền lợi

cho Tổ quốc và nhân dân. Người không chỉ nêu gương mà còn noi gương, gợi

mở, thức tỉnh, động viên để con người hướng thiện. Tư tưởng biến thành hành

động đạo đức, hành vi, lối sống hằng ngày được thể hiện nhuần nhuyễn, tự

nhiên không gượng ép của lý thuyết đạo đức cao đẹp do chính Người đề cập

đó là phẩm chất nổi bật của Hồ Chí Minh. Trong Di chúc để lại thấm đẫm tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhân văn, văn hóa và đạo đức. Cuối cùng, tác giả bài

báo khẳng định, Di chúc là tác phẩm cô đúc nhất tình cảm yêu thương vô hạn,

trí tuệ kiệt xuất, tâm hồn thanh cao Hồ Chí Minh, một con người đã dành trọn

vẹn một đời để hi sinh và dâng hiến cho những gì tốt đẹp nhất ở cuộc đời này.

“Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (2017) [104]

chọn lọc bài viết của 17 tác giả, trong đó có một số học giả lớn, có uy tín

trong đời sống học thuật, đã dày công nghiên cứu để có thể hiểu rõ nhất về Hồ

Chí Minh. Các tác giả với những phương pháp khác nhau đã nỗ lực đi sâu

phân tích, nghiên cứu di sản lý luận và cuộc đời của Hồ Chí Minh. Qua đó các

tác giả khẳng định tư tưởng đạo đức đã được chuyển hóa cụ thể, sinh động ở

hành vi, lời nói, cử chỉ, ở TGĐĐ Hồ Chí Minh. TGĐĐ Hồ Chí Minh với

phong cách gần gũi, tự nhiên và có sức thu hút, thay đổi ở đối tượng được tiếp

16

xúc với Người ngày càng tốt, hoàn thiện lên. Các bài viết đáng chú ý là: “Góp

phần tìm hiểu nguồn gốc và đặc trưng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” của

Nguyễn Văn Huyên, “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” của Đặng Xuân Kỳ,

“Đạo đức Hồ Chí Minh – một kiểu mẫu về sự nhất quán giữa tư tưởng và

hành động” của Hoàng Chí Bảo…

Vũ Khiêu trong “Hồ Chí Minh ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt

Nam” (2014) [68], đã nhấn mạnh nội dung đạo đức và văn hóa Hồ Chí Minh.

Tác giả đưa ra nhận định và lập luận: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là

bộ phận quan trọng bậc nhất trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người”

[tr.71]. Theo tác giả, Hồ Chí Minh là người gương mẫu thực hiện những điều

mà mình nêu ra: tận trung với nước, tận hiếu với dân, yêu thương con người,

sống có tình, có nghĩa, suốt đời kiên nhẫn tu dưỡng đạo đức mới,…Người là

tấm gương tuyệt vời, biểu hiện sáng ngời của những giá trị tinh thần của dân

tộc Việt Nam. Tác giả cho rằng, nước ta đang bước vào giai đoạn đổi mới về

chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,… cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh” trở nên có tính cấp thiết. Đó sẽ là định hướng

quan trọng về đạo đức để nước ta xác lập nền tảng tinh thần vững chắc và

vững bước đi lên CNXH.

“Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh” của Ban Tuyên giáo trung ương (2016) [16], với phần thứ hai “Đạo

đức Hồ Chí Minh” đã khái quát năm nội dung chính của TGĐĐ Hồ Chí Minh

giúp cho chúng ta có thể tiếp cận để học tập và noi theo: Thứ nhất, hi sinh

trọn vẹn cuộc sống cá nhân cho hạnh phúc của nhân dân, quyền lợi của đất

nước; thứ hai, ý chí và nghị lực tinh thần vượt bậc băng qua muôn vàn khó

khăn, thậm chí đe dọa đến tính mạng để đưa cách mạng đi đến thắng lợi; thứ

ba, Gần gũi, kính trọng, hết lòng phục vụ nhân dân; thứ tư, tình yêu thương

bao la, sự quan tâm chu đáo, sự cảm thông giành cho mọi đối tượng trong xã

hội; thứ năm, thực hành triệt để “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, sống

17

giản dị và hết sức khiêm tốn. Với đề tài của luận án công trình nghiên cứu này

rất quan trọng. Năm phẩm chất từ TGĐĐ Hồ Chí Minh được khái quát trong

công trình đã định hướng, giúp cho tác giả luận án kế thừa nhằm phân tích và

triển khai theo các nội dung chính về TGĐĐ Hồ Chí Minh.

“Giáo dục đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới” (Chương trình bồi

dưỡng chuyên đề dành cho cán bộ, đảng viên và nhân dân) của Ban Tuyên

giáo trung ương (2018) [18]. Cuốn sách đã trình bày một cách khái quát nhất

những kiến thức cơ bản, thiết thực về đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời

sống xã hội và giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới. Đặc

biệt, ở chuyên đề thứ ba, cuốn sách đã giới thiệu nội dung quan trọng là

nguồn gốc, nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức mới và khắc

họa những nội dung chính về TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Trần Quang Nhiếp – Nguyễn Văn Sáu trong “Giá trị cơ bản về tư

tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” (2008) [101] đã khẳng định, tư tưởng Hồ Chí

Minh về đạo đức là sự kết tinh những giá trị đạo đức của dân tộc và của nhân

loại; là sự tiếp thu và phát triển các giá trị đạo đức Mác – Lênin. Trong cuốn

sách, tác giả đã tiếp cận các chuẩn mực đạo đức cách mạng dành cho từng đối

tượng trong xã hội. Đối với nội dung những nguyên tắc đạo đức cách mạng,

ngoài ba nguyên tắc các tài liệu khác nêu ra, tác giả còn đề cập thêm hai

nguyên tắc: “thống nhất lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân” và “quan tâm chăm

sóc mọi người bằng tấm lòng nhân ái” được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí

Minh. Trong hai chương cuối, cuốn sách bàn về TGĐĐ Hồ Chí Minh và lợi

ích thiết thực, sự cần thiết của việc học tập TGĐĐ Hồ Chí Minh trong xã hội

hiện nay.

Phạm Ngọc Anh trong “Nhân cách đạo đức Hồ Chí Minh – Giá trị và

sức lan tỏa” (2016) [4] đã chỉ rõ, sở dĩ nhân cách Hồ Chí Minh trở nên vĩ đại

vì Người đã dành trọn vẹn cuộc đời của mình, toàn tâm, toàn ý chăm lo cho

hạnh phúc của nhân dân, vì đất nước độc lập, thống nhất. Vì lẽ đó, nhân cách

18

của Người đã ảnh hưởng một cách tự nhiên đến hết thảy mọi người trong xã

hội để ai ai cũng có nhu cầu và hoàn thiện bản thân để trở lên tốt đẹp hơn và

đóng góp nhiều nhất sức mình cho công cuộc chung. Cuốn sách gồm ba phần

chính, phần I, tác giả chỉ ra nguồn gốc và giá trị cốt lõi trong nhân cách đạo

đức Hồ Chí Minh. Phần II, theo tác giả, nhân cách đạo đức Hồ Chí Minh đã

lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong các tầng lớp nhân dân. Phần cuối cùng, tác

giả khẳng định sức sống trường tồn của nhân cách vĩ đại Hồ Chí Minh trong

hiện tại và tương lai.

“Đạo đức học Mác - Lênin và giáo dục đạo đức” của Trần Đăng Sinh

và Nguyễn Thị Thọ (Đồng chủ biên) (2018) [114]. Cuốn sách đã cung cấp

những tri thức bổ ích, sâu sắc về đạo đức, lối sống của một bộ phận đặc thù

trong xã hội đó là SV. Với đặc trưng về ngành nghề của mình, SV ngành Sư

phạm lại có những yêu cầu riêng về đạo đức, lối sống. Cuốn sách được chia

thành hai phần, ở phần đầu, các tác giả đã cung cấp cho người đọc cơ sở lý

luận về khái niệm, những vấn đề cơ bản và sự cần thiết của việc học tập đạo

đức và đạo đức học Mác - Lênin. Trong phần thứ hai, các tác giả làm rõ nội

dung quan trọng về giáo dục đạo đức, qua đó, các chủ thể giáo dục và cả đối

tượng giáo dục có thể tìm được những gợi ý nhằm nâng cao đạo đức cho SV nói

chung và SV Sư phạm nói riêng.

1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng và các

giải pháp giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh

Tô Huy Rứa trong “Phát huy kết quả bước đầu, khắc phục hạn chế,

nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh trong những năm tới” (2011) [111] đã chỉ ra, những chuyển

biến trong nhận thức và làm theo TGĐĐ Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên

và nhân dân. Trước hết, về “nhận thức”: cán bộ, đảng viên và nhân dân đã

ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng và sự cần thiết của đạo

đức trong đời sống xã hội, các nội dung cơ bản của TGĐĐ Hồ Chí Minh và

19

lợi ích thiết thực của việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh”. Về “làm theo”: đã góp phần khắc phục những hạn chế như lãng phí,

tham nhũng và làm cho Đảng ngày càng mạnh lên. Thủ tục trong quản lý

hành chính ngày càng được cải tiến theo hướng tránh phiền hà, khó khăn cho

nhân dân. Tác giả bài báo đã chỉ ra nguyên nhân chính đem lại những kết quả

nêu trên, đồng thời cần khắc phục một số hạn chế để cuộc vận động có sức

lan tỏa rộng rãi hơn nữa và đạt được kết quả bền vững.

Trần Văn Hiệp trong “Học và làm theo lời dạy của Bác Hồ từ những

công việc đời thường” (2017) [56], đã khẳng định, học tập theo lời Bác từ

năm 2006 đến năm 2017 tỉnh Lâm Đồng có 5000 tấm gương của tập thể và cá

nhân tiêu biểu được tuyên dương, khen thưởng từ cấp cơ sở đến trung ương.

Tác giả cũng cho rằng, trong thời gian tới để nhân rộng những gương sáng, có

thêm những việc làm hiệu quả, thiết thực trong việc học tập theo lời Bác Hồ,

tỉnh Lâm Đồng cần phải: thứ nhất, tăng cường sự chỉ đạo thực hiện học tập

theo lời Bác, xử lý nghiêm các vụ tham nhũng; thứ hai, đổi mới phong cách,

cần gần dân, tránh bệnh thành tích, “nói đi đôi với làm”; thứ ba, nâng cao chất

lượng sinh hoạt Đảng; thứ tư, tiếp tục cải tiến trong quản lý hành chính; thứ

năm, phát động các cuộc thi sáng tác các tác phẩm nghệ thuật, báo chí xoay

quanh chủ đề học tập theo lời Bác.

Trương Tấn Sang trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh để sống, làm việc xứng đáng với Đảng, dân tộc và nhân dân”

(2015) [112], đã chỉ rõ năm 2015 hướng tới Đại hội Đảng lần thứ XII, là dịp

không chỉ tổng kết một nhiệm kỳ mà còn đánh giá 30 năm đổi mới với những

kết quả đạt được to lớn. Tuy vậy, những mối nguy hại đối với sự nghiệp cách

mạng được Đảng cảnh báo trước đó không những không mất đi mà ngày càng

đe dọa với thành quả chúng ta giành được. Trong đó, thách thức và nguy hại

lớn nhất là sự suy yếu, sút kém về đạo đức, lối sống nhất là của cán bộ lãnh

đạo, quản lý các cấp, bởi điều này là căn nguyên sâu xa dẫn đến sự tồn vong

20

của chế độ. Vì vậy, Đảng ta đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có Chỉ thị 03

– CT/TW về “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Qua

đó, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân có cơ hội soi mình vào tấm gương suốt

đời hi sinh hạnh phúc riêng vì đất nước và nhân dân, tấm gương về “cần,

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, để thức tỉnh và có nhu cầu tu dưỡng

thường xuyên theo TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Phương Hoa trong “Kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị

là thước đo của học Bác” (2018) [59], đã khẳng định, việc “Học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong cả nước với những

kết quả đáng ghi nhận. Để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những

hạn chế, một số nội dung cần tiếp tục được triển khai thực hiện tốt, cụ thể:

Một là, tăng cường tuyên truyền về thực hiện Chỉ thị 05 - CT/TW một cách

hiệu quả, bằng cách tăng tính hấp dẫn, đổi mới hình thức, nội dung tuyên

truyền. Các địa phương, ngành cần tăng cường tổ chức tọa đàm, giao lưu điển

hình để những gương “người tốt, việc tốt” được nhiều người biết đến và lan

tỏa ra diện rộng. Hai là, tiếp tục lựa chọn những việc cần thiết, đang bức xúc,

hoặc những việc mà người dân đặc biệt quan tâm để tập trung và quyết liệt tổ

chức thực hiện có kết quả. Ba là, đặc biệt chú ý nâng cao đạo đức của những

người làm trong lĩnh vực quản lý hành chính, trực tiếp làm việc, tiếp xúc với

nhân dân, nêu cao trách nhiệm của những người đứng đầu về sự gương mẫu.

Trần Quốc Vượng trong “Học Bác sống tiết kiệm, ứng xử có nghĩa, có

tình” (2018) [151], đã chỉ rõ qua hai năm thực hiện Chỉ thị 05 - CT/TW, các

ngành, các địa phương trên cả nước, đã trăn trở tìm ra hình thức để việc “Học

tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Hồ Chí Minh” đạt hiệu quả

cao nhất, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI và Nghị quyết

Trung ương 4 khóa XII. Để việc thực hiện Chỉ thị 05 – CT/TW có chuyển

biến thực sự và đạt được nhiều thành tích xuất sắc hơn nữa trong những năm

tới, cần phải: Thứ nhất là, tuyên truyền để nâng cao nhận thức về lợi ích thiết

21

thực và lâu dài của việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh” đến mọi người, mọi tổ chức. Thứ hai là, nâng cao trách nhiệm

của những người đứng đầu và lấy hiệu quả nhiệm vụ chuyên môn làm thước

đo cho thực hiện Chỉ thị. Thứ ba là, vai trò to lớn của cơ quan báo chí, truyền

thông cần được thể hiện rõ hơn nữa trong việc làm mới nội dung, hình thức để

lan tỏa rộng rãi các điển hình. Thứ tư là, phải có sự kiểm tra, giám sát, đôn

đốc việc thực hiện Chỉ thị.

Nguyễn Thị Thọ trong “Định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên hiện

nay” (2017) [125], đã chỉ rõ, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, sự hội nhập

quốc tế là không ít SV có lối sống không theo chuẩn, ăn chơi, đua đòi, không

quan tâm đến những yêu cầu mà bản thân phải thực hiện đối với gia đình và

xã hội, sống không có lý tưởng. Lối sống đề cao sự hưởng thụ các giá trị vật

chất, bị đồng tiền cám dỗ thậm chí là chi phối, quay lưng với những chuẩn

mực đạo đức của dân tộc… Vì vậy, tác giả cho rằng, để khắc phục tình trạng

sa sút đạo đức của một bộ phận SV nêu ở trên các trường ĐH, cao đẳng cần

có sự nhận thức sâu sắc và thực sự về các nhiệm vụ của mình đối với giáo dục

SV. Không chỉ dừng lại, tập trung vào giáo dục tri thức khoa học, các kỹ năng

thực hành nghề nghiệp mà còn phải vạch ra, chỉ rõ, định hướng các giá trị đạo

đức cho SV, đó là: Thứ nhất, nhận thức, lựa chọn, bảo tồn, phát huy các giá trị

đạo đức truyền thống của dân tộc; Thứ hai, sống, “Học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Thứ ba, tích cực, chủ động tiếp

thu những tinh hoa giá trị nhân văn của thời đại.

Vũ Khiêu trong “Học tập đạo đức Bác Hồ” (2015) [69], đã cho rằng,

khi đề cập về TGĐĐ Hồ Chí Minh, trước hết là tấm gương về rèn luyện đạo

đức. Trong xã hội mai đây, với những thay đổi mạnh mẽ của tồn tại, hoàn

cảnh xã hội, có thể đặt ra những yêu cầu mới, phong phú trong đời sống đạo

đức. Hồ Chí Minh không cứng nhắc, vạch sẵn những giải pháp cụ thể để xây

dựng nền đạo đức mới của xã hội. Nhưng tấm gương suốt đời kiên trì với mục

tiêu cao đẹp, sự hi sinh cho đất nước, với tình thương yêu với nhân dân là kim

22

chỉ nam soi đường, là mẫu hình để toàn xã hội và mỗi người vươn tới. Để có

TGĐĐ Hồ Chí Minh, theo tác giả trước hết Hồ Chí Minh xác định lý tưởng

duy nhất cho cuộc sống, đó là suốt đời vì nước, vì dân. Trong phần cuối của

cuốn sách tác giả bàn về những vấn đề của việc học tập và rèn luyện theo

TGĐĐ Hồ Chí Minh hiện nay. Cùng với nhân loại, dân tộc Việt Nam đang

bước vào giai đoạn đổi mới, giai đoạn cách mạng với nhiều biến đổi phong

phú, sâu sắc, trong đó cần giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa kinh tế và đạo

đức. Tác giả đi đến kết luận, trong giai đoạn hiện nay của đất nước, tư tưởng

nhất là TGĐĐ Hồ Chí Minh sẽ làm cho cả xã hội cũng như mỗi người Việt

Nam có thể được tiếp thêm sức mạnh tinh thần.

Nguyễn Thế Kiệt trong “Mấy vấn đề về đạo đức học mác xít và xây

dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” (2012)

[66], đã khẳng định, khi nghiên cứu thang giá trị tinh thần của dân tộc, yêu

nước là điều cốt lõi, là giá trị giúp cho Việt Nam vượt qua các thế lực ngoại

xâm hùng mạnh và sự tàn phá của thiên tai khắc nghiệt để có thể tồn tại và

phát triển nên là giá trị thiêng liêng và cao quý nhất. Tuy vậy, những gì là tinh

hoa đạo đức trước đây gắn với nền nông nghiệp và trạng thái xã hội luôn phải

chống quân xâm lược, đến nay bộc lộ nhiều hạn chế. Hiện nay, những điều

kiện tồn tại của xã hội đã có những thay đổi rất lớn, điều đó tất yếu kéo theo

những giá trị tinh thần, trong đó có đạo đức xã hội thay đổi theo. Tác giả đã

chỉ ra các yếu tố ở trong nước và nước ngoài là cơ sở thay đổi đạo đức, như:

một là, chuyển đổi trong sinh hoạt vật chất, cơ chế quản lý kinh tế; hai là, sự

mở cửa, giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới; ba là, cuộc tấn công của

các lực lượng phản động với âm mưu “Diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ

CNXH ở Việt Nam; bốn là, ngày nay nền kinh tế, sản xuất của xã hội dù đạt

được những bước tiến đáng kể nhưng Việt Nam vẫn là nước nghèo, đứng

trước nhiều thử thách. Trong cuốn sách này, ngoài những hiểu biết chung về

đạo đức, tác giả luận án có thể kế thừa tri thức về đặc điểm của đạo đức mới,

23

tính tất yếu biến đổi của các chuẩn mực đạo đức vốn tồn tại trước đây của dân

tộc ta trước những tác động của tồn tại xã hội.

Trần Sỹ Phán trong “Giáo dục đạo đức với sự phát triển nhân cách

sinh viên Việt Nam hiện nay” (2016) [105] đã chỉ rõ thực trạng về đạo đức

của SV hiện nay, đó là: Đa số SV chăm chỉ học tập, có ý thức cao rèn luyện

theo yêu cầu đạo đức xã hội, có tinh thần cầu tiến, ham học, biết vượt lên khó

khăn để có thành tích học tập, rèn luyện cao. Tuy vậy, vẫn còn một số SV

lười biếng trong học tập, buông thả trong lối sống, thiếu hoài bão, ước mơ, có

lối sống coi trọng giá trị vật chất, coi thường giá trị tinh thần, thậm chí nhiều

SV vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý. Tác giả đã chỉ ra căn nguyên của

tình trạng nêu trên. Phần cuối cuốn sách, tác giả cho rằng để khắc phục những

hạn chế về đạo đức và phát triển toàn diện nhân cách SV Việt Nam hiện nay

cần đề ra và thực hiện một số giải pháp đó là: Lành mạnh hóa môi trường

kinh tế - xã hội; kết hợp nhà trường với gia đình và xã hội; đổi mới nội dung,

thiết kế lại chương trình, cải tiến phương pháp giảng dạy môn Đạo đức học;

tăng cường công tác giáo dục pháp luật và giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên;

phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học

tập và rèn luyện đạo đức. Như vậy, tài liệu này đã gợi mở cho tác giả luận án

về tình hình đạo đức của SV hiện nay và giải pháp cần thực hiện trong giáo

dục đạo đức cho SV.

Trần Hậu Kiêm – Đoàn Đức Hiếu trong “Hệ thống phạm trù đạo đức

học và giáo dục đạo đức cho sinh viên” (2004) [64] không phân tích toàn bộ hệ

thống các vấn đề mà ưu tiên làm rõ các khái niệm cơ bản của đạo đức học trên

nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ cơ sở lý luận đó, các tác giả đề

xuất một số vấn đề cụ thể cần thực hiện góp phần giáo dục đạo đức cho SV

hiện nay. Đó là: cải thiện và ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy các môn

khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó, xây dựng thế giới quan

khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho SV, đa dạng hóa cách thức,

24

phương tiện giáo dục đạo đức cho SV. Với quan niệm đứng đắn, khoa học về

giải quyết mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế, xã hội tác giả cũng khẳng định

yêu cầu đạo đức cao nhất đối với SV hiện nay là trở thành những cán bộ có tri

thức để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Lê Thị Vân Anh trong công trình “Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho

sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí

Minh” (2016) [1] đã đưa ra quan niệm về giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho

SV. Nội dung giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm giáo dục: về vai trò

đạo đức; phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”; phẩm chất “cần, kiệm,

liêm, chính”; lòng yêu thương con người; tự giáo dục, tự rèn luyện của SV;

tinh thần quốc tế trong sáng và TGĐĐ Hồ Chí Minh. Giáo dục đạo đức Hồ

Chí Minh cho SV được thực hiện với nhiều phương thức khác nhau, qua

chương trình học tập, qua các hoạt động do các tổ chức của trường, qua các

hoạt động với sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng chính như gia đình, nhà

trường, xã hội. Trong các phương thức kể trên, tác giả cho rằng dạy và học

môn Tư tưởng Hồ Chí Minh quan trọng, hiệu quả nhất. Trên cơ sở khảo sát

thực tiễn vùng Tây Bắc, tác giả đã đề ra những yêu cầu, biện pháp để hiệu quả

giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH, cao đẳng được nâng

lên thông qua phương thức hiệu quả này.

“Giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, lý tưởng cách mạng cho thế hệ

trẻ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” do Nguyễn Thị Kim Dung và Trần

Thị Nhuần tuyển chọn và biên soạn (2015) [37]. Thanh niên có vai trò vô

cùng quan trọng trong xã hội, để phát huy được vai trò và sức mạnh của họ

cần bồi dưỡng, giáo dục và đào tạo để thanh niên trở thành những công dân,

những người lao động, những người trí thức tốt. Sinh thời, giữa bộn bề công

việc quan trọng, trong sự quan tâm chu đáo của Hồ Chí Minh dành cho các

tầng lớp nhân dân thì thanh niên giữ một vị trí đặc biệt. Ngày nay, kế thừa và

phát triển quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã đưa

25

ra nhiều chỉ đạo cho vấn đề bồi dưỡng, giáo dục thanh niên như: Chỉ thị 42 –

CT/TW, Quyết định số 1501 - QĐ/TTg, Chỉ thị số 03 - CT/TW,…. Đó cũng

là những nội dung cơ bản mà cuốn sách này đem đến cho người đọc.

Lương Thị Thúy Nga trong công trình “Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh

cho sinh viên Đại học Thái Nguyên hiện nay” (2019) [94] đã hệ thống hóa,

khái quát hóa nội dung đạo đức Hồ Chí Minh. Tác giả đã phân tích cho thấy

sự cần thiết phải giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh đồng thời chỉ ra một cách cụ

thể nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho SV. Tác giả

cũng đã đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho SV Đại học

Thái Nguyên; chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề

đặt ra. Từ đó, tác giả đã đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho SV Đại học Thái Nguyên hiện nay, đó là:

Thông qua các môn học, trong đó môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là nòng cốt;

Thông qua hoạt động Đoàn, Hội; hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm; Thông

qua TGĐĐ; Cần kết hợp với giáo dục lý tưởng cách mạng, giáo dục quan

điểm, chủ trương của Đảng, giáo dục chính sách, pháp luật của Nhà nước;

Phát huy ý thức tự giác, tự giáo dục của SV Đại học Thái Nguyên theo đạo

đức Hồ Chí Minh.

Lê Quốc Phong trong “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo

đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ” (2017) [109] khẳng định, công tác giáo

dục của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là công việc trọng tâm, được

thực hiện một cách thường xuyên trong thời gian qua, gắn với thực hiện nghị

quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X với các quan điểm chỉ đạo của Đảng

(Chỉ thị 05 – CT/TW, Chỉ thị 42). Nhiệm vụ giáo dục cho đoàn viên đã được

thực hiện một cách nghiêm túc, đồng bộ, với nội dung và hình thức phong

phú và đầy sáng tạo. Các đợt sinh hoạt chính trị “Con đường cách mạng của

thanh niên thời kỳ mới”, “Tự hào tiến bước dưới cờ Đảng”, “Tự hào tuổi trẻ

thời đại Hồ Chí Minh”, “Nhớ về Bác lòng ta trong sáng hơn”, cuộc thi “Tự

26

hào Việt Nam”, cuộc vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt

Nam thời kỳ mới”, chương trình “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ”,… đã được tổ

chức, triển khai, có sức lan tỏa và giáo dục rất lớn với đoàn viên thanh niên.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quan trọng này vẫn còn hạn chế,

tác giả bài báo đã đề xuất một số nhiệm vụ và giải pháp có tính đột phá, đó là:

Tiếp tục duy trì các hoạt động phong trào thực chất là tạo môi trường cho

đoàn viên rèn luyện. Cần đổi mới các phương thức giáo dục hơn nữa nhằm

tăng cường sự lôi cuốn đối với đoàn viên thanh niên, từ đó, nâng cao hiệu quả

công tác giáo dục.

Trần Văn Bính trong “Thử đi tìm nguyên nhân của sự xuống cấp về

đạo đức” (2018) [24] đã chỉ ra rằng, từ một nước có xuất phát điểm thấp, lại

bị các cuộc chiến tranh tàn phá Việt Nam nay đã trở thành một nước đang

phát triển. Tác giả cho rằng, sự phát triển đó là cơ sở quan trọng để phát huy

những giá trị tinh thần mà dân tộc ta đã sáng tạo và lưu giữ qua thời gian. Tuy

vậy, sự phát triển của kinh tế thị trường (KTTT) cũng gây cản trở đối với dân

tộc ta trong việc phát triển giá trị văn hóa, đạo đức. Phân tích về căn nguyên

của sự xuống cấp đạo đức xã hội hiện nay, tác giả chỉ ra một trong số căn

nguyên bên trong đó là thái độ thiếu nghiêm túc, thiếu dũng cảm trong tự phê

bình và phê bình, trong rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Từ đó, tác

giả đưa ra những vấn đề có tính nguyên tắc cần thực hiện nhằm đem lại sự

phát triển ổn định, bền vững của đất nước, để đạo đức trở thành mối quan tâm

thực sự của mỗi người và của toàn xã hội, đó là thực hiện kết luận Hội nghị

lần thứ 10 khóa IX “gắn kết nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, nhiệm

vụ then chốt là xây dựng Đảng với xây dựng nền tảng tinh thần là văn hóa”.

Nguyễn Hồng Điệp trong “Xây dựng nhãn quan chính trị của học sinh,

sinh viên trước tác động tiêu cực của mạng xã hội” (2019) [45] đã chỉ ra, hoạt

động tác động tích cực, tự giác làm biến đổi các yếu tố cấu thành nhãn quan

chính trị, hình thành khả năng nhìn nhận, đánh giá, phê phán, phản bác của

27

học sinh, SV trước các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch lợi dụng

mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước là vô cùng quan trọng. Qua đó,

giúp cho học sinh, SV “miễn dịch” trước nội dung của các thông tin xấu, độc

hại và góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực

phản động đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong công trình nghiên

cứu, tác giả đã vạch ra các giải pháp nhằm xây dựng nhãn quan chính trị đúng

đắn cho học sinh, SV trước tác động tiêu cực của mạng xã hội, đó là: Một là,

đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng

cho học sinh, SV hiện nay; Hai là, rèn luyện tư duy phản biện khoa học các

vấn đề chính trị - xã hội trên mạng xã hội cho học sinh, SV; Ba là, nâng cao

chất lượng và hiệu quả sử dụng internet và mạng xã hội để vạch trần các quan

điểm sai trái, thù địch, các âm mưu, thủ đoạn chính trị của các thế lực thù địch

hiện nay; Bốn là, tổ chức tốt công tác sử dụng mạng xã hội để học sinh, SV

tham gia đấu tranh chống các âm mưu, hoạt động lợi dụng mạng xã hội để

chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta.

Trong công trình “Những mâu thuẫn trong giáo dục đạo đức theo tư

tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Việt Nam hiện nay” (2019) [54]

của Luyện Thị Hồng Hạnh, đã chỉ rõ, quá trình giáo dục đạo đức cho SV Việt

Nam hiện nay đang chứa đựng một hệ vấn đề hết sức phức tạp, đầy mâu

thuẫn: Từ nhận thức đến tổ chức thực hiện; từ chủ thể giáo dục đến đối tượng

giáo dục; từ sự độc lập, chủ động của mỗi thành viên đến sự tác động tổng

hợp của cả hệ thống; từ sự xác lập của cơ chế giáo dục đến việc hoạch định hệ

chính sách… Những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình giáo dục đạo đức

theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho SV Việt Nam bao gồm: Thứ nhất,

mâu thuẫn giữa yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức ngày càng hoàn thiện cho

SV với sự hạn chế, bất cập trong nhận thức, trách nhiệm và khả năng tổ chức

giáo dục của các chủ thể giáo dục; Thứ hai, những mặt trái trong phát triển

KTTT làm biến đổi nhanh chóng nhu cầu, lợi ích mâu thuẫn với hệ thống giá

28

trị, chuẩn mực đạo đức xã hội chậm được bổ sung hoàn thiện; Thứ ba, mâu

thuẫn giữa mục tiêu, yêu cầu nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện đạo đức

với sự yếu kém trong nhận thức, ý thức học tập, rèn luyện của một bộ phận

SV; Thứ tư, mâu thuẫn giữa chuẩn mực đạo đức và thực trạng đạo đức còn

hạn chế.

1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã

tổng quan và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án

* Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã tổng quan

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã:

Thứ nhất, chỉ ra tương đối có hệ thống về tư tưởng đạo đức Hồ Chí

Minh với các nội dung: Nguồn gốc, những nội dung cơ bản, những nguyên

tắc xây dựng; vai trò, vị trí của tư tưởng đạo đức và TGĐĐ Hồ Chí Minh đối

với Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách

mạng XHCN.

Thứ hai, các tác giả đã nêu ra những nét chính của TGĐĐ Hồ Chí Minh, đó

là: hi sinh trọn vẹn cuộc sống cá nhân cho hạnh phúc của nhân dân, quyền lợi của

đất nước; ý chí và nghị lực tinh thần vượt bậc vượt qua muôn vàn khó khăn để

đưa cách mạng đi đến thắng lợi; gần gũi, kính trọng, hết lòng phục vụ nhân dân;

tình yêu thương bao la, sự quan tâm chu đáo, sự cảm thông giành cho mọi đối

tượng trong xã hội; thực hành triệt để “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”,

sống giản dị và hết sức khiêm tốn.

Thứ ba, khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục tư tưởng, TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho toàn thể xã hội nói chung và thanh niên SV nói riêng trong

giai đoạn hiện nay.

Thứ tư, một số công trình đã đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh nói riêng trên phạm vi cả nước cũng như ở một

vài địa phương.

Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn chưa hệ thống hóa, tìm ra và khái

29

quát thành khái niệm TGĐĐ Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, chưa có công trình

nào nêu một cách có hệ thống về TGĐĐ Hồ Chí Minh dưới góc nhìn Triết

học. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về tầm quan trọng, thực

trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh

cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay. Song những kết quả nghiên

cứu đó sẽ là những tư liệu cần thiết giúp tác giả có cơ sở để triển khai nội

dung nghiên cứu đề tài của mình.

* Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án:

Một là, hệ thống hóa, khái quát và đưa ra định nghĩa về TGĐĐ Hồ Chí

Minh, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh, làm rõ những nội dung, đặc trưng của

TGĐĐ Hồ Chí Minh;

Hai là, chỉ ra sự cần thiết giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các

trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay và các yếu tố, các bộ phận của công tác

này, bao gồm: chủ thể, phương thức và những nội dung từ TGĐĐ Hồ Chí

Minh cần giáo dục cho SV;

Ba là, phân tích làm rõ những thành tựu và hạn chế của việc giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay, cũng

như chỉ ra nguyên nhân của thành tựu và hạn chế đó; trên cơ sở đó, tác giả

luận án khái quát những mâu thuẫn, vấn đề đặt ra cần giải quyết để nâng cao

hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên

hiện nay;

Bốn là, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay.

30

Tiểu kết chƣơng 1

Hiện nay, Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học đã không chỉ dày công

nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà còn ra sức khai thác để phát

huy vai trò to lớn của TGĐĐ Hồ Chí Minh. Để có nguồn tư liệu phục vụ cho

nghiên cứu đề tài “Giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên

các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay”, trong Chương 1, tác giả đã thu

thập nguồn tài liệu phong phú bao gồm sách chuyên khảo, luận án, các bài

viết trên tạp chí, kỉ yếu hội thảo,… Từ những công trình đó, tác giả thu thập,

hệ thống hóa, khái quát hóa thông tin hiện có liên quan đến đề tài; phân tích

và đưa ra nhận xét những khía cạnh đã nghiên cứu về TGĐĐ Hồ Chí Minh và

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV; đồng thời, nắm được đề tài nghiên cứu

có liên quan đến các công trình khác ở những khía cạnh nào. Thông qua

những nội dung tổng quan đã đặt ra cho tác giả luận án nhiệm vụ cần tiếp tục

nghiên cứu bởi nhiều vấn đề chưa được các công trình trước đó nghiên cứu

sâu, chưa được đề cập tới. Với khối lượng tài liệu có chất lượng khoa học là

cơ sở quan trọng giúp tác giả đi sâu nghiên cứu, giải quyết những vấn đề đặt

ra trong luận án.

31

CHƢƠNG 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC

HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC

Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

2.1. Một số khái niệm cơ bản

2.1.1. Sinh viên, đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên

2.1.1.1. Sinh viên

SV là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh “Studens”, tiếng Anh là

“Student”, dùng để chỉ những người đang học tập tại các trường ĐH và cao

đẳng, đa số có độ tuổi từ 18 đến 25. SV là những thanh niên có học thức,

nhanh nhạy trong việc tiếp cận với cái mới, dễ thích nghi với hoàn cảnh, ưa

thích khám phá và có khả năng làm chủ tri thức.

Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đã đánh giá cao vai trò

của SV trong sự nghiệp xây dựng CNXH, bởi SV sẽ là những bác sĩ, kỹ sư,

nhà khoa học và các chuyên gia trong các lĩnh vực, mà để phát triển xã hội

đòi hỏi phải có kiến thức chuyên sâu vững chắc chứ không chỉ là bộ máy

quản lý không có chuyên môn. Vì vậy, trong Thư gửi Đại hội quốc tế các sinh

viên xã hội chủ nghĩa, Ph.Ăngghen đã đánh giá vai trò quan trọng của SV

trong cuộc cách mạng XHCN, những người sau này sẽ trở thành “giai cấp vô

sản lao động trí óc”, có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một

đội ngũ với những người anh em của họ, những người công nhân lao động

chân tay.

Trong tiến trình cách mạng của Đảng và dân tộc, Hồ Chí Minh và Đảng

Cộng sản luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của thanh niên trong đó có SV.

Trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các thế hệ SV đã tỏ rõ lòng

yêu nước nồng nàn, rời giảng đường ra mặt trận đóng góp sức mình vào cuộc

kháng chiến vì độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân

32

dân. Đảng, Nhà nước ta luôn xác định, SV là lực lượng quan trọng trong việc

giữ gìn và phát huy những kết quả mà các thế hệ người Việt Nam đã đổ

xương máu để giành được, luôn xung kích trong quá trình xây dựng đất nước

ngày càng giàu đẹp. Đặc biệt, trong nền kinh tế tri thức hiện nay, khi trí tuệ

trở thành nguồn tài nguyên quý giá của đất nước, Đảng, Nhà nước ta càng

quan tâm, chăm lo, bồi dưỡng để SV trở thành những người trí thức có thể

gánh vác công việc xây dựng và phát triển đất nước trong tương lai.

Có thể thấy SV hiện nay có rất nhiều ưu điểm. Thứ nhất, ở SV bước

vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ khả năng tự ý thức của một nhân cách đang

được hình thành. Tất nhiên tự ý thức ở con người hình thành rất sớm, nhưng

khi trở thành SV họ biết tự đánh giá về bản thân trong các mối quan hệ xã hội

ngày càng rộng mở, nhất là về mức độ đáp ứng của bản thân về năng lực học

tập và phẩm chất đạo đức so với yêu cầu của xã hội. Trên cơ sở đó, SV biết đề

ra và thực hiện kế hoạch hoàn thiện bản thân bằng các hoạt động cụ thể, thiết

thực. Thứ hai, SV đã hình thành quan điểm và có niềm tin khoa học về thế

giới xung quanh, từ đó dần dần có nhân sinh quan tích cực là nhận thức được

vai trò của con người nói chung, của bản thân họ nói riêng trong sự phát triển

của xã hội và ý nghĩa cuộc sống của con người. “Lăng kính” đó đã định

hướng toàn bộ cuộc sống, trong các hoạt động và sinh hoạt của SV. Trong

môi trường học tập mới với trình độ cao hơn, với những trải nghiệm thực tế,

với sự mở rộng các mối quan hệ xã hội, làm cho thế giới quan, nhân sinh quan

của SV ngày càng được củng cố và phát triển. Ý thức chính trị của SV ngày

càng được nâng lên. Họ thể hiện sự quan tâm và chính kiến của mình trước

tình hình của địa phương và đất nước. Thứ ba, SV có đặc điểm tâm lý nổi bật

đó chính là đã hình thành tình cảm nghề nghiệp. Điều này trở thành một động

lực tinh thần giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, trở ngại

trong học tập. Tình cảm nghề nghiệp còn giúp cho tri thức mà SV đã tích lũy

được củng cố, có chiều sâu và có sức mạnh. Nhiều SV nghèo vượt khó học

33

giỏi chính là vì họ đã có tình cảm nghề nghiệp sâu sắc. Thứ tư, SV luôn có

nhu cầu sáng tạo, tìm tòi, chinh phục cái mới, luôn muốn nâng cao trình độ

học vấn, khẳng định bản thân, thích giao lưu, bắt đầu quan tâm đến vấn đề lập

thân, lập nghiệp.

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, ở lứa tuổi SV cũng bộc lộ những

điểm yếu, vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Có nhiều lý do dẫn đến

những hạn chế của SV mà một trong những lý do là họ chưa phải là nhân cách

đã hoàn chỉnh mà đang dần định hình, đang khẳng định mình. Hạn lớn nhất

là, ở một bộ phận SV có những xung đột về mặt tâm lý, sự bồng bột, vồ vập

với cái mới, chưa có kinh nghiệm, sự chín chắn cần thiết. Xã hội hiện nay có

nhiều cơ hội thuận lợi để SV được tiếp cận, cập nhật khối lượng lớn thông tin

về đời sống trong nước cũng như trên thế giới nhưng một bộ phận SV không

biết sàng lọc thì sẽ dễ dàng tiếp nhận những điều phản văn hóa, trái với yêu

cầu đạo đức của xã hội XHCN. Lứa tuổi của SV còn có đặc điểm tâm lý là

nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ, nhưng lại thiếu kinh nghiệm, thiếu

sự chín chắn, chưa từng trải, chủ quan, thiếu bản lĩnh. Do vậy, SV dễ bị kích

động, bị lợi dụng làm những điều gây hại cho bản thân họ và xã hội.

2.1.1.2. Đạo đức

* Khái niệm về đạo đức

Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức.

Theo A. Si – Skin: “Danh từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng La-tinh mos

(moris) – lề thói (do đó nảy ra tiếng moralis, nghĩa là có liên quan với lề thói,

đạo nghĩa). Còn tiếng “luân lý học” thường xem như đồng nghĩa với tiếng “đạo

đức” thì gốc ở chữ Hy-lạp Êthicos nghĩa là lề thói, tập tục. Hai danh từ đó chứng

tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện

mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao dịch với nhau hằng

ngày” [113, tr.4].

Theo Trần Hậu Kiêm: “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc

34

chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi

ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con người, giữa cá

nhân và tập thể hay toàn xã hội” [63, tr.7].

G. Bandzeladze cho rằng: “Đạo đức là hệ thống chuẩn mực biểu hiện sự

quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và

trong quan hệ với xã hội nói chung” [5, tr.104].

Kế thừa quan niệm về đạo đức của một số tác giả, theo chúng tôi: Đạo

đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những quy tắc, chuẩn mực xã hội

làm cơ sở cho các cá nhân tự giác điều chỉnh hành vi của mình trên cơ sở

nhận thức, tình cảm và niềm tin sâu sắc đối với các chuẩn mực đó và cùng với

những tác động của truyền thống và dư luận xã hội.

Trong lĩnh vực đạo đức, những yêu cầu, lợi ích của xã hội hoặc của các

giai cấp được biểu hiện thành những quy tắc được hình thành một cách tự

phát và được mọi người thừa nhận, thực hiện và củng cố bằng sức mạnh của

các tấm gương, thói quen, phong tục, dư luận xã hội.

Đạo đức xuất hiện rất sớm, từ trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã

xuất hiện mầm mống của đạo đức. Các quy tắc, chuẩn mực đạo đức trong

cuộc sống của cộng đồng nguyên thủy mới chỉ tồn tại dưới hình thức phong

tục, tập quán, thói quen. Cùng với sự phát triển của xã hội, những phong tục,

tập quán này được biểu hiện dưới hình thức những chuẩn mực hành vi mà xã

hội yêu cầu đối với các cá nhân thành viên ngày càng rõ rệt.

Các nhà tư tưởng, các trường phái triết học trong lịch sử nhân loại, đã

đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức nhưng chỉ đến chủ nghĩa Mác –

Lênin mới đem lại cách lý giải khoa học về đạo đức. Chủ nghĩa Mác – Lênin

đã chỉ ra, đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, được sinh ra,

biến đổi hoặc bị tiêu diệt theo cơ sở kinh tế - xã hội đã sinh ra nó. Trong xã

hội có đối kháng giai cấp, đạo đức phản ánh rất rõ tính chất giai cấp và cuộc

đấu tranh giai cấp. Bên cạnh đó, dù vẫn có những yếu tố mang tính vĩnh cửu,

35

ngoài tính giai cấp thì đạo đức còn bao hàm tính chất nhất thời về lịch sử điều

này thể hiện trong sự biến đổi của các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội

khác, trong quá trình tiến bộ văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, đạo đức

được phát triển theo.

* Cấu trúc của đạo đức

Đạo đức là một hiện tượng xã hội có cấu trúc phức tạp với những yếu

tố cơ bản đó là: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức.

Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương

tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc điều chỉnh

hành vi của các cá nhân. Ý thức đạo đức liên quan đến chức năng của tư duy,

năng lực nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân, khác với học thuộc

lòng một cách hình thức những chuẩn mực đạo đức. Ý thức đạo đức tồn tại ở

những trình độ khác nhau: Quan niệm của cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp,

tầng lớp, của dân tộc hay thời đại về những chuẩn mực xã hội. Trong ý thức

đạo đức, ngoài những nội dung chuẩn mực còn chứa đựng những cảm xúc,

tình cảm đạo đức của con người. Đây là yếu tố quan trọng tạo ra ham muốn,

khát vọng và sức mạnh của ý chí để các cá nhân chuyển hóa các quan niệm,

chuẩn mực đạo đức thành hành vi đạo đức.

Hành vi đạo đức là ứng xử trong thực tế của con người, là sự thể hiện

của các quy tắc, chuẩn mực đạo đức một cách trực tiếp hay gián tiếp trong các

mối quan hệ với bản thân, với người khác và với tự nhiên. Nhờ có tình cảm

đạo đức thôi thúc, cá nhân đã khắc phục mọi khó khăn để biến ý thức đạo đức

thành thực tiễn đạo đức. Như vậy, hành vi đạo đức chính là ý thức đạo đức

được thực hiện. Trong lĩnh vực đạo đức, ý thức đạo đức đóng vai trò rất quan

trọng, là điều kiện cần nhưng chưa đủ của hành vi đạo đức và hành vi đạo đức

mới là cái đích hướng đến. Để hành vi mang giá trị đạo đức thì điều có tính

quyết định là động cơ làm việc tốt là sự vô tư, sự đồng cảm, thông cảm và

lòng nhân đạo.

36

Quan hệ đạo đức là quan hệ giữa người với người được dựa trên cơ sở

là các quy tắc, chuẩn mực đạo đức. Quan hệ đạo đức là một bộ phận hợp

thành của những quan hệ xã hội, chỉ có những quan hệ nào giữa người với

người thể hiện bổn phận, trách nhiệm, lương tâm, nghĩa vụ mới là quan hệ

đạo đức. Quan hệ đạo đức luôn có sự biến đổi trong suốt quá trình phát triển

của lịch sử loài người và trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội.

2.1.1.3. Giáo dục đạo đức cho sinh viên

Là một bộ phận thanh niên ưu tú nhất, là những người đang định hình về

mặt nhân cách, SV là lực lượng xã hội đang trưởng thành, đang phát triển. Họ sẽ

trở thành những người lao động có trình độ cao với tri thức chuyên môn, kỹ năng

nghề nghiệp, có các mối quan hệ xã hội đa dạng, biết bổ sung kiến thức và có thể

không ngừng nâng cao trình độ,… Để SV có thể đạt được những khả năng như

vậy, nhà trường, các chủ thể giáo dục đã xác định một cách cụ thể trong mục tiêu

của từng môn học và chuẩn đầu ra của mỗi ngành đào tạo. Trong quá trình đào

tạo, nhà trường mà trước hết là các GV phải giáo dục nhu cầu học tập, cách thức

để SV có thể chiếm lĩnh và xử lý thông tin, tri thức mà xã hội và nhân loại đã đạt

được thuộc các lĩnh vực khoa học. Bên cạnh đó, cần hình thành và rèn cho SV

các kỹ năng thực hành nghề nghiệp và các kỹ năng xã hội. Cùng với mục tiêu đặt

ra về phát triển tài năng, giáo dục các chuẩn mực đạo đức để hoàn thiện nhân

cách cho SV cũng được đặt ra. Nếu như, giáo dục tri thức khoa học đóng góp

gián tiếp thì giáo dục đạo đức đóng vai trò quyết định, trực tiếp đến việc hoàn

thiện nhân cách đạo đức của SV.

Giáo dục đạo đức được hiểu là: “Quá trình chuyển văn hóa đạo đức xã hội

thành văn hóa đạo đức cá nhân. Đó là quá trình chuyển những tri thức, kinh

nghiệm, chuẩn mực và lý tưởng đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức

cá nhân, làm nâng cao ý thức cũng như năng lực đánh giá và thực hiện hành vi

đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã hội” [114, tr.69].

Những tác động của quá trình được tổ chức có mục tiêu, kế hoạch, biện

37

pháp, nội dung, cách thức thực hiện cụ thể của các chủ thể giáo dục đã dẫn

đến sự thẩm thấu, chuyển hóa những yêu cầu, giá trị đạo đức của xã hội thành

phẩm chất cấu thành nên nhân cách của các cá nhân.

Từ khái niệm giáo dục đạo đức nêu trên, có thể khái quát và rút ra khái

niệm giáo dục đạo đức cho SV: là quá trình tác động vào SV bằng tri thức

đạo đức, tổ chức hoạt động thực tiễn, bằng các TGĐĐ nhằm hình thành tri

thức về các chuẩn mực đạo đức và củng cố thành niềm tin ở SV được biểu

hiện qua hành vi, ứng xử của SV khi họ tham gia vào các quan hệ xã hội.

Giáo dục đạo đức được thực hiện thông qua các chủ thể giáo dục cung

cấp hệ thống tri thức căn bản với các khái niệm về đạo đức để SV hiểu, từ đó

biết đánh giá điều đúng cần làm và sai cần tránh trong các mối quan hệ với bản

thân, bạn bè, gia đình, cộng đồng và đất nước. Có tri thức đạo đức mới chỉ là sự

thay đổi trong nhận thức của SV, để nhận thức được củng cố, bền vững, để có

sự thay đổi thực sự trong nhân cách thì tri thức đó phải được thể hiện bằng

hành vi đạo đức, lý luận phải biến thành thực tiễn đời sống đạo đức phong phú

sinh động của SV.

Giáo dục đạo đức cho SV góp phần chuyển các quan điểm đạo đức từ tự

phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, từ trình độ nhận thức thông thường

đến trình độ nhận thức khoa học ở SV. Đó là những giá trị đạo đức các thế hệ

trước truyền lại cho thế hệ đi sau. Quá trình này, còn tạo ra những quan điểm,

xây dựng những phẩm chất đạo đức mới ở SV, đồng thời, góp phần phủ định,

xóa bỏ những quan điểm đạo đức lạc hậu, các phản giá trị đạo đức. Vai trò của

giáo dục đạo đức không chỉ là thực hiện mục tiêu là hình thành và phát triển yếu

tố đạo đức mà thực tế cho thấy còn ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và

phát triển yếu tố tài năng cho SV.

2.1.2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Nói đến gương là nói đến: “Cái được coi là mẫu mực để noi theo” [106,

tr.413].

38

Tấm gương là hình ảnh, cử chỉ, biểu hiện sinh động của các chuẩn mực,

giá trị xã hội ở các cá nhân cụ thể, có sức lan tỏa, ảnh hưởng đến những người

khác trong xã hội để mọi người noi theo, làm theo.

Khi nói đến gương hay tấm gương tức là nói đến cái chuẩn, cái mẫu để

người khác nhìn vào và học theo. Chúng tôi quan niệm, cái chuẩn và mẫu phải là

cái tốt, cái đúng, cái thiện, do đó, tấm gương được hiểu là những cá nhân với

những phẩm chất, năng lực chuẩn, mẫu mực thuộc lĩnh vực nào đó, là kết quả của

quá trình khổ luyện của các cá nhân đó, mà những người khác có thể học tập và

làm theo.

Tấm gương xuất hiện trong xã hội thuộc về nhiều lĩnh vực khác nhau

như: tấm gương trong chính trị, tấm gương trong kinh tế, tấm gương trong y

học, tấm gương trong nghệ thuật, tấm gương trong đạo đức,…

TGĐĐ là những hình ảnh, cử chỉ, biểu hiện của các chuẩn mực, giá trị

đạo đức xã hội ở các cá nhân một cách sinh động, phong phú thông qua các

mối quan hệ với bản thân họ, với những người khác trong xã hội, từ đó làm

cho người khác nể phục, kính nể, tin yêu, học theo, noi theo và làm theo.

Giáo dục đạo đức cần phải dựa vào các tấm gương nhưng không phải là

sự lựa chọn tùy tiện, cảm tính của các chủ thể giáo dục mà được dựa trên cơ

sở sinh lý học là sự bắt chước, một trong những phần sinh học chủ yếu và có

một cơ chế nào đó nằm sâu trong nhận thức của con người thường xuyên kích

thích mọi người tìm kiếm và làm theo những chuẩn mực lý tưởng.

Hồ Chí Minh là một người quan tâm đến đạo đức trong vai trò của một

lãnh tụ, một nhà thực tiễn cách mạng. Do vậy, Người càng chú ý phát huy cao

độ sức mạnh của đạo đức để ph0ục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Muốn như

vậy, phải biến lý thuyết thành thực tiễn đạo đức, làm cho nhận thức đúng đắn

về đạo đức của cán bộ, đảng viên và nhân dân thành hành động cách mạng.

Trong giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh đã khéo léo kế thừa và phát huy truyền

thống vốn giàu tình cảm, coi trọng và tự giác học tập theo TGĐĐ của nhân

39

dân ta. Người nói: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình

cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn

văn tuyên truyền” [79, tr.284]. Đối với nhân dân các nước phương Đông trọng

tình, trọng đạo đức, tấm gương sống mẫu mực luôn có khả năng thay đổi, cảm

hóa, lôi cuốn rất lớn đối với họ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trước mặt quần

chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn

nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” [84, tr.16]. Theo

Người, tư cách, đạo đức của người cách mạng không phải được khẳng định

bằng những tín điều hay bằng lời nói mà phải được thể hiện rõ nét bằng

những hành động mang tính chuẩn mực để quần chúng làm theo. Cũng vì lẽ

đó, Hồ Chí Minh đã gương mẫu thực hiện một cách triệt để, nhất quán các

chuẩn mực đạo đức mà mình nêu ra không chỉ trong các hoạt động chính trị

của một lãnh tụ, người đứng đầu nhà nước mà trong mọi mối quan hệ, mọi

công việc, sinh hoạt, ứng xử đời thường. Vì vậy, lý thuyết đã hòa quyện vào

thực tiễn đời sống của Người, tạo thành một thể thống nhất tự nhiên, Người

trở thành TGĐĐ sáng ngời cho các thế hệ.

Nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng khái niệm TGĐĐ Hồ Chí Minh trong

các nghiên cứu của mình, tuy nhiên lại chưa đem lại nội dung cho khái niệm này.

Trong công trình của mình, tác giả Hoàng Chí Bảo đã đề cập đến nội

dung của khái niệm này như sau: “Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể

hiện qua hoạt động, hành vi và lối sống, qua các mối quan hệ với con người,

với công việc, trong giao tiếp, ứng xử hằng ngày” [20; tr.11].

Chúng tôi cũng cơ bản thống nhất với quan điểm của tác giả công trình nêu

trên. Như vậy, TGĐĐ Hồ Chí Minh được hiểu là toàn bộ sự thể hiện một cách nhất

quán, trọn vẹn, tiêu biểu của những chuẩn mực đạo đức cách mạng thông qua hành

vi, ứng xử của Người với bản thân, với người khác và với công việc. Qua đó, mỗi

người Việt Nam đều có thể soi vào, noi theo để hoàn thiện mình và vì vậy, đã tạo ra

40

được một khối thống nhất của những con người có cùng lý tưởng, phẩm chất đạo

đức cách mạng, góp phần đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.

TGĐĐ Hồ Chí Minh vừa là tấm gương của một vĩ nhân, với hoài bão,

lý tưởng sống cao đẹp, lớn lao là hi sinh lợi ích, hạnh phúc cá nhân vì đất

nước, vì nhân dân; là bản lĩnh, can đảm trước những thử thách; với tình yêu

bao la giành cho con người. Đồng thời, Người cũng là tấm gương mà mỗi cá

nhân có thể tìm thấy những điều bổ ích, có thể học tập và làm theo để trở nên

tốt hơn, hoàn thiện hơn, thành công hơn trong cuộc sống.

TGĐĐ Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở thực tiễn là cuộc đấu

tranh của nhân dân Việt Nam chống lại chủ nghĩa thực dân, phong kiến giành

độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời, đó còn là quá trình

đấu tranh giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế

quốc diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Chính mảnh đất hiện thực ấy còn là

môi trường, điều kiện để Hồ Chí Minh tôi luyện thành một tấm gương tiêu

biểu của đạo đức cách mạng. TGĐĐ Hồ Chí Minh cũng được hình thành trên

nền tảng triết học với thế giới quan, nhân sinh quan nhất quán, cơ sở lý luận

của TGĐĐ Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa Mác – Lênin, do đó, mặc dù kết

tinh tinh hoa đạo đức của dân tộc và nhân loại nhưng đạo đức Hồ Chí Minh

có bản chất là đạo đức cộng sản.

Điều này được thể hiện ở lý tưởng chính trị và lý tưởng đạo đức của Hồ

Chí Minh thống nhất với nhau đó là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột con

người, xây dựng chế độ mới mà con người được tự do, làm chủ xã hội mà

trước hết là xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc. Hồ Chí Minh đã sử dụng nhuần

nhuyễn phương pháp biện chứng duy vật không chỉ trong đề ra đường lối,

chiến lược cách mạng Việt Nam, mà trước hết, Người đã sử dụng nó trong

cuộc sống đời thường để tu dưỡng, rèn luyện và trở thành TGĐĐ vĩ đại của

một người cộng sản. Hồ Chí Minh cũng coi cuộc đời của những người sáng

lập ra chủ nghĩa Mác- Lênin như những mẫu hình về trí tuệ kiệt xuất, về đạo

41

đức trong sáng, giản dị, khiêm tốn, về sự hi sinh cho sự nghiệp giải phóng giai

cấp cần lao trên toàn thế giới.

Nếu tách rời cuộc đời Hồ Chí Minh với cơ sở thực tiễn và lý luận nêu

trên thì sẽ không thể có một TGĐĐ Hồ Chí Minh như đã được biết. Ngày nay,

việc nghiên cứu TGĐĐ Hồ Chí Minh hoặc sẽ không có kết quả hoặc sẽ không

thể hiểu thực chất khi không chú ý đến điều này.

2.1.3. Giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã chú ý đến việc nghiên cứu một cách hệ

thống và tìm phương thức để giáo dục một cách có hiệu quả TGĐĐ Hồ Chí

Minh. Từ năm 1951, Đại hội lần thứ II, Đảng chỉ rõ sự cấp thiết của vấn đề

này. Trong Điếu văn tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng

định: “Cả cuộc đời vĩ đại của Hồ Chủ tịch là tấm gương mãi mãi sáng ngời

chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nhân dân

thắm thiết, đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị” [93, tr.629].

Đồng thời, Đảng ta đã đưa ra 5 lời thề nguyện học tập theo tư tưởng, TGĐĐ

của Người. Kể từ đó, qua mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta đều giành trí tuệ, công sức

cho việc giáo dục tư tưởng, TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Đặc biệt, ngày 7/11/2006 Bộ Chính trị ra Chỉ thị 06 – CT/TW, tổ chức

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng,

toàn dân. Chỉ thị ra đời với mục đích:

Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung

cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng,

rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng

trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên

chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh... nâng cao đạo đức cách

mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái

về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp

phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng [25].

42

Tiếp đó, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Chỉ thị số 03 - CT/TW về

“Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 03 - CT/TW, đã có những tác động và thay đổi

nhất định về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên trong việc học và noi

theo TGĐĐ Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Đảng ta nhận định: “Việc học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn có những hạn chế, chưa trở thành

việc làm thường xuyên, chưa thành ý thức tự giác của không ít tổ chức đảng, cơ

quan, địa phương, đơn vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên” [27]. Nhằm đưa

những kết quả đạt được trở nên vững chắc hơn, khắc phục hạn chế trong quá

trình thực hiện Chỉ thị số 03 và góp phần đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của

Đảng đi vào cuộc sống, Ngày 15/5/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký

ban hành Chỉ thị số 05 - CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Như vậy, với quá trình nhận thức, cách thức tổ chức và thực hiện giáo

dục TGĐĐ Hồ Chí Minh của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn, chúng ta có

thể hiểu: Giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh là quá trình các chủ thể như Đảng,

Nhà nước, các cơ quan, tổ chức với những nội dung, hình thức, phương pháp,

phương tiện khác nhau tác động vào đối tượng giáo dục là cán bộ, đảng viên

các tầng lớp nhân dân để hình thành tri thức, tình cảm, niềm tin và thôi thúc

họ hành động, ứng xử theo TGĐĐ Hồ Chí Minh để trở thành những công

dân, những cán bộ, đảng viên ngày càng tốt, hoàn thiện hơn.

TGĐĐ Hồ Chí Minh là sự hiện thực hóa tư tưởng đạo đức bằng chính

cuộc đời của Người, thông qua lối sống, hành vi, ứng xử trong công việc và

giao tiếp hằng ngày. Tuy vậy, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh không có nghĩa

là làm cho đối tượng được giáo dục chỉ dừng lại ở việc học Người về ứng xử,

hành động, vận dụng những cái tốt trong ứng xử của Người trong cuộc sống

hằng ngày, không phải là sự áp dụng máy móc hành vi, ứng xử của Người.

Bởi Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lớn, ở Người có sự gắn bó chặt chẽ

43

giữa những quan điểm, tư tưởng với thực tiễn đạo đức. Trong đó, tư tưởng Hồ

Chí Minh về đạo đức trước hết phản ánh các yêu cầu về đạo đức trước thực

tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới. Vì vậy, trong quá trình giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh, trước hết phải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, cung cấp tri

thức về đạo đức của Người. Có như vậy, đối tượng được giáo dục có thể hiểu

sâu sắc được bản chất của TGĐĐ Hồ Chí Minh, đó sẽ là cơ sở khoa học cho

việc thực hành một cách bền vững tri thức về TGĐĐ Hồ Chí Minh và ngày

càng trở nên tốt hơn. Đồng thời sẽ làm cho đối tượng được giáo dục còn lớn

lên về trí tuệ, nâng mình lên, hoàn thiện mình hơn.

2.2. Nội dung và đặc trƣng của tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh

2.2.1. Nội dung của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

2.2.1.1. Tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì nước, vì dân

Lênin đã nhận định rằng, chủ nghĩa yêu nước là một trong những tình

cảm sâu sắc nhất đã được củng cố trong hàng mấy trăm năm cho đến mấy

nghìn năm của một tổ quốc tồn tại độc lập.

Đối với dân tộc Việt Nam, yêu nước không dừng lại là tinh thần yêu

nước hay lòng yêu nước ở mức độ thấp là cảm xúc của những cá nhân đơn lẻ

hay những tập thể riêng rẽ. Không dừng lại là một truyền thống mang nặng

tính lịch sử thuần túy, mà tư tưởng và tình cảm đó đã phát triển đến đỉnh cao

và trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Được lịch sử thừa nhận là yếu tố

hàng đầu và lấy đó làm trung tâm, nền tảng cho mọi hoạt động tinh thần của

dân tộc, nhờ truyền thống yêu nước, dân tộc ta thoát khỏi âm mưu “đồng

hóa”, bị xâm chiếm bởi rất nhiều thế lực ngoại xâm trong lịch sử. Như vậy,

chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là tổng hòa các yếu tố: tri thức, tình cảm gắn bó

và ý chí thúc đẩy con người tự nguyện dâng hiến sức lực, trí tuệ, thậm chí hi

sinh sinh mạng để giữ gìn và xây dựng đất nước.

Truyền thống quý báu ấy được thể hiện một cách phong phú, trước hết

là sự gắn bó, không muốn tách rời với xứ sở, với những con người gần gũi,

44

thân thuộc; ở tình nghĩa ruột thịt, đồng bào; ở sự chấp nhận hi sinh tất cả để

bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, lãnh thổ và tự hào, quyết tâm giữ gìn và phát

huy các giá trị văn hóa mang đậm đặc trưng của dân tộc.

Là giá trị cao quý, ẩn sâu, kín đáo trong trái tim, khối óc của những con

người Việt Nam rất đỗi bình dị, khi vận mệnh dân tộc đứng trước thử thách

mất còn thì chủ nghĩa yêu nước trỗi dậy mạnh mẽ, trở thành nguồn sức mạnh

vô cùng, vô tận. Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu

nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ

quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô

cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn

chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [85, tr.38].

Đầu thế kỷ XX, một lần nữa Tổ quốc lại lâm nguy, các con đường cứu

nước hiện thời đều tỏ ra bất lực trước thực dân Pháp xâm lược, với tấm lòng

của một người yêu nước, thương đồng bào, chàng thanh niên Nguyễn Tất

Thành đã quyết định đi tìm một con đường mới để cứu nước, cứu dân. Quá

trình đó với 30 năm đã đưa Người đi qua nhiều nước ở khắp các đại dương và

châu lục với rất nhiều cái tên, bút danh, bí danh khác nhau, với đủ nghề, với

những công việc vất vả, nặng nhọc. Trải qua muôn vàn gian khổ, hiểm nguy

Hồ Chí Minh đã hoàn thành sự nghiệp vĩ đại, bởi sự nghiệp đó không phải để

mưu cầu sung sướng cho bản thân, mà là vì toàn thể dân tộc. Người từng nói:

“Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh

phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn

tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó… Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở

đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân” [82,

tr.272]. Mục đích cao đẹp của Hồ Chí Minh là “ích quốc, lợi dân”, cuộc đời

hoạt động đầy sôi nổi, hiểm nguy, gian khổ của Người đã đem những thắng

lợi cho cách mạng là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Lo cho nước, cho

dân Hồ Chí Minh đã phải hi sinh tình nhà và không có giây phút nào nghĩ cho

45

hạnh phúc của riêng mình. Trong lá thư gửi về quê khi hay tin người anh ruột

mất, Người viết: “Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước

nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc

anh tạ thế tôi không thể lo liệu. Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh

và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo

việc nước” [84, tr.463]. Người cũng không lấy vợ, không có con cái. Khi gửi

thư chia sẻ những mất mát với gia đình bác sĩ Vũ Đình Tụng (tháng 1-1947),

Hồ Chí Minh viết:

“Tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia

đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị

em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc

lập, thống nhất, dân chủ” [83, tr.201].

Người coi mình là thành viên của mỗi gia đình Việt Nam, dân tộc Việt

Nam là đại gia đình của mình, tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu, coi nỗi

buồn, nỗi lo của mỗi người dân Việt Nam là của chính mình. Hồ Chí Minh

bộc bạch: "Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả

những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau

khổ của tôi" [93, tr.674].

Những năm tháng kháng chiến, Người đồng cam cộng khổ cùng đồng

bào, cháo bẹ măng rừng, sống trong hang. Khi đã là Chủ tịch nước, Hồ Chí

Minh vẫn dành trọn vẹn trái tim và khối óc cho nhân dân, cho dân tộc. Khi đã

ở cương vị mới, Người vẫn triệt để gương mẫu thực hành cần, kiệm, vẫn giữ

nếp sống thanh bạch, giản dị. Cho đến khi về cõi vĩnh hằng Người vẫn canh

cánh trong lòng một nỗi đất nước chưa liền một dải, đồng bào miền Nam vẫn

dưới gót giầy của kẻ xâm lược, còn bị đọa đày, lầm than, nô lệ.

Cả cuộc đời Hồ Chí Minh đã sống trọn vẹn với lý tưởng sống cao đẹp.

Trong Di chúc để lại, Người không có điều gì tiếc nuối cho bản thân mình mà

chỉ tiếc không được tiếp tục cống hiến cho cách mạng, phục vụ nhân dân. Kể

46

từ năm 1965, Người khởi thảo Bản Di chúc, cũng là bốn năm Người suy nghĩ

một cách thấu đáo cho sự qua đời của mình. Nhưng sự lo lắng, trăn trở đó chủ

yếu vẫn là về tiền đồ của dân tộc, về cách mạng, về các tầng lớp nhân dân

Việt Nam. Ngay cả khi nói “về việc riêng”, Hồ Chí Minh cũng hi sinh, quên

tất cả những gì thuộc về mình, để nghĩ về đồng bào, nghĩ đến thuận lợi cho

người sống. Người căn dặn: “Khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng

linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân” [93, tr.623]. Tro

xương của người đã khuất với người Việt Nam có ý nghĩa tinh thần, tâm linh

rất lớn. Nhưng với Hồ Chí Minh một con người đã dành trọn cuộc đời cho

dân tộc thì điều còn lại sau cùng ấy Người cũng nguyện dâng hiến cho đồng

bào “Tro thì chia làm ba phần, bỏ vào ba cái hộp sành. Một hộp cho miền

Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam” [93, tr.615]. Khẳng

định công lao to lớn và sự hi sinh trọn vẹn đó, trong Điếu văn truy điệu Chủ

tịch Hồ Chí Minh, Đảng Lao động Việt Nam đã nêu rõ: “Từ buổi thiếu niên

cho đến phút cuối cùng, Hồ Chủ tịch đã cống hiến trọn đời mình cho sự

nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới” [93, tr.626].

2.2.1.2. Tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi

thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng

Lý tưởng sống cao đẹp, nguyện dâng hiến đời mình cho dân tộc, cho

nhân dân là nguồn nuôi dưỡng ý chí kiên cường, nghị lực phi thường, để Hồ

Chí Minh vượt qua gian nan, thử thách. Ý chí, nghị lực phi thường đã biến lý

tưởng cao đẹp thành hành động thực tế, đó là sự kết tinh của trí tuệ, tài năng

và các phẩm chất tốt đẹp của Người. Ý chí, nghị lực đó không tự nhiên mà có,

được Người kiên nhẫn rèn luyện thông qua vô vàn biến cố, với những thử

thách to lớn, mà chỉ có những người “muốn nên sự nghiệp lớn” mới có thể

vượt qua. Trước những thử thách, gian nan, Hồ Chí Minh coi đó là điều kiện,

là môi trường để tôi luyện bản lĩnh, ý chí cách mạng:

“Gạo đem vào giã bao đau đớn

47

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông

Sống ở trên đời người cũng vậy

Gian nan rèn luyện mới thành công” [81, tr.382]

Người đã nếm trải nỗi vất vả của người phụ bếp phục vụ bữa ăn cho

700 - 800 con người trên tàu chòng chành giữa đại dương. Rồi khó nhọc của

người quét tuyết, đốt lò, phục vụ khách sạn, người làm vườn,… giữa khí hậu

khắc nghiệt vào mùa đông ở các nước châu Âu với đồng tiền công ít ỏi không

đủ cho sinh hoạt. Gần 10 năm lao động và trải nghiệm nhiều quốc gia khắp

các châu lục, Hồ Chí Minh đã hòa mình vào giới cần lao, hiểu và thông cảm

những cùng cực của những người lao động.

Hồ Chí Minh đã dấn thân để đi tìm một con đường hoàn toàn mới mẻ

nhằm chống lại kẻ thù, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân, do vậy,

mối nguy hiểm đe dọa càng lớn, thậm chí đe dọa cả sinh mạng của Người. Hồ

Chí Minh phải đối mặt với bản án tử hình của thực dân Pháp năm 1929,

những ngày tháng bị giam hãm, đọa đày trong nhà tù của thực dân Anh ở

Hồng Kông (từ tháng 6-1931 đến tháng 1-1933), bị dẫn giải khắp các nhà tù

của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc (từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943). Trong

hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm đó Người vẫn tràn đầy lạc quan, ý chí bất

khuất, khí phách kiên cường hiếm thấy, điều đó được thể hiện qua tập thơ

“Ngục trung nhật ký” bằng chữ Hán.

Thử thách với Hồ Chí Minh còn là những năm tháng bị hiểu sai về

quan điểm, lập trường từ những người đồng chí trong Quốc tế Cộng sản và

Đảng Cộng sản Đông Dương. Dù ở điều kiện nào, Người cũng thể hiện ý chí

mạnh mẽ, kiên trì với sự lựa chọn của mình. Hội nghị tháng 10-1930 của

Trung ương Đảng đã ra Án Nghị quyết chỉ trích gay gắt về cách làm và quan

điểm của Hồ Chí Minh trong Hội nghị thành lập Đảng. Đó là sai lầm về việc

tổ chức Đảng, sai lầm về chính trị trong vấn đề cách mạng ruộng đất, trong

đánh giá giai cấp tư sản dân tộc, “chỉ lo phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp

48

đấu tranh”. Đồng thời Nghị quyết cũng thủ tiêu Chánh cương Sách lược và

Điều lệ cũ của Đảng. Từ hiểu lầm đó, Hồ Chí Minh không được giao nhiệm

vụ gì ngoài nhiệm vụ làm nghiên cứu sinh tại Viện Nghiên cứu Những vấn đề

dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Với một con người luôn lấy tự

học làm chính, thích hoạt động thực tiễn và tích lũy tri thức qua thực tiễn để

trở về nước hoạt động cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh gọi đó là tình cảnh

đau buồn, tình trạng không hoạt động, sống ở bên cạnh, ở ngoài Đảng. Trong

một lá thư, Người viết:

Đó cũng là ngày mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động

của tôi. Nhân dịp này, tôi viết thư gửi đồng chí để xin đồng chí

giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này. Đồng chí hãy phân

tôi đi đâu đó. Hoặc là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi làm một

việc gì mà theo đồng chí là có ích. Điều tôi muốn đề nghị với

đồng chí là đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt

động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng

[81, tr.117].

Trong tình cảnh đau buồn ấy, một mặt Hồ Chí Minh nghiêm túc chấp

hành Nghị Quyết của Quốc tế Cộng sản, tổ chức có tiếng nói quyết định đối

với các Đảng Cộng sản, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lúc bấy

giờ. Mặt khác, Người bình tĩnh, kiên trì phân tích, làm rõ và khẳng định sự

đúng đắn lập trường, quan điểm của mình khi có điều kiện.

Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước đứng trước vô vàn khó khăn

chồng chất, có lúc như “ngàn cân treo sợi tóc”, những ngày dân tộc Việt Nam

kháng chiến chống thực dân Pháp gian nan ở núi rừng Việt Bắc dù ốm đau,

thiếu thốn Người vẫn ung dung, tràn đầy nghị lực và mưu trí.

Những năm tháng cuối đời, khi “tuổi càng cao, sức khỏe càng thấp”,

nhưng ý chí, nghị lực của Hồ Chí Minh vẫn không hề giảm. Người kiên trì

luyện tập để có sức khỏe, để tiếp tục phục vụ cách mạng. Năm 1967, mắt đã

49

yếu bị mờ đi, còn tay không thể nắm vững nữa, Người đã kiên trì với các bài

tập luyện và dần dần đã phục hồi chức năng của tay. Đầu tháng 1-1969, khi

chuẩn bị thu thanh đọc thơ chúc tết, Hồ Chí Minh bị ho ra máu, giọng khản và

yếu. Nhận thấy rằng, nếu để đồng bào, chiến sĩ cả nước nhất là ở miền Nam

biết điều này sẽ lo lắng và không có lợi cho cách mạng nên Người đã kiên trì

hằng ngày vào buổi sáng tập đọc và sử dụng thuốc. Cũng trong thời gian này,

thấy sức khỏe có tiến bộ, Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng chí Lê Duẩn với

mong muốn được đi miền Nam để thỏa nỗi nhớ mong và động viên các chiến

sĩ và nhân dân đánh thắng giặc Mỹ. Từ sau ngày đó, Người đề ra một kế

hoạch luyện tập nhằm nâng cao sức khỏe hơn nữa và nghiêm túc tập luyện.

Là linh hồn, là “nhạc trưởng” của các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân

tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, ý chí phi thường, quyết tâm đánh thắng kẻ thù

xâm lược của Người đã trao truyền và biến thành ý chí, quyết tâm của cả dân

tộc. Đương đầu với đế quốc Mỹ, nước có sức mạnh kinh tế, quân sự lớn nhất

thế giới, song với niềm tin vào sự tất thắng của cuộc chiến chính nghĩa của

dân tộc, Hồ Chí Minh giương cao tinh thần, niềm tin đánh bại kẻ thù: “Chiến

tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải

Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt

Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi,

nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” [93,

tr.131]. Quyết tâm đó không dừng lại ở khẩu hiệu hành động mà trở thành

thực tiễn chiến đấu oanh liệt với sự phối hợp của quân và dân cả nước. Bước

vào năm 1969, mùa Xuân cuối cùng của Hồ Chí Minh, cuộc chiến tranh vào

giai đoạn gian khổ, ác liệt, phức tạp. Người đã sửa lại lần cuối bản Di chúc,

khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua

gian khổ hi sinh nhiều hơn nữa. Song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là

một điều chắc chắn” [93, tr.618]. Đó là niềm tin, khí phách của một bậc “đại

trí, đại nhân, đại dũng” vào tất thắng của cuộc chiến tranh chính nghĩa của

một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu trước kẻ thù khổng lồ, hiện đại đi xâm lược.

50

2.2.1.3. Tấm gương về sự tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân

dân, kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân

Là một người am tường về đặc điểm, truyền thống dân tộc, Hồ Chí

Minh hiểu rất rõ vai trò và sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và gìn giữ

đất nước đã được lịch sử ghi nhận. Đến với học thuyết Mác – Lênin, Người

càng sáng tỏ hơn nữa về vai trò của nhân dân, đó là chủ thể đã tạo ra của cải

vật chất và giá trị tinh thần của xã hội, là nhân tố quyết định trong các cuộc

khởi nghĩa, đấu tranh đánh đuổi kẻ thù xâm lược hay xóa bỏ triều đại đã tỏ rõ

sự phản động, tội ác với nhân dân. Người đi đến khẳng định rằng, con người,

nhân dân chính là lực lượng ở trên thế giới này làm ra bất cứ công việc gì dù

nhỏ bé, đơn giản hay to lớn, vĩ đại. Hơn nữa, nhân dân còn là những con

người có những đức tính tốt đẹp là khi đã hiểu công việc thì dù khó khăn đến

đâu họ cũng sẽ vượt qua, phải hy sinh đến thế nào họ cũng không sợ. Nhân

dân cũng rất tài năng, khi họ đoàn kết lại thì tạo nên sức mạnh trong thế giới

không gì sánh được. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Có lực lượng dân chúng việc to tát

mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không

xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,

đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”

[83, tr.335].

Từ đó, Hồ Chí Minh cho rằng, cần tạo ra những điều kiện thuận lợi

nhất để bồi dưỡng, phát huy khả năng to lớn của nhân dân, đó không chỉ là

động lực quyết định mà còn là mục tiêu cao cả mà chế độ xã hội mới hướng

tới. Trong chế độ mới, Người đã xác định vị trí của nhân dân là chủ, do vậy,

Người nêu gương là “công bộc” giành toàn bộ thời gian, công sức, trí tuệ để

đem lại lợi ích chính đáng cho họ. Người nói:

Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc của Chính

phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do

hạnh phúc cho mọi người, lo làm lợi cho nhân dân mà trước hết

51

là nhân dân lao động, ngày càng nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần cho nhân dân. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ

cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho

dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh [82, tr. 21].

Người luôn nhắc nhở các cán bộ nhà nước về vị trí của mình trong mối

quan hệ với nhân dân. Vị trí đó hoàn toàn trái ngược với bọn vua chúa, quan

lại trong chế độ cũ chuyên áp bức, bóc lột, ra oai, cậy quyền, cậy thế, ức hiếp

nhân dân. Người cũng nghiêm khắc phê phán những hành vi ứng xử, thái độ

chưa đúng mực của những cán bộ nhà nước đối với nhân dân. Để cán bộ trong

bộ máy nhà nước mới thực hiện chức năng, nhiệm vụ khác biệt hoàn toàn với

chế độ cũ, thực sự là người phục vụ của nhân dân, Hồ Chí Minh đã gương

mẫu và yêu cầu họ thực hiện đó là gần gũi, lắng nghe dân để hiểu được tâm

tư, nguyện vọng và đề xuất chủ trương, chính sách phù hợp, đúng đắn. Bên

cạnh đó, Hồ Chí Minh còn thể hiện sự cầu thị, khiêm tốn, ra sức học tập nhân

dân bởi họ rất giỏi và thực hành “cần, kiệm, liêm, chính” không chỉ để cán bộ

nhà nước mà còn để nhân dân noi theo.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh về sự gần gũi, gắn bó của cán bộ nhà nước

với nhân dân là để phục vụ họ tốt nhất nhưng Người cũng lưu ý, cảnh báo để

cán bộ không được “theo đuôi quần chúng”. Cán bộ không chỉ vạch ra kế

hoạch, tổ chức đời sống cho dân mà còn làm sáng tỏ cho nhân dân về địa vị

và năng lực thực hiện quyền là chủ của họ. Vì vậy, Người đã nhiều lần nhấn

mạnh với cán bộ, đảng viên và đặc biệt là nhân dân vấn đề nâng cao dân trí,

khuyến khích nhân dân đóng góp ý kiến, công sức, tiền để giải quyết các vấn

đề chung của nhà nước.

Không chỉ quan tâm đến vấn đề lớn như vị thế là người làm chủ trong

quan hệ chính trị với nhà nước của nhân dân mà Hồ Chí Minh cũng luôn luôn

chú ý chăm lo đến quyền lợi, những gì cơ bản thiết thực hàng ngày. Người

nhấn mạnh:

52

Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét,

thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự

do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực

hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm

cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng

ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do

độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập [82, tr.175].

Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng phải vạch ra kế hoạch phát triển kinh

tế và văn hóa thật tốt, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

Được sinh ra, nuôi dưỡng bởi những gì tốt đẹp nhất của nhân dân, sau

đó, sống với nhân dân, thấu hiểu mọi vui, buồn, lo lắng, hi vọng của họ để rồi

mong muốn của Người khi đã ở cương vị cao nhất của chính phủ là “làm một

cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều

làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng

danh lợi” [82, tr.187].

24 năm từ năm 1945 đến năm 1969, là người đứng đầu nhà nước, Hồ

Chí Minh là tấm gương sáng của một “người đầy tớ thật trung thành” đem hết

khả năng, công sức, thời gian để phục vụ nhân dân tốt nhất. Chưa bao giờ

ham địa vị, hiểu đúng bản chất của địa vị trong bộ máy nhà nước mới nên

Người nhận thức chức vụ Chủ tịch chính phủ không phải là đặc quyền mà là

nhiệm vụ nặng nề trước đồng bào, Tổ quốc và khi nào “đồng bào cho tôi lui,

thì tôi rất vui lòng lui”.

Vì là “người đầy tớ thật trung thành”, “công bộc” Hồ Chí Minh đã

giành trọn thời gian, tâm lực, trí lực làm việc hiệu quả nhất đem lại quyền lợi

cho nhân dân. Dù bận rộn với biết bao công việc nhưng Người luôn sắp xếp

để được về với nhân dân. Không khó để chúng ta thấy những hình ảnh, nghe

những câu chuyện, xem những thước phim tài liệu về Hồ Chí Minh với các

tầng lớp nhân dân. Người thường xuyên thăm hỏi bộ đội, “chống gậy lên non

53

xem trận địa”, đến những địa điểm sản xuất, chữa bệnh và sinh hoạt của công

nhân, nông dân, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, học sinh,…để được chia sẻ những

vui buồn, trăn trở và để học tập họ.

Trong những năm cuối đời, ở độ tuổi 70, Người vẫn giữ nhu cầu, thói

quen biết tường tận về sinh hoạt, cuộc sống của nhân dân. Trên giường bệnh

trước phút lâm chung, Hồ Chí Minh vẫn yêu cầu thông báo những chiến thắng

mới nhất của đồng bào miền Nam, và chăm chú lắng nghe tình hình chiến

trường từ Trị – Thiên – Huế đến miền Tây Nam Bộ xa xôi. Đối với miền Bắc,

Người lo lắng cho dân trong mùa mưa lũ, đê vỡ, hỏi xem có kịp sơ tán dân hay

không, và sắp đến ngày khai trường, đã lo trường lớp, sách bút cho đàn cháu nhỏ

đến đâu. Hồ Chí Minh không có lợi ích riêng nào, hạnh phúc riêng nào, lợi ích,

hạnh phúc của Người hòa làm một với dân tộc, với đồng bào. Cố thủ tướng

Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Hi sinh tận trung với nước, với dân. Không có cái

gì riêng, cái gì của nước, của dân là của Người. Quyền lợi tối cao của nước, lợi

ích hằng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của Người” [47, tr.33].

2.2.1.4. Tấm gương nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực vì

con người

Những truyền thống quý báu của dân tộc, của quê hương Nghệ Tĩnh đã

hình thành ở Hồ Chí Minh một cách tự nhiên qua người thân, gia đình và qua

cuộc sống thực tiễn của chính Người. Tình yêu thương, sự đồng cảm với nỗi

thống khổ của đồng bào không phải là cảm xúc bột phát, nhất thời hay dừng

lại là sự suy tư về thân phận, về nỗi khổ của con người mà đó là khát vọng đã

thôi thúc Hồ Chí Minh bất chấp hiểm nguy, gian nan, khổ cực dấn thân đi tìm

cách thức, hướng đi giải phóng cho họ. Người đã hiện thực hóa khát vọng của

mình bằng suy nghĩ, hành động, sự hi sinh để đem lại cuộc sống tốt đẹp trong

hiện thực cho con người. Sau nhiều năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, chủ

nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra cho Người, muốn nhân dân được tự do, hạnh phúc

thực sự thì dân tộc phải được độc lập và gắn liền với CNXH.

54

Tình yêu thương dành cho con người ở Hồ Chí Minh bao la nhưng rất

cụ thể, chân tình, có thể cảm nhận một cách rõ ràng, sâu sắc. Không chỉ trăn

trở với những vấn đề của nhân dân với tư cách một lãnh tụ, người đứng đầu

đất nước, Hồ Chí Minh còn dành sự yêu thương chân thành, chăm lo ân cần

như một người ông, người cha trong gia đình. Như cố thủ tướng Phạm Văn

Đồng khẳng định, giữa Hồ Chí Minh với dân tộc là mối quan hệ mật thiết,

nồng nàn, chan chứa tình cảm yêu thương. Không một ai trong đại gia đình

Việt Nam già trẻ, gái trai, đồng bào các dân tộc thiểu số, kể cả người Việt

Nam ở nước ngoài, không có một vị trí nhất định trong trái tim Hồ Chí Minh,

trong đó, những người đang trực tiếp chiến đấu hi sinh cho nền độc lập của

dân tộc, các thương binh, gia đình liệt sĩ, đến đồng bào miền Nam ruột thịt,

các cháu thiếu niên nhi đồng luôn được Người ưu tiên quan tâm, lo lắng.

Những câu chuyện cảm động kể lại về những hành động, cử chỉ tưởng

chừng nhỏ bé và bình dị nhưng đã thể hiện sự chân thành, thiết thực, tinh tế

với từng đối tượng mà Người tiếp xúc. Thương người lao công quét đường

những đêm khuya mùa đông, Hồ Chí Minh căn dặn những người phụ trách

chú ý những biện pháp bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho họ. Khi đi công tác

nước ngoài, Hồ Chí Minh còn mua về giống cây mùa đông ít rụng lá để

những người lao công đỡ tốn công, đỡ vất vả quét đường. Một câu chuyện

khác được kể lại, mùa hè thủ đô Hà Nội năm 1967, thương các chiến sĩ phòng

không trực trên nóc Hội trường Ba Đình giữa trời oi bức, Hồ Chí Minh

chuyển toàn bộ tiền tiết kiệm có được do các báo trả nhuận bút để mua nước

ngọt tặng họ… Với người anh hùng Trần Thị Lý, khi biết rằng chân dẫm trên

sỏi thì vết thương trên đầu sẽ bị ảnh hưởng, Người dẫn chị đi tránh con đường

như vậy khi thăm vườn Phủ Chủ tịch. Giữa bộn bề việc nước nhưng Hồ Chí

Minh luôn thấu hiểu và tìm cách sẻ chia nỗi khổ của mỗi người, của các tầng

lớp nhân dân. Nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác ơi, tim Bác mênh mông thế. Ôm

cả non sông, mọi kiếp người”.

55

Trước khi rời xa thế giới này, Người để lại những lời căn dặn tâm huyết

trong bản Di chúc cô đọng nhất của trí tuệ và những yêu thương, trăn trở về

đất nước và các tầng lớp nhân dân. Sự chu đáo, lo lắng của Hồ Chí Minh cho

nhân dân được thể hiện ngay từ lý do viết Di chúc, đó là để họ “khỏi cảm thấy

đột ngột” khi đón nhận sự ra đi của Người. Hồ Chí Minh để lại rất nhiều tình

yêu thương, sự quan tâm cho Đảng và những người ở lại, Người viết trong Di

chúc “Đầu tiên là công việc đối với con người”, là chăm lo, là có chính sách

đối với con người. Thanh niên, thế hệ rường cột của cách mạng, lực lượng

chủ yếu xây dựng đất nước mai sau, Hồ Chí Minh rất mực tin tưởng ở họ. Vớì

tình yêu thương đối với thế hệ trẻ, Người dặn dò, Đảng, nhà nước và toàn xã

hội cần phải chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho thanh niên, để họ trở

thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”. Với

phụ nữ, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ những đức tính tốt đẹp và tôn vinh những

đóng góp của họ cho xã hội, cho đất nước. Người đặc biệt chú ý tới sự phát

triển, tiến bộ của phụ nữ, quyền bình đẳng và hạnh phúc của họ trong cuộc

sống. Hồ Chí Minh nhắc nhở Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch cụ thể

nhằm tạo điều kiện, giúp đỡ phụ nữ để họ được cống hiến, tham gia nhiều hơn

nữa vào các công việc quản lý nhà nước và xã hội. Đồng thời, Người cũng

động viên, cổ vũ phụ nữ vươn lên khẳng định năng lực của mình để được xã

hội công nhận. Có làm được như vậy phụ nữ mới có quyền bình đẳng không

hình thức. Với nông dân, những con người đã bao đời chịu nhiều đau khổ vì

ách áp bức, bóc lột nặng nề, đã hăng hái đi theo Đảng, đóng góp sức lực, hi

sinh tính mạng, Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến lợi ích thiết thực, cụ thể của

người nông dân và đề nghị miễn thuế một năm cho họ sau khi thống nhất đất

nước. Với những người đã đóng góp sức lực, của cải, đặc biệt là cả tính mạng

mình cho đất nước, với các gia đình thương binh liệt sĩ, Người căn dặn phải

chăm lo cuộc sống cho họ một cách chu đáo nhất, thực hiện truyền thống của

dân tộc “uống nước nhớ nguồn”. Đồng thời phải giáo dục để tiếp nối truyền

56

thống biết ơn các anh hùng, liệt sĩ cho các thế hệ đi sau. Với những nạn nhân

trong chế độ cũ, Hồ Chí Minh dặn dò phải có lòng bao dung, dùng chính sách,

luật pháp, hành chính để họ hoàn lương, sống trong tình đoàn kết, hòa hợp

của dân tộc trọng đạo lý, tình nghĩa. Với các tầng lớp nhân dân lao động trên

cả nước, những con người vốn bị áp bức, bóc lột nặng nề trong các chế độ

trước đây, cuộc sống bất ổn định sau nhiều năm chiến tranh ác liệt tàn phá,

Hồ Chí Minh đã dành sự yêu thương, cảm thông sâu sắc. Người căn dặn,

Đảng và nhà nước phải hết sức chú ý để phát triển kinh tế, xã hội để cuộc

sống vật chất và tinh thần ngày một cải thiện, nâng lên. “Muôn vàn tình thân

yêu” Hồ Chí Minh đã giành cho và để lại là sự quan tâm thông qua những

công việc thiết thực mà Người vạch ra cho và vì từng đối tượng. Trần Văn

Giàu đã nói về sự đặc biệt, đặc trưng của tình yêu cao cả dành cho con người

của Hồ Chí Minh:

Cho phép tôi hiểu rằng tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ

giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định

thế giới là thực tại hay là ảo ảnh, là khả tri hay bất khả tri, ở chỗ

lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng tạo mới lạ, mà chung

quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật đang sống

trên quả đất này và chắc còn sống lâu dài đến vô tận thời gian,

lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư, làm chủ đích của mọi sự

hành động. Cụ Hồ thuộc vào loại hiền triết này [50, tr.289].

Sự bao dung, độ lượng của Hồ Chí Minh đã cảm hóa, đã đoàn kết mọi

người để tạo ra sức mạnh vô cùng, vô tận cho cách mạng Việt Nam. Khát

vọng, quý trọng hòa bình, nhân ái khoan dung với đồng loại,… những giá trị

tinh thần đặc sắc là sản phẩm lịch sử dân tộc. Sự tiếp xúc, giao lưu với các

nền văn hóa Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Hoa và văn hóa phương Tây, nhân

dân ta đã khai thác, sử dụng, bổ sung những điều hợp lý của các nền văn hóa

đạt đến sự kết hợp hài hòa giữa con người với tự nhiên, cá nhân với cộng

57

đồng, gia đình và Tổ quốc,… đó là cơ sở hình thành tinh thần khoan dung của

dân tộc Việt Nam. Thực chất nội dung của tinh thần khoan dung của dân tộc

ta là: tiếp nhận và thâu thái những yếu tố tích cực, phù hợp; không kỳ thị, bài

bác, tôn trọng những yếu tố khác biệt để cùng chung sống, đoàn kết, bảo vệ

và xây dựng đất nước. Tinh thần khoan dung Việt Nam, dựa trên thế giới

quan và phương pháp luận Mác – Lênin, đã được Hồ Chí Minh làm thăng hoa

và nâng lên tầm cao mới. Yêu thương con người, Hồ Chí Minh không những

nhìn thấy những điều tốt đẹp, điều tích cực mà cả những điều xấu, điều tiêu

cực còn tồn tại ở con người. Do vậy, yêu thương con người gắn bó với sự

khoan dung, với niềm tin mãnh liệt vào phần tốt đẹp, phần thiện của con

người sẽ ngày càng nảy nở thế chỗ cho cái xấu, cái ác. Người nói: “Mỗi con

người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong

mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là

thái độ của người cách mạng” [93, tr.672]. Bao dung ở Hồ Chí Minh là nhận

thấy người Việt Nam nào cũng ít nhiều có lòng yêu nước như chút than hồng,

cần khéo nhen để bùng thành ngọn lửa. Người nói:

Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều

họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người

thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ

tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã

là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc.

Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân

ái mà cảm hóa họ [82, tr.280].

Đó là một trong những lý do để lý giải tại sao ở Việt Nam không có

hiện tượng các đảng phái đấu tranh, xung đột tôn giáo, sắc tộc, nội bộ mâu

thuẫn. Với những người có “nợ máu với cách mạng”, Hồ Chí Minh vẫn nêu

cao tinh thần cần sẵn lòng đón họ trở về với cách mạng, với nhân dân và phải

tranh thủ đoàn kết dân tộc. Tinh thần đó được thể hiện rất rõ trong lời kêu gọi

58

với những ngụy binh: “Tôi biết rằng: Các người đều là con dân nước Việt,

song vì bị Pháp bắt buộc, hoặc bị chúng lừa gạt, cho nên đi lính cho chúng.

Chứ thật không ai muốn “cõng rắn bắt gà nhà”, “rước voi giày mả tổ”, chống

lại Tổ quốc, để mang tiếng Việt gian” [85, tr.233]. Với những người “lầm

đường lạc lối”, bằng sự mộc mạc, giản dị nhưng chuyển tải sự yêu thương,

chân tình, rộng lượng của mình, Hồ Chí Minh đã làm thay đổi, cảm hóa họ.

Do vậy, ngay sau khi Bảo Đại vừa làm lễ thoái vị, Hồ Chí Minh đã gửi công

điện vào Huế mời làm Cố vấn tối cao Chính phủ lâm thời. Sau khi Chính phủ

lâm thời ra mắt toàn thể nhân dân, Người đã cử ông Hoàng Minh Giám đi tìm

Trần Trọng Kim khi ông này ra Hà Nội, tiếc rằng cuộc gặp đã không diễn ra.

Sự khoan dung, độ lượng, lấy lòng “nhân” mà cảm hóa của Hồ Chí Minh đã

làm thất bại âm mưu chia rẽ của kẻ thù, đồng thời lôi kéo nhiều nhân sĩ, trí

thức đi theo, không quản gian khổ hết mình hi sinh cho cách mạng.

2.2.1.5. Tấm gương về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, cuộc

đời riêng trong sáng, sống giản dị và khiêm tốn

A-lan A-xbon (nhà văn Úc) đã nói về Hồ Chí Minh:

Người không cư xử như một người cầm quyền, nhưng theo một ý

nghĩa quan trọng, Người thu phục được trái tim và khối óc của

nhân dân Việt Nam. Khó khăn của người phương Tây trong việc

cố gắng hiểu được điều này là ở phương Tây, các tổng thống, thủ

tướng, vua chúa và tướng lĩnh gần như luôn luôn làm ra vẻ và

hoạt động như những kẻ thống trị, bao quanh họ bằng những phù

hoa và nghi lễ, truyền đạt qua giọng nói cử chỉ, lời lẽ một thái độ

chỉ huy; Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo khác hẳn [98, tr.124].

Điểm nổi bật ở Hồ Chí Minh hoàn toàn khác biệt với các chính trị gia

phương Tây đó là một con người với tài năng kiệt xuất, khả năng phi thường

có thể làm thay đổi thực tiễn, số phận của dân tộc nhưng lại có một cuộc sống

đời thường vô cùng giản dị, khiêm tốn. Đó là lý do Người đã thu phục đông

đảo nhân dân Việt Nam theo mình.

59

Từ năm 1927 khi nói về “tư cách một người cách mệnh” Hồ Chí Minh

chỉ ra đó là “cần kiệm” và “ít lòng tham muốn về vật chất”. Tháng 3 - 1947,

từ yêu cầu là “kháng chiến, kiến quốc”, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi xây dựng

“đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích thật cụ thể, dễ hiểu.

Tháng 6 - 1949 với bút danh Lê Quyết Thắng, Người đã có bài viết “Cần,

kiệm, liêm, chính” với mục đích là làm rõ nội dung để nhân dân hiểu rõ và

thực hiện.

Điều quan trọng nhất, Hồ Chí Minh chính là hiện thân trọn vẹn nhất

của những phẩm chất mà Người nêu ra. Dù thời gian đã trôi đi, vị trí trong xã

hội đã thay đổi, từ một thanh niên với hai bàn tay trắng đi tìm đường cứu

nước hay đã là người đứng đầu của một quốc gia độc lập, Hồ Chí Minh vẫn

giữ lối sống cần kiệm, giản dị, không bận tâm bởi danh vọng, của cải. Cho

đến những giây phút cuối cuộc đời, Người vẫn vì nước, vì dân làm việc chăm

chỉ, tiết kiệm và tận dụng thời gian nhiều nhất có thể để phục vụ. Những ngày

kháng chiến gian khổ, Hồ Chí Minh làm việc đến khuya. Người tự tay đánh

máy tài liệu, đọc sách, viết sách, viết thư gửi cho các cháu thiếu nhi, các cụ

phụ lão đến thư động viên chiến sỹ ngoài mặt trận, thư thăm hỏi đồng bào và

cả bạn bè quốc tế. Ngoài thời gian xử lý công việc của Đảng và Nhà nước,

Người còn tích cực làm công việc tay chân như trồng rau, trồng cây.

Hồ Chí Minh không để nhu cầu, mong muốn được thỏa mãn về vật chất,

danh vọng, địa vị làm ảnh hưởng đến tâm hồn trong sáng, lối sống giản dị.

Hoặc đã quen với đời sống khắc khổ không thể có đời sống khác, không thể

chịu lối sống xa hoa hoặc thương nhân dân còn khó khăn, nghèo khổ, khi là

Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh vẫn giữ sự thanh đạm, cần lao, khắc khổ. Người

nói: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng

thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào

đó muốn riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức” [88,

tr.589]. Hồ Chí Minh lý giải sự cần thiết phải “kiệm” là bởi nước ta còn nghèo,

60

lại làm kháng chiến, nhân dân thiếu thốn, do vậy, không được phép hoang phí,

hưởng riêng ăn ngon mặc đẹp “Một hột gạo, một đồng tiền, tức là một số mồ

hôi nước mắt của đồng bào. Vì vậy, ta phải ra sức tiết kiệm. Hoang phí là một

tội ác” [83, tr.241]. Khi sống ở Bắc Bộ phủ, Người vẫn giữ nếp sinh hoạt như ở

chiến khu, ăn cơm cùng nhân viên chính phủ với cơm gạo đỏ, rau muống, đậu

phụ, thỉnh thoảng có món cá mè, chút thịt. Sau này dù có bếp riêng, bữa ăn của

Người cũng chỉ có một món mặn, một món rau và món canh.

Quý trọng sức lao động của nhân dân, Hồ Chí Minh không bao giờ để

rơi vãi một hạt cơm khi ăn. Đi công tác ở cơ sở, ở địa phương Người chủ

động mang theo cơm nắm muối vừng tránh tình trạng tiệc tùng, gây phiền hà

và lãng phí. Xe ô tô phục vụ Người chỉ là loại xe thường. Dù ngôi nhà đang ở

rất nóng vào mùa hè nhưng Hồ Chí Minh từ chối sử dụng máy điều hòa mà

chuyển nó cho những thương bệnh binh đang điều trị. Quần áo Hồ Chí Minh

mặc chỉ có vài bộ, khi cái áo rách, Người yêu cầu vá đi vá lại mới cho thay.

Đôi dép theo Người đi khắp mọi nơi đến mòn vẹt được làm từ lốp cũ xe ôtô.

Người từ chối sử dụng ngôi nhà của Toàn quyền Đông Dương vừa to, vừa

sang trọng cho riêng mình, mà sử dụng cho công việc chung làm nơi để Đảng

và Nhà nước đón tiếp khách. Người chọn ngôi nhà nhỏ vốn của người thợ

điện, sau đó chuyển sang nhà sàn đơn sơ với đồ dùng giản dị.

Sự giản dị, gần gũi với những người xung quanh, với nhân dân gắn bó

hữu cơ với sự khiêm tốn của Hồ Chí Minh. Khiêm tốn là phẩm chất của

những con người có tài năng, đạo đức hơn người khác nhưng lại luôn coi

thành công của bản thân là do tập thể, dựa vào tập thể mới có được. Vì vậy,

với rất nhiều công việc quan trọng của một người ở cương vị cao nhất của

Đảng và nhà nước nhưng Hồ Chí Minh luôn tự tay viết thư đáp lại thư đồng

bào với sự kính trọng và khiêm nhường. Hi sinh trọn vẹn cuộc đời riêng để

cống hiến và thay đổi số phận của dân tộc ta và hàng chục triệu đồng bào,

công lao to lớn ấy của Người không gì có thể sánh được nhưng Hồ Chí Minh

luôn từ chối với mọi danh hiệu, huân chương mà Đảng, nhà nước và bạn bè

61

quốc tế dành cho. Với Người, không còn người dân nào đói khổ, thiếu thốn,

đất nước liền một dải và ngày càng giàu mạnh, là phần thưởng quý giá nhất.

2.2.2. Đặc trưng của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

* TGĐĐ Hồ Chí Minh là sự thống nhất hữu cơ giữa đạo đức với tính

khoa học, giữa đức và tài

Khoa học là hệ thống tri thức về thế giới và khoa học Mác – Lênin là hệ

thống tri thức phản ánh các quy luật trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

C.Mác khẳng định, triết học của ông không phải để “giải thích thế giới mà là cải

tạo thế giới”. Do đó, tri thức triết học Mác – Lênin không chỉ phản ánh đúng về

thế giới mà phải là công cụ sắc bén để con người xóa bỏ những thế lực tự nhiên

và lực lượng xã hội thống trị con người, để con người được giải phóng đến

vương quốc tự do. Như vậy, khoa học Mác – Lênin là cái chân mang trong mình

cái thiện đó là lý tưởng đạo đức giải phóng con người và vì con người. Chân lý

khoa học đó lại là phương tiện để hiện thực hóa những lý tưởng đạo đức cao đẹp.

Ở Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tình cảm cách mạng và tri thức

khoa học, tình cảm cách mạng đã đưa Người đến với chân lý, ngược lại chân

lý khoa học đã giúp Người thực hiện tình cảm cách mạng của mình. Nếu chỉ

có tri thức khoa học không có tình cảm cách mạng, mà tri thức khoa học ấy

lại phục vụ chủ nghĩa cá nhân dẫn đến sự phá hoại càng lớn. Nếu chỉ có tình

cảm cách mạng mà không có tri thức khoa học chỉ có những hành động mò

mẫm, không hiệu quả. Từ tình cảm cách mạng đã thôi thúc Hồ Chí Minh vượt

qua mọi khó khăn, trở ngại trên con đường kiếm tìm tri thức khoa học để thực

hiện được khát vọng giải phóng cho dân tộc và nhân dân thoát khỏi ách thống

trị của chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là

phép biện chứng được Hồ Chí Minh coi là “tinh thần xử trí mọi việc” đã giúp

Người tìm được con đường cứu nước. Trên cơ sở hiểu biết về lịch sử, truyền

thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khơi dậy và phát huy sức mạnh của đạo

62

đức, đồng thời khai sinh và là biểu tượng toàn vẹn nhất của đạo đức cách

mạng. Người đã luôn ý thức việc nêu gương, ứng xử và hành động theo

những chuẩn mực đạo đức mà mình đề ra. Do vậy, sức hấp dẫn, khả năng

đoàn kết nhân dân không chỉ vì con đường cho dân tộc đi đúng đắn mà trước

hết bởi tin, yêu TGĐĐ vĩ đại của Người. Là con người coi trọng hiệu quả

công việc không dừng lại ở động cơ tốt đẹp, Người coi mỗi thắng lợi của cách

mạng Việt Nam, mỗi khả năng thỏa mãn và nâng cao đời sống của nhân dân

là thước đo cao nhất cho những phẩm chất đạo đức của những người lãnh đạo

và quản lý, trong đó có bản thân Người. Đạo đức Hồ Chí Minh đã tạo ra sự

khác biệt căn bản với mọi lý thuyết đạo đức khác, chỉ dừng lại ở nguyên lý,

sách vở không coi trọng thực hành, chỉ coi trọng động cơ không coi trọng

hiệu quả. Để lý luận về đạo đức trở thành thực tiễn đạo đức xã hội Người luôn

tìm cách nói dân gian, khẩu hiệu dễ hiểu, dễ nhớ, thiết thực để người dân thực

hiện. Hồ Chí Minh bàn nhiều về đạo đức nhưng không để lại tác phẩm lớn

nào về đạo đức mà là những bài nói, bài viết ngắn gọn, cô đọng, súc tích quen

thuộc với người Việt Nam.

* TGĐĐ Hồ Chí Minh là sự thống nhất hữu cơ giữa đạo đức với chính trị

Cùng là những phương diện khác nhau của ý thức xã hội có chung cơ sở

phản ánh là tồn tại xã hội, đạo đức và chính trị luôn luôn tác động qua lại lẫn

nhau. Trong xã hội tồn tại các giai cấp với địa vị khác nhau, đạo đức bao giờ

cũng mang bản chất giai cấp, được giai cấp thống trị truyền bá, giáo dục trong xã

hội nhằm làm cho các giai cấp khác thừa nhận các chuẩn mực, giá trị đạo đức

của giai cấp thống trị là chuẩn mực, giá trị đạo đức chung của toàn xã hội. Qua

đó, đạo đức góp phần củng cố địa vị, sự thống trị của giai cấp thống trị.

Mục tiêu chính trị của Hồ Chí Minh và của nhân dân, của dân tộc Việt

Nam là một. Trong quá trình thực hiện mục tiêu đó, Người luôn chú ý phát

huy các nguồn lực có thể, trong đó có đạo đức. Thực tế lịch sử dân tộc Việt

63

Nam và trên thế giới đã cho thấy, đạo đức là sức mạnh tinh thần có thể biến

thành sức mạnh vật chất, có khả năng to lớn trong việc thay đổi, cải tạo xã

hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã dành sự lưu tâm rất lớn và chú trọng giáo dục

đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để có sức mạnh và đi đến cùng

trong thực hiện mục tiêu chính trị. Bên cạnh đó, Người còn trở thành khuôn

mẫu của những chuẩn mực đạo đức của người cách mạng để hướng dẫn cán

bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện theo. Nhờ vậy, mà lớp lớp thế hệ người

Việt Nam đã theo TGĐĐ Hồ Chí Minh sẵn sàng hi sinh tất cả, đoàn kết dưới

ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh. Đó là giải

phóng dân tộc và đi lên CNXH, xóa bỏ mọi gông cùm và đem lại điều kiện để

nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, xây dựng thiên đường thực

sự trên trần thế. Sự nghiệp chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí

Minh đã từng bước thực hiện lý tưởng đạo đức cao đẹp của Người. Đồng thời,

lý tưởng đạo đức cao đẹp đó đã được hiện thực hóa thành TGĐĐ Hồ Chí

Minh và đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chính trị. Sở dĩ

như vậy là bởi, lý tưởng đạo đức đồng thời cũng là mục tiêu chính trị của

Người vừa đáp ứng ước nguyện của mọi người dân, của cả dân tộc Việt Nam.

Hơn nữa những lý tưởng đạo đức đó không hề xa lạ mà gần gũi, quen thuộc,

ẩn dấu đâu đó trong khối óc, trái tim mỗi người Việt Nam đã được Hồ Chí

Minh khéo léo khơi dậy và phát huy.

Thực tiễn cho thấy, khi nào và ở đâu việc thực hiện theo tư tưởng,

TGĐĐ Hồ Chí Minh diễn ra, nhất là ở đội ngũ cán bộ, đảng viên, thì khi đó

và ở đó, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta càng gần với mục tiêu đề ra và

ngược lại. Nhận thức được mối quan hệ biện chứng và vai trò của TGĐĐ Hồ

Chí Minh, trong giai đoạn hiện nay Đảng ta rất coi trọng và đề ra nhiều giải

pháp giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh. Đó cũng đồng thời là giải pháp để xây

dựng Đảng và xây dựng nền móng tinh thần vững chắc của xã hội, nhằm bảo

64

vệ những thành quả của cách mạng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh”.

* TGĐĐ Hồ Chí Minh là sự kết hợp, hòa nhập của những giá trị đạo

đức truyền thống của dân tộc với những giá trị đạo đức của nhân loại

TGĐĐ Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người có thực, đã kinh

qua biến cố lớn lịch sử trong nước và thế giới. Được sinh ra và trưởng thành

trong một gia đình ở mảnh đất Nghệ Tĩnh giàu truyền thống văn hóa nên Hồ

Chí Minh đã sớm tiếp thu những gì tốt đẹp nhất trong đời sống tinh thần của

quê hương, của dân tộc. Với hành trang đó, trong những năm tháng sau này

khi tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau nhưng những giá trị tinh thần

của dân tộc đã trở thành phần đậm nét trong nhân cách Hồ Chí Minh. Đồng

thời Người đã nâng những truyền thống của dân tộc lên tầm cao mới. Sự hội

tụ các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, dân tộc và thời đại ở Hồ Chí

Minh làm Người trở thành nhà văn hóa lớn, một người Việt Nam tiêu biểu

giữa nhân loại, đồng thời, những giá trị tinh thần của dân tộc có thể theo kịp,

hòa với thời đại.

Khi trở thành một người cộng sản, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu

những luận điểm mà TGĐĐ trong sáng của những người xây dựng và phát

triển chủ nghĩa Mác – Lênin đã để lại ấn tượng mạnh mẽ và trở thành hình

mẫu nhân cách để Hồ Chí Minh noi theo. Khi V.I. Lênin mất, Hồ Chí Minh

đã viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa

hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo

đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc

châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản

nổi” [79, tr.317]. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và dày công xây dựng

nền đạo đức mới ở Việt Nam, dựa trên lập trường, quan điểm của giai cấp tiên

tiến nhất thời đại là giai cấp công nhân. Nền đạo đức mới ấy đã không loại bỏ,

bài trừ mà gạn lọc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc kết hợp với

65

tinh hoa đạo đức nhân loại đạt được, trở thành hệ thống chuẩn mực đạo đức

hướng đến xây dựng con người mới với các giá trị chân, thiện, mĩ.

2.3. Sự cần thiết và các thành tố cơ bản của giáo dục tấm gƣơng

đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trƣờng đại học ở Tây Nguyên

2.3.1. Đặc điểm của sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên

* Khái quát về các trƣờng đại học ở Tây Nguyên

Tây Nguyên gồm 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và

Lâm Đồng. Các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên với khoảng 20 dân tộc là

M’Nông, Ê Đê, Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng ,.. Sau đó, thực hiện chủ trương của

nhà nước di dân từ các tỉnh phía Bắc vào phát triển kinh tế, xã hội vùng Tây

Nguyên cùng với những làn sóng “di cư tự do”, Tây Nguyên trở thành quê

hương thứ hai của rất nhiều cộng đồng người Việt Nam có gốc gác ở phía Bắc

và Trung bộ. Đến nay, Tây Nguyên trở thành vùng đất có thành phần tộc

người phức tạp và đông đảo nhất ở nước ta với khoảng 47 dân tộc sinh sống

cùng nhau. Bên cạnh đặc điểm đa dân tộc, Tây nguyên là địa bàn có tỉ lệ khá

lớn người dân theo các tôn giáo. Gần 40 % dân số Tây Nguyên theo tôn giáo,

trong đó đông nhất là Công giáo, sau đó đến Phật giáo, Tin lành và cuối cùng

là Đạo Cao Đài.

Mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, tình hình kinh tế, xã hội

các tỉnh Tây Nguyên có nhiều chuyển biến tích cực, kinh tế tăng trưởng, văn

hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội bảo đảm, cuộc sống của các tầng

lớp nhân dân ngày một cải thiện. Nhận thức được thực trạng khai thác tài

nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên rừng, trong thời gian dài còn thiếu sự

quản lý, có chỗ diễn ra bừa bãi, lãng phí, do đó, các tỉnh Tây Nguyên đã tăng

cường quản lý tài nguyên và có các biện pháp bảo vệ môi trường. Bên cạnh

đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong thực hiện các thủ tục hành

chính, các tỉnh Tây Nguyên đã có nhiều cải cách trong lĩnh vực này, môi

trường đầu tư kinh doanh, sản xuất được cải thiện. Chương trình xây dựng

66

nông thôn mới được đẩy mạnh gắn với xóa đói giảm nghèo. Có sự chỉ đạo,

các chính sách nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp diễn ra theo hướng nông

nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chuyển giao công nghệ cho người dân, các

hợp tác xã. Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ cho đồng bào dân tộc

thiểu số thuộc diện hộ nghèo, vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, tăng trưởng kinh tế các tỉnh Tây

Nguyên chưa thực sự bền vững, chất lượng nền kinh tế chưa cao. Có sự chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, nhưng còn chậm, sản xuất nông

nghiệp cơ bản vẫn lạc hậu, chủ yếu phát triển theo chiều rộng bằng tăng diện

tích, thiếu sự quy hoạch. Khai thác tài nguyên rừng, đất, nước còn thiếu kiểm

soát. Nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng sản phẩm còn hạn chế. Giá cả các

mặt hàng nông sản không ổn định, dịch bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp. Lực

lượng lao động khu vực có chất lượng còn thấp so với các vùng khác trong cả

nước. Bên cạnh giá trị truyền thống của các dân tộc được lưu giữ và phát huy,

đời sống xã hội của nhiều cộng đồng dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số vẫn còn

nhiều hủ tục. Các nguồn lực đầu tư cho các dự án ổn định dân di cư tự do còn

hạn chế ảnh hưởng đến công tác xóa đói giảm nghèo. Các lực lượng phản động

không từ bỏ thủ đoạn lợi dụng, kích động một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu

số có trình độ học vấn và nhận thức hạn chế đã có những hoạt động chống phá

đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, kích động gây chia rẽ

đồng bào các dân tộc với nhau.

Trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay có 4 trường ĐH, trong phạm vi của

đề tài, tác giả đã giới hạn nghiên cứu 3 trường ĐH đó là: Trường ĐH Tây

Nguyên, Trường ĐH Đà Lạt và Trường ĐH Buôn Ma Thuột

Trường ĐH Tây Nguyên (được thành lập năm 1977) với sứ mệnh tạo

điều kiện thuận lợi để con em các dân tộc thiểu số và con em của nhân dân

sinh sống ở đây được đào tạo trình độ ĐH ngay trên quê hương mình, đào tạo

nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển

67

kinh tế, xã hội. Trải qua hơn 40 năm hình thành và ngày càng phát triển,

trường ĐH Tây Nguyên đã thực hiện được trọng trách mà Đảng và chính phủ

giao cho và đang từng bước khẳng định vị trí ở khu vực Tây Nguyên và cả

nước với vai trò là trung tâm về văn hóa, khoa học – kỹ thuật. Hiện nay,

trường được phép đào tạo trình độ ĐH với 42 ngành, trình độ thạc sĩ với 11

ngành và trình độ tiến sĩ với 4 ngành. Trường hiện có 703 cán bộ viên chức,

với 449 viên chức là GV, GV đạt trình độ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ,

bác sĩ chuyên khoa I, bác sĩ chuyên khoa II.

Trường ĐH Đà Lạt (được thành lập năm 1976) là một trường công lập,

với trọng trách là đào tạo nguồn lao động có trình độ chuyên môn, có kỹ thuật về

các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội nhân văn,… Bên cạnh đó,

Trường còn hướng phấn đấu xây dựng để trở thành một địa chỉ uy tín ở vùng

Tây Nguyên trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ hiện đại nhằm

phục vụ sản xuất, đời sống của nhân dân tỉnh Lâm Đồng và khu vực Tây

Nguyên. Trường ĐH Đà Lạt hiện được phép đào tạo nhiều ngành học ở nhiều

bậc học (tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp). Trường

hiện có đội ngũ cán bộ viên chức đông đảo với 500 người, trong đó 317 viên

chức là GV, GV có trình độ phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ.

Trường ĐH Buôn Ma Thuột ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của

nhân dân tỉnh Đắk Lắk nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung về đội ngũ

điều dưỡng, bác sĩ, dược sĩ về chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh. Trường

ĐH Buôn Ma Thuột hiện đang đào tạo hai ngành là Y đa khoa (Bác sĩ đa

khoa) và Dược học (Dược sĩ đại học) hệ chính quy. Hiện nay, tổng số cán bộ,

viên chức của trường là 190, trong đó 122 viên chức là GV, GV có trình độ

giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ.

* Một số đặc điểm cơ bản của sinh viên các trường đại học ở Tây

Nguyên

Ngoài những đặc điểm của SV nói chung, SV các trường ĐH ở Tây

Nguyên còn mang đặc điểm có tính đặc thù, những nét riêng và điều này sẽ

68

quy định phương thức giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho các em.

SV các trường ĐH ở Tây Nguyên đa số là con em các dân tộc sinh sống

ở khu vực Tây Nguyên và một bộ phận đến từ khu vực duyên hải Nam trung

bộ. Đặc điểm nổi bật về SV các trường ĐH ở Tây Nguyên đó là họ thuộc

nhiều dân tộc khác nhau. Nếu như khu vực Tây Nguyên có 47 dân tộc anh em

thì SV người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 20% trên tổng số SV trong các

trường ĐH ở Tây Nguyên.

Sự đa dạng về dân tộc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao sự

hiểu biết và giao lưu giữa các nền văn hóa của các dân tộc với nhau trong quá

trình học tập, lao động, rèn luyện của SV trong môi trường ĐH. Qua đó, SV

thuộc mỗi dân tộc sẽ có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

của mình đồng thời, học hỏi, tiếp thu giá trị văn hóa của các dân tộc khác. Ưu

điểm nổi bật của SV các trường ĐH ở Tây Nguyên là họ mang theo những

điều tốt đẹp của người dân tộc thiểu số và người sinh sống ở nông thôn như:

hiền lành, thật thà, chăm chỉ... đến môi trường sư phạm, nên đã có ý thức rất

tốt trong việc chấp hành những quy định của nhà trường, lễ phép với thầy

cô, thân ái với bạn bè. Đặc biệt, một khi họ đã có hiểu biết, tình cảm và tin

tưởng vào tri thức, những giá trị hay vào những tấm gương tốt... thì điều này

sẽ được củng cố và bền vững trong tâm hồn của họ. Nhiều SV sinh sống ở

miền núi và biên giới, được kế thừa những điều tốt đẹp của dân tộc, của địa

phương với lòng tôn kính, biết ơn với Bác Hồ đã có ý thức sâu sắc về việc

bảo vệ, giữ gìn an ninh biên cương của Tổ quốc đã rất tích cực, nhiệt tình,

hăng hái với các hoạt động do các đoàn thể xã hội tổ chức. Mặc dù điều kiện

sống và học tập còn khó khăn, thiếu thốn nhưng nhiều SV có tinh thần nỗ lực

vượt qua để “rèn đức luyện tài” để trở thành những bác sĩ, kỹ sư, giáo viên

góp sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Tuy nhiên, sự đa dạng cùng với khả năng nhận thức, khả năng tiếp

nhận các tác động giáo dục không đồng đều của các SV thuộc các dân tộc

69

khác nhau cũng gây những khó khăn nhất định cho hoạt động giáo dục, đào

tạo của nhà trường. Trong đó, phần lớn SV người dân tộc thiểu số, nhất là dân

tộc tại chỗ, sinh sống ở những vùng sâu, vùng xa với các mối quan hệ xã hội

hạn hẹp, nắm bắt các thông tin về đời sống xã hội còn hạn chế đã ảnh hưởng

rất nhiều đến khả năng nhận thức của các em. Phần lớn các em có khả năng

nắm bắt, hiểu biết vấn đề khá chậm, tư duy lý luận hạn chế, do đó, các em gặp

nhiều khó khăn trong việc theo kịp các yêu cầu của giáo dục bậc ĐH. Hơn

nữa, các em mang theo tâm lý tự ti, thụ động nên khó hòa đồng để tham gia

và tiếp thu những cái mới trong các mối quan hệ xã hội mới, ở một môi

trường học tập mới. Nhiều SV người dân tộc thiểu số khi đến trường vẫn còn

mang theo những thói quen, tập quán, lối sống của dân tộc mình, nên khó

khăn bước đầu trong việc đưa vào nền nếp chung của nhà trường. Thậm chí,

có những em sống ở vùng sâu, vùng xa còn mang theo tập tục lạc hậu, mê tín

dị đoan vào trường học. Các em còn hạn chế trong việc sử dụng, giao tiếp

bằng tiếng phổ thông, nên đã ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, tiếp nhận và

tham gia vào các hoạt động, phong trào được thiết kế, tổ chức bởi các chủ thể

giáo dục. Một đặc điểm đòi hỏi các chủ thể giáo dục cần chú ý đó là, SV các

trường ĐH ở Tây Nguyên, trong đó chiếm tỉ lệ lớn là SV người dân tộc thiểu

số là những người theo các tôn giáo khác nhau. Điều này tạo ra một rào cản

rất lớn trong giảng dạy các môn LLCT, trong việc hình thành thế giới quan,

phương pháp luận khoa học cũng như gây ra khó khăn nhất định trong việc

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh, mặc dù, phần đông đồng bào các dân tộc thiểu

số đều có tình cảm sâu nặng với Bác Hồ. Bởi xét về bản chất, cuộc đời và sự

nghiệp của Hồ Chí Minh được xây dựng trên nền tảng, được định hướng bởi

lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hơn nữa, các lực lượng phản động đã và

đang lợi dụng triệt để vấn đề dân tộc, tôn giáo, sự hạn chế trong nhận thức

chính trị của đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có cả SV là người dân tộc

thiểu số để truyền bá những tư tưởng phản động, xuyên tạc đường lối của

Đảng, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, kích động gây bạo loạn.

70

Với những đặc điểm như vậy đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi, nhưng

cũng gây không ít khó khăn trong quá trình giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho

SV các trường ĐH ở nơi đây.

2.3.2. Sự cần thiết giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho

sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay

Trong lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn luôn tôn thờ những người anh

hùng, những nhà văn hóa lớn, những người có công lao to lớn trong xây dựng

và bảo vệ đất nước. Họ chính là những tấm gương sáng với những phẩm chất

tốt đẹp được nhân dân giáo dục cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác.

TGĐĐ Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần vô giá cho Đảng và

nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng, từ khi Người còn sống hay khi đã rời

xa chúng ta, trong cách mạng giải phóng dân tộc hay trong xây dựng CNXH.

TGĐĐ Hồ Chí Minh đã biến thành sức mạnh tinh thần vĩ đại, là ngọn cờ vẫy

gọi đảng viên, nhân dân ta tiếp bước nhau, chấp nhận gian khổ, đau đớn của

thể xác, sẵn sàng hy sinh chiến đấu trong thời kỳ đấu tranh chống đế quốc,

thực dân, phong kiến. Hồ Chí Minh trong suy nghĩ của những người tù chính

trị Côn Đảo: “Điều gì tốt đẹp nhất trên đời là thuộc về Bác. Bác là người yêu

nước nhất, thương dân nhất, Bác chỉ đường cho nhân dân ta làm cách mạng,

giải phóng ách nô lệ cho dân tộc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân” [44, tr.19].

“Con người ai cũng bằng xương bằng thịt, đòn roi đánh vào đều đau. Trong

cảnh sống đọa đầy cả về tinh thần và thể xác, phải có một lẽ sống cao quý,

một giá trị thiêng liêng mà người ta sẵn sàng bảo vệ bằng cả cuộc đời mình.

Khi đấu tranh giữa cái sống và cái chết là người tù nghĩ đến Bác” [44, tr.29].

Sự nghiệp đổi mới định hướng XHCN hiện nay, TGĐĐ Hồ Chí Minh

vẫn chứa đựng những giá trị tinh thần vô giá vì “mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, học tập và rèn luyện theo

TGĐĐ Hồ Chí Minh cần và phải trở thành nhu cầu nội tại của mỗi người

nhằm xác lập nền móng vững chắc về tinh thần của đời sống xã hội, xây dựng

văn hóa và con người Việt Nam. Bên cạnh đó, tình trạng “suy thoái về đạo

71

đức, lối sống một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên" và nhiều tầng lớp

trong xã hội, nhất là lớp trẻ đang là vấn đề nhức nhối trong đời sống sống hiện

nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII cảnh báo:

Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống dẫn tới tự diễn biến, tự chuyển hóa chỉ là một bước ngắn,

thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay

hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng

và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế,

khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng;

làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối

với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng

và chế độ [13].

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được xác định

là một giải pháp hữu hiệu nhằm chấn chỉnh những yếu kém trong thời gian

qua, góp phần làm cho Đảng ngày càng mạnh lên, nhất là về đạo đức. Ngăn

chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ,

đảng viên. Từ đó, củng cố niềm tin yêu của nhân dân với lý tưởng đạo đức

cao đẹp của Đảng, của chế độ XHCN.

Với SV các trường ĐH ở Tây Nguyên, có vị trí chiến lược về chính trị,

kinh tế, an ninh – quốc phòng, việc giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh là điều vô

cùng cần thiết.

Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đối với SV trong sự nghiệp xây dựng,

phát triển địa phương và đất nước hiện nay

Là một bộ phận thanh niên đặc thù, SV có vị trí kép trong xã hội. Một

mặt, SV là những người đang dần khẳng định nhân cách của mình và trở

thành một trong những nhân tố quan trọng để xây dựng địa phương và đất

nước. Mặt khác, SV là nguồn dự trữ để bổ sung lực lượng lao động trí óc và

những người có trình độ chuyên môn và tay nghề cao có khả năng sáng tạo

72

khoa học biết truyền bá, nghiên cứu, phát minh khoa học dựa trên nguồn vốn

tri thức của mình, biết đưa khoa học vào phục vụ đời sống xã hội. Trong cuộc

cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra bước chuyển sang nền văn

minh thông tin từ nền văn minh công nghiệp, công nghiệp sẽ từng bước thay

thế bởi tri thức. Trong nền kinh tế tri thức yếu tố cơ bản, bên trong, đóng vai

trò là lợi thế chính là thông tin và tri thức. Những người lao động có tri thức,

được giáo dục và đào tạo bài bản, là những SV đã tốt nghiệp, trở thành lực

lượng quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức. Cũng trong nền kinh tế tri

thức, khoa học kỹ thuật ngày càng đòi hỏi con người có kỹ năng tiếp thu, sử

dụng và sáng tạo công nghệ cao thì SV là người tiếp nhận nhanh nhất vì họ là

người nhạy bén có thể nắm bắt cái mới, những người có trình độ cao về tin

học, máy tính, ngoại ngữ. Họ sẽ là lực lượng chính trong ứng dụng và phát

triển công nghệ thông tin làm thay đổi cách thức, hiệu quả các hoạt động của

con người trong các lĩnh vực khác nhau, trước hết là trong sản xuất, kinh tế.

Như vậy, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay của đất nước khi tri thức

được coi là vốn quý báu, tài nguyên quan trọng nhất, đội ngũ trí thức ngày

càng trở thành nguồn lực quan trọng thì SV với tư cách là đội ngũ trí thức

trong tương lai càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.

Ở Tây Nguyên hiện nay khi mà đời sống đồng bào dân tộc thiểu số gặp

khó khăn, cơ cấu kinh tế với nông nghiệp là chủ yếu, cơ sở hạ tầng lạc hậu,

giá cả các mặt hàng nông sản không ổn định, khí hậu thời tiết bất thường,

trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động đang thấp

hơn bình quân cả nước và không đồng đều giữa các tỉnh, thì SV các trường

ĐH ở Tây Nguyên - những cán bộ khoa học kỹ thuật trên các lĩnh vực nông –

lâm nghiệp, giáo dục, y tế trong tương lai – sẽ là nguồn lực quan trọng giúp

cho đồng bào các dân tộc vượt qua nghèo nàn, lạc hậu và góp phần không nhỏ

vào sự phát triển của Tây Nguyên và của đất nước.

Thứ hai, xuất phát từ giá trị to lớn của TGĐĐ Hồ Chí Minh và vai trò của

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV

73

Mặc dù Hồ Chí Minh đã rời xa thế giới này hơn nửa thế kỷ nhưng nhân

cách vĩ đại của Người vẫn mang giá trị to lớn đối với mọi tầng lớp, mọi

ngành, mọi giới. TGĐĐ Hồ Chí Minh không chỉ có sức hấp dẫn, làm lay động

không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với nhân dân tiến bộ trên

thế giới, không chỉ với hiện tại mà còn trong tương lai. Nói đến Hồ Chí Minh

là nói đến lý tưởng cống hiến trọn cuộc đời riêng cho độc lập của dân tộc,

hạnh phúc của nhân dân.

Ngày nay, trước những thay đổi của cuộc sống và tồn tại xã hội có thể có

những thay đổi trong các hình thái ý thức xã hội, xã hội có thể đặt ra các quy

tắc, chuẩn mực đạo đức mới nhưng dù vậy, điều cơ bản có tính nguyên tắc là

giữ vững định hướng XHCN trên con đường phát triển của đất nước thì thanh

niên SV vẫn cần hướng đến, học tập và rèn luyện theo lý tưởng đạo đức của Hồ

Chí Minh. Người từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có

những con người xã hội chủ nghĩa” [91, tr.66]. Bởi CNXH là sự nghiệp được

xây dựng bởi nhân dân và chỉ có thể hoàn thành khi mọi người đều thống nhất

cùng nhau xây dựng đất nước theo con đường XHCN, với tinh thần “lo trước

thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, với tình

yêu quê hương, đất nước sâu sắc, với mong ước và quyết tâm thực hiện, cống

hiến để nhân dân ngày càng giàu, đất nước ngày càng mạnh.

Hồ Chí Minh cũng là tấm gương đã dành cả cuộc đời để chiến đấu

nhằm đem lại những điều tốt đẹp nhất không chỉ dừng lại cho đồng bào, cho

dân tộc mình mà còn cho nhân loại tiến bộ, đó là: hòa bình, tự do, công lý,

ấm no, hạnh phúc,…Chính vì vậy, ngay từ năm 1923, nhà báo, nhà thơ Xô

viết Osip Mandelstam đã nhận định rằng: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra

một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa

tương lai” [99, tr.278]. Do vậy, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV còn

góp phần đáp ứng yêu cầu về những con người của thời đại mới với những

giá trị vĩnh cửu đã nêu ở trên.

74

Nếu coi cấu trúc cơ bản của một nhân cách gồm hai yếu tố là đức và

tài, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh sẽ góp phần phát triển cả hai yếu tố nói

trên. Một mặt, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh tác động đến SV để hình thành

tri thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng đạo đức theo TGĐĐ Hồ Chí Minh và thể

hiện qua hành vi đạo đức của SV. Hằng ngày, trong sinh hoạt với gia đình,

với cộng đồng, nhờ báo chí, mạng internet, SV đã dần dần có những nhận

thức về cuộc đời, sự nghiệp và TGĐĐ Hồ Chí Minh dù ở trình độ tự phát.

Những nhận thức thông thường này tuy phong phú, sinh động nhưng mang

tính bề ngoài chưa lý giải bản chất bên trong, mang tính ngẫu nhiên, là sự việc

rời rạc mà chưa khái quát trở thành hệ thống. Do vậy, chỉ thông qua quá trình

tổ chức giáo dục mới làm cho SV có được nhận thức khoa học, mang tính tự

giác, chủ động về TGĐĐ Hồ Chí Minh. Mặt khác, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh còn phát huy được yếu tố năng lực, tài năng ở SV. Điều này xuất phát

từ chính tấm gương Hồ Chí Minh, lý tưởng đạo đức cao đẹp của Người đã là

cội nguồn, là nền tảng để huy động, nuôi dưỡng thiên tài trí tuệ. Người đã sử

dụng trí tuệ kiệt xuất đó để tìm con đường, tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực

hiện sự nghiệp giải phóng, tức là hiện thực hóa lý tưởng đạo đức của mình.

Thực tiễn cho thấy, ở mỗi con người ban đầu chỉ tiềm ẩn những năng lực đặc

trưng nào đó. Chỉ khi được đặt trong môi trường xã hội, được giáo dục, với sự

nỗ lực của bản thân thì những năng lực đặc trưng đó mới trở thành tài năng.

Do đó, tài năng con người chỉ được phát triển, phát huy khi gắn với bồi dưỡng

yếu tố đạo đức. Giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh không đơn thuần chỉ là thực

hiện bồi dưỡng đạo đức mà còn là phát triển tài năng của SV bởi có lý tưởng,

hoài bão cao đẹp, biết yêu Tổ quốc, yêu đồng bào từ đó hình thành nhu cầu,

động cơ học tập đúng đắn, có khát khao vươn đến cái mới, cái tiến bộ, đến giá

trị chân – thiện – mỹ. SV sẽ tự giác học tập, tự giác tham gia vào quá trình

đào tạo và tự đào tạo, hình thành tinh thần cầu tiến, ham học, từ đó khắc phục

75

hoàn cảnh khó khăn hiện thời của bản thân để tích lũy kiến thức, rèn luyện

các kỹ năng sống, dần khẳng định các giá trị của bản thân, sống có ích và

đóng góp cho xã hội.

Thứ ba, khắc phục những biểu hiện xuống cấp về đạo đức của một bộ

phận SV hiện nay trước những tác động tiêu cực của KTTT, toàn cầu hóa và

âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch

Những tiêu cực của nền KTTT, toàn cầu hóa và âm mưu “Diễn biến hòa

bình” của các lực lượng chống phá cách mạng đã làm cho không ít SV sống

thiếu lý tưởng, hoài bão, muốn sống hưởng thụ, thỏa mãn nhu cầu vật chất,

không muốn lao động, không muốn đóng góp cho tập thể, cộng đồng. Vẫn còn

những SV chưa có mục đích đúng đắn, không chịu học tập, rèn luyện, học mang

tính đối phó, vì vậy, có tình trạng SV trốn học, nhờ người học hộ để điểm danh,

quay cóp, thi hộ, xin điểm, chạy điểm,… Ở một số không ít SV, có biểu hiện đề

cao quá mức lợi ích của cá nhân, thực dụng trong quan niệm về đạo đức, xem

nhẹ các giá trị tinh thần. Từ quan niệm đó dẫn đến thái độ bàng quan của SV đối

với những người xung quanh và dẫn đến lối sống hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, sa

vào các tệ nạn xã hội. Những SV này cũng dần xa rời các chuẩn mực đạo đức xã

hội, tiếp cận với lối sống phương Tây.

Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn tìm cách để cái tốt, điều thiện ở mỗi con

người có điều kiện bộc lộ, phát triển. Ngày nay, cuộc đời của Người đã trở

thành tấm gương để mỗi người nhất là thế hệ trẻ soi vào. Với sự hiểu biết, nhu

cầu tu dưỡng theo TGĐĐ Hồ Chí Minh sẽ giúp SV ngày một tốt hơn, hoàn

thiện hơn, trở thành những nhân cách toàn diện, tốt đẹp và thành những

“chiến sĩ” trên mặt trận tư tưởng, đạo đức lan tỏa những giá trị tốt đẹp đẩy lùi

cái xấu, cái ác, trong đó có cả những cái phản giá trị mà các lực lượng phản

động cố tình gieo rắc trong đời sống xã hội nhằm chống phá sự nghiệp cách

mạng ở Tây Nguyên nói riêng, ở Việt Nam nói chung.

76

2.3.3. Các thành tố cơ bản của giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay

2.3.3.1. Chủ thể giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên

Đạo đức là một phương diện của đời sống tinh thần xã hội phản ánh tồn

tại xã hội, là yêu cầu chung của xã hội đặt ra trước mỗi cá nhân và mức độ tiếp

thu, đáp ứng trước yêu cầu chung là không như nhau ở các cá nhân, được quyết

định bởi mức độ tích cực trong các hoạt động thực tiễn của các cá nhân đó. Khi

đặt vấn đề về vai trò hoạt động của các cá nhân quyết định việc hình thành mặt

đạo đức cá nhân không có nghĩa đó là quá trình tự phát, chỉ là việc của các cá

nhân. Ngược lại, trong xã hội Việt Nam hiện nay coi sự phát triển các cá nhân là

điều kiện và mục đích của phát triển xã hội, do đó, giáo dục đạo đức cá nhân là

công việc của xã hội, nhà nước và các tổ chức. Mỗi cá nhân lại có đặc trưng về

nghề nghiệp, lứa tuổi, phương thức hoạt động cơ bản của họ. Với SV những

người đang dần hình thành nhân cách, việc giáo dục đạo đức đóng vai trò quan

trọng với họ, đây là công việc chính của nhà trường.

Chủ thể của quá trình này bao gồm chủ thể gián tiếp và chủ thể trực

tiếp. Chủ thể gián tiếp của quá trình giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV

các trường ĐH ở Tây Nguyên là Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục &

Đào tạo, Tỉnh ủy Đắk Lắk, Tỉnh ủy Lâm Đồng đóng vai trò vạch ra quan

điểm, đường lối, chỉ đạo chung công tác giáo dục đạo đức cho SV. Chủ thể

trực tiếp là Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các GV và cán bộ Đoàn, Hội các trường

ĐH ở Tây Nguyên và chính bản thân SV.

Mục đích giáo dục là làm cho SV nhận thức được nội dung của TGĐĐ

Hồ Chí Minh và làm theo các nội dung đó, từ nhận thức đến hành động. Để

đạt được mục đích đó, các chủ thể sử dụng hệ thống phương pháp, hình thức,

lựa chọn khai thác và phát huy sức mạnh của TGĐĐ Hồ Chí Minh nhằm đưa

những giá trị của TGĐĐ Hồ Chí Minh tiếp tục tồn tại, tiếp diễn, lan tỏa trong

mỗi SV và được thể hiện thông qua thái độ và hành động của họ. Hiệu quả

77

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác

nhau, trong đó, sự nhận thức một cách sâu sắc và thực chất của các chủ thể

giáo dục, nhất là chủ thể trực tiếp về tầm quan trọng của công việc này. Có

như vậy, mới có sự chỉ đạo, lãnh đạo kịp thời, kiểm tra, giám sát và đầu tư

đúng mức với tầm quan trọng của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV.

Đồng thời, trên cơ sở yêu cầu chung của Đảng, Bộ Giáo dục & Đào tạo và

nghiên cứu đặc điểm riêng của Nhà trường, đặc biệt là của đối tượng giáo

dục, chủ thể giáo dục cần đề ra phương pháp, hình thức, nội dung giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh sao cho phù hợp, hiệu quả.

2.3.3.2. Hình thức, phương pháp giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh cho sinh viên

Là cách thức, con đường mà các chủ thể giáo dục tổ chức và thực hiện

nhằm làm cho đối tượng giáo dục thẩm thấu các nội dung của TGĐĐ Hồ Chí

Minh, từ đó tạo ra những thay đổi tích cực trong hành vi, ứng xử, xây dựng

tình cảm, niềm tin. Căn cứ vào đặc thù của đối tượng giáo dục là SV đang học

tập, sinh hoạt ở các trường ĐH, do vậy, những hình thức cơ bản giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV: một là, hoạt động giảng dạy các môn khoa học

xã hội & nhân văn, đặc biệt là các môn LLCT; hai là, các phong trào, các hoạt

động thực tiễn của tổ chức Đoàn thanh niên và Hội SV; ba là, sự nêu gương

của các chủ thể giáo dục. Ba hình thức cơ bản nói trên dù có đặc điểm, với

phương tiện, sức ảnh hưởng khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ

trợ, bổ sung cho nhau tạo thành hợp lực, nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên. Trong đó, hình thức hoạt

động giảng dạy các môn khoa học xã hội & nhân văn, đặc biệt là các môn

LLCT có thế mạnh là cung cấp những cơ sở khoa học, quan niệm đúng đắn về

TGĐĐ Hồ Chí Minh. Nhờ đó, sẽ thúc đẩy SV hành động theo TGĐĐ Hồ Chí

Minh ở một mức độ cao hơn, bền vững hơn. Tuy nhiên, giáo dục đạo đức

không đơn thuần dừng lại ở tuyên truyền lý thuyết, không dừng lại ở giảng

78

đường với các bài giảng,… mà phải là công việc tổ chức để SV hành động

trong thực tiễn. Sự kết hợp chặt chẽ của hai hình thức sẽ đảm bảo tuân thủ

nguyên lý giáo dục gắn lý luận với thực tế. Do vậy, hình thức tổ chức các

phong trào cho SV của Đoàn thanh niên và Hội SV thực chất là tạo ra tình

huống, môi trường thực tiễn để SV có thể biến những lý thuyết đạo đức đã

được học thành thực tiễn đạo đức. Bởi những phẩm chất của SV chỉ thực sự

phát triển, củng cố thông qua quá trình họ thâm nhập vào đời sống thực tế với

hoạt động tình nguyện, lao động, giao tiếp. Quá trình đó, SV vừa được thực

hành những hiểu biết của mình về những chuẩn mực đạo đức đã được học,

đồng thời, thông qua các hoạt động thực tiễn đã khẳng định, xác nhận với SV

về những giá trị đạo đức đó.

2.3.3.3. Những nội dung của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần giáo

dục cho sinh viên

Để việc giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV hiện nay đi vào thực

chất, hiệu quả cần khắc phục quan điểm có phần giáo điều, thiếu cơ sở thực tế

khi yêu cầu SV thực hành theo đúng nguyên mẫu TGĐĐ. Điều đó cho thấy,

cần xác định những nội dung để SV “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh” sao cho phù hợp với đặc điểm, vị trí của SV, phát huy giá trị

tốt đẹp là nền tảng nhân cách được hun đúc từ gia đình, cộng đồng. Theo chủ

nghĩa Mác - Lênin: “xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ

trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”

[77, tr.137], do đó, nhà giáo dục cần nắm được cơ sở lý luận đó là việc giáo

dục đạo đức gắn liền và góp phần vào sự nghiệp đổi mới với mục tiêu tổng

thể đó là “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Giáo dục đạo

đức cơ bản không chỉ đáp ứng mục đích tự thân, mà thực chất còn là phục vụ

những yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội. Do vậy, những chuẩn

mực nào góp phần vào sự nghiệp đổi mới cần được coi là giá trị đạo đức, là

hợp đạo đức. Cần phải xuất phát từ yêu cầu, nội dung của sự nghiệp đổi mới

79

để đề ra các chuẩn mực đạo đức nói chung và xác định nội dung TGĐĐ Hồ

Chí Minh nói riêng cần giáo dục SV hiện nay. Điều này cũng được Đảng ta

xác định: “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh

tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học – công nghệ,

yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động” [40, tr.114-115].

Có thể nêu lên một số nội dung cơ bản sau:

* Yêu đất nước, yêu nhân dân

Là những bác sĩ, cử nhân, kỹ sư, giáo viên tương lai, có vai trò quan

trọng trong tạo ra đột phá của quá trình xây dựng đất nước nói chung và địa

phương nói riêng, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh, là làm cho SV có lý tưởng

sống đúng đắn, có lòng yêu nước, tự tôn dân tộc. Bởi đó là một trong những

giá trị tinh thần quý giá, được bồi đắp qua các thế hệ, trải qua lịch sử với biết

bao cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam trước kẻ thù xâm lược.

Nhờ nó, dân tộc ta mới có thể tồn tại qua bao biến cố lịch sử. Tuy vậy, sức

mạnh tinh thần to lớn này tồn tại dưới dạng tiềm năng. Muốn phát huy được

nó, biến thành hành động có thể thay đổi, cải tạo thực tiễn của đại đa số nhân

dân, nhất là thế hệ trẻ, trong đó có SV, các chủ thể giáo dục thông qua những

nội dung cụ thể, thiết thực và phương thức phù hợp để yêu nước thực sự là

yếu tố tinh thần thường trực trong mỗi cộng đồng dân cư và toàn xã hội. Điều

này đã được Đảng ta khẳng định: “Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục

chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,

lòng yêu nước, xây dựng đạo đức…cho thế hệ trẻ” [40, tr.162].

Yêu nước là quyết tâm học tập và rèn luyện để trở thành các bác sĩ, kỹ

sư, giáo viên có thể đem ánh sáng văn hóa đến những nơi cần nhất là các buôn

làng xa xôi của vùng Tây Nguyên, góp phần giúp đỡ đồng bào xóa sự nghèo

nàn lạc hậu, khai sáng trí tuệ cho những con người đã trải qua bao đời lam lũ,

giúp họ làm chủ cuộc sống của mình. Bên cạnh đó, những người trí thức còn

có trọng trách đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa vùng

80

Tây Nguyên và cả nước. SV cần nhận thức được rằng với truyền thống tốt đẹp

vốn có là cần cù, thông minh, đoàn kết, Tây Nguyên sẽ sớm vượt qua tình

trạng hiện thời với cơ sở vật chất nghèo nàn, đời sống nhân dân bấp bênh, thu

nhập chưa ổn định, lao động được đào tạo và có trình độ cao chiếm tỉ lệ thấp,

vươn lên cùng với các địa phương khác trên cả nước. Không chỉ dừng lại

trong tình cảm thuần túy, trong suy nghĩ, trong ước muốn, yêu nước chỉ có ý

nghĩa khi được thể hiện thành hành động, thành ý thức tự giác, tích cực trong

học tập để từng bước biến tri thức của thầy, cô, ở sách vở thành của bản thân.

Có tri thức, SV mới có thể giúp ích cho bản thân và đóng góp cho quê hương.

Bên cạnh đó, SV cần chủ động tiến hành nghiên cứu khoa học, phát hiện và

giải quyết các vấn đề về lý luận và thực tiễn, tăng cường trau dồi, rèn luyện

kỹ năng thực hành nghề nghiệp.

Học và làm theo TGĐĐ Hồ Chí Minh, yêu nước là yêu nhân dân, gắn

bó chặt chẽ với nhân dân. Yêu nhân dân là trong khả năng của mình có hành

động chăm lo, quan tâm để thỏa mãn lợi ích chính đáng, thiết thân của đồng

bào. Với hành động đi ngược lại, gây tổn hại đến đời sống nhân dân phải có

thái độ, hành động cụ thể ngăn chặn. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên là

những con người mộc mạc, đôn hậu, trước đây đã “một lòng một dạ” đi theo

Bác Hồ, theo Đảng dù hi sinh gian khổ. Ngày nay, với truyền thống cần cù lao

động đồng bào các dân tộc đã tạo ra của cải vật chất và đặc biệt là đời sống

tinh thần mang đậm bản sắc của vùng Tây Nguyên. Tuy vậy, họ sống ở nơi

vùng sâu vùng xa, đời sống còn thiếu thốn mọi bề. SV cần nhận thức được

điều này, biết yêu thương, quan tâm, chia sẻ với đồng bào, đồng thời lên án,

phê phán với những SV thờ ơ, vô cảm với những khó khăn của đồng bào.

Yêu nước cũng là yêu CNXH, bởi đó là con đường duy nhất để giữ gìn

nền độc lập thực sự. Đồng thời, đó là con đường thực hiện ước mơ ngàn đời

của nhân dân Việt Nam nói chung, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói

riêng, là xây dựng một xã hội không còn áp bức, bóc lột, cuộc sống ngày càng

81

đầy đủ về vật chất và phong phú về tinh thần. Trước hết, SV phải có sự quan

tâm và hiểu biết về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương và của

đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Tiếp đó, SV cần có thái độ

chính trị đúng đắn. Hồ Chí Minh từng dặn dò: “Đối với mình, những tư tưởng

và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và

hành động có hại cho Tổ Quốc và đồng bào là kẻ thù…” [87, tr.264]. Biết

quan tâm đến tình hình đất nước, biết nhận định, phân biệt tư tưởng, hành

động đúng - sai, chủ động thể hiện chính kiến, kiên quyết chống lại những

hành động xâm phạm quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân. SV có thể thực

hiện điều này bằng nhiều cách khác nhau như: Trực tiếp đưa ra quan điểm của

mình, hoặc thông qua các trang mạng xã hội phê phán các luận điệu của các

lực lượng phản động xuyên tạc về các vấn đề của địa phương như vấn đề tôn

giáo, dân tộc; chia sẻ đường lối của Đảng, thành tựu trong xây dựng địa

phương, đất nước; làm lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống qua chia

sẻ những gương “người tốt, việc tốt”, những điều tử tế,…

* “Cần, kiệm, liêm, chính”, có ý chí, nghị lực vượt qua khó khăn

trong học tập và cuộc sống

Với các phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính” đòi hỏi SV hiểu biết thấu

đáo về sự cần thiết, từ đó, thực hành sáng tạo, hiệu quả trong học tập, trong

cuộc sống gắn với hoàn cảnh, điều kiện của gia đình và quê hương mình.

Muốn học tập tấm gương “cần, kiệm, liêm, chính” của Hồ Chí Minh,

trước hết phải học phẩm chất cần. Cần là lao động, học tập tích cực, hiệu quả,

“phải siêng học, phải siêng làm” [82, tr.194]. Cần không chỉ là sự chăm chỉ,

chịu khó tức thời trong học tập, trong lao động mà còn biết lập ra phương

hướng, kế hoạch để thực hiện bền bỉ cả quá trình. Người nói: “Thanh niên có

hăng hái. Nhưng hăng hái không chưa đủ, phải có kế hoạch, có phương

hướng. Trước khi làm một việc gì phải cẩn thận suy xét xem việc đó thành

82

công thì ảnh hưởng thế nào, thất bại thì ảnh hưởng thế nào” [82, tr.122].

Trong điều kiện hiện nay, việc học chữ cần còn phải gắn với các năng lực của

SV như thu thập, đánh giá, xử lý các thông tin, tri thức liên quan đến lĩnh vực

học tập của mình hiệu quả nhất. Biết phát hiện và xử lý sáng tạo tình huống

nảy sinh từ thực tiễn. Nói cách khác đó là phát huy tính nhanh nhạy và sáng

tạo ở SV, điều này là yêu cầu, mệnh lệnh của cuộc sống với người lao động

để có khả năng đón đầu phát minh và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ

vào sản xuất và đời sống. Đồng thời với rèn luyện chữ cần là đấu tranh chống

lại biểu hiện lười biếng, “chống lười biếng, xa xỉ” [87, tr.265], học xổi, học

đối phó trong SV.

Tiếp đến, học Hồ Chí Minh phẩm chất kiệm nghĩa là tiết kiệm về thời

gian, tiền bạc, công sức. Tiết kiệm về thời gian đòi hỏi SV phải biết sắp xếp

và sử dụng thời gian cho việc học tập, vui chơi, sinh hoạt một cách khoa học,

hợp lý. Tiết kiệm tiền bạc là chi tiêu trong khả năng cho phép mình, biết sử

dụng tiết kiệm tài sản của gia đình, tài sản chung của nhà trường. Tiết kiệm

công sức là biết sắp xếp công việc, việc nào làm trước việc nào làm sau, do

vậy công sức bỏ ra đem lại hiệu quả nhất. Cần, kiệm đặc biệt cần thiết trong

điều kiện sống của SV còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhờ có phẩm chất này

giúp SV không chỉ vượt qua hoàn cảnh hiện tại mà họ có thể sử dụng triệt để,

hiệu quả nguồn lực kinh tế, xã hội của địa phương và của đất nước sau này

khi làm việc.

SV học Người đức liêm là không tham lam danh, lợi, luôn giữ tâm hồn

trong sáng, không ham gì ngoài ham học hành, ham làm giàu tri thức, phong

phú đời sống tinh thần. Người nói: “Phải có lòng ham tiến bộ, ham học hỏi, học

luôn, học mãi” [83, tr.464]. Đồng thời chống lại tư tưởng ham sung sướng,

không cố gắng “chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc” [87, tr.265].

Học tập phẩm chất chính từ TGĐĐ Hồ Chí Minh nghĩa là SV phải ngay

thẳng, trung thực, thật thà. Người nói với SV: “Cần phải trung thành, thật thà,

83

chính trực” [87, tr.265]. Đối với bản thân, biết nhận ra những yếu kém, hạn

chế và khắc phục để ngày càng hoàn thiện “chống kiêu ngạo, giả dối, khoe

khoang” [87, tr.265]. Với thầy cô luôn kính trọng, lễ phép, với bạn bè luôn

yêu thương, hòa đồng, giúp đỡ lẫn nhau. Trong học tập luôn trung thực, thẳng

thắn, có bản lĩnh, dũng cảm, chân thành, khiêm tốn, không giấu giếm khuyết

điểm, không bao che, không quay cóp, không chạy điểm, chạy theo thành

tích, không vi phạm nội quy nhà trường, vi phạm các quy định pháp luật, sa

vào tệ nạn xã hội, bảo vệ chân lý, bảo vệ người tốt, …Đồng thời lên án, đấu

tranh chống lại thái độ và hành vi đi ngược lại chữ chính.

Cùng với phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính”, SV cần phải có tinh thần,

ý chí vượt khó. Là một biểu tượng về quyết tâm vượt qua khó khăn để đạt

được mục đích cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt căn dặn SV: “Cần phải có

tinh thần và gan dạ sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên,

vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng” [87, tr.265]. Không

thể phủ nhận một điều, những thành tựu chung của cả nước và của Tây

Nguyên đã giúp cho đời sống của đồng bào các dân tộc ngày càng được cải

thiện và nâng cao. Nhờ đó, SV các trường ĐH ở Tây Nguyên ngày càng có

điều kiện, môi trường học tập thuận lợi. Tuy vậy, họ vẫn phải đối diện với

khó khăn, trở ngại đòi hỏi phải nỗ lực để học tập và rèn luyện tốt.

Khó khăn đầu tiên đối với SV là thực hiện các nhiệm vụ học tập với cách

thức và môi trường có nhiều thay đổi căn bản. Đầu tiên, SV phải thay đổi cách

thức học tập đã quen thuộc ở bậc phổ thông đó là học tập bền bỉ hằng ngày

dưới sự quản lý gắt gao của giáo viên bộ môn bằng các hình thức kiểm tra, của

giáo viên chủ nhiệm và được sự giám sát chặt chẽ của gia đình. Khi lên ĐH,

SV được đào tạo theo chương trình học chế tín chỉ, đòi hỏi sự chủ động cao,

khả năng lên kế hoạch và thực hiện chương trình học mang tính cá nhân cao,

cho phép học vượt để giảm thời gian hoàn thành khóa học và ngược lại, kéo dài

84

thời gian hoàn thành khóa học. SV tự vạch ra, cân đối thời gian hợp lý cho các

hoạt động của mình. Các SV phải học tập tự giác: tự tìm tài liệu, tự đăng ký

học, tự chọn lớp học, tự chọn GV, tự học,… Tất cả đều buộc SV phải chọn lựa

và chịu trách nhiệm. Ở bậc ĐH, yêu cầu đối với SV ngày càng cao, khiến nhiều

SV gặp khó khăn để đáp ứng đó là: khả năng học trên lớp và tự học để vừa có

hệ thống tri thức đại cương, vừa có hệ thống tri thức chuyên sâu của ngành

mình học. Từng bước có khả năng liên hệ, áp dụng lý luận vào thực tiễn, đồng

thời phải sáng tạo ra tri thức mới, có các kỹ năng nghề.

Khó khăn thứ hai của SV đó là khả năng thay đổi những thói quen, nếp

sống trong môi trường học tập mới đòi hỏi sự tự lập, làm chủ thời gian và

cuộc sống của bản thân. Tuy vậy, nhiều SV chưa có sự chuẩn bị tâm lý cho sự

thay đổi đó, với họ đó là “cú sốc văn hóa” khi có quá nhiều sự khác biệt trong

học tập và trong cuộc sống. Cố vấn học tập (có vai trò tương tự giáo viên chủ

nhiệm ở bậc phổ thông) chủ yếu làm chức năng tư vấn nên thời gian gặp gỡ,

tiếp xúc trực tiếp SV không nhiều. Các tổ chức trong nhà trường phụ trách

công tác liên quan trực tiếp đến SV như Đoàn thanh niên, Hội SV, không có

điều kiện để biết và giải quyết mong muốn cũng như tình cảm của từng SV.

Tất cả các vấn đề từ học tập đến đóng góp sức mình cho các hoạt động đoàn

thể, sinh hoạt cá nhân SV sẽ phải chủ động điều chỉnh cho phù hợp. Nhiều SV

trong thời gian mới lên ĐH không có khả năng tự điều chỉnh tốt đã dành

nhiều thời gian vào các hoạt động đoàn thể, ngoại khóa, và các mối quan hệ

mới mà quên nhiệm vụ chính là học tập. Do đó, yêu cầu quan trọng đối với

SV là phải có khả năng sắp xếp, quản lý thời gian và nỗ lực theo được tiến

trình học tập, tránh rơi vào vòng luẩn quẩn nợ môn – trả nợ, dần dần SV sẽ

nản và rơi vào tình trạng bị buộc dừng học, thôi học.

Khó khăn thứ ba, không ít SV có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn.

Những SV này xuất thân từ những gia đình làm nông nghiệp với thu nhập

không ổn định do giá cả nông sản lên xuống thất thường, thời tiết khắc nghiệt.

85

Để có thể trang trải và theo đuổi con đường học ĐH, nhiều SV phải vừa đi

học, vừa làm thêm. Điều đó khiến họ không còn thời gian cho sự tự học, tự

nghiên cứu, dần dần hình thành suy nghĩ không đúng đắn là học cho qua môn,

học đối phó. Môi trường và thu nhập từ làm thêm trở thành cám dỗ khiến

không ít SV sao nhãng, thậm chí bỏ bê việc học. Bên cạnh đó, còn là những

thú vui, cám dỗ từ mạng xã hội, internet,… khiến cho SV mất nhiều thời gian

vô bổ thay vì mất thời gian khổ công học tập. Điều này đòi hỏi SV phải biết

kiểm soát nhu cầu của bản thân, tự vượt qua những cám dỗ để tự giác học tập.

* Yêu thương con người, vị tha, khoan dung

Xã hội hiện nay là mảnh đất hiện thực làm giới trẻ dễ hình thành quan

điểm sống quá đề cao lợi ích cá nhân của mình mà không quan tâm đến người

khác, ngay cả những người gần gũi với họ. Vì thế, một trong những chuẩn mực

cần giáo dục cho SV theo TGĐĐ Hồ Chí Minh là yêu thương con người, quan

tâm và chia sẻ với người thân, bạn bè và những người cùng sống trong cộng

đồng, có ý thức tích cực, sẵn sàng đi đầu trong các hoạt động ở đó mục đích

chính là phục vụ, cống hiến cho cộng đồng, cho những người gặp khó khăn. Hồ

Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời cho dân tộc, cho nhân dân và từ những gì

bản thân trải qua, Người đã căn dặn thanh niên, SV phải xác định nhiệm vụ của

mình, “không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình

đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều

hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào” [87, tr.265].

Với tài năng, trí tuệ, đặc biệt sức trẻ, SV cần nhận thức được trách

nhiệm của mình để vui lòng làm bất cứ công việc nào, trong hoàn cảnh khó

khăn, đi đến những nơi vùng sâu vùng xa, thiếu thốn để giúp đỡ đồng bào như

Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có

thanh niên” [90, tr.613]. Đồng thời, lên án mạnh mẽ chống lại sự vô cảm ở

một bộ phận SV hiện nay. Đó là sự thản nhiên, thờ ơ trước nỗi đau, nỗi bất

hạnh của đồng bào, đồng loại. Thiếu sự quan tâm, chia sẻ, chăm sóc, bày tỏ

86

yêu thương, kính trọng đối với đồng bào, đồng loại và thậm chí vô cảm với

chính những người thân trong gia đình, ngay cả ông bà, cha mẹ.

Giáo dục sự khoan dung cho SV để họ có thể chung sống trên mảnh đất

đa dân tộc, đa văn hóa tức là biết tôn trọng các quyền cơ bản của con người,

tôn trọng nét độc đáo, đa dạng văn hóa của các cộng đồng dân tộc khác nhau,

mở tấm lòng biết yêu thương, cảm thông với nỗi đau của người khác. Mỗi

một SV được sinh ra với điều kiện sống khác nhau, là sản phẩm của truyền

thống văn hóa khác nhau. Do vậy, họ sẽ có tâm lý, tính cách, sở trường, khả

năng khác nhau nhưng tất cả đều có quyền sống, học tập và rèn luyện, phát

triển. Trong khi mỗi cá nhân thể hiện, tự hào về các giá trị văn hóa của mình

thì đồng thời cần tôn trọng, chấp nhận quyền của các cá nhân khác. Sự phát

triển nhanh chóng của xã hội ngày nay còn tạo ra điều kiện đa dạng, phong

phú cho các cá nhân trong sự định hướng và phát triển giá trị của bản thân.

Khoan dung chính là biết tôn trọng tránh định kiến và sự kỳ thị đối với giá trị

văn hóa của dân tộc khác mà cá nhân hoặc nhóm SV là người đại diện. Bởi

dù, bản sắc văn hóa, giá trị văn hóa thể hiện ở các cá nhân SV dù khác nhau

nhưng họ sinh sống, học tập trong cùng môi trường giáo dục của các trường

ĐH ở Tây Nguyên với mục tiêu là giáo dục SV trở thành những cử nhân, bác

sĩ, kỹ sư phục vụ cho sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh” của quê hương, đất nước.

87

Tiểu kết chƣơng 2

TGĐĐ Hồ Chí Minh sớm được Đảng nhận thức về giá trị to lớn, tấm gương của Người là ngọn cờ vẫy gọi cán bộ, đảng viên và nhân dân đi theo cách mạng và dành những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, để giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước là xây dựng nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống trong xã hội, Đảng ta có nhiều chỉ đạo về học tập TGĐĐ Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, trong đó có SV. SV là một lớp người đang dần trưởng thành trong quá trình học tập và rèn luyện tại các trường ĐH. Nhà trường được gia đình, xã hội đặt trọng trách là giáo dục SV thành người trí thức tương lai có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, hiểu biết về các lĩnh vực cơ bản của cuộc sống và nền tảng nhân cách với các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc và cách mạng. Đó sẽ là cơ sở để sau này họ trở thành lực lượng lao động của tương lai, phát triển quê hương, đất nước theo CNXH. Định hướng chính trị đã đặt ra yêu cầu đối với SV phải có những chuẩn mực đạo đức theo TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Trong chương 2, tác giả đã luận chứng được tính tất yếu khách quan của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên. Từ đó, tác giả đã phân tích và làm rõ quá trình giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV được thực hiện bởi một hệ thống các yếu tố là chủ thể, nội dung và các hình thức giáo dục. Về chủ thể giáo dục gián tiếp là Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Tỉnh ủy Đắk Lắk, Tỉnh ủy Lâm Đồng đóng vai trò vạch ra quan điểm, đường lối, chỉ đạo chung công tác giáo dục đạo đức cho SV. Chủ thể trực tiếp là Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các GV và cán bộ Đoàn, Hội SV các trường ĐH ở Tây Nguyên. Căn cứ vào đặc thù của đối tượng giáo dục là SV đang học tập, sinh hoạt ở các trường ĐH, do vậy, những hình thức cơ bản giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV: một là, hoạt động giảng dạy các môn khoa học xã hội & nhân văn, đặc biệt là các môn LLCT; hai là, tổ chức các phong trào, các hoạt động thực tiễn của Đoàn thanh niên và Hội SV; ba là, sự nêu gương của các chủ thể giáo dục. Về nội dung, căn cứ vào yêu cầu của sự nghiệp đổi mới để xác định những nội dung cần học tập và làm theo TGĐĐ Hồ Chí Minh sao cho phù hợp với đặc điểm, vị trí xã hội của SV.

88

CHƢƠNG 3

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIÁO DỤC

TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN CÁC

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

3.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ

Chí Minh cho sinh viên các trƣờng đại học ở Tây Nguyên hiện nay

Là những nhân tố khách quan nhưng vẫn có tác động nhất định đến quá

trình các chủ thể tổ chức giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường

ĐH ở Tây Nguyên. Về cơ bản, sự tác động của các nhân tố khách quan đến

quá trình giáo dục SV mang tính gián tiếp. Tuy vậy, các nhân tố này không

đứng yên, cứng nhắc mà thông qua các mối liên hệ đã thâm nhập, chuyển hóa

trở thành những nhân tố có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV. Những tác động có thể là thuận chiều, góp phần

đẩy nhanh việc hình thành những chuẩn mực đạo đức từ TGĐĐ Hồ Chí Minh

ở SV và ngược lại. Vì vậy, các chủ thể giáo dục cần chú ý để phát huy những

tác động thuận chiều đồng thời có các giải pháp khắc phục những tác động

ngược chiều của các nhân tố khách quan làm triệt tiêu, cản trở những tác động

mà các chủ thể giáo dục dày công tổ chức nhằm giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV.

* Những tác động của KTTT định hướng XHCN

Mặc dù đạo đức là một lĩnh vực phức tạp, thuộc đời sống tinh thần của

xã hội, song không có nghĩa là không thể nghiên cứu, lý giải những hiện

tượng đạo đức và tìm ra quy luật của đời sống đạo đức trên cơ sở khoa học.

Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, suy cho đến cùng đạo đức là sự phản ánh

quan hệ kinh tế giữa người với người. Muốn phân tích và hiểu được các hiện

tượng thuộc lĩnh vực đạo đức thì phải nghiên cứu thấu đáo mối quan hệ này.

Tuy vậy, sự tác động của kinh tế, sản xuất đến đạo đức lại diễn ra gián tiếp và

89

thể hiện tập trung nhất qua quan hệ lợi ích. Trong các chế độ xã hội, chỉ đến

CNXH lợi ích của từng cá nhân được đáp ứng trên cơ sở lợi ích của các cá

nhân, của toàn xã hội được thực hiện. Do đó, những hành vi của cá nhân

nhằm đạt được lợi ích của mình cũng là góp phần để thực hiện lợi ích của

toàn xã hội, do đó, cũng chính là hành vi đạo đức. Từ sự phân tích trên đây

cho phép chúng ta khẳng định, phát triển kinh tế dưới CNXH và xây dựng đạo

đức có mối quan hệ biện chứng, trong đó, phát triển kinh tế hướng đến thỏa

mãn lợi ích chính đáng của các cá nhân, đồng thời là cơ sở cho sự cải tạo và

định hướng các quan hệ đạo đức ngày càng mang giá trị tốt đẹp. Ngược lại,

nền tảng tinh thần, đạo đức vững chắc sẽ tạo nên một xã hội ổn định, tạo ra

một nguồn lực quan trọng nhất là những con người toàn diện phát triển kinh

tế, xã hội. Nhận thức về mối quan hệ đó, trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta

đã chỉ rõ: “gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó :

Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển

văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội” [40, tr.64].

Khi phân tích đời sống đạo đức hiện nay ở Tây Nguyên nói riêng và

trên cả nước nói chung, đời sống đạo đức đang có sự rối về “chuẩn”, nghĩa là

không xác định và đồng thuận trong việc thừa nhận các chuẩn mực đạo đức.

Chẳng hạn, có những điều được nhóm người này coi là chuẩn, giá trị đạo đức

thì nhóm người khác lại coi là phản giá trị và ngược lại. Hiện tượng này trong

đời sống đạo đức có thể tìm thấy nguyên nhân xét đến cùng là sự biến đổi

trong đời sống kinh tế. Từ năm 1986 đến nay, có sự chuyển đổi của cơ chế

quản lý kinh tế chỉ huy, tập trung bao cấp sang nền KTTT. Sự phản ánh của

đạo đức chưa theo kịp, do vậy, có những chuẩn mực đạo đức đã hình thành,

tồn tại trong cơ chế kinh tế cũ chưa bị xóa bỏ hoàn toàn, còn những chuẩn

mới chưa được khẳng định.

KTTT là một giai đoạn phát triển tất yếu của kinh tế hàng hóa, được

hiểu là nền kinh tế mà các yếu tố trong đó hoạt động dựa trên sự tồn tại và

90

hoạt động của mối quan hệ cơ bản hàng hóa và tiền tệ. Các lực lượng, quy

luật khách quan của thị trường đóng vai trò chủ yếu trong việc phân bổ các

nguồn lực, yếu tố của nền kinh tế. Việc định hướng XHCN nền KTTT ở

Việt Nam với mục đích giải phóng sức sản xuất của xã hội và từng bước

xây dựng tiền đề vật chất cho CNXH, không chỉ đơn thuần chạy theo mục

tiêu kinh tế mà thực hiện mục tiêu xã hội vì “dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh”.

Sự tác động của KTTT theo hướng có lợi đến sự hình thành các giá trị

đạo đức của các cá nhân ở chỗ, tạo ra môi trường thực tiễn cho sự hình thành

phẩm chất mới là sự tự chủ, sáng tạo. Con người được tham gia vào nhiều

tầng quan hệ xã hội với độ sâu và chiều rộng, từ đó, nhân cách cá nhân ngày

càng được hoàn thiện. Ở các mối quan hệ xã hội đó, mỗi cá nhân đều có cơ

hội vận dụng tất cả năng lực, phẩm chất từ đó dần khẳng định các giá trị của

bản thân. Tâm lý, ý thức đạo đức thay đổi theo cơ chế hoạt động của KTTT là

theo quy luật giá trị và mục tiêu lợi nhuận. Sự năng động, táo bạo, dám nghĩ,

dám làm, dám chịu trách nhiệm, sự nhanh nhạy, khả năng sáng tạo được đề

cao. Từ đây, các cá nhân có ý thức tích lũy, làm chủ tri thức, kỹ năng, lấy hiệu

quả sản xuất kinh doanh làm tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá đạo đức của

con người.

Trong cơ chế kinh tế hiện nay lợi ích chính đáng của cá nhân thuận

chiều và trở thành một bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với lợi ích xã hội, góp

phần vào sự phát triển xã hội. KTTT định hướng XHCN hiện nay ở Việt Nam

là điều kiện để cho các cá nhân khi thực hiện lợi ích cá nhân thì cũng đồng

thời là hành vi đạo đức, mà nội dung cốt lõi của nền đạo đức đó là các chuẩn

mực đạo đức mới mà Hồ Chí Minh là hiện thân. Mặt khác, cần thấy rằng,

Người luôn lên án “kẻ thù bên trong” nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân nhưng

rất tôn trọng lợi ích chính đáng của các cá nhân và Hồ Chí Minh khẳng định

rằng, chỉ có CNXH và chủ nghĩa cộng sản mới tôn trọng và giải quyết đúng

91

đắn, làm thỏa mãn lợi ích chính đáng của các cá nhân. Người đã không chỉ

theo đuổi mục tiêu đất nước được hoàn toàn độc lập mà cao hơn là mục tiêu

đem lại lợi ích chính đáng là được học hành, nâng cao trình độ văn hóa, được

chăm sóc sức khỏe, “ấm no, tự do, hạnh phúc” cho mỗi người Việt Nam.

KTTT đã “đặt hàng” cho giáo dục hướng đến khai thác và phát huy cao

nhất mọi khả năng của con người. Do vậy, sản phẩm của giáo dục là những

con người được giải phóng khỏi những giới hạn, được khuyến khích phát triển

sẽ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Vì vậy, Đảng ta

khẳng định: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy

tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ

quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” [40, tr.115].

Trước những tác động đó của KTTT đã làm cho nhiều SV các trường

ĐH ở Tây Nguyên có ý thức trau dồi kiến thức, nghiên cứu khoa học, thực

hành, học và rèn luyện kỹ năng mềm, nâng cao khả năng sử dụng ngoại ngữ,

Tin học,… nhằm đáp ứng chuẩn đầu ra và có thể tìm được công việc phù hợp

khi tốt nghiệp. Đồng thời, SV cũng có nhiều cơ hội tham gia vào các mối

quan hệ đa dạng không chỉ giới hạn trong khuôn khổ nhà trường và gia đình,

đó là mối quan hệ trong các câu lạc bộ, nơi làm thêm,… từ đó, họ trở nên

năng động, tự chủ, sống có trách nhiệm. Sự phát triển những năng lực nói trên

của SV thực chất cũng là mục tiêu hướng đến của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh nói riêng và giáo dục nói chung cho SV ở bậc ĐH.

Nền KTTT ở Việt Nam là dù được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc

và mang bản chất của CNXH nhưng vẫn hoạt động và tuân thủ đầy đủ theo

các quy luật khách quan. Tuy vậy, nền KTTT mà chúng ta xây dựng còn

nhiều hạn chế, “chưa thật đồng bộ, thông suốt; chưa thực sự là động lực tạo

đột phá để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư

phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện môi trường kinh doanh.

Nhiều quy định trong hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và quản lý, điều

hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường” [37, tr.248].

92

Trong KTTT, cơ chế vận động của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan

hệ cung - cầu và quan hệ cạnh tranh, với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận, kích

thích sự tích cực của các cá nhân nhưng nhiều lúc lại quá đặt nặng lợi ích cá

nhân, tự do cá nhân, đã tạo ra suy nghĩ, lối sống thực dụng coi nhẹ các giá trị

tinh thần, lý tưởng, niềm tin chính trị. KTTT khuyến khích tối đa con người

theo đuổi lợi ích cá nhân, dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và

không ít trường hợp vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật, có thể bất chấp

tất cả. Coi cá nhân của mình lên trên hết cũng dễ làm cho con người có tư

tưởng hưởng thụ, xa hoa, lãng phí. Như vậy, cơ chế kinh tế làm cho chủ nghĩa

cá nhân có cơ hội nảy sinh hơn lúc nào hết.

Chủ nghĩa cá nhân với tư cách là một sự lựa chọn lối sống hoàn toàn

trái ngược với TGĐĐ Hồ Chí Minh. Vì vậy, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh

cho SV trong bối cảnh hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi ý thức trách

nhiệm với thế hệ trẻ, với đất nước và sự đầu tư nhiều hơn nữa của các chủ thể

giáo dục. Quan niệm sống coi trọng vật chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần, lý

tưởng, tư tưởng hưởng thụ từ gia đình và xã hội ảnh hưởng ít nhiều đến nhân

cách SV, làm cho họ khó tiếp nhận những điều cao đẹp từ TGĐĐ Hồ Chí

Minh. Nguy hiểm hơn khi mặt trái nói trên len lỏi vào trong nhà trường làm

cho SV khó có thể tiếp nhận tri thức cũng như khó hình thành niềm tin để

biến thành hành vi, lối sống theo TGĐĐ Hồ Chí Minh khi thực tế cuộc sống

xung quanh SV và của xã hội hiện nay có nhiều điều khác xa thậm chí trái

ngược với những điều cao đẹp mà Hồ Chí Minh là biểu tượng.

* Những tác động của toàn cầu hoá

Hiện nay, các quốc gia trên thế giới liên hệ, tác động và phụ thuộc vào

nhau khá chặt chẽ, trong xu thế đó không một quốc gia nào có thể tồn tại độc

lập, đơn lẻ. Sự liên hệ ràng buộc này diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, trước hết

là trong lĩnh vực kinh tế. Dù muốn hay không các quốc gia đều tham gia vào

quá trình này bởi đây là xu thế tất yếu. Quá trình này có điểm tích cực cơ bản

93

là thúc đẩy xã hội hoá lực lượng sản xuất, tái cơ cấu nền kinh tế thế giới và

tạo sự tăng trưởng kinh tế cao ở nhiều khu vực. Bên cạnh đó, nó còn giúp cho

việc chuyển giao những phát minh sáng tạo mới về khoa học - công nghệ và

tổ chức quản lý với mức độ ngày càng lớn, tốc độ ngày càng nhanh chóng.

Thông tin được đem đến cho các nước, các cá nhân một cách nhanh chóng và

đa dạng. Nhờ vậy, những thông tin, hình ảnh về Hồ Chí Minh trong những

năm Người hoạt động ở các nước có điều kiện để bổ sung, hoàn chỉnh. Toàn

cầu hóa không chỉ làm cho nền kinh tế, thành tựu khoa học – kỹ thuật giữa

các nước đến gần nhau mà những giá trị văn hóa trong đó có đạo đức giữa các

quốc gia tưởng chừng xa xôi về địa lý có thể xích lại, từ đó, tạo nên sự thống

nhất giá trị đạo đức nhân loại. Sở dĩ, TGĐĐ Hồ Chí Minh được đông đảo bạn

bè thế giới ca ngợi là bởi ở đó có những giá trị nhân loại, chứa đựng chân –

thiện – mỹ mà loài người phấn đấu. Toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nước dù

cách xa nhau có thể hiểu biết về nhau, cuộc đời hoạt động, TGĐĐ Hồ Chí

Minh từ đó sẽ có điều kiện thuận lợi để lan tỏa đến nhân dân tiến bộ trên thế

giới, thế hệ trẻ sẽ có dịp tăng thêm niềm tự hào về dân tộc, về con người Việt

Nam. Toàn cầu hóa làm tăng cường tính cá nhân hóa trong đời sống đạo đức,

vì vậy, SV một khi đã tiếp nhận những thông tin về TGĐĐ Hồ Chí Minh, sẽ

trở nên bền vững và sẽ cấu thành lên nhân cách của họ. Đây là điều khó có

được trong đời sống đạo đức của các xã hội trong giai đoạn trước đây. Bên

cạnh đó, toàn cầu hoá cũng là cơ hội mới để đánh giá lại và khẳng định lại

những gì là giá trị đạo đức của dân tộc và của TGĐĐ Hồ Chí Minh. Chẳng

hạn, nó khẳng định giá trị của tình yêu đất nước, yêu thương đồng bào, sự

khoan dung, khiêm tốn … đồng thời đặt ra yêu cầu cho thế hệ đương đại cần

khai thác, phát huy nó trong điều kiện mới để đóng góp cho sự phát triển của

đất nước và thời đại.

Tuy vậy, toàn cầu hóa cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV. Tác động tiêu cực là toàn cầu hóa đem lại

94

cho các cá nhân điều kiện dễ dàng tìm kiếm những thông tin vô cùng đa dạng.

Thật nguy hiểm khi các cá nhân chưa hình thành nền tảng nhân cách tốt đẹp,

chưa có những hiểu biết cơ bản và đúng đắn để có thể lựa chọn những điều hữu

ích từ những thông tin hỗn tạp trên internet. Không ít SV bị tác động nhất định

bởi những thông tin nhiễu loạn, những điều được người đưa ra cố tình bịa đặt để

bôi nhọ về Hồ Chí Minh trên mạng, điều này sẽ làm cho giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh gặp khó khăn từ việc cung cấp thông tin, tri thức đến hình thành tình cảm,

niềm tin ở người học. Toàn cầu hóa tạo ra xu hướng con người có ý thức cao về

những giá trị của bản thân đồng thời muốn xác định, thể hiện vai trò đó trong

cộng đồng, xã hội. Tuy vậy, đề cao quá mức, coi lợi ích cá nhân là tất cả, thì đó

lại là xu hướng đáng lo ngại. Toàn cầu hóa, sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa

các nước vừa là điều kiện, cơ hội thuận lợi vừa gây ra khó khăn, cản trở đối với

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh. Bởi quá trình này không ít SV do không có nền

tảng văn hóa, đạo đức tốt dễ rơi vào sự ngộ nhận giá trị. Họ lãng quên lịch sử

dân tộc, không coi trọng đạo đức và những tấm gương các anh hùng, danh nhân

văn hóa của dân tộc,… trở nên lai căng văn hóa. Đảng ta nhận định về điều này

như sau: “Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản

phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ

phận nhân dân, nhất là lớp trẻ” [40, tr.125].

* Âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch

Văn hóa, tư tưởng là “nền”, “gốc” của bất kỳ xã hội nào cũng như bất

kỳ cá nhân nào. Nó đóng vai trò như la bàn chỉ phương hướng cho sự phát

triển của xã hội và các hoạt động của các cá nhân. Các thế lực thù địch đã

nhắm vào “điểm huyệt” này để thực hiện các chiến lược chống phá Việt Nam,

trong đó, Tây Nguyên là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số với

trình độ học vấn, sự hiểu biết, kiến thức về chính trị, kinh tế, xã hội còn hạn

chế, đặc biệt đây là nơi đa dạng dân tộc, tôn giáo càng được kẻ thù tăng

cường sử dụng chiến lược của chúng. Âm mưu thâm độc của chúng là xóa bỏ

95

nền tảng tư tưởng, phủ nhận các giá trị đạo đức của dân tộc, từ đó làm mất đi

sự gắn bó, sức mạnh nội sinh của cộng đồng, mất đi niềm tin, phướng hướng

cho sự phát triển của xã hội và mỗi cá nhân.

Đối với thế hệ trẻ, trong đó có SV, những con người được lớn lên trong

điều kiện đất nước hòa bình, không được thử thách, tôi luyện qua những năm

tháng lịch sử hào hùng của đất nước. Họ không được tiếp nhận trực tiếp “sinh

lực” là sức mạnh tinh thần của tinh thần kiên cường bất khuất đấu tranh, hi

sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc như thế hệ cha anh. Đó cũng chính là lý

do tại sao các lực lượng chống phá cách mạng lại coi thanh niên, trong đó có

SV, là mắt khâu trọng yếu, là đối tượng quan trọng để chĩa mũi nhọn chiến

lược của chúng. Lợi dụng các trang mạng xã hội, chúng xuyên tạc, thậm chí

bịa đặt trắng trợn nhiều thông tin hòng bôi nhọ về cuộc đời, TGĐĐ Hồ Chí

Minh, xuyên tạc tính đúng đắn của con đường giải phóng và phát triển đất

nước mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, soi đường, dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi.

Chúng “tiêm nhiễm” những quan niệm, lối sống rất xa lạ thậm chí trái ngược

với truyền thống, giá trị tinh thần của dân tộc được các thế hệ đi trước để lại

là đề cao sự hưởng thụ, đề cao giá trị vật chất, đặt lợi ích cá nhân lên trên hết

thảy coi nhẹ giá trị tinh thần, quay lưng với xã hội, lãng quên những điều cần

làm để thể hiện vai trò của người thanh niên với cộng đồng, đất nước. Điều

này đã gây cản trở không nhỏ đến giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các

trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay.

* Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận

cán bộ, đảng viên

Suy cho đến cùng, sự suy thoái và xuống cấp nghiêm trọng về đời sống

tinh thần và đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay, trong đó có SV, đều có

thể tìm căn nguyên từ sự suy thoái ở bên trong tổ chức lãnh đạo toàn thể xã

hội là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân ta thường nói “đảng viên đi trước,

96

làng nước theo sau”, đó vừa là sự tin tưởng của nhân dân, đồng thời, là yêu

cầu về sự gương mẫu, tự giác của cán bộ, đảng viên giữa cống hiến và hưởng

thụ, trong đó, cống hiến luôn tiên phong mà hưởng thụ luôn luôn sau nhân

dân. Chính sự gương mẫu, tự giác đó mà nhân dân có niềm tin yêu sâu sắc với

với cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, họ thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng và

hành động theo sự tổ chức, phát động của Đảng. Ngày nay, mục tiêu của cách

mạng đã thay đổi so với thời kỳ trước, nhưng yêu cầu về sự tiên phong, gương

mẫu, tự giác nhất là về đạo đức trong công tác, cuộc sống hằng ngày đối với

cán bộ, đảng viên vẫn luôn đặt ra. Tuy vậy, thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện mà

một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bị suy yếu, sút kém về đạo đức, điều này

được Đảng ta nhận thức sâu sắc trong Nghị quyết lần thứ tư khóa XI “Một số

vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Với tinh thần dũng cảm, tự phê

bình và phê bình cao của một đảng chân chính, Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ

cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi,

phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung

vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước” [13].

Như vậy, sự suy yếu, sút kém về đạo đức của “một bộ phận không nhỏ

cán bộ, đảng viên” trực tiếp gây tổn hại đến vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng,

đồng thời giảm sút nghiêm trọng sự tin tưởng, đồng lòng của nhân dân với

con đường chúng ta đang đi dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự suy thoái đó còn

tạo ra những tấm gương phản cảm về sự giả dối khi không thực hiện được

nguyên tắc “nói đi đôi với làm”, thậm chí trái ngược giữa nói với làm, là

nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp đạo đức của bộ phận trong xã hội và một

bộ phận SV hiện nay, đồng thời, cản trở hiệu quả của các hoạt động giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV. Điều này đã được Đảng ta thẳng thắn chỉ ra

trong Chỉ thị 42 – CT/TW: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái

hoá, biến chất, chưa là tấm gương để thế hệ trẻ học tập và noi theo” [7].

97

3.2. Thực trạng giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh

viên các trƣờng đại học ở Tây Nguyên hiện nay

3.2.1. Những thành tựu đạt được trong giáo dục tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay

3.2.1.1. Những thành tựu đạt được trong hoạt động của các chủ thể

giáo dục

* Thứ nhất, phần lớn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các GV và cán bộ

Đoàn, Hội đã có nhận thức đúng đắn về vai trò, sự cần thiết giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho SV

Điều này được thể hiện, Đảng ủy các trường ĐH ở Tây Nguyên đã triển

khai thực hiện một cách nghiêm túc các hướng dẫn của Trung ương, Ban

Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng, ban hành

các văn bản chỉ đạo và tổ chức các hội nghị với mục đích nâng cao nhận thức,

hiểu biết của cán bộ, đảng viên và SV về nội dung và giá trị của TGĐĐ Hồ

Chí Minh. Đảng ủy các trường đã cùng với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, khoa

LLCT, Đoàn thanh niên và Hội SV, đã vạch ra phương hướng và cách thức cụ

thể để thực hiện một cách thường xuyên và hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV. Bên cạnh đó, tăng cường vai trò tự giác, gương mẫu của người

đứng đầu cấp ủy trong chỉ đạo, điều hành, với nguyên tắc “trên trước, dưới sau”.

Cán bộ, đảng viên “nói đi đôi với làm”, đồng thời là đầu tàu gương mẫu trong

hành động để giáo dục, tuyên truyền cho quần chúng noi theo.

Chúng tôi đã phát phiếu điều tra để tìm hiểu về nhận thức của đội ngũ

GV các môn LLCT các trường ĐH ở Tây Nguyên, những người đóng vai trò

quan trọng trong việc trực tiếp tổ chức hoạt động giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV. Với câu hỏi “Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến của mình về sự cần

thiết giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV hiện nay?”, kết quả

thu được là 20/20 GV được hỏi đã trả lời “Rất cần thiết”.

98

* Thứ hai, phần lớn Đảng ủy, Ban Giám hiệu đã chỉ đạo và tổ chức có

hiệu quả các hoạt động nhằm giáo dục các nội dung của TGĐĐ Hồ Chí Minh

cho SV

Đảng ủy, Ban Giám hiệu đã chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ lồng ghép các nội

dung về TGĐĐ Hồ Chí Minh trong giảng dạy các môn khoa học xã hội &

nhân văn, đặc biệt là các môn LLCT, đồng thời, chỉ đạo Đoàn thanh niên, Hội

SV trong việc tổ chức các hoạt động, các phong trào phong phú nhằm tạo môi

trường để SV “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh đã được thực hiện một cách hiệu quả thông

qua hoạt động giảng dạy các môn LLCT của nhiều GV. Đây là quá trình tổ chức

hoạt động nhận thức cho SV để họ có tri thức khoa học về TGĐĐ Hồ Chí Minh

một cách có hệ thống, logic chặc chẽ bởi một hệ thống lý thuyết, với một khoảng

thời gian ngắn nhất, tránh được sự lãng phí về thời gian, công sức của SV, tránh

được sự mò mẫm, thiếu định hướng. Căn cứ vào nội dung và mục tiêu của mỗi

môn học mà nhiều GV các môn LLCT đã khai thác, lồng ghép các nội dung về

TGĐĐ Hồ Chí Minh một cách phù hợp, theo một lôgic nhất định.

Bên cạnh đó, Đoàn thanh niên các trường ĐH ở Tây Nguyên đã thiết kế các

phong trào hành động phù hợp với đặc điểm của mỗi trường: “Tuổi trẻ trường Đại

học Tây Nguyên học tập và làm theo lời Bác”, “Tuổi trẻ Trường Đại học Đà Lạt

học tập và làm theo lời Bác”. Các chương trình lớn này có tính định hướng để tổ

chức các hoạt động cụ thể theo từng thời điểm nhằm giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho đoàn viên SV. Từ những hoạt động đó, góp phần nâng cao hiểu biết,

nhận thức của SV, biến thành hành động và từng bước trở thành thói quen của họ

trong việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Nhiều trường đã làm khá tốt việc tổ chức tuyên dương kịp thời những cá

nhân, tập thể điển hình trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh”; đồng thời, chỉ đạo đổi mới và nâng cao hiệu quả của các phương thức

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV.

99

Về giáo dục SV có lý tưởng sống, có tình yêu đất nước và yêu nhân dân

Phần lớn chủ thể giáo dục là những người sống có lý tưởng, yêu đất nước,

yêu nhân dân, luôn nỗ lực trong công việc và cuộc sống để có thể đóng góp sức

lực của mình cho sự nghiệp chung của đất nước và của ngành Giáo dục, sống

khiêm tốn, giản dị, yêu nghề, nhiệt tình với SV, với công việc. Họ cũng được đánh

giá là có chuyên môn vững, nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình

độ ngoại ngữ, Tin học. Với các cán bộ đoàn, hội, đa số giàu nhiệt huyết, chủ động,

sáng tạo, có kinh nghiệm trong tổ chức các hoạt động, gần gũi đoàn viên SV. Họ

cũng là những người kiên quyết chống các quan điểm với ý đồ xuyên tạc đường

lối của Đảng của các lực lượng phản động, chống chủ nghĩa cơ hội, tình trạng

chia rẽ, bè phái, làm mất sự thống nhất trong nội bộ. Tham gia hiệu quả trong

phòng, chống sự suy yếu, sút kém dần nhất là về đạo đức và những dấu hiệu “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm túc các

nguyên tắc trong sinh hoạt của các cấp ủy đảng.

Lý tưởng sống, tình yêu đất nước và yêu nhân dân là một nội dung cơ bản

đã được phần lớn GV các môn khoa học xã hội & nhân văn, đặc biệt các môn

LLCT chú trọng giáo dục cho SV thông qua giảng dạy môn học của mình. Bên

cạnh đó, giá trị đạo đức cao đẹp này còn được Đoàn thanh niên, Hội SV các

trường ĐH ở Tây Nguyên giáo dục cho đoàn viên SV thông qua tổ chức với các

hoạt động phong phú. Đó là các đợt sinh hoạt chính trị “Tuần sinh hoạt công dân

học sinh sinh viên”, “6 bài học chính trị dành cho thanh niên”, là các hoạt động

nhằm kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước như: ngày thành lập Đảng Cộng sản

Việt Nam (03/2), ngày Truyền thống học sinh sinh viên Việt Nam (09/01), ngày

thành lập Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3), ngày sinh của Chủ tịch

Hồ Chí Minh (19/5), là các hội thi như: SV’ thường niên vào tháng 5 với các

chủ đề về đất nước, về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Hồ Chí Minh…,

100

“Olympic các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Kể

chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Tìm hiểu về tư tưởng và

tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Hội diễn văn nghệ ca ngợi

Đảng, ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh,…

Giáo dục SV có lý tưởng sống, yêu đất nước còn thể hiện ở giáo dục ý thức

trách nhiệm trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Điều này đã

được Đoàn thanh niên các trường ĐH ở Tây Nguyên thực hiện như: Đoàn trường

ĐH Đà Lạt thông qua sinh hoạt câu lạc bộ Trường Sa – Hoàng Sa với chủ đề “Tự

hào biển đảo quê hương”, Đoàn trường ĐH Tây Nguyên phối hợp với Bộ Thông

tin truyền thông tổ chức triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường

Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”.

Giáo dục SV có lý tưởng sống, yêu đất nước còn được các chủ thể giáo dục

thực hiện thông qua giáo dục truyền thống của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”,

khuyến khích họ có nhiều việc tốt để tỏ lòng hiếu nghĩa, quý trọng đối với các

thương binh, gia đình liệt sĩ, tổ chức lễ “Thắp nến tri ân” các liệt sĩ nhân ngày 27-7

và phụng dưỡng, chăm sóc Mẹ Việt Nam anh hùng.

Về giáo dục SV có phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính”, có ý chí vượt qua

khó khăn, trở ngại trong học tập và cuộc sống

Để giáo dục SV, đa số cán bộ, GV các trường ĐH ở Tây Nguyên là những

người gương mẫu thực hiện điều này. Các trường đã triển khai một cách có hiệu

quả các chương trình nhằm thực hành tiết kiệm về thời gian, công sức, tiền của

đi đôi với chống lãng phí, tham nhũng... ở mỗi đơn vị và trong toàn trường. Cán

bộ, GV các trường ĐH ở Tây Nguyên cũng là những người dám công khai thể

hiện thái độ, quan điểm của mình và có hành động cụ thể ủng hộ, bảo vệ lẽ phải,

bảo vệ lợi ích của tập thể, đồng thời luôn vượt khó trong mọi hoàn cảnh. Những

hành động nhằm bảo vệ cái đúng, bảo vệ lợi ích của tập thể như: Phát huy dân chủ

101

trong tập thể, GV khách quan trong đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của SV,

chống gian lận trong thi cử, lên lớp đúng giờ, giảng dạy hiệu quả, khách quan

trong bình bầu khen thưởng,... Điều này được thể hiện trong bảng dưới đây, khi

chúng tôi đặt câu hỏi “Thầy (cô) đã có những hành động nào để bảo vệ cái đúng,

bảo vệ lợi ích của tập thể”.

Bảng 3.1. Ý kiến của GV về những hành động của họ để bảo vệ cái đúng,

bảo vệ lợi ích của tập thể

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Chống gian lận, tiêu cực trong thi cử 11 55.0

chọn Khách quan trong đánh giá kết quả của 16 80.0

phiếu SV

Giữ gìn tài sản công, tiết kiệm của công 7 35.0

Giảng dạy đúng giờ, hiệu quả 11 55.0

Khách quan trong bình bầu khen thưởng 7 35.0

Hành động khác 0 0.0

Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục cho SV có phẩm chất

“cần, kiệm, liêm, chính”, Đảng ủy, Ban Giám hiệu cũng luôn chú trọng chăm lo

tạo ra môi trường thuận lợi nhất cho SV trong quá trình học tập và rèn luyện,

điều đó không chỉ thể hiện ở sự đầu tư cho cơ sở vật chất nhà trường ngày càng

đầy đủ, hiện đại phục vụ cho các hoạt động dạy và học mà quan trọng hơn là tạo

ra môi trường giáo dục liêm chính, minh bạch chống lại mọi biểu hiện của sự

tiêu cực. Hoạt động dạy và học, kiểm tra, đánh giá của các trường được tiến hành

theo quy trình chặt chẽ, khoa học; đánh giá kết quả rèn luyện của SV được thực

hiện nghiêm túc, thực chất từ đó tạo ra niềm tin và thúc đẩy SV thi đua trong học

102

tập, rèn luyện và tham gia các hoạt động đoàn thể. Đảng ủy, Ban giám hiệu các

trường đã đề ra các biện pháp xử lý kiên quyết và dứt điểm với các hiện tượng

không trung thực trong học tập, thi cử của SV. Đoàn thanh niên các trường đã

phát động sâu rộng trong đoàn viên SV thực hiện khẩu hiệu: “Nói không

với tiêu cực trong thi cử” và thực hiện “Mùa thi nghiêm túc”. Giáo dục

thường xuyên ý thức tôn trọng và tuân thủ nội quy nhà trường, quy định của

pháp luật và hưởng ứng cuộc vận động “Văn minh giảng đường”. Đồng thời,

ngăn ngừa, phát hiện sớm những biểu hiện sai trái của GV và SV. Với những

hành vi vi phạm, Nhà trường có các hình thức kỷ luật nghiêm khắc. Thực hiện

đồng bộ các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế SV tham gia tà đạo.

Đặc biệt trong các dịp kỷ niệm 45 năm, 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, Đoàn thanh niên các trường đã phát động đợt sinh hoạt chính

trị: “Sinh viên trường Đại học Tây Nguyên với Di chúc Bác Hồ”, Trường ĐH Đà

Lạt đề ra chủ đề hành động “Thực hành tiết kiệm, thực hiện Di chúc” cho đoàn

viên SV bằng việc nêu yêu cầu cụ thể đạt được như có kết quả cao trong học tập,

công tác, sẵn sàng phục vụ đất nước. Qua đó, đã tạo ra cơ hội để SV có điều kiện

rèn luyện các phẩm chất đạo đức cao đẹp theo tấm gương Hồ Chí Minh.

Về giáo dục SV có tình yêu thương con người và quan tâm đến những

người xung quanh bằng những hành động cụ thể

Đa số cán bộ, GV các trường ĐH ở Tây Nguyên là những người giàu

tình cảm. Điều đó được thể hiện ở sự yêu thương, quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ đối

với SV, với đồng nghiệp và những người xung quanh bằng những hành động cụ

thể như: Quyên góp tiền, quần áo, sách vở, đóng góp công sức giúp đỡ những

người gặp khó khăn, hiến máu nhân đạo, giới thiệu việc làm thêm cho SV, giới

thiệu việc làm chính thức cho SV đã tốt nghiệp. Điều này cũng được phản ánh

thông qua bảng 3.2, kết quả trả lời câu hỏi của chúng tôi “Thầy (cô) đã có những

103

hành động nào dưới đây để chia sẻ, giúp đỡ SV và những người sống xung quanh

khi họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn?”.

Bảng 3.2. Ý kiến của GV về những hành động của họ để giúp đỡ SV và

những ngƣời sống xung quanh

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Ủng hộ vật chất (tiền, sách vở, quần áo) 18 90.0

chọn Hiến máu nhân đạo, các hoạt động từ 7 35.0

phiếu thiện

Động viên tinh thần 10 50.0

Kêu gọi những người khác cùng giúp đỡ 5 25.0

Giới thiệu việc làm thêm cho SV, giới 11 55.0

thiệu việc làm chính thức cho SV đã tốt

nghiệp

Hành động khác 0 0.0

Đảng ủy, Ban Giám hiệu luôn chú trọng chăm lo tạo ra môi trường thân

thiện, giàu tình yêu thương giữa cán bộ, GV với SV, giữa SV với nhau. Đảng ủy

các trường cũng thường xuyên chỉ đạo và thực hiện phát huy dân chủ thực sự

trong các khoa và toàn thể nhà trường. Tạo điều kiện để SV, GV được đối thoại

trực tiếp, cởi mở, dân chủ với Lãnh đạo các khoa, phòng, ban, trung tâm liên

quan và Ban Giám hiệu. Qua đó, Nhà trường nắm bắt, tiếp thu và ưu tiên tháo gỡ

những vấn đề liên quan đến lợi ích chính đáng của SV, chăm lo đời sống vật

chất, tinh thần cho cán bộ, GV. Dân chủ là vừa là nguồn gốc vừa là biểu hiện rõ

nhất của tình cảm yêu thương giữa cán bộ, GV với SV. Điều này là rất quan

trọng, bởi vì, chỉ khi bản thân cán bộ, GV có tình yêu thương với SV, với đồng

nghiệp và với mọi người thì mới có thể giáo dục SV một cách thuyết phục.

104

Tình yêu thương của cán bộ, GV với SV còn được thể hiện thiết thực

thông qua chính sách học bổng của nhà trường và việc chủ động tìm kiếm các

nguồn học bổng bên ngoài để hỗ trợ cho SV. Trong thời gian vừa qua, Trường

ĐH Tây Nguyên đã chủ động tìm kiếm các học bổng như: học bổng Ngân hàng

Nông nghiệp, học bổng MOTO, học bổng TOYOTA, học bổng “Đạm Cà Mau”,

học bổng “Vừ A Dính”, học bổng Vallet,...(tính từ năm 2016 đến năm 2020 gần

10 tỉ đồng) [141], [142], [143]. Nhờ đó, nhiều suất học bổng có giá trị nhằm

động viên tinh thần và giúp đỡ một phần vật chất đã được trao cho những SV có

hoàn cảnh khó khăn, để họ có thể tiếp tục theo học tại trường. Trong khi đó,

những SV nghèo vượt khó của Trường ĐH Đà Lạt đã nhận được những suất học

bổng có giá trị lớn do các tổ chức quốc tế tài trợ như: học bổng C&J (Hàn

Quốc), học bổng của Quỹ Phát triển Châu Á (ADF-Hàn Quốc), học bổng G-

friends (Hàn Quốc), học bổng của Ngân hàng Shinhan tại Việt Nam, học bổng

của công ty Samsung Electronics Thái Nguyên,... [140]. Còn trường ĐH Buôn

Ma Thuột, hằng năm đã trích từ nguồn ngân sách của Trường tạo ra hàng chục

suất học bổng nhằm khuyến khích tinh thần học tập của SV.

Cùng với việc giáo dục cho SV về tình yêu thương con người, về sự sẻ

chia, Đoàn thanh niên, Hội SV các trường còn đầu tư thời gian, công sức để tổ

chức phong trào mang dấu ấn đậm nét của các chiến sĩ tình nguyện trong cuộc

sống của đồng bào, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa khi mùa hè đến là chương

trình “Mùa hè xanh”. Đó còn là hoạt động tuyên truyền về đạo lý “Lá lành đùm lá

rách” của dân tộc Việt Nam nhằm kêu gọi sự ủng hộ của SV đối với đồng bào

miền Trung gặp thiên tai, lũ lụt. Đoàn thanh niên, Hội SV cũng đã làm tốt

phong trào “Hiến máu nhân đạo” thông qua việc tăng cường tuyên truyền,

giúp cho đoàn viên SV hiểu ý nghĩa của thông điệp “Một giọt máu cho đi -

một cuộc đời ở lại”, hiến máu là một hành động thiết thực cao đẹp xuất phát

từ lòng nhân ái và nghĩa đồng bào.

105

3.2.1.2. Những thành tựu đạt được trong hoạt động của sinh viên

* Thứ nhất, nhiều SV đã có nhận thức đúng đắn về vai trò, sự cần thiết

của giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh nói riêng

Đặc trưng tốt đẹp của dân tộc được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác

là coi trọng đạo đức. Nhận thức được truyền thống nêu trên và tầm quan trọng

của đạo đức, coi đạo đức là gốc trong đạo làm người, 62,4% SV được phát phiếu

trả lời câu hỏi “Điều bạn quan tâm nhất hiện nay là gì” đã chọn ưu tiên số 1 là

“tu dưỡng đạo đức” sau đó mới đến các vấn đề như: tích lũy kiến thức, hoàn

thành các môn học, tìm công việc làm thêm có thu nhập cao…

Khá nhiều SV đã nhận thức đúng đắn về vai trò cơ bản của tư tưởng và

TGĐĐ Hồ Chí Minh trong xã hội Việt Nam hiện nay. Khi chúng tôi phát

phiếu hỏi SV về “Vai trò cơ bản của tư tưởng và TGĐĐ Hồ Chí Minh đối với

xã hội Việt Nam hiện nay” (câu hỏi có nhiều lựa chọn) đã nhận được câu trả

lời: 62,2% SV cho rằng, vai trò của tư tưởng và TGĐĐ Hồ Chí Minh “là nền

tảng tinh thần và nền tảng đạo đức của xã hội”, 46% SV chọn “góp phần

chống lại suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và một bộ

phận trong xã hội”, 50,2% SV trả lời rằng, tư tưởng và TGĐĐ Hồ Chí Minh

là “giá trị và hình mẫu lý tưởng để bồi dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ”.

Bảng 3.3. Nhận thức của SV về vai trò

của tƣ tƣởng và TGĐĐ Hồ Chí Minh

Tỷ lệ % Tần suất chọn

361 62.2 Là nền tảng tinh thần và nền tảng đạo đức của xã hội

267 46

Giá trị chọn phiếu Góp phần chống lại suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và một bộ phận trong xã hội

291 50.2 Giá trị và hình mẫu lý tưởng để bồi dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ

106

Từ chỗ hiểu biết đúng về vai trò cơ bản của TGĐĐ Hồ Chí Minh và

nhận thấy một bộ phận SV có biểu hiện đi ngược với yêu cầu của xã hội về

đạo đức, đã có 60,2% SV cho rằng “rất cần thiết” và 30,3% SV chọn “tương

đối cần thiết” khi được hỏi ý kiến về “sự cần thiết giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Tương đối cần thiết

Rất cần thiết

Phân vân

Không cần thiết

2%

7%

31%

60%

Minh cho SV hiện nay”.

Biểu đồ 3.1. Nhận thức của SV về sự cần thiết giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho SV

Mặc dù có rất ít SV nhận thức được một cách đầy đủ, hoàn chỉnh về

các nội dung của TGĐĐ Hồ Chí Minh, song điều đáng ghi nhận là tỷ lệ khá

cao SV nhận thức được một số phẩm chất tiêu biểu của TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, có một tỷ lệ khá cao (khoảng 70-80% SV đã chọn đáp án

“rất cần thiết” và “tương đối cần thiết”), thể hiện sự hiểu biết đúng đắn của

mình về sự cần thiết vận dụng, học tập và rèn luyện của SV hiện nay theo

những nội dung của TGĐĐ Hồ Chí Minh.

107

Bảng 3.4. Nhận thức của SV về sự cần thiết vận dụng, học tập và rèn

luyện của SV đối với các phẩm chất của TGĐĐ Hồ Chí Minh

Các phẩm chất đạo đức

Rất cần thiết 371 (64%) Mức độ cần thiết Tương đối cần thiết 133 (23%) Phân vân 46 (8%) Không cần thiết 29 (5%)

354 (61%) 104 (18%) 70 (12%) 52 (9%)

Có lòng yêu nước, yêu nhân dân Có ý chí, nghị lực vượt qua khó khăn trong học tập và cuộc sống Yêu thương con người, vị tha, khoan dung

Cần, kiệm, liêm, chính 336 (58%) 301 (52%) 133 (23%) 116 (20%) 58 (10%) 93 (16%) 52 (9%) 70 (12%)

* Thứ hai, về vận dụng và rèn luyện theo các nội dung của TGĐĐ Hồ

Chí Minh của SV

Nhiều SV có lý tưởng sống, có tình yêu đất nước, yêu nhân dân

Giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh đã góp phần bồi dưỡng thêm ở SV lý

tưởng sống đúng đắn, có lòng yêu nước, trân trọng với truyền thống của quê

hương mình, của đất nước. Lòng yêu nước trở thành mong muốn và quyết tâm

đưa quê hương, đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Để thực hiện được mong

muốn đó, nhiều SV đã ý thức được rằng phải có những hành động, việc làm cụ

thể, thiết thực. Đó là ra sức thực hành cần, kiệm, nỗ lực vượt qua những điều

kiện, hoàn cảnh không thuận lợi trong học tập, trong cuộc sống để trở thành

những bác sĩ, cử nhân, kỹ sư, giáo viên tương lai và đóng góp kiến thức, kỹ năng

đã được học góp vào sự phát triển đất nước nói chung và địa phương nói riêng.

Bên cạnh đó, lòng yêu nước của SV ngày nay gắn liền với yêu CNXH, quan tâm

đến thông tin về các vấn đề của địa phương và của đất nước. Phần lớn SV tin

tưởng vào sự dẫn dắt của Đảng, vào con đường đi lên của đất nước. Trả lời cho

câu hỏi “Hãy cho biết mức độ tin tưởng của bạn vào sự nghiệp đổi mới của đất

108

nước theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”,

chúng tôi nhận được câu trả lời là 33,3% SV chọn đáp án “rất tin tưởng” và

Không tin tưởng 5%

Rất tin tưởng 33%

Tương đối tin tưởng 62%

62,2% SV chọn đáp án “tương đối tin tưởng”.

Biểu đồ 3.2. Mức độ tin tƣởng của SV vào sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc

Là người trí thức trong tương lai, nhiều SV đã có hiểu biết và có thái độ đúng

đắn về các vấn đề chính trị của đất nước. Đa số SV cho rằng, những thành tựu cơ bản

sau hơn 30 năm đổi mới ở nước ta, đó là những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa vô cùng

quan trọng. Họ nhận thức với những gì đã đạt được chứng tỏ con đường đổi mới theo

định hướng XHCN là đúng đắn, phù hợp. Từ sự tin tưởng đó, hình thành động lực

tích cực thúc đẩy họ học tập và rèn luyện hơn nữa. Phần lớn SV các trường ĐH ở

Tây Nguyên rất quan tâm đến đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, tình hình

kinh tế, xã hội của địa phương và đất nước, được thể hiện qua kết quả là 30,7% SV

trả lời “chủ động tìm hiểu qua sách, báo, hỏi thầy (cô) và bạn bè” khi chúng tôi đặt

câu hỏi tìm hiểu vấn đề này. Đa số SV không thờ ơ với diễn biến đời sống của địa

phương và đất nước, có nhận định và phân biệt đúng sai với các thông tin, chủ động

lên tiếng kiên quyết chống lại những gì đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, của dân

tộc. Do vậy, họ luôn có ý thức đấu tranh trước các thủ đoạn của các lực lượng phản

109

cách mạng hòng phá hoại những thành quả mà dân tộc, nhân dân ta đã dành được

bằng khả năng và cách riêng của mình. Với câu hỏi “Khi nghe hoặc đọc những luận

điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về các lãnh tụ, đường lối của Đảng, chính

sách của nhà nước, bạn có hành động nào dưới đây”, chúng tôi nhận được câu trả

lời: 49,5% SV chọn đáp án “Trực tiếp phê phán, phản bác bằng quan điểm, hiểu biết

của cá nhân” và 25,2% SV chọn “chia sẻ nội dung, clip, hình ảnh chính thống, đúng

đắn có ở trên mạng để phản bác, đấu tranh”.

Bảng 3.5. Hành động của SV đối với các luận điệu của thế lực thù địch

Tần suất Tỷ lệ % chọn

Không quan tâm 77 13.3

Trực tiếp phê phán, phản bác bằng quan 287 49.5 điểm, hiểu biết của cá nhân

Giá trị Chia sẻ nội dung, clip, hình ảnh chính

chọn thống, đúng đắn có ở trên mạng phản 146 25.2

phiếu bác, đấu tranh

Chia sẻ những nội dung tích cực, câu

chuyện “người tốt, việc tốt” trên mạng 263 45.3

xã hội

Hành động khác 22 3.8

Nhiều SV đã nỗ lực hết mình trong học tập và rèn luyện, có ý chí phấn

đấu, vượt qua thử thách và được kết nạp vào Đảng.

Nhiều SV có ý thức rèn luyện những phẩm chất “cần, kiệm, liêm,

chính”, nỗ lực vượt khó khăn, trở ngại trong học tập và cuộc sống

Phần lớn SV nâng cao ý thức của mình về việc cần phải lao động, học

tập tích cực, hiệu quả, chịu khó, tự lực, tự cường, biết lập ra phương hướng,

110

kế hoạch để thực hiện bền bỉ cả quá trình học tập ở ĐH. SV không chỉ biết

chịu khó trong học tập mà còn có ý thức sử dụng thời gian, tiền bạc, công sức

một cách hiệu quả, đúng mực. Biết làm chủ thời gian cho các hoạt động chính

của mình là học tập, vui chơi, sinh hoạt, tham gia các hoạt động tình nguyện

một cách khoa học, hợp lý. Biết chi tiêu trong khả năng, hoàn cảnh của gia

đình mình cho phép. Khi đến trường có ý thức sử dụng và giữ gìn các phương

tiện, thiết bị phục vụ hoạt động dạy và học, tài sản của nhà trường, tài nguyên

điện, nước. Biết sắp xếp công việc, việc nào làm trước việc nào làm sao đồng

thời nâng cao hiệu quả làm việc để tiết kiệm thời gian, công sức và tiền của.

SV đã biết giữ sự trong sáng, say mê học tập để nâng cao kiến thức

chuyên môn, khả năng ngoại ngữ, tin học. Nhiều SV có lối sống ngay thẳng,

trung thực, thật thà. Với thầy cô luôn kính trọng, lễ phép, với bạn bè luôn yêu

thương, hòa đồng, giúp đỡ lẫn nhau. Trong học tập luôn trung thực, thẳng

thắn, có bản lĩnh, dũng cảm, chân thành, khiêm tốn, không giấu giếm sai trái,

không bao che cho cái sai, cái xấu, không quay cóp, không chạy điểm, chạy

theo thành tích, không sa vào tệ nạn xã hội, dám đứng lên bênh vực cho

người tốt, cho lẽ phải. Nhiều SV đã có cố gắng, tự lực trong học tập và cuộc

sống. Điều đó trước hết được thể hiện ở chỗ nhiều SV khắc phục những thói

quen trong cách thức học tập và hoạt động ở ĐH với những khác biệt rất lớn

với bậc phổ thông trung học. Nhiều SV phải rời xa gia đình, biết chủ động sắp

xếp thời gian một cách khoa học để vừa học tốt vừa tham gia các hoạt động

vui chơi, giải trí thỏa mãn nhu cầu tinh thần lành mạnh. Hình thức học ở ĐH

là tự học, tự khám phá, với những vấn đề chưa hiểu đòi hỏi SV phải tự tìm tài

liệu, tự nghiên cứu. Bên cạnh đó, SV không chỉ cố gắng để đáp ứng được

những yêu cầu khắt khe của chương trình đào tạo ngành học của mình còn

phải đạt được những yêu cầu về Tin học, ngoại ngữ và có các kỹ năng khác.

Nhiều SV có hoàn cảnh kinh tế gia đình rất khó khăn, hoặc xuất thân từ

những gia đình là người đồng bào dân tộc thiểu số thiếu sự nhạy bén trong sản

111

xuất, hoặc những SV mà gia đình làm nông nghiệp với thu nhập không ổn

định. Để có thể trang trải và theo đuổi con đường học ĐH, nhiều SV phải vừa

đi học, vừa làm thêm với những công việc khác nhau như phục vụ quán café,

quán ăn, nhà hàng, gia sư, xe ôm,…

Nhờ có ý thức thực hành những chuẩn mực “cần, kiệm, liêm, chính” và

sự cố gắng vượt khó khăn, nhiều SV các trường ĐH ở Tây Nguyên đã có kết

quả học tập từ loại khá trở lên (chiếm gần 40% trên tổng số SV qua mỗi năm

học). Không chỉ cố gắng trong học tập, được sự khuyến khích và hỗ trợ của

nhà trường, của các GV, SV các trường ĐH ở Tây Nguyên, tích cực tham gia

nghiên cứu khoa học, nhờ đó, tính từ năm 2016 đến nay, tổng số đề tài của SV

được nghiệm thu của Trường ĐH Tây Nguyên là 72 và Trường ĐH Đà Lạt là

100. Các đề tài nghiên cứu của SV đa dạng về lĩnh vực nghiên cứu, đạt được

mục tiêu, có thể đưa vào trong sản xuất và đời sống. Mặc dù mới được thành

lập song Trường ĐH Buôn Ma Thuột đã đẩy mạnh phong trào học tập và sáng

tạo trong SV qua các phong trào “Sáng tạo trẻ”, “3 trách nhiệm”, “Thiết kế

mô hình giải phẫu”, “Olympic Y Sinh”, “Tôi là dược sĩ BMTU”, “Rung

chuông vàng”,…

Nhiều SV biết yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh

bằng những hành động cụ thể

Phần lớn SV các trường ĐH ở Tây Nguyên sống giàu tình cảm biết yêu

thương, đồng cảm và chia sẻ khó khăn, không may mắn với bạn bè, những người

xung quanh, với cộng đồng. Trả lời cho câu hỏi “Bạn có quan tâm đến bạn bè,

người sống xung quanh khi họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn”, đa số SV trả lời “có

quan tâm”. Tùy vào khả năng và điều kiện của mình, mức độ giúp đỡ bạn bè,

những người sống xung quanh khi họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn ở SV khác

nhau, có 33,3% SV được hỏi trả lời mức độ “thường xuyên” và 65,1% SV trả lời

mức độ “thỉnh thoảng” khi được hỏi nội dung nêu trên. Chúng tôi đã hỏi SV để

biết việc làm cụ thể của họ trong việc giúp đỡ bạn bè, những người sống xung

112

quanh, kết quả câu hỏi có nhiều lựa chọn: 62,6% SV ủng hộ vật chất (tiền, sách

vở, quần áo), 37,1% SV hiến máu nhân đạo, 77,2% SV động viên tinh thần,

33,3% SV giới thiệu việc làm thêm và 45,2% SV kêu gọi những người khác

cùng giúp đỡ.

Bảng 3.6. Những việc làm cụ thể của SV giúp đỡ những ngƣời xung quanh

Tần suất Tỷ lệ % chọn

Ủng hộ vật chất (tiền, sách vở, quần áo) 363 62.6

Hiến máu nhân đạo, các hoạt động từ thiện 215 37.1 Giá trị Động viên tinh thần 448 77.2 chọn Kêu gọi những người khác cùng giúp đỡ 262 45.2 phiếu Giới thiệu việc làm thêm 193 33.3

Việc làm khác 6 1.0

Đa số SV khi tham gia “phong trào tình nguyện” đều có động cơ đúng

đắn và có 71,3% SV chọn đáp án “Thấy cảm thông và muốn chia sẻ với

những người cần giúp đỡ” khi được hỏi “Động cơ của bạn khi tham gia vào

các hoạt động tình nguyện là gì”. Từ nhận thức đó, đã có một số lượng lớn

đoàn viên SV tham gia các phong trào thiết thực, cụ thể: “Ngày thứ bảy tình

nguyện”, “Ngày chủ nhật xanh” SV trồng hàng ngàn cây xanh, phát cỏ, tổng

dọn vệ sinh trong khuôn viên trường, vệ sinh và chăm sóc các mộ liệt sĩ tại

nghĩa trang thành phố Buôn Ma Thuột và thành phố Đà Lạt.

Với phong trào “Ngày chủ nhật đỏ” hiến máu cứu người, hằng năm SV

mỗi trường ĐH ở Tây Nguyên hiến trung bình 1000 – 1200 đơn vị máu.

Chương trình “Mùa hè xanh”, hằng năm, đã thu hút hàng ngàn SV các trường

ĐH ở Tây Nguyên tham gia. Các chiến sĩ tình nguyện về các thôn buôn thực

hiện “chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật” cho bà con xã nghèo, cùng

với lực lượng thanh niên và người dân tham gia nạo vét kênh mương, phát

113

quang bụi rậm và sửa chữa đường giao thông. Bên cạnh đó, các đội tình

nguyện còn tổ chức hoạt động “Vì đàn em thân yêu” như: mở hàng chục lớp

học văn hóa, hướng dẫn cho thanh niên địa phương các hình thức sinh hoạt

cộng đồng và kỹ năng tổ chức phong trào tại các thôn, buôn. Chương trình

“Tiếp sức mùa thi” nhằm hỗ trợ học sinh tham gia kỳ thi tốt nghiệp trung học

phổ thông, kỳ thi tuyển sinh cao đẳng, ĐH đã được nhiều SV hưởng ứng.

3.2.2. Những hạn chế trong giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay

3.2.2.1. Những hạn chế trong hoạt động của các chủ thể giáo dục

* Thứ nhất, vẫn còn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các GV và cán bộ Đoàn,

Hội chưa có nhận thức đúng đắn về vai trò của TGĐĐ Hồ Chí Minh và sự

cần thiết giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV

Trong các trường ĐH ở Tây Nguyên, có lúc, có nơi, Đảng ủy, Ban

Giám hiệu còn có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức hoặc khoán trắng công

việc giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV cho các đơn vị chức năng như

khoa LLCT, tổ chức Đoàn thanh niên và Hội SV, đồng thời, chưa chú trọng

việc xây dựng môi trường giáo dục thuận lợi cho công tác này.

Một số cán bộ, GV cũng chưa quan tâm đến hiệu quả giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho SV.

Trong Đảng ủy, Ban giám hiệu, cán bộ và GV có lúc, có nơi chưa tăng

cường trách nhiệm nêu gương trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh” để SV noi theo.

* Thứ hai, vẫn còn Đảng ủy, Ban Giám hiệu chỉ đạo và tổ chức các

hoạt động nhằm giáo dục các nội dung của TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV chưa

hiệu quả

Thực tế cho thấy, vẫn còn Đảng ủy, Ban Giám hiệu ở một số trường

ĐH ở Tây Nguyên chưa chỉ đạo sâu sát và chặt chẽ công tác giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho SV, đồng thời, chưa làm tốt việc tổng kết, chưa kịp thời

114

biểu dương, khen thưởng, nhân rộng các gương SV và GV tiêu biểu trong

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Một số trường cũng

chưa chú ý rút kinh nghiệm và khắc phục những biểu hiện hình thức, qua loa

hoặc xa rời mục tiêu giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV.

Bên cạnh đó, tính tự giác, tích cực, chủ động của một số GV các môn LLCT,

ở một số trường, chưa được phát huy. Những GV này mới chỉ chú ý khai thác

nội dung về TGĐĐ Hồ Chí Minh ở một số bài, chương thay vì cần được khai

thác và triển khai một cách có hệ thống, liên tục. Việc giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV vẫn chỉ dừng lại ở làm rõ nội dung tri thức về TGĐĐ Hồ Chí

Minh. Một số GV có biểu hiện lạm dụng phương pháp thuyết trình với sự hỗ trợ

của máy chiếu theo lối chiếu – chép, tổ chức thảo luận theo chủ đề, thiết kế các

vấn đề, sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập còn chưa được GV tiến hành ở mức

thường xuyên.

Các phong trào của Đoàn thanh niên, Hội SV tổ chức mặc dù có sức lan

tỏa rộng rãi nhưng có biểu hiện chạy theo số lượng, thành tích còn hình thức,

chưa chú trọng vào chiều sâu, chất lượng.

Về giáo dục SV có lý tưởng sống, có tình yêu đất nước và yêu nhân dân

Vẫn còn cán bộ, GV có biểu hiện phai nhạt lý tưởng sống, cơ hội, thực

dụng, thiếu sự nỗ lực trong công việc và cuộc sống, vẫn có tình trạng chia rẽ, bè

phái, làm mất sự thống nhất trong nội bộ ở một số đơn vị trong các trường. Một

số GV chưa quan tâm đúng mức đến việc bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng sống,

tình yêu đất nước, yêu nhân dân. Vẫn còn GV lảng tránh, không có quan điểm

công khai, có chính kiến trước SV đối với những thông tin sai lệch, các quan

điểm với ý đồ xuyên tạc đường lối của Đảng bởi các lực lượng phản động. Vẫn

còn những cán bộ đoàn, hội thiếu sự nhiệt huyết, thiếu chủ động, thiếu sáng

tạo và thiếu kinh nghiệm trong tổ chức các hoạt động, phong trào.

Lý tưởng sống, tình yêu đất nước và yêu nhân dân là một nội dung

115

quan trọng nhưng chưa thực sự được một số GV các môn khoa học xã hội &

nhân văn, đặc biệt các môn LLCT chú trọng giáo dục cho SV thông qua giảng

dạy môn học của mình. Bên cạnh đó, việc giáo dục giá trị đạo đức cao đẹp

này, có lúc, có nơi được thực hiện một cách hình thức, thiếu sáng tạo, không

hiệu quả thông qua các đợt sinh hoạt chính trị “Tuần sinh hoạt công dân học

sinh sinh viên”, “6 bài học chính trị dành cho thanh niên” và kỷ niệm những

ngày lễ lớn của đất nước mà Đoàn thanh niên và Hội SV tổ chức.

Về giáo dục SV có phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính”, có ý chí vượt

qua khó khăn, trở ngại trong học tập và cuộc sống

Trong đội ngũ vẫn còn tình trạng cán bộ, GV không gương mẫu thực hiện

“cần, kiệm, liêm, chính”. Mặc dù các trường đã triển khai các chương trình

nhằm thực hành tiết kiệm về thời gian, công sức, tiền của đi đôi với chống lãng

phí, nhưng vẫn còn GV thực hiện một cách hình thức. Một số GV đã lảng tránh,

không thể hiện thái độ, quan điểm của mình và có hành động cụ thể ủng hộ, bảo

vệ lẽ phải, bảo vệ lợi ích của tập thể. Một số GV với công việc, với SV chưa thực

sự tận tâm, giảng dạy chưa đúng theo thời gian quy định, lên lớp muộn nhưng

cho SV ra về sớm. Vẫn còn cán bộ, GV vi phạm bị Nhà trường kỷ luật. Một số

GV chưa nỗ lực, vượt khó để nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, trình độ

ngoại ngữ. Môi trường giáo dục có lúc, có nơi còn thiếu sự liêm chính, thiếu

minh bạch, có biểu hiện của sự tiêu cực. Trong đánh giá kết quả học tập và rèn

luyện của SV một số GV có sự dễ dãi, không thực chất, thiếu khách quan, thiếu

công bằng làm cho SV mất động lực để cố gắng, thi đua trong học tập và rèn

luyện. Ở một vài trường, Đảng ủy, Ban giám hiệu còn xử lý chưa kiên quyết và

dứt điểm với các hiện tượng không trung thực trong học tập, thi cử của SV.

Đoàn thanh niên các trường đã phát động sâu rộng khẩu hiệu: “Nói

không với tiêu cực trong thi cử” và thực hiện “Mùa thi nghiêm túc”, nhưng

lại không đưa ra cơ chế thực hiện, biện pháp xử lý nghiêm khắc, khẩu hiệu

116

này chưa được đoàn viên SV thực hiện hiệu quả. “Văn minh giảng đường”

cũng là một cuộc vận động lớn được Đoàn thanh niên các trường ĐH ở Tây

Nguyên đưa ra nhưng có lúc bản thân một số GV vẫn chưa thực hiện một

cách nghiêm túc như hút thuốc lá ở giảng đường. Bên cạnh đó thiếu chế tài

xử lý đối với các hành vi thiếu văn minh, vì vậy, cuộc vận động này chưa

có tác động nhiều đến SV.

Trong các dịp kỷ niệm 45 năm, 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, Đoàn thanh niên các trường đã phát động đợt sinh hoạt chính trị, mặc

dù có nêu ra những yêu cầu cụ thể cần phải đạt được như có kết quả cao trong học

tập, trong công tác, sẵn sàng phục vụ đất nước,… tuy nhiên, còn thiếu sự kiểm tra,

giám sát và tổng kết theo những yêu cầu đã nêu ra.

Về giáo dục SV có tình yêu thương con người và quan tâm đến những

người xung quanh bằng những hành động cụ thể

Mặc dù, Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường luôn chú trọng chăm lo tạo

ra môi trường thân thiện, giàu tình yêu thương giữa cán bộ, GV với SV, giữa SV

với nhau nhưng vẫn còn một bộ phận GV thiếu sự yêu thương, thiếu sự quan tâm,

bàng quan trước những khó khăn của SV, đồng nghiệp và những người xung

quanh, cứng nhắc, thiếu sự bao dung trong mối quan hệ với SV. Một bộ phận

cán bộ ở các phòng, ban chức năng ở một số trường có biểu hiện quan liêu với

đồng nghiệp, với SV. Lúc này, lúc khác ở một số đơn vị trong các trường còn

thiếu dân chủ thực sự, lợi ích chính đáng của SV, đời sống vật chất, tinh thần của

cán bộ, GV chưa được chăm lo, đáp ứng.

Các học bổng, chính sách đối với SV ở một số trường vẫn có lúc chậm trễ,

chưa kịp thời động viên, giúp đỡ SV vượt qua khó khăn. Bên cạnh đó, vẫn còn

có trường chưa chú trọng công tác tư vấn, hỗ trợ SV về các vấn đề liên quan đến

chương trình học tập, tâm lý, việc làm thêm,...

Nội dung về tình yêu thương con người, về sự sẻ chia với cộng đồng chưa

117

được nhiều GV chú trọng trong giảng dạy các môn khoa học xã hội & nhân văn,

các môn LLCT. Các phong trào tình nguyện như “Mùa hè xanh”, “Hiến máu nhân

đạo”,... đôi khi được tiến hành chạy theo số lượng được phân bổ từ Đoàn cấp trên

nên đã làm giảm bớt ý nghĩa nhân văn và giảm giá trị giáo dục đoàn viên SV.

3.2.2.2. Những hạn chế trong hoạt động của sinh viên

* Thứ nhất, vẫn còn một bộ phận SV chưa có nhận thức đúng về vai

trò, sự cần thiết của giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh nói riêng

Qua kết quả khảo sát chúng tôi nhận thấy, một bộ phận SV chưa nhận

thức được vai trò gốc rễ của đạo đức đối với nhân cách mỗi con người, với

23,3% chọn điều quan tâm nhất là tích lũy kiến thức. Bên cạnh đó, có 10,3%

Tìm công việc làm thêm có thu nhập cao 10%

Khẳng định vai trò của mình trong tập thể 4%

Tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức mới và giá trị đạo đức truyền thống 23%

Tích lũy kiến thức, hoàn thành các môn học/có bằng cấp 63%

SV lại coi trọng hàng đầu là “Tìm việc làm thêm có thu nhập cao”.

Biểu đồ 3.3. Điều SV quan tâm nhất hiện nay

Một bộ phận SV cũng chưa nhận thức được một cách sâu sắc, đầy đủ

về vai trò của TGĐĐ Hồ Chí Minh. Từ đó, họ không thấy được sự cần thiết

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh. Khi trả lời câu hỏi của chúng tôi về vấn đề này

vẫn còn 7,2% SV chọn “phân vân” và 2,2% SV chọn “không cần thiết”. Sự

nhận thức chưa đúng đắn này ảnh hưởng không nhỏ đến phát huy vai trò chủ

thể, tự thân của SV trong tiếp nhận một cách có hiệu quả nhất những tác

118

động, những hoạt động mà các chủ thể giáo dục đã dày công đầu tư tổ chức.

Mặc dù quá trình giáo dục được tổ chức với chương trình, nội dung

bài bản và phương pháp khoa học nhưng SV vẫn chỉ nhận thức được nội

dung này hoặc nội dung khác, đa số SV chưa nhận thức được TGĐĐ Hồ

Chí Minh là một thể thống nhất hữu cơ của những phẩm chất cao quý.

Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận SV chưa có hiểu biết đầy đủ, đúng

đắn về sự cấp thiết trong học tập và làm theo những nội dung của TGĐĐ Hồ

Chí Minh của SV hiện nay. Trong đó, nội dung “Yêu nước, yêu nhân dân” có

tỉ lệ 13% SV chọn “phân vân” và “không cần thiết”. Về nội dung “Có ý chí,

nghị lực vượt qua khó khăn trong học tập và cuộc sống” có hơn 20% SV chọn

“phân vân” và “không cần thiết”. Với nội dung “Yêu thương con người, vị

tha, khoan dung” có gần 20% SV chọn “phân vân” và “không cần thiết”. Một

tỉ lệ khá cao với gần 30% SV chọn “phân vân” và “không cần thiết” đối với

nội dung “Cần, kiệm, liêm, chính”.

* Thứ hai, về vận dụng và rèn luyện theo các nội dung của TGĐĐ Hồ

Chí Minh của SV

Một bộ phận SV không có lý tưởng sống, không có lòng yêu nước và

yêu nhân dân

Mặc dù yêu nước được coi là giá trị quý báu nhất của dân tộc ta và

cũng là nét đặc trưng, tiêu biểu nhất của TGĐĐ Hồ Chí Minh, do đó, phải

được giáo dục cho thế hệ đi sau để tiếp tục lưu giữ và phát huy. Tuy vậy, vẫn

còn SV không có lý tưởng sống, không bồi dưỡng để có tình yêu đối với đất

nước. Biểu hiện rõ nhất là họ không có hiểu biết cơ bản về thực tiễn đời sống

của nhân dân ở địa phương và trên cả nước, về các vấn đề chính trị. Còn mơ

hồ về tính tất yếu của con đường phát triển đất nước là CNXH. Vẫn còn SV

sống thiếu ý thức thực hiện các yêu cầu của gia đình và xã hội đối với một

người thanh niên, không vượt lên trước những trở ngại trong học tập và cuộc

sống. Trước những thủ đoạn của các lực lượng chống phá cách mạng thông

qua những luận điệu xuyên tạc về các lãnh tụ, chính sách, pháp luật, không ít

119

SV (13.3% SV) chọn đáp án “không quan tâm” khi được hỏi về điều này.

Những SV này cũng chưa có nhận thức đúng đắn đối với những thành tựu cơ

bản sau hơn 30 năm đổi mới ở nước ta. Không thấy được Đảng là nhân tố

hàng đầu đóng vai trò quyết định, đem lại những kết quả to lớn của sự nghiệp

đổi mới ở Việt Nam. Vì không quan tâm đến những gì đang diễn ra trong đời

sống xã hội, không chủ động trong việc tìm hiểu để có kiến thức và thực hiện

theo chính sách, pháp luật của nhà nước.

Một bộ phận SV không có ý thức rèn luyện những phẩm chất “cần,

kiệm, liêm, chính”, nỗ lực vượt khó khăn, trở ngại trong học tập và cuộc sống

Vẫn còn những SV không xác định mục tiêu của mình, lười lao động và

học tập, không lập ra phương hướng, kế hoạch để thực hiện cho cả quá trình.

Không vượt qua khó khăn trong học tập, không sử dụng đúng đắn, hợp lý thời

gian, tiền bạc và công sức dẫn đến tình trạng không ít SV nợ môn, dẫn đến bị

nhà trường cảnh báo dừng học và thôi học. SV năm cuối không tốt nghiệp lần

đầu ngày càng tăng lên qua từng năm học. Điều này được thể hiện ở tỉ lệ tốt

nghiệp lần đầu của SV Trường ĐH Tây Nguyên ngày càng giảm: Năm học

2016 – 2017 là 67.75% [141], năm học 2017 – 2018 là 53.26% [142] và năm

70

60

50

40

67.75

53.26

30

45.21

20

10

0

2016-2017

2017-2018

2018-2019

Tỉ lệ %

học 2018 – 2019 là 45.21% [143].

Biểu đồ 3.4. Tỉ lệ SV tốt nghiệp lần đầu của Trƣờng ĐH Tây Nguyên

120

Không chỉ lãng phí về tiền bạc của bản thân và gia đình, một bộ phận SV

không có ý thức giữ gìn, bảo vệ cơ sở vật chất, tài sản của nhà trường, không có ý

thức sử dụng tiết kiệm tài nguyên điện, nước, không có ý thức bảo vệ môi trường

khi vẫn còn xả rác bừa bãi ở giảng đường, sân trường. Thiếu sự ngay thẳng, trung

thực, thật thà với những biểu hiện như nhờ hoặc thuê người đi học, quay cóp, nhờ

hoặc thuê người đi thi hết học phần, chạy điểm... Với thầy cô thiếu sự kính trọng,

lễ phép, với bạn bè thiếu yêu thương, hòa đồng, giúp đỡ lẫn nhau.

Để tìm hiểu về những biểu hiện đi ngược lại với những yêu cầu của xã

hội về đạo đức, lối sống của SV các trường ĐH ở Tây Nguyên hiện nay chúng

tôi đã đặt câu hỏi “SV trường bạn đang theo học có biểu hiện nào trong

những biểu hiện đáng lo ngại về đạo đức, lối sống dưới đây” (câu hỏi có

nhiều lựa chọn) cho SV, kết quả nhận được là: Gần một nửa số SV được hỏi

cho rằng SV hiện nay có biểu hiện như: Lười học, lười lao động, ít cố gắng

rèn luyện (55.2%), đề cao giá trị vật chất, đua đòi, thích hưởng thụ

(48.3%), thực dụng, chỉ biết đến bản thân (46.2%).

Bảng 3.7. Ý kiến của SV về những biểu hiện đáng lo ngại về đạo đức,

lối sống của SV hiện nay

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Thực dụng, chỉ biết đến bản thân 268 46.2

chọn Đề cao giá trị vật chất, đua đòi, thích 280 48.3

phiếu hưởng thụ

Thiếu trung thực trong thi cử 174 30

Lười học tập, lười lao động, không cố 320 55.2

gắng rèn luyện

Không có lý tưởng sống 164 28.3

Biểu hiện khác 13 2.2

121

Chúng tôi sử dụng câu hỏi này hỏi ý kiến của các GV để có cái nhìn

đầy đủ về vấn đề “Theo thầy (cô) SV có biểu hiện nào trong những biểu hiện

đáng lo ngại về đạo đức, lối sống dưới đây”, kết quả là có tỉ lệ % câu trả lời

của GV với mỗi vấn đề khá tương đồng với câu trả lời của SV. (Xem thêm

Phụ lục 4, câu 3 – Kết quả khảo sát ý kiến của giảng viên).

Không tôn trọng và tuân thủ nội quy nhà trường và với ý thức rèn

luyện của một số SV chưa cao nên vẫn còn 11,4% trả lời là “đã từng” trước

câu hỏi “Bạn đã từng vi phạm nội quy, quy chế của trường với mức độ bị kiểm

điểm”. Sự vi phạm đó chủ yếu diễn ra trong thi cử. Chính sự thiếu cố gắng

trong rèn luyện đã dẫn đến vi phạm nội quy của nhà trường và kết quả xếp

loại rèn luyện của SV thấp. Điều này được thể hiện phần nào qua kết quả xếp

điểm rèn luyện học kỳ I năm học 2018 – 2019 của SV Trường ĐH Đà Lạt, tỉ

lệ SV xếp loại kém là 16%, không xếp loại là 13% [140].

Một bộ phận SV không dám bảo vệ chân lý, bảo vệ người tốt. Không ít

SV đã không nhận thức được trách nhiệm của mình, đã lảng tránh thể hiện

quan điểm, chính kiến và có hành động khi cần để bênh vực, bảo vệ lợi ích

của tập thể, bảo vệ cái đúng, chống lại cái sai. Trả lời cho câu hỏi “Bạn đã

từng hành động bảo vệ cái đúng hoặc bảo vệ lợi ích của tập thể chưa”, có đến

52,9% trả lời là “chưa”. Với câu hỏi “Lý do bạn chưa từng có hành động để

bảo vệ lợi ích của tập thể, bảo vệ cái đúng là gì?”, có 15,4% SV lựa chọn “e

ngại, sợ va chạm, sợ phiền hà đến bản thân” và 5,5% SV lựa chọn “cảm thấy

không cần thiết phải đứng ra bảo vệ cái đúng/ lợi ích tập thể”.

Vẫn còn những SV không chủ động sắp xếp thời gian một cách khoa

học nên không làm chủ thời gian và phân phối hợp lý giữa thời gian dành cho

học tập với sinh hoạt cá nhân và tham gia các hoạt động đoàn thể. Một bộ

phận SV thiếu tự giác, thiếu sự tự học, tự nghiên cứu nên đã không qua môn,

nợ môn. SV chưa có kỹ năng hợp tác và làm việc trong nhóm, sự sáng tạo

trong tư duy, trong học tập còn hạn chế nên kết quả học tập còn thấp. Không

122

vượt qua “cú sốc văn hóa” khi có quá nhiều sự khác biệt về môi trường sống,

nền nếp học tập và sinh hoạt giữa bậc phổ thông và ĐH. Để có thể trang trải

và theo đuổi con đường học ĐH, nhiều SV phải bố trí thời gian để vừa đi học,

vừa làm thêm nhưng vì không cân bằng giữa thời gian học và thời gian làm

thêm dẫn đến tình trạng không ít SV chểnh mảng việc học, bị cấm thi, rớt

môn, nợ môn phải ra trường muộn, bị dừng học và thôi học.

Một bộ phận SV không có tình yêu thương con người, thờ ơ với các

hoạt động tình nguyện

Vẫn còn những SV có thể hiện sự thờ ơ, vô cảm với bạn bè, những

người sống xung quanh. Trong các mối quan hệ, thiếu sự chân thành, trung

thực luôn chỉ nghĩ cho bản thân, chỉ nhiệt tình và làm những gì thấy có lợi

cho bản thân, không muốn đóng góp công sức, thời gian của mình cho tập

thể, cộng đồng. Trong xử lý mối quan hệ lợi ích, một bộ phận SV vẫn coi

lợi ích của bản thân quan trọng nhất, đặt lên trên lợi ích tập thể. Do vậy,

vẫn còn SV lựa chọn “không quan tâm” và “chưa từng” có những hành

động cụ thể giúp đỡ bạn bè và những người sống xung quanh khi họ gặp

hoạn nạn, khó khăn. Những SV đó chọn lối sống vì mình mà không quan

tâm sẻ chia với cộng đồng, xã hội; sống cho hiện tại mà quên đi quá khứ và

hướng đến tương lai; vì đặt nặng vấn đề hưởng thụ vật chất mà coi thường

giá trị văn hóa. Một bộ phận SV chưa nhận thức được đúng ý nghĩa và

chưa có động cơ đúng đắn khi tham gia các hoạt động do các đoàn thể tổ

chức, đó là xuất phát từ sự cảm thông và mong muốn chia sẻ với những

người trong cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn. Vẫn còn tình trạng SV

không có động cơ đúng đắn khi tham gia các hoạt động tình nguyện mà

tham gia chỉ vì ham vui với bạn bè, vì để được giấy khen. Điều đó được thể

hiện qua kết quả là vẫn có 5,0% SV trả lời “tham gia theo phong trào, bạn

bè rủ rê” và 3,0% SV lựa chọn “tham gia để được ghi nhận, giấy khen”.

123

Tham gia theo phong trào, bạn bè rủ rê 5%

Tham gia để được ghi nhận, được trao giấy khen 3%

Tham gia nhằm mục đích học hỏi, lấy kinh nghiệm 21%

Thấy cảm thông và muốn chia sẻ với những người cần giúp đỡ 71%

Biểu đồ 3.5. Những lý do SV tham gia vào các hoạt động tình nguyện

3.2.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong giáo dục

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở Tây

Nguyên hiện nay

3.2.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu

- Nhận thức được vai trò quan trọng của TGĐĐ Hồ Chí Minh và tầm

quan trọng của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV, phần lớn Đảng ủy, Ban

Giám hiệu các trường ĐH ở Tây Nguyên đã chú trọng đầu tư cho công tác

này trong thời gian vừa qua. Nhiều trường đã làm rất tốt việc đưa giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV đi vào chiều sâu gắn với tình hình thực tế của

nhà trường. Đảng ủy, Ban Giám hiệu đã quan tâm đặc biệt cho đội ngũ GV, vai

trò, vị trí và chất lượng giảng dạy các môn LLCT; đầu tư về vật chất cho các

hoạt động nhằm giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh như các cuộc thi sân khấu hóa

của tổ chức Đoàn thanh niên và Hội SV.

- Nhiều GV các môn LLCT đã chú ý khai thác triệt để và lồng ghép các

nội dung, cung cấp thông tin, tri thức, hình ảnh, câu chuyện liên quan đến

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV ở mỗi bài, mỗi chương làm cho việc giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh mang tính liên tục và hệ thống theo cả chương trình môn

124

học mà họ đảm nhiệm. Trong quá trình giảng dạy, GV đã có ý thức sử dụng

và phát huy cao nhất những thế mạnh của phương pháp thuyết trình, đồng thời

kết hợp nhuần nhuyễn với các phương pháp dạy học khác như đàm thoại, nêu

vấn đề, thảo luận nhóm với mục đích là khơi dậy và phát huy sự tích cực, chủ

động, sáng tạo của SV trong quá trình tìm kiếm và làm chủ tri thức khoa học.

GV là người tổ chức, hướng dẫn, gợi mở các hoạt động nhận thức của SV.

Không chỉ nâng cao hiệu quả giảng dạy các môn LLCT nhằm cung cấp thông

tin, tri thức về TGĐĐ Hồ Chí Minh mà GV còn chú trọng bồi dưỡng được

tình cảm, niềm tin, hình thành ở SV nhu cầu hành động theo tri thức đã học.

Bên cạnh đó, GV còn khai thác các mẩu chuyện về Hồ Chí Minh, cho SV

xem phim tư liệu, hình ảnh về Hồ Chí Minh,… nhằm liên hệ lý luận với thực

tiễn, củng cố tri thức, thông tin được GV cung cấp trên lớp.

- Giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh đã được thực hiện một cách hiệu quả

thông qua các phong trào của tổ chức Đoàn, Hội được tổ chức khoa học, với

phương pháp phù hợp. Đoàn thanh niên, Hội SV luôn trăn trở để đa dạng hóa

các hoạt động, các phong trào, nhờ vậy, đã lôi cuốn SV tham gia, khơi dậy và

khuyến khích khát khao cống hiến của họ. Đồng thời, khi tổ chức các hoạt động

xã hội tình nguyện, từ thiện, nhân đạo vì cộng đồng, Đoàn thanh niên và Hội SV

đã lồng ghép, mềm hóa, đa dạng hóa cách thức thể hiện các nội dung giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh.

- Để giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV đạt được những mục tiêu đề

ra thì gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục chính có vai trò,

vị trí quan trọng, do vậy, không thể xem nhẹ, buông lỏng bất cứ lực lượng, yếu

tố nào, hơn thế, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã

hội. Sự phối hợp chặt chẽ đó làm cho giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV

mang tính đồng bộ, thống nhất về tư tưởng, nội dung và cách thức thực hiện.

Trong thời gian vừa qua, các trường ĐH ở Tây Nguyên đã có những cố gắng

125

để liên hệ chặt chẽ với gia đình của SV và địa phương nhằm quản lý tốt SV

của mình. Một số trường đã đổi mới phương thức quản lý SV một cách khoa

học, nhờ vậy, gia đình cũng dễ dàng nắm bắt được tình hình con em của

mình. Nhà trường tăng cường nắm bắt và quản lý SV ở nội trú (ký túc xá) và

ngoại trú (ở trọ bên ngoài), đồng thời tăng cường phối hợp với công an, tổ dân

phố, chủ nhà trọ của SV.

- Phần lớn SV đã phát huy được sự tích cực, chủ động trong học tập và

rèn luyện theo TGĐĐ Hồ Chí Minh. Điều này được thể hiện ở chỗ họ đã nhận

thức sự cần thiết và có nhu cầu tu dưỡng theo TGĐĐ Hồ Chí Minh. Không

chỉ dừng lại ở sự nhận thức, ở nhu cầu mà những SV này còn thực sự là chủ

thể tự giác, tích cực trong thực hành các chuẩn mực đạo đức từ tấm gương Hồ

Chí Minh.

3.2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế

- Ở một số trường, nhất là các trường ĐH ngoài công lập, Đảng ủy, Ban

Giám hiệu chưa nhận thức sâu sắc về vai trò của TGĐĐ Hồ Chí Minh và tầm

quan trọng của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV, có biểu hiện coi trọng

chuyên môn, xem nhẹ giáo dục đạo đức, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh. Đầu tư

cho giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh ở một số trường nhìn chung còn hạn chế

chưa tương xứng. Chưa đầu tư đúng mức cho xây dựng và phát triển đội ngũ

GV giảng dạy các môn LLCT. Nhất là với Trường ĐH Buôn Ma Thuột vì mới

được thành lập (2014), số lượng GV cơ hữu giảng dạy các môn LLCT còn ít,

trong các năm học qua, Trường đã phải mời khá nhiều GV giảng dạy các môn

học này từ các cơ sở giáo dục khác. Chưa có sự đầu tư thích đáng cho hoạt

động giảng dạy các môn LLCT khi tổ chức lớp học với số lượng SV quá đông

hoặc ghép nhiều lớp vào một (lớp học lên đến hơn 100 SV của nhiều ngành

khác nhau), nhằm tiết kiệm chi phí đào tạo, trang bị cơ sở vật chất phục vụ cho

đổi mới phương pháp dạy học ở một số trường còn hạn chế dẫn đến tình trạng

126

thiếu tài liệu tham khảo cho SV, thiếu trang thiết bị dạy học như máy chiếu, hệ

thống âm thanh, không cấp kinh phí cho SV đi thực tế ở các địa chỉ đỏ,..Đảng

ủy, Ban Giám hiệu đã chỉ đạo thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục chưa

được lâu dài, đảm bảo tính khoa học, toàn diện, hệ thống; chưa bám sát với

đặc điểm của SV mỗi trường nói chung, đặc thù SV mỗi ngành nói riêng,

chưa gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính của các trường.

- Hiện nay, trong chương trình đào tạo chưa có một môn khoa học độc lập về

TGĐĐ Hồ Chí Minh, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV được GV thực hiện

bằng cách tích hợp, lồng ghép trong giảng dạy các môn LLCT, vì vậy, chưa có cơ

chế giám sát, kiểm tra hiệu quả công tác này. Mức độ lồng ghép giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho SV là rất khác nhau và phụ thuộc vào nhận thức của mỗi GV

trong khi giảng dạy môn học của mình. Hơn nữa, với thời lượng có hạn, nhiều nội

dung của môn học mà GV đảm nhiệm cần triển khai đầy đủ nên đã hạn chế GV tích

hợp giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV. Thực tế cho thấy, vẫn còn một số GV

chưa thực hiện việc thiết kế giáo án lồng ghép các nội dung về TGĐĐ Hồ Chí Minh

cần giáo dục cho SV một cách chi tiết, cụ thể. Do eo hẹp về thời gian, chương

trình và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường dẫn đến việc GV rất hạn chế cho

SV xem phim tư liệu, xem hình ảnh và khai thác các mẩu chuyện về TGĐĐ Hồ

Chí Minh. Việc kiểm tra đánh giá thông qua bài thi kết thúc học phần bằng hình

thức tự luận làm cho việc học các môn LLCT mang nặng tính thi cử, trả nợ môn.

GV chưa hướng dẫn SV cụ thể hóa các nội dung của TGĐĐ Hồ Chí Minh phù

hợp với đặc điểm, điều kiện học tập, sinh hoạt của họ, từ đó đề ra kế hoạch rèn

luyện và nêu cao quyết tâm thực hiện. Điều này làm cho lý luận đạo đức tách rời

với thực tiễn đạo đức, không trở thành hành vi, thói quen của SV. Bên cạnh đó,

vẫn còn tình trạng GV chậm đổi mới phương pháp, không kịp thời nắm bắt

thông tin thực tiễn và ứng dụng thành tựu công nghệ vào bài giảng.

127

- Vẫn còn một bộ phận cán bộ đoàn, hội các trường ĐH ở Tây Nguyên

chưa có năng lực tổ chức các hoạt động đoàn, hội. Các phong trào được tổ chức

mặc dù có sức lan tỏa rộng rãi nhưng còn nặng tuyên truyền có tính áp đặt, gò

ép chưa có tính sáng tạo, thiết thực, đi vào thực chất. Một số phong trào chưa

phù hợp, không đáp ứng khả năng và nguyện vọng của SV. Đồng thời chưa

đảm bảo tính thiết thực, gắn với sở trường, chuyên môn, góp phần làm cho

SV ngày càng học tập và rèn luyện tốt.

- Nhìn chung, gia đình, nhà trường và xã hội, đã chưa phát huy hết vai

trò quan trọng của mình trong giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các

trường ĐH ở Tây Nguyên thời gian qua. Hơn nữa, sự phối hợp trong quản lý

SV và giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng giữa gia đình, nhà trường và địa

phương chưa được thực hiện một cách thường xuyên, chặt chẽ và hiệu quả.

Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến một bộ phận SV các trường ĐH ở Tây

Nguyên có kết quả học tập và rèn luyện thấp, tình trạng nợ môn, bị dừng học,

thôi học đồng thời hạn chế hiệu quả của công tác giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV.

- Một bộ phận SV chưa nhận thức rõ vai trò của giáo dục đạo đức và

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh trong sự phát triển nhân cách của họ. Đồng thời

chưa có sự nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của TGĐĐ Hồ Chí Minh cũng

như sự cần thiết của việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh” trong sự phát triển tài năng, trí tuệ và các phẩm chất của SV. Vì vậy,

bộ phận SV này chưa thực sự tự giác, tích cực trong việc tham gia các hoạt

động mà các chủ thể giáo dục đã thiết kế, tổ chức. Hơn nữa, họ chưa sự quyết

tâm vượt qua những cám dỗ, khó khăn trong học tập và tu dưỡng đạo đức.

Đặc biệt với việc tu dưỡng theo TGĐĐ Hồ Chí Minh, là yêu cầu cao đối với

SV, càng đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực cao hơn bao giờ hết.

128

3.3. Một số vấn đề đặt ra trong giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ

Chí Minh cho sinh viên các trƣờng đại học ở Tây Nguyên hiện nay

Với việc khảo sát và phân tích thực trạng, chúng tôi cho rằng vấn đề đặt

ra trong giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên

hiện nay được thể hiện ở mâu thuẫn giữa yêu cầu về mẫu hình người thanh

niên trí thức phát triển toàn diện trong đó vấn đề căn bản là hình thành các

phẩm chất theo TGĐĐ Hồ Chí Minh với hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh nhìn chung còn hạn chế.

Mâu thuẫn cơ bản này bao trùm và được thể hiện trong các khâu, các yếu

tố của quá trình giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây

Nguyên, trở thành những vấn đề đặt ra cần tháo gỡ trong thời gian tới, đó là:

- Cần làm cho Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường ĐH ở Tây Nguyên,

nhất là các trường ĐH ngoài công lập, nhận thức sâu sắc về vai trò của TGĐĐ

Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV.

Cần phải nhận thức sâu sắc rằng giáo dục đạo đức, trong đó có giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV là đầu tư để có nguồn lực lao động với trình độ

chuyên môn, kỹ thuật cao, có định hướng sống đúng đắn, có lòng yêu nước,

có ý thức thực hiện các nghĩa vụ của thanh niên với gia đình, cộng đồng. Đặc

biệt, khi xã hội có sự xung đột, rối loạn về chuẩn mực đạo đức như hiện nay,

SV nói riêng và thế hệ trẻ nói chung đang đứng trước khó khăn trong sự lựa

chọn cái đúng – cái sai, thiện – ác, đạo đức – phi đạo đức,… Từ sự nhận thức

đó mới dành sự quan tâm, đầu tư về vật chất và tinh thần nhiều hơn nữa cho

công tác này như: Xây dựng và phát triển đội ngũ GV giảng dạy các môn

LLCT, tổ chức một cách có chất lượng các lớp học các môn LLCT, chú trọng

các hoạt động chuyên môn tọa đàm, hội thảo, các hội thi xoay quanh chủ đề

về TGĐĐ Hồ Chí Minh,… Đồng thời, chỉ đạo thực hiện việc tuyên truyền,

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh một cách lâu dài, khoa học, toàn diện và hệ

thống, đảm bảo bám sát với đặc điểm của SV ở mỗi trường, mỗi ngành đào

129

tạo. Quá trình thực hiện, cán bộ, GV các trường ĐH ở Tây Nguyên cần “nói

đi đôi với làm”, nêu cao tính gương mẫu trong việc “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Mnh”

- Cần nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV thông qua

hoạt động giảng dạy các môn LLCT. Trong đó, đội ngũ GV cần khai thác một

cách triệt để, hợp lý các nội dung về TGĐĐ Hồ Chí Minh trong quá trình giảng

dạy các môn LLCT, nhất là trong điều kiện chưa có một môn khoa học độc lập

về TGĐĐ Hồ Chí Minh và thời gian có hạn với rất nhiều nội dung của các môn

LLCT cần triển khai. Để giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV một cách hiệu

quả, ngoài việc khai thác hợp lý, lựa chọn nội dung thì GV còn cần chú ý đến

cách thức, phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập của SV theo

hướng phát huy tính tích cực, chủ động, khơi dậy nhu cầu tự học, tự rèn luyện

của SV theo tri thức đã được học về TGĐĐ Hồ Chí Minh. GV cũng cần nhận

thức sâu sắc rằng, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh trong giảng dạy các môn LLCT

không chỉ là cung cấp cho SV những tri thức lý luận về nội dung và vai trò của

TGĐĐ Hồ Chí Minh mà còn phải chú trọng bồi dưỡng tình cảm, hình thành

niềm tin để họ hình thành và củng cố hành vi theo TGĐĐ của Người.

- Cần nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV

thông qua các phong trào của tổ chức Đoàn thanh niên và Hội SV. Các phong

trào hành động chính là môi trường thực tiễn để đoàn viên SV thực hành tri

thức đạo đức, cần được nghiên cứu và tổ chức một cách khoa học, với phương

pháp phù hợp. Các phong trào, hoạt động cần được tổ chức một cách đa dạng,

có sức hấp dẫn, có thể đo lường, đánh giá được, quan trọng nhất là phải đi vào

chiều sâu, có hiệu quả bền vững. Cùng với việc coi trọng khâu tổ chức là chú

trọng công tác kiểm tra, tổng kết, tuyên dương, nhân rộng các điển hình sau

mỗi hoạt động, phong trào.

- Cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa gia đình, nhà trường và xã

hội, với tư cách là ba lực lượng chính, trong giáo dục nói chung, giáo dục đạo

130

đức nói riêng, trong đó có giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV để công tác

này mang tính đồng bộ, thống nhất về tư tưởng, nội dung và cách thức thực

hiện. Trong đó, gia đình và nhà trường phải liên hệ thường xuyên với nhau để

các gia đình có thể nắm bắt được diễn biến về học tập và rèn luyện nói chung

của con em mình, hiểu được những yêu cầu của nhà trường về nội dung và

hình thức trong giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh nói riêng, để có thể động viên,

khuyến khích con em mình kịp thời. Nhà trường cũng cần giữ mối liên hệ mật

thiết với chính quyền địa phương để nắm bắt những SV của mình khi có biểu

hiện tiêu cực trong sinh hoạt, lối sống để có biện pháp giúp đỡ họ.

- Vấn đề có tính quyết định đó là các chủ thể giáo dục cần phải phát

huy được tính tích cực, chủ động của SV trong học tập và rèn luyện theo

TGĐĐ Hồ Chí Minh, bởi có như vậy, mới phát huy đầy đủ hiệu quả của các

hoạt động, phương thức giáo dục được tổ chức bởi các chủ thể giáo dục. Hơn

nữa, xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, phát triển là quá

trình tự thân, kết quả của sự tích lũy bền bỉ, dần dần về lượng để đạt được

chất mới, là kết quả của sự đấu tranh và giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu,

xu hướng tự giác tu dưỡng theo TGĐĐ Hồ Chí Minh với sự hình thành một

cách tự phát các yếu tố của chủ nghĩa cá nhân ở SV. Đó cũng là quá trình liên

tục phủ định của phủ định để tự mỗi cá nhân SV chắt lọc điều thiện, điều tốt

loại bỏ điều ác, điều xấu, để ngày càng tốt đẹp, hoàn thiện hơn.

131

Tiểu kết chƣơng 3

Nghiên cứu đặc điểm của SV – đối tượng của quá trình giáo dục đạo

đức nói chung, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh nói riêng – là vô cùng quan

trọng. Vừa có những đặc điểm chung của SV trên cả nước, SV các trường ĐH

ở Tây Nguyên còn có những nét đặc thù, SV đa dân tộc, chủ yếu sinh sống ở

vùng nông thôn và miền núi. Bên cạnh đó, việc chỉ ra các nhân tố tác động

theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh

cho SV cũng vô cùng quan trọng bởi các chủ thể giáo dục cần biết khai thác

các ưu điểm và khắc phục hạn chế của những nhân tố này phục vụ cho công

tác của mình. Trong thời gian qua, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SVcác

trường ĐH ở Tây Nguyên được diễn ra cùng với thực hiện Chỉ thị 03 –

CT/TW, Chỉ thị 05 – CT/TW đã thu được nhiều kết quả, đó là ngày càng nâng

cao nhận thức của chủ thể giáo dục và SV về công tác này. Bên cạnh đó, các

chủ thể giáo dục cũng tích cực để đổi mới, nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh cho SV thông qua các phương thức giáo dục cơ bản, đồng thời

có ý thức gương mẫu trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh”, qua đó, đã góp phần tạo ra những chuyển biến trong hành vi, ứng xử,

lối sống của một bộ phận lớn SV các trường ĐH ở Tây Nguyên.

Tuy vậy, để công tác này đi vào thực chất, bền vững đòi hỏi các chủ thể

giáo dục phải nhận diện, đánh giá những tác động của các nhân tố khách

quan, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong giáo dục TGĐĐ Hồ

Chí Minh cho SV trong thời gian qua. Đồng thời xác định được mâu thuẫn cơ

bản và những vấn đề đặt ra cần được tháo gỡ, giải quyết để nâng cao hiệu quả

của công tác giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây

Nguyên trong thời gian tới.

132

CHƢƠNG 4

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC

TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN CÁC

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

4.1. Nâng cao nhận thức của Đảng ủy, Ban giám hiệu và trách

nhiệm nêu gƣơng của các chủ thể giáo dục

4.1.1. Nâng cao nhận thức của Đảng ủy, Ban giám hiệu

Tên tuổi, sự nghiệp của Hồ Chí Minh không tách rời với cách mạng

Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và định hướng phát triển đất

nước ngày nay. TGĐĐ Hồ Chí Minh đã được bao thế hệ người Việt Nam luôn

coi là chuẩn mực, giá trị đạo đức cao đẹp phải không ngừng tu dưỡng, vươn

tới. Trong giai đoạn hiện nay, TGĐĐ của Người còn là vũ khí quan trọng đẩy

lùi suy yếu và sút kém về đạo đức và là bằng chứng chân thực, sống động

nhất để đập tan những quan điểm bịa đặt của các lực lượng phản động hòng

chống phá cách mạng Việt Nam. Với SV, Hồ Chí Minh vẫn sẽ là hình mẫu

nhân cách cần vươn tới để trở thành những thanh niên trí thức, làm chủ nước

nhà. Muốn như vậy, chủ thể giáo dục các trường ĐH ở Tây Nguyên cần nhận

thức đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV,

không dừng lại ở một thời điểm, giai đoạn, mang “tính chất thời vụ” mà là

hoạt động phải được tiến hành thường xuyên, là nhu cầu thường trực của mỗi

cán bộ, GV và SV. Không chỉ góp phần giáo dục đạo đức của SV mà trong

quá trình đó, đạo đức của bản thân nhà giáo dục cũng không ngừng được nâng

lên. Thước đo cho hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV là thực

hiện tốt hơn các nhiệm vụ cơ bản của mỗi bộ phận trong trường và của toàn

trường, nên công việc này không chỉ cải thiện văn hóa đạo đức còn góp phần

làm cho mỗi nhà trường ngày càng trở nên vững mạnh, hoàn thành trọng trách

mà Đảng, nhà nước và xã hội giao phó.

133

Từ nhận thức tầm quan trọng, vai trò giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho

SV Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường ĐH ở Tây Nguyên sẽ chú ý đầu tư

cho công tác này hơn nữa trong thời gian tới.

Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường cần đưa giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV đi vào chiều sâu gắn với tình hình thực tế của nhà trường, gắn

với nhiệm vụ chuyên môn của mỗi đơn vị trong các Trường. Phải đưa việc

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vào sinh hoạt chi bộ

thường kỳ, là căn cứ đánh giá sự rèn luyện của mỗi GV là đảng viên hằng

năm và gắn với thực hiện Quy định “về những điều đảng viên không được

làm”. Khi thực hiện tránh chung chung, mang tính hình thức, khẩu hiệu, trước

hết, phải được cụ thể hóa bằng việc giải quyết các vấn đề nổi cộm của nhà

trường và mỗi đơn vị, cụ thể đó là khắc phục tình trạng SV nợ môn, học lại, vi

phạm nội quy, quy chế, vi phạm pháp luật, khuyến khích SV tích cực học tập,

nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động vì cộng đồng,...

Sự chuẩn bị càng kỹ lưỡng, chu đáo thì hiệu quả hoạt động của con

người càng cao. Với công tác giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các chủ

thể cần phải vạch ra kế hoạch, chương trình, nguồn lực và mục tiêu đạt được

cho cả giai đoạn, từng năm học, từng học kỳ. Kế hoạch đó phải có tính khoa

học, bám sát với tình hình thực tế của mỗi nhà trường, địa phương và nhất là

khả năng, nhu cầu của SV.

Cần có chủ trương và chỉ đạo việc đưa các nội dung giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh vào chấm điểm rèn luyện cho SV và chấm điểm rèn luyện của

đoàn viên SV. Trong quá trình thực hiện, Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường

phải chú trọng việc kiểm tra thực hiện, chú trọng sơ kết, tổng kết, đánh giá

các chương trình hành động tránh tình trạng khoán trắng cho các đơn vị chức

năng. Kịp thời tổ chức tuyên dương những cá nhân, tập thể điển hình trong

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; đồng thời, chủ động

phòng ngừa, phát hiện và có các giải pháp kịp thời giúp đỡ các SV có những

dấu hiệu không đúng đắn, chuẩn mực.

134

Trong điều kiện cho phép, các trường cần chủ động tổ chức các buổi

hội thảo, tọa đàm xoay quanh để làm rõ hơn về TGĐĐ Hồ Chí Minh với sự có

mặt của các nhà nghiên cứu hàng đầu về Hồ Chí Minh, những nhân chứng

lịch sử. Đảng ủy, Ban Giám hiệu cần có sự đầu tư về vật chất cho các hoạt

động nhằm giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh như các cuộc thi sân khấu hóa của

tổ chức Đoàn thanh niên và Hội SV. Đặc biệt, cần cấp kinh phí để đưa SV

được tham quan “các địa chỉ đỏ” như Lăng Bác, Bến nhà Rồng, quê Bác…

Đây là hình thức giáo dục trực quan sinh động, hấp dẫn gây cảm xúc và ấn

tượng mạnh mẽ khi SV được tiếp xúc với những gì gắn bó với cuộc đời Hồ

Chí Minh, từ đó, khơi dậy trong họ sự tự hào, kính trọng, biết ơn và là động

lực mạnh mẽ thôi thúc học quyết tâm học và làm theo TGĐĐ của Người.

Đảng ủy, Ban giám hiệu cần giành sự quan tâm đặc biệt cho đội ngũ GV,

vai trò, vị trí và chất lượng giảng dạy các môn LLCT. Chỉ đạo tiếp tục đổi mới

nội dung, chương trình, phương pháp, nâng cao chất lượng đội ngũ GV… triển

khai thực hiện Kết luận số 94- KL/TW ngày 28/3/2014 của Bộ Chính trị “Về

việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc

dân”. Từng bước xóa bỏ tình trạng ở một số trường còn tình trạng ghép lớp với

số lượng lớn SV khi giảng dạy các môn LLCT. Nhà trường cũng cần đầu tư mua

sắm các phương tiện dạy học nhằm phục vụ đổi mới phương pháp dạy học nói

chung và phương pháp dạy học các môn LLCT nói riêng.

Lãnh đạo cấp uỷ, tổ chức đảng và chính quyền cần gần gũi, hiểu và tin SV

hơn nữa. Tăng cường tổ chức gặp gỡ, đối thoại với SV và tham dự các hoạt động

của SV. Qua đó, hiểu được tâm tư, tình cảm, mong muốn chính đáng của các

em, kịp thời giải quyết những vướng mắc và chăm lo lợi ích hợp pháp của SV.

Điều này sẽ tạo được tình cảm yêu quý, gắn bó với bạn bè, thầy cô, trường lớp,

xây dựng và cổ vũ ý thức trách nhiệm của SV đối với Nhà trường. Đồng thời,

phê phán và có giải pháp cụ thể khắc phục những suy nghĩ và hành vi sai lệch,

tình trạng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” ở một số SV. Lãnh đạo các

135

cấp ủy đảng và chính quyền ở các trường phải xác định trách nhiệm của mình

trong giáo dục chính trị, tư tưởng cho SV của mình, chủ động thông tin cho SV

về những diễn biến chính của đời sống xã hội ở địa phương, trong nước và thế

giới. Bên cạnh đó, phải lan tỏa, khơi dậy những giá trị tốt đẹp ở SV bằng cách

chỉ đạo các bộ phận chuyên trách tăng cường tuyên truyền những tấm gương

“người tốt, việc tốt”, những SV, công dân tiêu biểu trong rèn luyện theo TGĐĐ

Hồ Chí Minh. Có như vậy, SV sẽ nâng cao nhận thức, tăng “sức đề kháng” để

miễn nhiễm và đấu tranh bác bỏ các thông tin bịa đặt và làm thất bại âm mưu

của các lực lượng chống đối cách mạng.

4.1.2. Nâng cao trách nhiệm nêu gương của các chủ thể giáo dục

Trong giáo dục đạo đức, nêu gương là một phương pháp giúp cho các

chủ thể giáo dục đạt được mục đích của mình. Đó là cách mà các chủ thể giáo

dục tác động lên tình cảm, nhận thức của đối tượng được giáo dục bằng

những hình mẫu đạo đức là những con người cụ thể, có thực, qua đó hình

thành nhu cầu nâng cao nhận thức, hiểu biết và làm theo những hình mẫu đó.

Để giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV mang lại hiệu quả thực sự và

bền vững, một yêu cầu có tính nguyên tắc là các chủ thể giáo dục cần trở

thành những hình mẫu đạo đức, thể hiện rõ trách nhiệm nêu gương. Vì vậy,

các trường ĐH ở Tây Nguyên đã và sẽ tiếp tục thực hiện theo Quy định số

101 - QĐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư “về trách nhiệm nêu gương của

cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, làm cho cán

bộ, GV là đảng viên phát huy trách nhiệm của mình trong gương mẫu thực

hiện các quy định của nhà trường, trong công tác và lối sống hàng ngày.

Tính gương mẫu của chủ thể giáo dục vừa là bài học sinh động, dễ hiểu

đã cụ thể hóa các nội dung cần thực hiện, đồng thời tạo niềm tin, động lực

thúc đẩy để SV “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Nêu

gương gắn với các hoạt động của chủ thể giáo dục đem lại tác động to lớn đến

SV là thúc đẩy sự noi gương, học tập và làm theo, làm cho họ trở nên tốt hơn

thể hiện ở kết quả học tập, rèn luyện, ở hành vi, lối sống. Điều này được diễn

136

ra một cách thực chất chứ không hình thức, thường xuyên, bền bỉ như một

nhu cầu văn hóa chứ không phải nhất thời, thiết thực, hiệu quả không sáo

rỗng, khoa trương. Nêu gương ở chủ thể giáo dục cần đạt đến là sự tự nguyện,

tự giác xuất phát từ nhu cầu tự thân trong lẽ sống, lối sống hằng ngày, tự mình

nêu gương để làm gương cho người khác, cho SV noi theo, làm theo. Khi biết

nêu gương, chủ thể giáo dục chính là những con người luôn có mong muốn

trở nên tốt đẹp, hướng đến những điều tử tế, hướng đến cái thiện. Để trở thành

TGĐĐ mẫu mực, bản thân nhà giáo dục cũng phải thực hiện tự tu dưỡng một

cách nghiêm khắc, kiên trì và tự hoàn thiện bản thân theo hệ giá trị chuẩn mực

chân – thiện – mỹ như C.Mác từng nói “bản thân nhà giáo dục cũng cần phải

được giáo dục” [78, tr.375].

Sự nêu gương của chủ thể giáo dục phải được thể hiện một cách nhất

quán từ lý tưởng, nhận thức, tình cảm đến hành vi cụ thể, từ trong công tác lẫn

cuộc sống hằng ngày. Trước hết, họ là những người có lý tưởng sống cao đẹp

là giúp ích cho đời, cho đất nước. Tiếp đó, họ là tấm gương phấn đấu không

ngừng trong công tác, giảng dạy nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, sử

dụng ngoại ngữ, nâng cao nghiệp vụ sư phạm, hiểu biết về các vấn đề cơ bản

của đời sống xã hội. Chủ thể giáo dục cũng phải nghiêm khắc tự rèn luyện bản

thân từ việc giữ tác phong sư phạm, chú trọng từ ăn mặc đến ngôn ngữ, cử chỉ

phải mang tính mô phạm, chuẩn mực. Họ phải là những người tâm huyết, tận

tụy với nghề, yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ SV, có tinh thần đoàn kết với đồng

nghiệp, luôn quan tâm, chia sẻ khó khăn trong công việc và cuộc sống với

nhau. Hồ Chí Minh từng dạy“Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với

nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có

nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được” [93, tr.668].

Chủ thể giáo dục cũng phải nêu gương tôn trọng, tuân thủ pháp luật,

nội quy, quy chế của nhà trường, của ngành Giáo dục. Đồng thời là những

con người bao dung, độ lượng, khiêm tốn, giản dị, thực hành tiết kiệm. Có

137

thái độ ứng xử với mọi người, nhất là với SV, hòa nhã, thân thiện. Trong quá

trình giảng dạy, nhất là ở khâu đánh giá SV, thể hiện sự khách quan, công

bằng, đúng với năng lực, cố gắng của SV, kiên quyết không để cho bất cứ

hình thức tiêu cực nào diễn ra trong học tập, thi cử: quay bài, chạy điểm, nâng

điểm một cách không chính đáng. Có tinh thần cầu thị, thể hiện sự nghiêm

túc, tự giác trong tự phê bình và phê bình, sẵn sàng nhận khuyết điểm, thiếu

sót của mình trước tập thể SV. Chống tham nhũng, lãng phí, các hành vi trái

pháp luật, biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân vị kỷ,...

Trong quá trình giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở

Tây Nguyên, vai trò nêu gương của các chủ thể giáo dục được thể hiện một

cách rõ nét khi mà cấp ủy, cán bộ, đảng viên, đội ngũ cán bộ chủ chốt, những

người đứng đầu từ trong Ban giám hiệu đến các khoa luôn phát huy tinh thần

thẳng thắn, khách quan tự nhận rõ hạn chế, thiếu sót và đã kịp thời vạch ra các

giải pháp khắc phục trong công tác của bản thân. Đồng thời, phát huy tính tiên

phong, gương mẫu, tự giác phấn đấu và rèn luyện, kiên định về chính trị, đấu

tranh với các biểu hiện suy yếu về chính trị, tư tưởng, chống lại “tự diễn

biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Cùng với việc nêu gương, các chủ thể giáo dục còn phải phát hiện

những TGĐĐ trước hết là những cá nhân, tập thể điển hình ngay trong lớp,

trong trường, để SV có thể học tập và noi theo, Hồ Chí Minh từng nói: “Lấy

gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những

cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng

con người mới, cuộc sống mới” [93, tr.672]. Trong đời sống xã hội, nhất là

trong những giai đoạn như hiện nay khi mà những chuyển biến mạnh mẽ, liên

tục trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra, đời sống đạo đức và

các chuẩn mực đạo đức vốn đã trừu tượng thì cũng không ngừng biến đổi theo

và trở nên hỗn độn, phức tạp. Trong hoàn cảnh như vậy, việc chỉ ra được một

138

hình mẫu, TGĐĐ sẽ cụ thể hóa và làm rõ các chuẩn mực đạo đức, do vậy, sẽ

có tác dụng lớn lao trong giáo dục đạo đức. Do vậy, chủ thể giáo dục cần chú

ý phát hiện, tuyên dương những TGĐĐ một cách kịp thời, chính xác, đúng sự

thật. Tấm gương đó là những SV học tốt, chấp hành tốt quy chế nhà trường,

gương mẫu trong cuộc sống, có lối sống, đạo đức trong sáng. Những tập thể

điển hình là tập thể lớp, tập thể chi đoàn, đoàn khoa, các câu lạc bộ ở mỗi

trường. Không chỉ dừng lại nêu những tấm gương trong nhà trường mà còn

phải nêu gương “người tốt, việc tốt” ngoài xã hội, đặc biệt, những thanh niên

tiên tiến là những người gần gũi nhất với SV. Để cho việc nêu gương được

hiệu quả đòi hỏi nhà trường phải thường xuyên có nhiều hình thức tổ chức

khen thưởng, biểu dương để khích lệ, động viên những tập thể, cá nhân đã có

những nỗ lực để có kết quả vượt trội trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu

khoa học, làm việc tốt,… và nhân rộng những cá nhân, tập thể tiêu biểu đó,

đồng thời, có hình thức xử lý kỉ luật với những SV, GV và những tập thể chưa

hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm nội quy, vi phạm pháp luật.

4.2. Nâng cao hiệu quả giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh

thông qua hoạt động giảng dạy các môn lý luận chính trị

4.2.1. Khai thác triệt để, hợp lý các nội dung về tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh trong giảng dạy các môn lý luận chính trị

Từ năm học 2020 – 2021, các môn LLCT bao gồm 5 môn khoa học tương

đối độc lập: Triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị Mác – Lênin, CNXH khoa

học, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó,

căn cứ vào nội dung và mục tiêu của mỗi môn học mà GV có thể lồng ghép các

nội dung về TGĐĐ Hồ Chí Minh với mức độ khác nhau. GV cần lưu ý khai

thác, lồng ghép các nội dung về TGĐĐ Hồ Chí Minh sao cho phù hợp, theo

một lôgic nhất định tránh tùy tiện hoặc lạm dụng quá nhiều khiến cho SV khó

nắm bắt được nội dung chính đồng thời xa rời mục tiêu môn học.

139

Vai trò cơ bản của các môn này được xác định là: thứ nhất, cung cấp hệ

thống tri thức, lý luận khoa học và quan điểm, chủ trương, đường lối cách mạng

của Đảng để phát triển thế giới quan, phương pháp luận khoa học và mục tiêu, lý

tưởng cho SV; thứ hai, giúp cho người học có công cụ tư duy khoa học để nhận

thức, nắm bắt được quy luật vận động khách quan của cách mạng Việt Nam; quan

điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm phát triển các mặt của

đời sống xã hội, từ những hiểu biết đúng đắn sẽ có hành động thực tiễn đúng đắn,

hiệu quả, hạn chế và tránh vấp váp, sai lầm, mù quáng và thất bại; thứ ba, hình

thành và củng cố tình cảm, niềm tin, lý tưởng sống cao đẹp, tiếp nhận các yêu cầu,

chuẩn mực đạo đức truyền thống và cách mạng đậm tính nhân văn, nhân đạo.

Trong các môn LLCT, Triết học Mác – Lênin đóng một vai trò vô cùng

quan trọng trong việc giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV. Trước hết, môn

học góp phần xác lập vững chắc ở SV thế giới quan, nhân sinh quan của giai

cấp vô sản, là điều kiện tiên quyết để SV tiếp nhận những tri thức về TGĐĐ Hồ

Chí Minh, hiểu được bản chất, đặc trưng của TGĐĐ Hồ Chí Minh mà thực chất

là đạo đức cộng sản chủ nghĩa, qua đó làm cơ sở cho việc thực hành đạo đức

của SV. Hơn nữa, với quan điểm duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lênin,

còn giúp SV có nhận thức khoa học khi xem xét, đánh giá về đạo đức: Một là,

bên cạnh sự tồn tại của các giá trị đạo đức có ý nghĩa phổ biến toàn nhân loại,

các chuẩn mực đạo đức phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của con

người, do vậy, chúng sẽ biến đổi khi những điều kiện này biến đổi; Hai là, cùng

với sự tác động của những điều kiện sinh hoạt vật chất đối với các chuẩn mực

đạo đức, giữa đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác như: chính trị, pháp

quyền, tôn giáo, triết học, khoa học và nghệ thuật cũng tác động qua lại lẫn

nhau; Ba là, vì các chuẩn mực đạo đức phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật

chất của con người, cho nên các giai cấp khác nhau sẽ có những nền đạo đức

khác nhau; Bốn là, tư hữu và bóc lột là những phạm trù lịch sử, sẽ bị xóa bỏ,

những quan hệ đạo đức tư sản được xây dựng trên cơ sở đó nhất định sẽ bị tiêu

140

diệt và sự thắng lợi của đạo đức cộng sản chủ nghĩa là tất yếu lịch sử; Năm là,

những giá trị đạo đức nhân loại phổ biến sẽ được khẳng định và phát triển với

thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.

Về môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung gồm 6 chương, mỗi

chương với một chủ đề khác nhau, tạo thành một hệ thống logic chặt chẽ, tiếp

cận theo hướng nghiên cứu hệ thống quan điểm, lý luận của Hồ Chí Minh về lựa

chọn con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam. Đồng thời xác

định những vấn đề cơ bản như giai cấp lãnh đạo, lực lượng, mục tiêu và động lực

của cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nhất là tư tưởng về

đạo đức gắn bó mật thiết với TGĐĐ Hồ Chí Minh. Thông qua TGĐĐ Hồ Chí

Minh, góp phần chuyển hóa tư tưởng của Người thành thực tiễn sinh động của

cách mạng Việt Nam. Vì vậy, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh là ưu thế riêng của

giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh mà đội ngũ GV cần phát huy.

Về môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, với nội dung là hệ thống kiến

thức cơ bản về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, về những thành tựu vĩ

đại của cách mạng và dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh là

người đã dành hết tâm huyết và công sức để sáng lập, rèn luyện Đảng. Dấu ấn

của Hồ Chí Minh đối với Đảng về tư tưởng, phong cách rất đậm nét. Đặc biệt,

Người nêu cao tấm gương của một người cộng sản về tu dưỡng đạo đức “cần,

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, gắn bó mật thiết với nhân dân, hi sinh trọn

vẹn hạnh phúc cá nhân cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người kiên quyết

đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù bên trong, là những “tế bào ác

tính” xâm nhập vào cơ thể Đảng, đồng thời chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên

tu dưỡng các chuẩn mực đạo đức cách mạng. Trước khi về thế giới bên kia, Hồ

Chí Minh vẫn nhấn mạnh và dặn dò cán bộ, đảng viên “phải thật sự thấm

nhuần đạo đức cách mạng”, bởi Người hiểu rất rõ vai trò, sức mạnh của đạo

đức, nhờ có đạo đức Đảng khẳng định uy tín của mình với nhân dân. Xuất phát

từ mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với Đảng Cộng sản Việt Nam, người đã dày

141

công sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quá trình giảng dạy

môn Lịch sử Đảng, GV hoàn toàn có thể lồng ghép các nội dung về TGĐĐ Hồ

Chí Minh trong toàn bộ chương trình (trừ chương Nhập môn).

Đối với môn CNXH khoa học, căn cứ vào nội dung và mục tiêu của

môn học, trong quá trình giảng dạy GV có thể lồng ghép nhằm giáo dục

TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV. Hồ Chí Minh là tấm gương đã hi sinh trọn vẹn

cuộc đời để đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng không ngừng ở Việt Nam,

trong đó dân tộc độc lập là cơ sở để xây dựng một xã hội không còn tình trạng

áp bức giai cấp và con người có điều kiện để phát triển, thoàn thiện nhân

cách. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nền độc lập thực sự, vững chắc,

đồng thời, đông đảo người lao động mới được đặt vào trung tâm của sự phát

triển xã hội. Điều cốt lõi về cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh là tình yêu

thương bao la dành cho đồng bào, cho những người lao động bị áp bức, bóc

lột trên thế giới và được thể hiện bằng những hành động thiết thực để giải

phóng cho họ, để tạo ra những điều kiện sống xứng đáng với con người. Lý

tưởng, mong muốn đó của Hồ Chí Minh cũng là lý tưởng cao đẹp của những

người sáng lập ra CNXH khoa học.

Hồ Chí Minh cũng đã sớm đặt vấn đề động lực thúc đẩy xã hội phát

triển không chỉ là kinh tế, điều kiện vật chất của xã hội ấy mà là con người

mới, con người XHCN, thấm nhuần đạo đức XHCN. Nhận thức điều đó, Hồ

Chí Minh luôn làm gương và chú ý giáo dục, bồi dưỡng những công dân “có

ý thức làm chủ Nhà nước”, “thấm nhuần sâu sắc tinh thần tập thể XHCN và

tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình”, “chăm lo việc nước như

chăm lo việc nhà”, “biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi

chờ, đùn đẩy công việc”; đồng thời, phải biết “thắng được chủ nghĩa cá nhân,

lợi mình hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác”, bởi

nó là “kẻ địch nguy hiểm của CNXH”. Đó là cách tiếp cận về CNXH từ góc

độ đạo đức hay đạo đức học về CNXH của Hồ Chí Minh.

142

Giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh thông qua hoạt động giảng dạy các môn

LLCT giúp cho SV có những tri thức lý luận về nội dung và vai trò của

TGĐĐ Hồ Chí Minh đối với cách mạng, với dân tộc Việt Nam không chỉ

trong quá khứ mà còn đóng vai trò vô cùng quan trọng ở hiện tại và tương lai.

Nếu xem nhẹ việc trang bị tri thức lý luận về TGĐĐ Hồ Chí Minh sẽ không

phát huy được vai trò chủ thể của SV trong giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Đồng thời còn dẫn đến tình trạng mò mẫm, tự phát hoặc áp dụng một cách

máy móc, rập khuôn của SV đối với hành vi đạo đức, ứng xử của Hồ Chí

Minh. Hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV sẽ không bền vững khi

không được hình thành trên cơ sở làm rõ tính lý luận để hiểu được bản chất, ý

nghĩa của TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Tuy vậy, GV không được dừng lại ở việc chỉ cung cấp thông tin, tri

thức đạo đức. Tri thức đạo đức mới chỉ là cơ sở của sự rèn luyện theo TGĐĐ

Hồ Chí Minh. Từ chỗ có tri thức đạo đức đến thể hiện thành hành vi đạo đức

là cả một quá trình, chỉ khi nào ở SV hình thành rung cảm, xúc động và sự tin

tưởng vào tri thức, khi đó họ mới có nhu cầu, sự tự giác, tích cực thực hiện

hành vi chứa đựng giá trị đạo đức. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của chủ thể

giáo dục là tạo niềm tin đối với tri thức đạo đức cho SV, có như vậy, mới tạo

ra sức mạnh, động lực tinh thần để họ vượt qua trở ngại làm theo TGĐĐ Hồ

Chí Minh. Hành động theo các giá trị đạo đức, đến lượt nó sẽ củng cố tính

đúng đắn những tri thức đạo đức.

Một trong những trở ngại của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh hiện nay là

có sự khác biệt, thậm chí là trái ngược giữa tri thức với thực tiễn đạo đức. Ở

trường, ở lớp, SV được cung cấp thông tin tri thức, được bồi dưỡng tình cảm,

niềm tin và vạch ra những kế hoạch thực hiện theo TGĐĐ Hồ Chí Minh. Tuy

nhiên, cũng ngay ở nhà trường, về gia đình và ra xã hội, SV phải chứng kiến

những hiện tượng thiếu đạo đức, thậm chí đi ngược lại với TGĐĐ Hồ Chí

Minh. Đó là những hành động thỏa mãn lợi ích cá nhân bất chấp điều đó đi

143

ngược lại với lợi ích cộng đồng; là những ứng xử giữa người với người thiếu

tình yêu thương, khoan dung; là hành vi và thái độ đi ngược với chuẩn mực

“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”,…Với những tình huống có vấn đề

này, vai trò của GV là phải chỉ ra cho SV thấy và hơn ai hết bản thân có niềm

tin rằng, cũng như bất cứ lĩnh vực, phương diện, quá trình nào của đời sống

xã hội, đạo đức bao giờ cũng diễn ra phức tạp và đầy mâu thuẫn, trong đó bản

chất – hiện tượng, cái mới – cái cũ, cái đúng – cái sai, cái tốt – cái xấu, cái

thiện – cái ác,… luôn tồn tại bên cạnh nhau, giả định và phủ định lẫn nhau,

tạo ra những vòng khâu liên tục của sự phát triển và tiến bộ của đạo đức.

Trong xu thế chung của sự phát triển và tiến bộ đó, cái mới, cái đúng, cái tốt,

cái thiện, nhất định sẽ thắng thế và khẳng định sự tồn tại của mình. Đó cũng

là quá trình con người dần dần làm chủ các mối quan hệ xã hội theo hướng

nhân văn, nhân đạo, phát triển toàn diện.

Bên cạnh đó, GV cần thay đổi cách nhận xét, đánh giá về SV, không

dừng lại đánh giá sự tiếp thu tri thức bằng bài thi viết mà đánh giá sự rèn

luyện thông qua hành vi đạo đức của SV. GV cần mạnh dạn giao công việc

cho SV, coi trọng thực hành các chuẩn mực đạo đức đã được học vào trong

cuộc sống của họ. Có như vậy kết quả giá trị đạo đức cho SV mới được đánh

giá đầy đủ, đúng đắn nhất. Hồ Chí Minh đã để lại nhiều bài học sâu sắc và quý

giá về giáo dục đạo đức bằng hành động, đưa con người vào tình huống để

người ta suy ngẫm, thức tỉnh, tránh giáo dục bằng lý thuyết suông, không có sức

thuyết phục.

4.2.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị

Phương pháp là cách thức mà con người tiến hành thực hiện theo một

trình tự nhất định để đạt tới mục tiêu của mình trong hoạt động nhận thức và

thực tiễn. “Theo nghĩa triết học chuyên môn, với tính cách là phương tiện

nhận thức, phương pháp là cách thức tái hiện lại đối tượng nghiên cứu trong

tư duy. Việc áp dụng một cách có ý thức những phương pháp đã được luận

144

chứng một cách khoa học là điều kiện quan trọng nhất để nhận được tri thức

mới” [100, tr.458].

Phương pháp dạy học là cách thức tổ chức các hoạt động giảng dạy của

GV và học tập của SV, trong đó, GV là người đóng vai trò tổ chức, điều

khiển, hướng dẫn SV phát huy tính tích cực, tự giác thực hiện các hoạt động

nhận thức, nhằm đạt được nội dung, nhiệm vụ và mục tiêu đã được vạch ra.

Hiện nay, thuyết trình vẫn là một trong những phương pháp được sử

dụng khá phổ biến trong giảng dạy các môn LLCT ở các trường ĐH ở nước

ta. Bởi ưu điểm của nó là GV có thể chủ động cung cấp cho SV một hệ thống

chặt chẽ những kiến thức cơ bản, cốt lõi của môn học, trong khi tiết học bị

khống chế với một lượng thời gian nhất định. Hơn nữa, rất nhiều tri thức của

các môn LLCT với đặc trưng mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa cao,

không thể cụ thể hóa, đơn giản hóa và do vậy, thuyết trình, có thể nói, vẫn là

phương pháp đặc biệt thích hợp trong giảng dạy những nội dung có tính lý

luận cao.

Hạn chế lớn nhất của phương pháp này là tạo thói quen thụ động, cản

trở khả năng chủ động, tính sáng tạo của SV. SV ở tâm thế chờ đợi, lắng nghe

GV giảng bài, không thích đọc tài liệu, nghiên cứu. Vì lắng nghe thụ động

trong khoảng thời gian nhất định gây ra sự mệt mỏi, ức chế ở SV và lớp học

trở nên nặng nề, mất đi không khí sôi nổi cần phải có. Hơn nữa, nếu nội dung

giảng nghèo nàn, thiếu sức hấp dẫn, giọng giảng của GV không hay, không có

điểm nhấn; còn SV thì lắng nghe với tâm thế không tích cực, chủ động thì

hiệu quả giảng dạy môn học nói chung, hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh sẽ thấp.

Như vậy, với phương pháp thuyết trình có phương tiện cơ bản là lời

nói, do vậy, việc sử dụng ngôn từ phải chặt chẽ, có lôgíc, có sức thuyết phục,

truyền cảm; GV phải có sự kết hợp ăn ý giữa âm điệu, ngữ điệu và với phong

cách đứng lớp, tránh gây ức chế cho SV, tránh áp đặt. Để khắc phục những

145

hạn chế của thuyết trình GV cần chủ động phối hợp, lồng ghép một cách hợp

lý với các phương pháp dạy học đòi hỏi sự tích cực hoạt động của SV như nêu

vấn đề, thảo luận nhóm, vấn đáp... đồng thời, tăng cường sử dụng phương tiện

dạy học hỗ trợ. Vấn đề tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy đã được chỉ

rõ trong Nghị quyết 29 – NQ/TW: “Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo

và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp

đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến

khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng,

phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức

học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa

học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và

học” [12].

Hiện nay, phương pháp vấn đáp và nêu vấn đề đã được nhiều GV sử

dụng bởi tạo ra sự tương tác qua lại giữa GV và SV, đồng thời kích thích và

phát triển khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, tư duy logic của SV. Dưới sự

hướng dẫn của GV, SV được suy nghĩ, khám phá và đi đến lĩnh hội nội dung

bài học thông qua việc đặt ra và trả lời các câu hỏi, các tình huống có vấn đề.

Với việc vận dụng các phương pháp dạy học này, tăng tính tích cực, sự tò mò,

chủ động và hứng thú học tập của SV, đồng thời SV được gợi mở, đi đến

nhận thức điều chưa biết, ngày càng làm chủ kiến thức và củng cố một cách

vững chắc những kiến thức đã tích lũy được trước đó.

Là phương pháp không chỉ cung cấp thông tin, kiến thức một cách hệ

thống cho SV mà còn giúp họ có thể liên hệ những thông tin, kiến thức đó vào

giải quyết những vấn đề lý luận, vấn đề thực tiễn đặt ra, do vậy, seminar cần

được GV vận dụng một cách hiệu quả trong quá trình giảng dạy các môn

LLCT và lồng ghép giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh. Muốn tiến hành seminar

lớp học phải có số lượng không quá đông, để tăng tỉ lệ trao đổi, phát biểu ý

kiến của SV. GV chủ động phổ biến sớm kế hoạch thực hiện seminar cho SV

146

để họ không bị động, có thời gian nghiên cứu nội dung. GV giới thiệu tài liệu,

hướng dẫn SV chuẩn bị, tìm kiếm tài liệu, định hướng, gợi ý họ nghiên cứu,

nhất là với những vấn đề khó ở trong chủ đề, những vấn đề theo hướng vận

dụng, sử dụng tri thức lý luận để lý giải các vấn đề của thực tiễn. Việc trao

đổi, tranh luận thông qua hình thức seminar sẽ tạo nên không khí cởi mở, phát

huy tính sáng tạo trong học tập, đồng thời giúp SV mở rộng kiến thức đã học,

thiết lập mối quan hệ giữa kết quả học tập đã đạt được với yêu cầu học tập

tiếp theo, phát triển khả năng tự nghiên cứu của SV. Thông qua hình thức

seminar, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV được thực hiện một cách sôi

nổi, cuốn hút và đem lại hiệu quả nhất định.

Quá trình giảng dạy các môn LLCT, qua đó giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh, GV còn cần biết ứng dụng công nghệ thông tin để khai thác hình ảnh,

tư liệu. Điều đó sẽ giúp cho bài giảng của GV trở nên sinh động, hấp dẫn,

tạo ra hứng thú cho SV trong học tập môn học và nâng cao hiệu quả hoạt

động giáo dục. Ngày nay với việc sử dụng internet, GV không gặp phải

nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài liệu tham khảo đa dạng.

Ứng dụng công nghệ thông tin còn giúp GV lưu trữ nhiều tài liệu, thuận lợi

cho việc biên soạn, soạn bài, thiết kế và thể hiện bài giảng của mình dưới

nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, GV cần lựa chọn và sử dụng những tư

liệu, hình ảnh, thước phim về Hồ Chí Minh sao cho đảm bảo tính khoa học,

tính đảng và tham khảo tài liệu ở những nguồn tin cậy.

Trong quá trình giảng dạy, GV căn cứ vào lứa tuổi, trình độ, tâm lý của

SV để lựa chọn và lồng ghép những câu chuyện về TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Thông qua những mẩu chuyện đó, TGĐĐ Hồ Chí Minh được tái hiện lại một

cách sinh động và khắc sâu đối với SV. GV có thể lấy những câu chuyện này

trong các cuốn sách như “Kể chuyện Bác Hồ”, “Thư ký Bác Hồ kể chuyện”,

“117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”… hoặc có thể hướng

dẫn SV tham khảo trên internet với những nguồn chính thống, tin cậy. GV

147

còn có thể tạo ra cho SV hứng thú, tích cực trong quá trình học tập bằng cách

khuyến khích SV sưu tầm các câu chuyện về TGĐĐ Hồ Chí Minh và biết rút

ra những nội dung có thể vận dụng, những bài học bổ ích cho bản thân.

Bên cạnh đó, nguồn tài liệu về tư tưởng, cuộc đời, TGĐĐ Hồ Chí Minh

hiện nay vô cùng phong phú, đa dạng trong các sách chuyên khảo, luận văn,

luận án, tạp chí chuyên ngành, các bộ phim tài liệu, các phóng sự.... Nguồn tài

liệu tham khảo nói trên là bằng chứng khoa học, khách quan, vừa là nguồn

kiến thức quan trọng, vừa giúp SV củng cố tri thức lý luận ở giáo trình, qua

đó hiểu rõ hơn về TGĐĐ Hồ Chí Minh. GV có thể hướng dẫn SV tự nghiên

cứu các tài liệu tham khảo bằng cách đặt ra các câu hỏi, các vấn đề để họ tự

lực trả lời. Nhờ vậy, SV không chỉ mở rộng, đào sâu tri thức mà còn bồi

dưỡng tư tưởng, tình cảm và thôi thúc họ tu dưỡng và hành động theo TGĐĐ

Hồ Chí Minh.

4.3. Nâng cao hiệu quả giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh

thông qua các phong trào của tổ chức Đoàn, Hội

Để giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV đem lại hiệu quả, các chủ thể

giáo dục không thể dừng lại ở cung cấp tri thức, lý luận, những chuẩn mực

đạo đức. Trong giáo dục đạo đức điều quan trọng nhất là phải tạo ra môi

trường thực tiễn để SV thực hành những tri thức đạo đức được học, qua đó,

hình thành và củng cố nhân cách đạo đức. C.Mác từng nói: “cần phải tổ chức

thế giới kinh nghiệm sao cho con người có được kinh nghiệm ở trong đó và

lĩnh hội được ở đó cái thực sự hợp với tính người, sao cho con người thực

nghiệm ở đó cái phẩm chất con người của mình” [76, tr.102].

Giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV thông qua việc tổ chức học tập,

quán triệt các Nghị quyết của Đảng, của Đoàn; tổ chức các đợt sinh hoạt chính

trị nhân những sự kiện trọng đại của đất nước, tổ chức các lớp học “6 bài học

chính trị dành cho thanh niên” và “Tuần sinh hoạt công dân học sinh sinh viên”

với nội dung phù hợp, hình thức phong phú như thông qua diễn đàn, tọa đàm,

xây dựng các đoạn clip, đối thoại trực tiếp,… để SV dễ hiểu và thực hiện.

148

Tiếp tục triển khai Chỉ thị 05 – CT/TW, Chỉ thị 42 – CT/TW… thông

qua đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tổ chức các

hội thi “Olympic các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, hội

thi “Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phát động các cuộc thi:

“Viết bài tìm hiểu Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, viết về chủ đề “Học

tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào thực chất, có chiều

sâu. Các hoạt động đó sẽ thu hút đông đảo đoàn viên SV hưởng ứng, tham

gia, qua đó, tăng cường giáo dục cho họ về những giá trị tinh thần, truyền

thống tốt đẹp của dân tộc, tự hào và quyết tâm trong “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi SV là ưa thích sáng tạo, cái mới, vì

vậy, các phong trào, hoạt động tập thể cần phải được tổ chức khoa học, với

phương pháp phù hợp. Cần đa dạng hóa và tăng cường sự lôi cuốn của các

hoạt động do Đoàn thanh niên, Hội SV tổ chức để lôi cuốn SV tham gia, khơi

dậy và khuyến khích khát khao cống hiến, tạo cơ hội cho họ chứng tỏ mình là

người hữu ích. Phải nhận thức một cách khách quan rằng hiện tượng “khô

Đoàn” trong SV có căn nguyên là cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh” của một số trường còn chung chung, mang tính

khẩu hiệu, sự khô khan, khuôn cứng, đơn điệu, của các hoạt động Đoàn, Hội.

Do vậy, cần đề ra những chương trình hành động cụ thể, thiết thực, có thể đo

lường và đánh giá được kết quả thực hiện. Đồng thời, khi tổ chức các hoạt

động xã hội tình nguyện, từ thiện, nhân đạo vì cộng đồng, Đoàn thanh niên và

Hội SV cần lồng ghép, mềm hóa, đa dạng hóa cách thức thể hiện các nội dung

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh. Nói về tác động biện chứng của việc tổ chức

các hoạt động, phong trào hay gọi là tạo ra “hoàn cảnh” đối với việc giáo dục

con người, C.Mác viết: “Nếu như con người là do hoàn cảnh tạo nên thì phải

tạo ra những hoàn cảnh hợp tính người” [76, tr.103]. Ưu thế của phương thức

giáo dục thông qua tổ chức các chương trình hành động hơn cách giáo dục

149

mang tính truyền thống, gắn với sách vở, trường lớp là giúp cho SV có thể dễ

dàng tiếp nhận, thẩm thấu và khắc sâu hơn. Vì vậy, trong thời gian tới cần tiếp

tục tổ chức tốt các hoạt động thực tiễn để đoàn viên SV được rèn luyện phấn

đấu và trưởng thành.

Phong trào “SV tình nguyện”, SV tham gia sẽ nhận thức được giá trị

hành động của mình. Họ sẽ ngày càng sống có trách nhiệm với cộng đồng

hơn, từ đó, có ý thức trau dồi kiến thức, kỹ năng thực hành, có sức khỏe, có

khát khao hành động, có khát vọng cống hiến, dựng xây Tổ quốc XHCN. Nội

dung phong trào được cụ thể hóa thành các phong trào tình nguyện như:

“Tình nguyện chung tay xây dựng nông thôn mới”, “Tình nguyện tham gia

xây dựng đô thị văn minh”, “Tình nguyện bảo vệ môi trường”,… Để các

phong trào tình nguyện thực sự có ý nghĩa giáo dục đối với SV, Đoàn thanh

niên các trường cần coi trọng tổ chức các hoạt động diễn ra tại chỗ, tình

nguyện phù hợp với SV, gắn với chuyên ngành học tập của họ cũng như bám

sát yêu cầu của địa phương về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong thời

gian tới, các trường ĐH ở Tây Nguyên cần tiếp tục duy trì các chương trình

đảm bảo yêu cầu cơ bản nêu trên như: “Tiếp sức mùa thi”, các chiến dịch tình

nguyện “Mùa hè xanh”, “Tình nguyện mùa đông”, “Xuân tình nguyện”, hiến

máu nhân đạo.

Phong trào “Đồng hành với SV trong học tập”, nhằm động viên tinh

thần ham học, tự học trong đoàn viên SV. Với chương trình này, trước hết cần

tích cực triển khai, tạo ra môi trường cho SV rèn luyện, phấn đấu để đạt được

danh hiệu “SV 5 tốt” (học tập tốt, đạo đức tốt, thể lực tốt, hội nhập tốt và tình

nguyện tốt) các cấp. Duy trì các quỹ học bổng đã có và tích cực tìm kiếm các

quỹ học bổng nhằm hỗ trợ, khuyến khích về vật chất cho các SV có thành tích

và nỗ lực cao trong học tập. Cổ vũ, hỗ trợ SV trong học tập bằng việc hình

thành các câu lạc bộ, các nhóm học tập của SV có sự hướng dẫn của GV theo

chuyên môn.

150

Phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo” nhằm phát huy những cơ hội cuộc

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, hướng đến việc tạo điều kiện và

thúc đẩy khả năng phát hiện, sáng tạo cái mới trong học tập, nghiên cứu khoa

học của SV. Với khả năng hiện có trong thực hiện phong trào, Đoàn thanh

niên các trường cần tổ chức các sân chơi, cuộc thi sáng tạo trong SV, cuộc thi

mang tính học thuật phù hợp với chuyên ngành. Đoàn thanh niên và Hội SV

cần thành lập các nhóm nghiên cứu với sự hướng dẫn, tư vấn của GV hướng

đến lĩnh vực là lợi thế của khu vực Tây Nguyên, có khả năng ứng dụng và

hiệu quả kinh tế.

Phong trào “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”, cần tích cực tuyên

truyền để SV hiểu được trách nhiệm của bản thân nhằm bảo vệ Tổ quốc trong

tình hình mới, nhất là khu vực có vị trí chiến lược như Tây Nguyên. Đoàn

thanh niên các trường cần giáo dục để đoàn viên SV có khả năng đề kháng và

đấu tranh xóa bỏ những thông tin xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách

của nhà nước nói chung và với vùng Tây Nguyên nói riêng của các lực lượng

phản động. Bên cạnh đó, cần làm cho đoàn viên SV tích cực, đi đầu tham gia

các hoạt động hướng về biên giới, hải đảo. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các

cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”, “Tháng ba biên giới”, “SV với

biển đảo Tổ quốc”, “Tuổi trẻ vì biển, đảo Tổ quốc”. Qua đó, giáo dục tình yêu

và ý thức trách nhiệm với việc giữ gìn hòa bình, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ của đất nước.

Để phát huy vai trò của các hoạt động phong trào trong giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh, Đoàn thanh niên và Hội SV các trường ĐH ở Tây Nguyên cần

làm tốt công tác tổ chức tuyên dương, giao lưu và nhân rộng các tấm gương

đoàn viên SV tiêu biểu nhất trong học tập và làm theo lời Bác. Điều này sẽ

tạo ra động lực tinh thần to lớn cổ vũ mạnh mẽ SV. Bên cạnh đó, cần phát

động sâu rộng trong đoàn viên SV để họ tìm hiểu, sưu tầm về những tấm

gương SV có thành tích nổi bật trong học tập, nghiên cứu khoa học, trong lao

động sản xuất không chỉ ở địa phương mà còn trên cả nước.

151

Tăng cường sử dụng các trang mạng xã hội như facebook, zalo,

instagram, bloogger,… để tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên, nhất là đoàn viên

SV, thu hút họ tham gia một cách đông đảo và thường xuyên các hoạt động của

Đoàn thanh niên tổ chức nhằm tuyên truyền và qua đó góp phần giáo dục TGĐĐ

Hồ Chí Minh. Đồng thời qua đó nắm bắt tình hình diễn biến tư tưởng, kịp thời

uốn nắn, định hướng nhận thức và hành động cho đoàn viên SV.

Muốn trở thành những người được đoàn viên SV tin cậy gửi gắm tâm

tư, tình cảm, mong muốn chính đáng của mình, trở thành người thủ lĩnh của

đoàn viên SV đòi hỏi các cấp bộ Đoàn, Hội các trường phải nâng cao sự rèn

luyện của bản thân. Phải nhiệt tình với phong trào của Đoàn, Hội, bám sát

đoàn cơ sở, gần gũi đoàn viên SV.

4.4. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội

trong giáo dục tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên

Để giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV đạt được những mục tiêu đề

ra thì trọng trách nặng nề không chỉ giao cho một lực lượng giáo dục đơn lẻ

nào mà phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Sự

phối hợp chặt chẽ đó làm cho giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV mang

tính đồng bộ, thống nhất về tư tưởng, nội dung và cách thức thực hiện tránh

tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, điều này đã được khẳng định

trong Điều 3, Luật Giáo dục Việt Nam (2005) “Hoạt động giáo dục phải thực

hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản

xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục

gia đình và giáo dục xã hội” [33, tr.8]. Nghị quyết 29 – NQ/TW Đảng ta chỉ

rõ: “gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc

giáo dục nhân cách, lối sống cho con em mình” [12].

Trong thời gian vừa qua, các trường ĐH ở Tây Nguyên đã có những cố

gắng để liên hệ chặt chẽ với gia đình của SV và địa phương nhằm quản lý tốt

SV của mình. Một số trường đã đổi mới phương thức quản lý SV bằng cách

152

xây dựng phần mềm quản lý SV, các thông tin liên quan đến SV đều được cập

nhật trên phần mềm. Từ đó, nhà trường có thể quản lý một cách khoa học

thông tin về SV, đồng thời gia đình cũng dễ dàng nắm bắt được tình hình con

em của mình. Nhà trường tăng cường nắm bắt và quản lý SV ở nội trú (ký túc

xá) và ngoại trú (ở trọ bên ngoài) bằng cách yêu cầu nhận xét ngoại trú của

địa phương nơi SV ở trọ là điều kiện để xét điểm rèn luyện, đồng thời tăng

cường phối hợp với công an, tổ dân phố, chủ nhà trọ của SV. Tuy nhiên, nhìn

chung sự phối hợp trong quản lý SV và giáo dục đạo đức, chính trị, tư tưởng

giữa gia đình, nhà trường và địa phương chưa được thực hiện một cách

thường xuyên, chặt chẽ và hiệu quả. Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến

một bộ phận SV các trường ĐH ở Tây Nguyên có kết quả học tập và rèn

luyện thấp, tình trạng nợ môn, bị dừng học, thôi học.

Ba lực lượng giáo dục kể trên có vai trò, vị trí, chức năng riêng trong giáo

dục đạo đức cho SV, do vậy, không thể xem nhẹ, buông lỏng bất cứ lực lượng,

yếu tố nào.

Trong đó, gia đình là nơi SV được sinh ra, lớn lên, là “cái nôi” định

hình về nhân cách của mỗi SV, còn nhà trường lại đóng vai trò chủ đạo trong

việc xác định nội dung, phương thức, phương pháp khoa học để giáo dục làm

cho những nền móng nhân cách ban đầu được phát triển và hoàn thiện. Đối

với các cá nhân, gia đình và nhà trường đóng vai trò là những xã hội ở quy

mô nhỏ. Ở đó, SV dần học được từ kỹ năng, kinh nghiệm sống, cho đến các

giá trị tinh thần, tinh hoa văn hóa của loài người truyền lại. Giáo dục đạo đức

trong gia đình được thực hiện cụ thể bằng ứng xử, tấm gương của người lớn

trong thực tế cuộc sống với tình cảm yêu thương lẫn nhau đã làm cho các giá

trị đạo đức trở nên “thấm sâu”, bền vững ở đối tượng giáo dục. Những ảnh

hưởng từ những tấm gương, nề nếp, truyền thống đạo đức của gia đình sẽ hun

đúc giá trị đạo đức của SV và theo họ những chặng đường đời tiếp theo, trở

thành nền tảng quan trọng để họ tiếp nhận thuận lợi hay “từ chối” những giá

153

trị đạo đức sau này. Trên nền tảng giáo dục của gia đình, nhân cách của SV sẽ

được hoàn thiện nhờ sự giáo dục của nhà trường về các mặt trong đó có đạo

đức. Như vậy, những hình thức giao tiếp, những mối liên hệ trong xã hội quy

mô nhỏ đã hình thành diện mạo của mỗi SV. Đồng thời, trong các tập thể ban

đầu đó, thông qua những hoạt động thực tiễn, SV lại “hoàn trả” cho xã hội các

phẩm chất, giá trị mang đậm đặc trưng của cá nhân. Mỗi SV mang trong mình

dấu ấn của gia đình, nhà trường đồng thời, họ cũng để lại dấu ấn của mình

trong những tập thể ban đầu đó.

Tuy vậy, hiện nay do tác động của mặt trái KTTT đã làm cho nhiều

gia đình chỉ chú trọng làm giàu, bỏ ngỏ yếu tố đạo đức trong đời sống gia

đình hoặc khoán trắng cho nhà trường việc giáo dục đạo đức, lối sống, khi

con em mình vào ĐH. Gia đình chưa xây dựng được nếp sống phù hợp với

các giá trị đạo đức cổ truyền và đạo đức mới của dân tộc. Người lớn chưa

chú ý gương mẫu về đạo đức cho con em noi theo. Chỉ thị 11/CT-TTg đã

chỉ rõ: “nhiều gia đình còn xao nhãng việc giáo dục đạo đức, lối sống cho

các thành viên trẻ trong gia đình” [127]. TGĐĐ Hồ Chí Minh chưa xác lập

vị trí và có ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của mỗi gia đình, người lớn

cũng chưa chú ý rèn luyện bản thân theo TGĐĐ Hồ Chí Minh. Do vậy, để

gia đình không đứng ngoài giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV, cần đẩy

mạnh phong trào thi đua “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở

khu dân cư”, triển khai thực hiện Chỉ thị 05 – CT/TW về “Học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đến từng hộ gia đình. Từ

đó, ông, bà, cha, mẹ trong mỗi gia đình nâng cao ý thức học tập và tu

dưỡng theo TGĐĐ Hồ Chí Minh, đồng thời giáo dục con cháu của mình

học tập và làm theo.

Thực tế hiện nay ở Tây Nguyên, nhiều gia đình của SV sinh sống ở

vùng sâu, vùng xa là người đồng bào dân tộc thiểu số với trình độ văn hóa có

hạn, mức độ hưởng thụ các giá trị văn hóa, tinh thần còn thấp. Hoàn cảnh

154

kinh tế khó khăn khiến cho họ không có điều kiện chăm lo, quan tâm giáo dục

con em mình một cách đầy đủ. Không ít SV bỏ học, bị kỷ luật, đuổi học mà

gia đình không hề hay biết, thậm chí đến khi vi phạm pháp luật bị xử lý thì

gia đình mới được thông báo. Vì vậy, vấn đề then chốt là Đảng và nhà nước

cần có các chính sách để khai thác thế mạnh về tự nhiên, xã hội để phát triển

kinh tế vùng Tây Nguyên, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất kết hợp với

giữ gìn các giá trị đạo đức, tinh thần tốt đẹp của nhân dân các dân tộc ở đây.

Từ đó, họ sẽ có điều kiện để chú trọng đến xây dựng gia đình hài hòa các yếu

tố vật chất và tinh thần, khi đó gia đình mới trở thành thành trì vững chắc để

cùng nhà trường và xã hội giáo dục con em mình về mọi mặt, nhất là đạo đức.

Việc giữ gìn những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp, đẩy lùi phản giá trị đạo

đức, tinh thần trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên là thực tiễn quan

trọng, môi trường thuận lợi có ảnh hưởng một cách tự nhiên đến nhận thức,

thái độ, hành vi của SV, từ đó SV sẽ tiếp nhận những tác động của các chủ thể

giáo dục trong nhà trường để phát triển nhân cách đạo đức. Nhờ sự nâng cao

đời sống của đồng bào các dân tộc về mọi mặt, sẽ góp phần làm tăng sự tin

tưởng của họ đối với Đảng, với nhà nước, với con đường mà Bác Hồ đã lựa

chọn. Niềm tin đó, sẽ thúc giục họ chấp hành đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của nhà nước và hành động theo tư tưởng, TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, cần chú ý cơ chế chuyển tải thông tin, phối hợp quản lý

SV giữa nhà trường với gia đình bởi điều này là rất quan trọng. Nếu sự phối

hợp ấy tốt sẽ hạn chế được những tác động tiêu cực từ xã hội đối với SV và

tạo ra hợp lực nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức nói chung,

giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV nói riêng. Có những trường hợp, gia

đình vì không nắm được thông tin, không hiểu được yêu cầu của nhà trường

trong giáo dục đạo đức cho SV về nội dung và hình thức, nên đã không có sự

phối hợp với nhà trường, động viên, khuyến khích con em tham gia các hoạt

155

động thực tiễn nhằm thực hành các chuẩn mực đạo đức do Đoàn thanh niên

và Hội SV tổ chức.

Cùng với gia đình và nhà trường thì xã hội là môi trường bên ngoài

cũng tác động không nhỏ đến giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV. Nói đến

vai trò của xã hội, trước hết nói đến vai trò của đường lối, chính sách, những

quy định của cộng đồng dân cư đối với việc giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh

cho SV. Vai trò đó thể hiện ở sự định hướng, sự khẳng định các giá trị của

TGĐĐ Hồ Chí Minh là “Trung với nước, hiếu với dân”, “Cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư”, “Yêu thương con người”, “Hết lòng, hết sức phụng sự

Tổ quốc, phục vụ nhân dân”,… thông qua tổ chức thực hiện trong toàn xã hội

Chỉ thị 03 - CT/TW và Chỉ thị 05 - CT/TW. Do vậy, để các giá trị đạo đức

này trở thành tình cảm, niềm tin, lý tưởng đạo đức của SV, các cơ quan nhà

nước đã sử dụng các phương tiện thông tin về TGĐĐ Hồ Chí Minh đến đông

đảo nhân dân.

Cần chú ý nét đặc thù ở Tây Nguyên để công tác thông tin, tuyên

truyền đạt hiệu quả, đó là phát huy vai trò của các Già làng. Đối với đồng bào

các dân tộc Tây Nguyên, tiếng nói của Già làng rất có uy tín, cán cân để điều

chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng. Già làng chính là trụ cột trong quá

trình xây dựng và phát triển buôn làng. Đội ngũ Già làng đã đóng góp xứng

đáng công sức của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mắt của người dân, là người mẫu mực, được

bà con tin cậy, tiếng nói của Già làng được người dân coi trọng. Vì vậy, Già

làng đóng vai trò quan trọng trong tuyên truyền, vận động người dân, trước

hết là thế hệ trẻ về tình cảm, tư tưởng, đạo đức của Bác Hồ đối với đồng bào

các dân tộc thiểu số. Từ đó góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết, sự tin

tưởng và quyết tâm của đồng bào trong việc thực hiện đường lối của Đảng,

thực hiện theo TGĐĐ và lý tưởng cao đẹp của Bác Hồ.

156

Trong giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh nói riêng, giáo dục và đào tạo

SV nói chung, vai trò của mỗi trường ĐH được xác định là một “trung

tâm”, điều này đã được Đảng ta xác định: “Xây dựng mỗi trường học thật

sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người” [40, tr.128].

Đồng thời, nhà trường cũng cần phối hợp với chính quyền địa phương,

với cộng đồng, cụm dân cư trong công tác quản lý SV, thực hiện chế độ

đăng ký tạm vắng, tạm trú đúng quy định. Qua đó, chính quyền địa

phương kịp thời thông báo về những SV có biểu hiện tiêu cực trong học

tập cũng như trong lối sống cho nhà trường để có biện pháp giúp đỡ họ.

Hơn nữa, địa phương cần giúp đỡ, hỗ trợ về vật chất và tinh thần để các

hoạt động giáo dục đạo đức cho SV của nhà trường thu được kết quả cao

nhất. Địa phương có các trường ĐH đứng chân cần tích cực và chủ động

trong việc xây dựng phong trào học tập, truyền thống hiếu học và môi

trường văn hóa xã hội lành mạnh. Nhờ vậy, sẽ ngăn chặn, đẩy lùi những

tác động bất lợi đến giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV.

4.5. Phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên trong học tập và

rèn luyện theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh

Giáo dục trong các trường ĐH là quá trình được các chủ thể tổ chức với

kế hoạch, mục tiêu, nội dung, phương pháp nhằm hướng đến sự phát triển

nhân cách toàn diện cho SV. Trong đó, tự giáo dục là sản phẩm của giáo dục

nhưng một khi đã hình thành, tự giáo dục lại là đóng vai trò vô cùng quan

trọng đối với quá trình đã tạo ra nó. Tự giáo dục trong lĩnh vực đạo đức là quá

trình SV tự biến đổi, tự hoàn thiện theo các chuẩn mực đạo đức của xã hội đặt

ra ngày càng cao. Do vậy, đòi hỏi SV phải nỗ lực, phấn đấu không ngừng để

trở thành những công dân, những người lao động tốt đóng góp vào sự phát

triển của xã hội. Tự giáo dục giúp cho SV nắm vững tri thức đạo đức được

học ở nhà trường và trong giao tiếp xã hội, biến thành tri thức, hiểu biết của

mình, quan trọng hơn, họ hình thành rung cảm, xúc động, sự tin tưởng đối với

157

tri thức được học để có hành vi đạo đức tương ứng. Từ chỗ là đối tượng tiếp

nhận những tác động có chủ đích của các chủ thể giáo dục, SV trở thành chủ

thể nhận thức và tự giáo dục. Tự giáo dục là quá trình SV suy ngẫm, trăn trở

chẳng những về lý thuyết mà cả về thực tiễn đạo đức, không những được thể

hiện ra thành các biểu hiện bên ngoài mà điều quan trọng là những mâu thuẫn

nảy sinh trong nội tâm của họ.

Nếu thiếu tính chủ thể, tự giác của SV trong tu dưỡng, rèn luyện đạo

đức thì mọi tác động cũng chỉ là “ở bên ngoài” hoặc không có hiệu quả hoặc

hiệu quả rất thấp. Từ tính chất quan trọng đó, có thể khẳng định, cái đích của

quá trình giáo dục hướng đến là hình thành năng lực tự giáo dục cho SV. Vì

vậy, trong giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cần làm cho SV nắm được những

quan điểm mang tính chất định hướng để họ trở thành chủ thể tích cực của

quá trình tự giáo dục.

Thứ nhất, mỗi SV phải thấy sự cần thiết, nhu cầu tu dưỡng theo TGĐĐ

Hồ Chí Minh

Để hình thành nhu cầu tự thân ở SV trong “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh” phải là kết quả của sự giáo dục, sự tổ chức

những tác động bởi các chủ thể nhằm khơi gợi ở SV nhu cầu hướng thiện,

hướng đến điều tốt đẹp được thể hiện trọn vẹn ở cuộc đời Hồ Chí Minh. SV

cần phải thấy được việc học tập và làm theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí

Minh là con đường, là nước cụ thể để hoàn thiện các cá nhân. Có nhận thức

được sự cần thiết, có hình thành nhu cầu tự thân mới thôi thúc SV khắc phục

mọi trở ngại để tiếp nhận, thậm chí chuyển hóa những tác động có chủ đích

của chủ thể giáo dục mà còn chủ động tìm hiểu để học qua sách báo, qua các

phương tiện thông tin và qua thực tiễn. Hiện nay, giáo dục nhu cầu tu dưỡng

theo các chuẩn mực đạo đức, theo TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV là một thách

thức lớn đối với các chủ thể giáo dục khi mà lớp trẻ có quá nhiều điều hấp

dẫn, mới mẻ, nhiều thú tiêu khiển, giải trí, thậm chí là những cám dỗ qua

158

internet, qua mạng xã hội. Vấn đề đặt ra là các chủ thể giáo dục cần làm gì để

SV lựa chọn quá trình khổ luyện thay vì chọn hưởng thụ. Chúng ta cần thấy

rằng, SV là những thanh niên có tri thức, khi bước chân vào cổng trường ĐH

phần lớn đều có mong muốn, có quyết tâm học tập và rèn luyện để trở thành

những trí thức nuôi sống bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội. Chủ thể

giáo dục cần giúp họ hiểu rằng “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh” không phải là một cuộc vận động mang tính khẩu hiểu, hình thức

mà thực chất là một nội dung của quá trình học tập và rèn luyện của SV ở

ĐH, đó là yêu cầu của xã hội, của nhà trường đặt ra đối với SV. Quá trình này

không chỉ dừng lại giáo dục về đạo đức mà còn góp phần phát triển năng lực,

trí tuệ ở SV, để họ trở thành những nhân cách phát triển toàn diện.

Thứ hai, mỗi SV phải là chủ thể tự giác, tích cực trong “Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

Trước hết nói về việc “học tập” TGĐĐ Hồ Chí Minh của SV với nội dung

là tri thức về đạo đức thì sự tự giác, tích cực, chủ động của SV được hiểu là nhu

cầu, mong muốn có những hiểu biết về đối tượng học tập, nghiên cứu. Hơn thế,

SV còn thể hiện cố gắng và quyết tâm vượt qua những rào cản, khó khăn để đạt

được tri thức, hiểu biết về đối tượng. Tính tích cực này không phải SV nào cũng

có mà chỉ ở những SV hiểu được giá trị, có tình cảm và có động cơ đúng đắn

trong “học tập” TGĐĐ Hồ Chí Minh. Tính tích cực trong học tập được thể hiện:

lắng nghe, quan sát các thông tin mà GV đưa ra, hăng hái trả lời đúng các câu

hỏi mà GV đặt ra, tập trung lắng nghe và hoàn thiện câu trả lời của các bạn trong

lớp, kiên trì hoàn thành các nhiệm vụ mà GV giao cho. Không chỉ dừng lại ở sự

tiếp nhận, phụ thuộc hoàn toàn vào quan điểm GV, mức độ cao của sự tích cực ở

SV là hình thành quan điểm, chính kiến của cá nhân về đối tượng nghiên cứu, có

khả năng độc lập trong tư duy, đưa ra các thắc mắc, vấn đề để GV lý giải, làm rõ.

Không bằng lòng với thông tin được đưa ra một chiều mà đào sâu suy nghĩ, luôn

đặt ra và tìm cách trả lời câu hỏi “vì sao”.

159

Bản thân TGĐĐ Hồ Chí Minh đã thể hiện không chỉ là lý luận về đạo

đức mà là hành vi, ứng xử, sự thể hiện một cách tự nhiên, nhất quán lý thuyết

thành thực tiễn đạo đức sinh động, vì vậy, sự tự giác, tích cực của SV không

chỉ là “học tập” mà quan trọng hơn là “làm theo” TGĐĐ Hồ Chí Minh. Sự

vận dụng tri thức về TGĐĐ Hồ Chí Minh cần được thể hiện trong mọi hoạt

động: sinh hoạt cá nhân, học tập, lao động, thi đua; trong mọi mối quan hệ xã

hội của họ là gia đình, bạn bè, trường lớp, cộng đồng. Trong đó, hoạt động

chính của SV là việc học tập, nghiên cứu khoa học và tham gia vào các hoạt

động do Đoàn thanh niên và Hội SV tổ chức. Trải nghiệm qua thực tiễn, SV

là người tự khẳng định tính đúng đắn của lý luận về TGĐĐ Hồ Chí Minh

đồng thời vận dụng lý luận được học vào giải quyết thực tiễn cuộc sống của

bản thân, gia đình mình và lý giải vấn đề của xã hội. Để hình thành được khả

năng liên hệ và vận dụng của SV, vai trò quan trọng của nhà trường, của các

chủ thể giáo dục ở chỗ cụ thể hóa từ TGĐĐ Hồ Chí Minh thành những nội

dung sao cho phù hợp với đặc điểm của SV trong xã hội hiện nay và tổ chức

các hoạt động, phong trào để họ có môi trường rèn luyện. Lý tưởng đạo đức

từ tấm gương Hồ Chí Minh cần được các chủ thể giáo dục cụ thể hóa, làm cho

thiết thực, gần gũi với SV và có thể đo lường, đánh giá việc thực hiện thông

qua hành vi cụ thể của họ.

Bên cạnh đó, việc phát huy vai trò tự giác, tích cực của SV không loại

trừ mà gắn với vai trò quan trọng của các gia đình trong việc tạo ra nền nếp,

thói quen, kỹ năng sống, nhất là kỹ năng điều tiết, kiềm chế và kiểm soát bản

thân cho SV để họ có thể làm chủ mình trong mọi tình huống, nhất là trước

những thú tiêu khiển không lành mạnh và trước những tiêu cực của xã hội.

Các chủ thể giáo dục cũng cần tăng cường giám sát, kiểm tra và kịp thời

khích lệ quá trình phấn đấu của SV để họ ngày càng nâng cao ý thức trong

việc thực hiện các yêu cầu đối với gia đình và xã hội, sống có hoài bão, lý

tưởng, biết hướng mình tới cái mới, cái thiện, cái tốt đẹp.

160

Tiểu kết chƣơng 4

Trong thời gian vừa qua, với sự nỗ lực của một bộ phận lớn SV, sự

quan tâm, đầu tư của Đảng ủy, Ban giám hiệu, đội ngũ cán bộ và GV, giáo

dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên đã đạt được

những kết quả đáng ghi nhận. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, tác giả luận

án đã đề xuất một số giải pháp cơ bản với mong muốn đóng góp cho công tác

giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh nói riêng cho

SV các trường ĐH ở Tây Nguyên đạt những kết quả cao hơn nữa trong thời

gian tới, để TGĐĐ Hồ Chí Minh ngày càng có sức ảnh hưởng lớn trong SV,

thay đổi nhận thức, biến thành thực tiễn đời sống đạo đức của họ.

Các giải pháp đồng bộ cần được thực hiện đối với chủ thể, đối tượng

giáo dục và các phương thức giáo dục cơ bản. Trong đó, giải pháp quan trọng

nhất là nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và nêu cao trách nhiệm của

Đảng ủy, Ban giám hiệu trong giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV. Từ đó,

Đảng ủy, Ban giám hiệu tăng cường chỉ đạo, đầu tư về vật chất, quan tâm về

tinh thần, giám sát chặt chẽ đối với công tác này. Từ sự nâng cao nhận thức

của Đảng ủy, Ban giám hiệu, các GV, các cán bộ Đoàn thanh niên, Hội SV sẽ

nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV thông qua giảng dạy

các môn LLCT và các phong trào, hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó, phối hợp

chặt chẽ của 3 lực lượng giáo dục cơ bản là gia đình, nhà trường và xã hội

cũng đóng một vai trò quan trọng. Giải pháp có tính chất quyết định là phải

hình thành được ở SV nhu cầu để họ phải trở thành chủ thể tự giác, tích cực

của quá trình học tập và rèn luyện theo TGĐĐ Hồ Chí Minh.

161

KẾT LUẬN

Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản đồ sộ không chỉ là hệ thống

lý luận có giá trị to lớn về nhiều lĩnh vực, mà còn để lại tài sản vô giá là

TGĐĐ cao đẹp mà ngày nay đang đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển

con người và xã hội Việt Nam. Nhận thức được vai trò đó của TGĐĐ Hồ Chí

Minh, Đảng ta đã đưa ra nhiều chỉ đạo nhằm giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh

cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Qua đó không chỉ kế thừa và

phát huy giá trị tinh thần vô giá Hồ Chí Minh đã để lại trong xây dựng nền

tảng tinh thần của xã hội mà còn đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã

hội của đất nước.

Với vị trí quan trọng đối với sự phát triển đất nước, là nguồn bổ sung lực

lượng lao động có chất lượng, SV được Đảng và Nhà nước ta đặt vào vị trí trung

tâm trong các phương hướng, chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục SV

để họ trở thành những người vừa có kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp

vừa có các chuẩn mực đạo đức cách mạng là mục tiêu cơ bản mà các trường cao

đẳng, ĐH hướng đến. Vì lẽ đó, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV nói chung

và SV các trường ĐH ở Tây Nguyên nói riêng là vấn đề ngày càng được quan tâm

trong điều kiện Đảng ta tiếp tục triển khai Chỉ thị 05 – CT/TW về “Học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Tác giả luận án đã khái quát hóa, hệ thống hóa những nội dung của

TGĐĐ Hồ Chí Minh, đồng thời phân tích sự cần thiết giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên, đó là: xuất phát từ yêu cầu của

sự nghiệp cách mạng hiện nay đối với SV; xuất phát từ giá trị to lớn của

TGĐĐ Hồ Chí Minh và vai trò của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV

trong sự nghiệp cách mạng hiện nay; khắc phục những biểu hiện xuống cấp

về đạo đức của một bộ phận SV hiện nay trước những tác động tiêu cực của

KTTT, toàn cầu hóa và âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù

địch. Luận án đã phân tích và chỉ ra các thành tố của giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

162

Minh cho SV, bao gồm: chủ thể, hình thức và nội dung giáo dục. Trong các

chủ thể giáo dục thì chủ thể trực tiếp là Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các GV và

cán bộ Đoàn, Hội các trường ĐH ở Tây Nguyên, đóng vai trò quyết định.

Những hình thức giáo dục cơ bản là: hoạt động giảng dạy các môn khoa học

xã hội & nhân văn, đặc biệt là các môn LLCT; tổ chức các phong trào, các

hoạt động thực tiễn của Đoàn thanh niên và Hội SV; sự nêu gương của các

chủ thể giáo dục. Dựa vào đặc điểm của SV các trường ĐH ở Tây Nguyên và

xuất phát từ yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay, Luận án đã rút

ra những nội dung cần giáo dục cho SV từ TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Trước những tác động của các nhân tố khách quan vừa có lợi, vừa cản

trở, giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên,

trong thời gian qua, đã đạt được những thành tựu đồng thời vẫn còn những

hạn chế nhất định. Về những thành tựu đáng ghi nhận, cần phải khẳng định

rằng giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh đã góp phần bồi dưỡng và hình thành ở

nhiều SV lý tưởng sống, lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, nỗ lực vượt khó khăn,

trở ngại trong học tập, và trong cuộc sống để trở thành những bác sĩ, cử nhân,

kỹ sư, giáo viên tương lai. Phần lớn SV biết yêu thương, quan tâm, chia sẻ với

bạn bè, những người xung quanh, với cộng đồng, có tinh thần sẵn sàng cống

hiến cho cộng đồng, quan tâm đến sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương

và của đất nước. Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận SV thiếu ý chí, nghị lực trong

học tập và cuộc sống. Bàng quan với những gì diễn ra xung quanh, vô cảm

với bạn bè, những người sống xung quanh. Trong các mối quan hệ, thiếu sự

chân thành, trung thực, luôn đặt lợi ích của cá nhân lên trên, nhiệt tình và làm

những gì có lợi cho bản thân, không muốn cống hiến sức trẻ của mình cho tập

thể, cộng đồng.

Tác giả luận án phân tích, nghiên cứu và chỉ ra mâu thuẫn cơ bản được

thể hiện ở các khâu, các yếu tố và trở thành những vấn đề đặt ra cần được giải

quyết, qua đó, khắc phục được những hạn chế và nâng cao hiệu quả của quá

163

trình giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV các trường ĐH ở Tây Nguyên. Từ

chỗ nhận thức được các vấn đề đặt ra, tác giả luận án đã đề xuất các nhóm

giải pháp cơ bản cần thực hiện trong thời gian tới. Mỗi giải pháp đều có một

vị trí, vai trò nhất định và có sự tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Hệ thống

các giải pháp cần thực hiện, bao gồm: Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng

và trách nhiệm của Đảng ủy, Ban giám hiệu đối với giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV; nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí Minh cho SV thông

qua giảng dạy các môn LLCT; nâng cao hiệu quả giáo dục TGĐĐ Hồ Chí

Minh cho SV thông qua các hoạt động, phong trào do Đoàn thanh niên và Hội

SV tổ chức với vai trò là môi trường thực hành những lý thuyết đạo đức đã

được học; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã

hội; phát huy vai trò chủ thể tích cực của SV trong việc học tập và rèn luyện

theo TGĐĐ Hồ Chí Minh.

Thực hiện tốt các giải pháp này, sẽ góp phần làm cho TGĐĐ Hồ Chí

Minh thực sự đi vào đời sống tinh thần, tình cảm và hành động của SV các

trường ĐH ở Tây Nguyên. Từ đó, góp phần đào tạo, bồi dưỡng ra lớp SV vừa

có “đức” vừa có “tài”, đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của khu vực

Tây Nguyên và cả nước.

164

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

BÀI BÁO KHOA HỌC

1. Nguyễn Thị Khuyên (2019), “Ho Chi Minh's Human Love”, Research

on Humanities and Social Sciences, Vol.9, No.6.

2. Nguyễn Thị Khuyên (2019), “Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho

sinh viên Trường Đại học Tây Nguyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp

chí Giáo dục và xã hội, số Đặc biệt Tháng 10, tr.255 – 261.

3. Nguyễn Thị Khuyên (2020), “Education of Ho Chi Minh’s Moral

Example for Students in Vietnam Nowadays”, Research on Humanities

and Social Sciences, Vol.10, No.4.

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1. Nguyễn Thị Khuyên (2019), “Giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường

đại học ở Tây Nguyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Đề tài cơ sở.

165

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Thị Vân Anh (2016), Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên

các trường đại học, cao đẳng trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh,

Nxb. Chính trị quốc gia.

2. Phạm Ngọc Anh chủ biên (2011), Hỏi và đáp môn học Tư tưởng Hồ Chí

Minh, Nxb. Chính trị quốc gia.

3. Phạm Ngọc Anh chủ biên (2013), Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức

Hồ Chí Minh qua tác phẩm Đạo đức cách mạng, Nxb. Chính trị quốc gia

sự thật.

4. Phạm Ngọc Anh chủ biên (2016), Nhân cách đạo đức Hồ Chí Minh –

Giá trị và sức lan tỏa, Nxb. Dân trí.

5. G. Bandzeladze (1985), Đạo đức học tập 1, Nxb. Giáo dục.

6. G. Bandzeladze (1985), Đạo đức học tập 2, Nxb. Giáo dục.

7. Ban Bí thư (2015), Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư

về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng

cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-

2030, Hà Nội.

8. Ban chấp hành đoàn tỉnh Đắk Lắk (2019), Báo cáo kết quả 03 năm thực

hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ chính trị về “Đẩy

mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”,

Đắk Lắk.

9. Ban chấp hành đoàn tỉnh Lâm Đồng (2019), Báo cáo sơ kết 03 năm thực

hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ chính trị “Đẩy mạnh học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Lâm Đồng.

10. Ban chấp hành đoàn Trường Đại học Tây Nguyên (2019), Văn kiện Đại

hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2019 –

2022, Đắk Lắk.

166

11. Ban chấp hành đoàn Trường Đại học Đà Lạt (2019), Văn kiện Đại hội

đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2019 – 2022,

Lâm Đồng.

12. Ban Chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết 29-NQ/TW, ngày

4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và

hội nhập quốc tế, Hà Nội.

13. Ban Chấp hành Trung ương (2016), Nghị quyết 04-NQ/TW, ngày

30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường xây dựng,

chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong

nội bộ, Hà Nội.

14. Ban tuyên giáo Trung ương (2007), 117 chuyện kể về tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

15. Ban tuyên giáo trung ương (2011), Kỷ yếu kết quả 4 năm triển khai cuộc

vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nxb.

Chính trị quốc gia.

16. Ban Tuyên giáo trung ương (2016), Những nội dung cơ bản của tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

17. Ban tuyên giáo trung ương (2017), Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Nxb.

Chính trị quốc gia sự thật.

18. Ban Tuyên giáo trung ương (2018), Giáo dục đạo đức cách mạng trong

thời kỳ mới, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

19. Hoàng Chí Bảo (2004), “Văn hóa Hồ Chí Minh và sự rèn luyện nhân

cách văn hóa của thanh niên”, tạp chí Lịch sử Đảng, (số 8), tr.32-37.

20. Hoàng Chí Bảo (2009), Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị

quốc gia.

167

21. Hoàng Chí Bảo (2017), “Sự kết tinh tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ

Chí Minh trong Di chúc của Người”, tạp chí Cộng sản, (số 901), tr. 44-47.

22. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2007), Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh, Nxb. Thanh niên.

23. Nguyễn Duy Bắc (2020), “Về một số nội dung, phương thức, hình thức

bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm

sai trái, thù địch”, tạp chí Lý luận chính trị, (số 3), tr.85.

24. Trần Văn Bính (2018), “Thử đi tìm nguyên nhân của sự xuống cấp về đạo

đức”, tạp chí Tuyên giáo, (số12), tr.41-44.

25. Bộ chính trị (2006), Chỉ thị số 06/CT-TW, ngày 7/11/2006 của Bộ Chính

trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh”, Hà Nội.

26. Bộ Chính trị (2011), Chỉ thị số 03 – CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ

Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh, Hà Nội.

27. Bộ Chính trị (2016), Chỉ thị số 05 – CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ

Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh, Hà Nội.

28. Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp – Vụ Mác – Lênin (1984), Giáo

trình đạo đức học Mác – Lênin,

29. Bộ giáo dục và đào tạo (2013), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Mai Văn Bộ (2003), Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ.

31. Phạm Văn Chung (2012), Tập bài giảng đạo đức học, Nxb. Chính trị

quốc gia.

32. Phạm Khắc Chương, Nguyễn Yến Phương (2005), Đạo đức học, Nxb.

Đại học sư phạm.

168

33. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Giáo dục, Nxb.

Chính trị quốc gia.

34. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Giáo dục đại

học, Nxb. Chính trị quốc gia.

35. Nguyễn Thị Hồng Doan (2014), Vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm

trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh,

Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

36. Lê Duẩn (1975), Con đường tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của thanh

niên, Nxb. Sự thật.

37. Nguyễn Thị Kim Dung và Trần Thị Nhuần tuyển chọn và biên soạn

(2015), Giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, lý tưởng cách mạng cho thế hệ

trẻ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động – xã hội.

38. Thành Duy (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb. Chính trị

quốc gia.

39. Đại học quốc gia T.P Hồ Chí Minh (2010), Kỷ yếu hội thảo “Di chúc

chủ tịch Hồ Chí Minh – Những giá trị lịch sử và thời đại”, Nxb. Đại học

quốc gia T.P Hồ Chí Minh.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật.

41. Đảng ủy Trường Đại học Đà Lạt (2020), Dự thảo Báo cáo chính trị của

Ban chấp hành Đảng bộ khóa XII trình Đại hội Đảng bộ trường Đại học

Đà Lạt khóa XIII (nhiệm kỳ 2020 – 2025), Lâm Đồng.

42. Đảng ủy Trường Đại học Tây Nguyên (2020), Dự thảo Báo cáo chính trị

của Ban chấp hành Đảng bộ trường khóa XI trình Đại hội đại biểu Đảng

bộ trường lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 – 2025, Đắk Lắk.

43. Nguyễn Đức Đạt (2005), Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, Nxb.

Chính trị quốc gia.

169

44. Đặc khu ủy Vũng Tàu – Côn Đảo (1990), Có Bác mãi trong tim.

45. Nguyễn Hồng Điệp (2019), “Xây dựng nhãn quan chính trị cho học sinh,

sinh viên trước tác động tiêu cực của mạng xã hội”, tạp chí Lý luận

chính trị, (số 11), tr.103.

46. Trần Minh Đoàn (2002), Giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo

tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

47. Phạm Văn Đồng (1975), Hồ Chủ tịch, tinh hoa của dân tộc, lương tâm

của thời đại, Nxb. Sự thật.

48. Võ Nguyên Giáp (chủ biên 2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường

cách mạng Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia.

49. Võ Nguyên Giáp (2015), Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí

Minh sống mãi, Nxb.Chính trị quốc gia sự thật.

50. Trần Văn Giàu (2010), Hồ Chí Minh – Vĩ đại một con người, Nxb.

Chính trị quốc gia.

51. Huỳnh Thị Gấm chủ biên (2016), Học tập và làm theo tư tưởng, đạo

đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Công an nhân dân.

52. Đoàn Thế Hanh (2020), “Vấn đề nêu gương của cán bộ, đảng viên trước

hết là cán bộ cao cấp – Nhận thức và hành xử”, tạp chí Lý luận chính trị,

(số 6), tr.58.

53. Mạnh Hà sưu tầm và biên soạn (2007), Học tập tấm gương đạo đức Bác

Hồ, Nxb. Từ điển bách khoa.

54. Luyện Thị Hồng Hạnh (2019), “Những mâu thuẫn trong giáo dục đạo

đức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Việt Nam hiện

nay”, tạp chí Triết học, (số 3), tr.61.

55. Cao Thu Hằng – Nguyễn Thị Thọ (đồng chủ biên, 2017), Giá trị đạo đức

truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam.

170

56. Trần Văn Hiệp (2017), “Học và làm theo lời dạy của Bác Hồ từ những

công việc đời thường”, tạp chí Tuyên giáo, (số 7), tr. 34-37.

57. Trần Viết Hoàn (2017), Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời,

Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

58. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tổ chức trung ương, Ban

Tuyên giáo trung ương, (2018), Sửa đổi lối làm việc – Những vấn đề lý

luận và thực tiễn (Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp Quốc gia), Nxb. Chính

trị quốc gia sự thật.

59. Nguyễn Thị Phương Hoa (2018), “Kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị

là thước đo của học Bác”, tạp chí Tuyên giáo, (số 3), tr. 39-42.

60. Hội sinh viên Việt Nam (2015), Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Hà Nội.

61. Hội sinh viên Việt Nam (2018), Văn kiện Đại hội lần thứ X, Hà Nội.

62. Trần Hậu Kiêm (1995), Hỏi – đáp về đạo đức học, Nxb. Chính trị quốc gia.

63. Trần Hậu Kiêm (1997), Đạo đức học, Nxb. Giáo dục.

64. Trần Hậu Kiêm – Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức

học và giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb. Chính trị quốc gia.

65. Trần Hậu Kiêm (2011), Tập bài giảng Lịch sử đạo đức học, Nxb. Chính trị

quốc gia.

66. Nguyễn Thế Kiệt (2012), Mấy vấn đề về đạo đức học mác – xít và xây

dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay,

Nxb. Chính trị quốc gia.

67. Vũ Khiêu (1978), Mấy vấn đề về đạo đức cách mạng, Nxb. Thành phố

Hồ Chí Minh

68. Vũ Khiêu (2014), Hồ Chí Minh ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt

Nam, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

69. Vũ Khiêu (2015), Học tập đạo đức Bác Hồ, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

70. Nguyễn Trung Kiên (2006), Rèn luyện đạo đức cách mạng theo Bác Hồ,

Nxb. Quân đội nhân dân.

171

71. Lê Trung Kiên, Nguyễn Đức Khoa, Trần Văn Tuấn (2014), Học Tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – Nói đi đôi với làm, Nxb.

Thời đại.

72. Đặng Xuân Kỳ chủ biên (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí

Minh, Nxb. Lý luận chính trị.

73. Vũ Kỳ (2001), Người suy nghĩ về tuổi trẻ chúng ta, Nxb. Thanh niên.

74. Nguyễn Văn Khoan (2007), Bác Hồ - con người và phong cách, Nxb. Trẻ.

75. Phan Ngọc Liên (2010), Chiến sĩ quốc tế Hồ Chí Minh - Hoạt động thực

tiễn và lý luận cách mạng, Nxb.Chính trị quốc gia.

76. C.Mác – Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia sự

thật.

77. C.Mác – Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia sự

thật.

78. C.Mác – Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị quốc gia sự

thật.

79. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

172

91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Lương Thị Thúy Nga (2019), Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên

đại học Thái Nguyên hiện nay, Luận án tiến sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

95. Phạm Đình Nghiệp (2003), Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ

Việt Nam trong tình hình mới, Nxb. Thanh niên.

96. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2010), Hồ Chí Minh – Một người châu

Á của mọi thời đại.

97. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2017), Trường Đại học Tây

Nguyên – 40 năm xây dựng và phát triển (1977 – 2017).

98. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (1990), Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí

Minh (trích tham luận của đại biểu quốc tế).

99. Nhà xuất bản Sự thật (1970), Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chí

Minh, tập 1, Hà Nội.

100. Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va (1986), Từ điển triết học.

101. Trần Quang Nhiếp – TS. Nguyễn Văn Sáu (2008), Giá trị cơ bản về tư

tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb. Công an nhân dân.

102. Nhiều tác giả (1990), Có Bác mãi trong tim, Nxb. Sự thật.

103. Nhiều tác giả (2010), Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh nói đi đôi với làm, Nxb. Thời đại.

104. Nhiều tác giả (2017), Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ chí

Minh, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật.

105. Trần Sỹ Phán (2016), Giáo dục đạo đức với sự phát triển nhân cách sinh

viên Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị.

106. Hoàng Phê chủ biên (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.

173

107. Bùi Đình Phong (2007), “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh trong tình hình hiện nay”, tạp chí Lịch sử Đảng, (số 3), tr.11-14.

108. Bùi Đình Phong (2016), Hồ Chí Minh – Đạo đức là gốc của người cách

mạng, Nxb. Dân trí.

109. Lê Quốc Phong (2017), “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo

đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ”, tạp chí Tuyên giáo, (số 12), tr.11-15.

110. Vũ Văn Phúc (2019), “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng

cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và ngày mai”, tạp chí Lý

luận chính trị, (số 5), tr.8.

111. Tô Huy Rứa (2011), “Phát huy kết quả bước đầu, khắc phục hạn chế nâng

cao chất lượng, hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh trong những năm tới”, tạp chí Cộng sản, (số 820), tr.63-70.

112. Trương Tấn Sang (2015), “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh để sống, làm việc xứng đáng với Đảng, dân tộc và nhân dân”,

tạp chí Cộng sản, (số 106), tr.19-23.

113. A.Si-Skin (1961), Nguyên lý đạo đức cộng sản, Nxb. Sự thật.

114. Trần Đăng Sinh – Nguyễn Thị Thọ (đồng chủ biên, 2018), Đạo đức học

Mác - Lênin và giáo dục đạo đức (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng

ngành sư phạm), Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật.

115. Nguyễn Hồng Sơn (2018), “Phát huy vai trò của trụ cột văn hóa trong

phát triển bền vững Tây Nguyên”, tạp chí Lý luận chính trị, (số 2), tr.73.

116. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Chính trị

quốc gia.

117. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh – nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb. Chính

trị quốc gia.

118. Song Thành (2016), Bác Hồ - Tấm gương đạo đức sáng ngời, Nxb.

Chính trị quốc gia sự thật.

119. Song Thành chủ biên (2018), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc

gia sự thật.

174

120. Thành ủy T.P Hồ Chí Minh – Ban tuyên giáo TW – Học viện chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh – Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch

(2011), Kỷ yếu hội thảo “Chủ tịch Hồ Chí Minh hành trình tìm đường

cứu nước”, Nxb. Tổng hợp T.P Hồ Chí Minh .

121. Mạch Quang Thắng (chủ biên) (2010), Nhân cách Hồ Chí Minh, Nxb.

Chính trị quốc gia.

122. Mạch Quang Thắng (2014), Hồ Chí Minh – con người của sự sống, Nxb.

Tổng hợp T.P Hồ Chí Minh.

123. Nguyễn Xuân Thắng (2020), “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại với sự

nghiệp đổi mới, phát triển và bảo vệ Tổ quốc”, tạp chí Lý luận chính trị,

(số 5), tr.3.

124. Đinh Văn Thiên (2008), Tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Nxb. Quân đội nhân dân.

125. Nguyễn Thị Thọ (2017), “Định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên hiện

nay”, tạp chí Tuyên giáo, (số 9), tr.57-60.

126. Nguyễn Xuân Thông (chủ biên) (1999), Bác Hồ sự cảm hóa kỳ diệu,

Nxb. Thanh niên.

127. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 11/CT-TTg, ngày 29/03/2017

của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống

trong gia đình, Hà Nội.

128. Nguyễn Thị Đan Thụy (2020), “Những đặc trưng trong tư tưởng Hồ Chí

Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, tạp chí Triết học, (số

1), tr.72.

129. Trần Dân Tiên (1995), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ

tịch, Nxb. Chính trị quốc gia.

130. Tỉnh ủy Lâm Đồng (2019), Báo cáo Sơ kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số

05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Lâm Đồng.

175

131. Hoàng Trang, Nguyễn Khánh Bật (1999), Tìm hiểu thân thế - sự nghiệp

và tư tưởng Hồ Chí Minh (hỏi và đáp), Nxb. Chính trị quốc gia.

132. Hoàng Trung (2005), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (Qua các phạm trù

mà Người đã sử dụng), Nxb. Đại học quốc gia T.P Hồ Chí Minh.

133. Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2004), 6 bài học

lý luận chính trị cho đoàn viên thanh niên, Nxb. Thanh Niên.

134. Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh – Ban Mặt trận

thanh niên (2006), Công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc

thiểu số, Nxb. Thanh niên.

135. Trường Đại học Buôn Ma Thuột (2017), Báo cáo tổng kết hoạt động

năm học 2016 – 2017 và phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch năm học

2017 – 2018, Đắk Lắk.

136. Trường Đại học Buôn Ma Thuột (2018), Báo cáo tổng kết hoạt động

năm học 2017 – 2018 và phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch năm học

2018 – 2019, Đắk Lắk.

137. Trường Đại học Buôn Ma Thuột (2019), Báo cáo tổng kết hoạt động

năm học 2018 – 2019 và phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch năm học

2019 – 2020, Đắk Lắk.

138. Trường Đại học Đà Lạt (2017), Báo cáo tổng kết năm học 2016 – 2017

và phương hướng nhiệm vụ năm học 2017 – 2018, Lâm Đồng.

139. Trường Đại học Đà Lạt (2018), Báo cáo tổng kết năm học 2017 – 2018

và phương hướng nhiệm vụ năm học 2018 – 2019, Lâm Đồng.

140. Trường Đại học Đà Lạt (2019), Báo cáo tổng kết năm học 2018 – 2019

và phương hướng nhiệm vụ năm học 2019 – 2020, Lâm Đồng.

141. Trường Đại học Tây Nguyên (2017), Báo cáo tổng kết năm học 2016 –

2017 và phương hướng năm học 2017 – 2018, Đắk Lắk.

142. Trường Đại học Tây Nguyên (2018), Báo cáo tổng kết năm học 2017 –

2018 và phương hướng năm học 2018 – 2019, Đắk Lắk.

176

143. Trường Đại học Tây Nguyên (2019), Báo cáo tổng kết năm học 2018 –

2019 và phương hướng năm học 2019 – 2020, Đắk Lắk.

144. Trần Minh Trưởng (2020), “Sức sống trường tồn của tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh”, tạp chí Lý luận chính trị, (số 5), tr.23.

145. Nguyễn Văn Tuân (2015), Các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn

thành phố Hà Nội với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh”, Nxb. Khoa học xã hội.

146. Sơn Tùng (2008), Cuộc gặp gỡ định mệnh, Nxb. Chính trị quốc gia.

147. Văn Tùng (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách

mạng cho đoàn viên, thanh niên, Nxb. Thanh niên.

148. Phan Tuyết sưu tầm, tuyển chọn (2018), Học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh – Phong cách nêu gương của Bác

Hồ, Nxb. Hồng Đức.

149. Huỳnh Khái Vinh chủ biên (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức,

chuẩn giá trị xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia.

150. Quang Vinh – Trần Kim Duyên – Văn Song biên soạn và tuyển chọn

(2008), Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên, Nxb. Thông tấn.

151. Trần Quốc Vượng (2018), “Học Bác sống tiết kiệm, ứng xử có nghĩa, có

tình”, tạp chí Tuyên giáo, (số 6), tr.3-6.

152. Phạm Viết Vượng (2008), Giáo dục học, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.

PL1

PHỤ LỤC 1

Để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, nghiên cứu sinh đã xây dựng phiếu

điều tra và tiến hành khảo sát tại 03 trường đại học ở Tây Nguyên, với 580

phiếu điều tra dành cho sinh viên, thuộc các ngành đào tạo: Y đa khoa, Tài

chính - Ngân hàng, Giáo dục chính trị, Điều dưỡng, Quản lý môi trường, Sư

phạm Toán Tin, Quản trị kinh doanh, Luật.

Kết quả thu được từ hoạt động điều tra thực tế là cơ sở quan trọng để

luận án đi vào đánh giá thực trạng giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay.

PHIẾU THU THẬP Ý KIẾN

Chúng tôi đang nghiên cứu đề tài GIÁO DỤC TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC

HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở TÂY

NGUYÊN HIỆN NAY

Để thực hiện được đề tài, chúng tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của

các bạn sinh viên (SV) trong việc trả lời những câu hỏi dưới đây. Chúng tôi

cam đoan rằng, tất cả những thông tin mà các bạn cung cấp chỉ được dùng

cho việc nghiên cứu, ngoài ra không dùng cho bất kỳ mục đích nào khác.

Các bạn vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu vào ô

 cạnh câu trả lời.

Câu 1. Hãy cho biết điều bạn quan tâm nhất hiện nay là gì? (câu chọn 1 đáp

án)

a.  Tích lũy kiến thức, hoàn thành các môn học/có bằng cấp

b.  Tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức mới và giá trị đạo đức

truyền thống

c.  Khẳng định vai trò của mình trong tập thể

d.  Tìm công việc làm thêm có thu nhập cao

e. Điều khác (vui lòng ghi rõ)

PL2

Câu 2. SV trường bạn đang theo học có biểu hiện nào trong những biểu hiện

đáng lo ngại về đạo đức, lối sống dưới đây? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

a.  Thực dụng, chỉ biết đến bản thân

b.  Đề cao giá trị vật chất, đua đòi, thích hưởng thụ

c.  Thiếu trung thực trong thi cử

d.  Lười học tập, lười lao động, ít cố gắng rèn luyện

e.  Không có lý tưởng sống

f.  Biểu hiện khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 3. Bạn đã từng vi phạm nội quy, quy chế của trường với mức độ bị kiểm

điểm? (câu chọn 1 đáp án)

a.  Đã từng b.  Chưa từng

Câu 4. Theo bạn, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò như thế nào đối

với xã hội Việt Nam hiện nay? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

a.  Là nền tảng tinh thần, đạo đức của xã hội

b.  Góp phần chống lại suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ,

đảng viên và một bộ phận trong xã hội

c.  Giá trị và hình mẫu lý tưởng để bồi dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ

Câu 5. Hãy cho biết ý kiến của bạn về sự cần thiết giáo dục tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh cho SV hiện nay? (chọn 1 đáp án)

a.  Rất cần thiết

b.  Tương đối cần thiết

c.  Phân vân

d.  Không cần thiết

Câu 6. Theo bạn, Đoàn thanh niên và Hội SV trường bạn đang học đã tổ

chức những phong trào, hoạt động nào nhằm giáo dục tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh cho SV? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

a.  Tổ chức các hội thi gắn với tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

PL3

b.  Tổ chức các chiến dịch tình nguyện

c.  Tổ chức các buổi sinh hoạt chính trị thông qua các lớp học “6 bài lý

luận chính trị”, “Tuần sinh hoạt học sinh SV”

d.  Hoạt động khác (vui lòng ghi rõ):

Câu 7. Theo bạn, tấm gương Hồ Chí Minh tiêu biểu với những phẩm chất

đạo đức nào? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

a.  Yêu nước, thương dân

b.  Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

c.  Ý chí, nghị lực phi thường

d.  Đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, khiêm tốn

e.  Nhân ái, vị tha, khoan dung

f.  Phẩm chất khác (vui lòng ghi rõ):

Câu 8. Hãy cho biết ý kiến của bạn về sự cần thiết học tập và rèn luyện của

SV hiện nay theo các phẩm chất đạo đức được rút ra từ tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh dưới đây? (với mỗi phẩm chất chọn 1 đáp án)

Các phẩm chất đạo đức Mức độ cần thiết

Rất cần Tương Phân Không

thiết đối cần vân cần

thiết thiết

Có lòng yêu nước, yêu nhân dân

Có ý chí, nghị lực vượt qua khó

khăn trong học tập và cuộc sống

Yêu thương con người, vị tha,

khoan dung

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công

vô tư

PL4

Câu 9. Bạn đã từng hành động để bảo vệ cái đúng hoặc bảo vệ lợi ích của tập

thể chưa? (câu chọn 1 đáp án)

a.  Đã từng (chuyển xuống câu 11) b.  Chưa từng

Câu 10. Lý do bạn chưa từng có hành động để bảo vệ cái đúng hoặc bảo vệ

lợi ích tập thể là gì? (câu chọn 1 đáp án)

a.  E ngại, sợ va chạm, sợ phiền hà đến bản thân

b.  Cảm thấy không cần thiết phải đứng ra bảo vệ cái đúng/lợi ích tập thể

c.  Chưa từng rơi vào tình trạng phải bảo vệ cái đúng/lợi ích tập thể

d.  Lý do khác (vui lòng ghi rõ):

Câu 11. Bạn đã bao giờ giúp đỡ bạn bè, những người sống xung quanh khi họ

rơi vào hoàn cảnh khó khăn? (câu chọn 1 đáp án)

a.  Chưa từng (chuyển xuống câu 12) b.  Thỉnh thoảng

c.  Thường xuyên

Câu 12. Bạn đã giúp đỡ bạn bè, những người sống xung quanh bằng những

việc làm cụ thể nào dưới đây? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

a.  Ủng hộ vật chất (tiền, sách vở, quần áo)

b.  Hiến máu nhân đạo, các hoạt động từ thiện

c.  Động viên tinh thần

d.  Kêu gọi những người khác cùng giúp đỡ

e.  Giới thiệu việc làm thêm

f.  Việc làm khác (vui lòng ghi rõ):

Câu 13. Bạn đã từng tham gia các hoạt động tình nguyện do Đoàn trường

hoặc các tổ chức chính trị - xã hội ở ngoài tổ chức? (câu chọn 1 đáp án)

a.  Chưa từng (chuyển xuống câu 15) b.  Đã từng

Câu 14. Lý do bạn tham gia vào các hoạt động tình nguyện đó là gì? (câu

chọn 1 đáp án)

a.  Thấy cảm thông và muốn chia sẻ với những người cần giúp đỡ

PL5

b.  Tham gia nhằm mục đích học hỏi, lấy kinh nghiệm

c.  Tham gia theo phong trào, bạn bè rủ rê

d.  Tham gia để được ghi nhận, được trao giấy khen

e. Lý do khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 15. Khi nghe hoặc đọc những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù

địch về các lãnh tụ, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, bạn đã có

hành động nào dưới đây? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

a.  Trực tiếp phê phán, phản bác bằng quan điểm, hiểu biết của cá nhân

b.  Chia sẻ nội dung, clip, hình ảnh chính thống, đúng đắn có ở trên mạng

phản bác, đấu tranh

c.  Chia sẻ những nội dung tích cực, câu chuyện “người tốt, việc tốt” trên

mạng xã hội

d.  Hành động khác (vui lòng ghi rõ)

e.  Không quan tâm

f.  Chưa đọc/nghe bao giờ

Câu 16. Hãy cho biết mức độ tin tưởng của bạn vào sự nghiệp đổi mới đất

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam (câu chọn 1 đáp án)

a.  Rất tin tưởng

b.  Tương đối tin tưởng

c.  Không tin tưởng

Câu 17. Hãy cho biết suy nghĩ của bạn về việc giải quyết mối quan hệ lợi ích

cá nhân và xã hội (câu chọn 1 đáp án)

a.  Luôn luôn đặt lợi ích của cá nhân lên trên

b.  Luôn luôn đặt lợi ích xã hội lên trên

c. Đặt lợi ích cá nhân trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích xã hội, trong

những trường hợp nếu có xung đột thì phải hy sinh lợi ích cá nhân.

PL6

Câu 18. Bạn có quan tâm đến đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

nhà nước, tình hình chính trị - xã hội của đất nước và địa phương không? (câu

chọn 1 đáp án)

a.  Không quan tâm

b.  Có quan tâm khi thầy (cô), bạn bè đề cập đến

c.  Chủ động tìm hiểu qua sách, báo, hỏi thầy (cô) và bạn bè

Bạn hãy vui lòng cho biết các thông tin cá nhân dưới đây:

- Là sinh viên Trường Đại học:

- Ngành học:

- Năm thứ:

- Dân tộc:

- Tôn giáo:

Chân thành cảm ơn sự cộng tác của bạn!

PL7

PHỤ LỤC 2

KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN CỦA SINH VIÊN

Câu 1. Hãy cho biết điều bạn quan tâm nhất hiện nay là gì? (câu chọn 1 đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Tích lũy kiến thức, hoàn thành các môn 362 62.4

chọn học/có bằng cấp

phiếu Tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức 135 23.3

mới và giá trị đạo đức truyền thống

Khẳng định vai trò của mình trong tập 23 4.0

thể

Tìm công việc làm thêm có thu nhập cao 60 10.3

Điều khác 0 0

Tổng số 580 100

Câu 2. SV trường bạn đang theo học có biểu hiện nào trong những biểu hiện

đáng lo ngại về đạo đức, lối sống dưới đây (câu có thể chọn nhiều đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Thực dụng, chỉ biết đến bản thân 268 46.2

chọn Đề cao giá trị vật chất, đua đòi, thích 280 48.3

phiếu hưởng thụ

Thiếu trung thực trong thi cử 174 30

Lười học tập, lười lao động, không cố 320 55.2

gắng rèn luyện

Không có lý tưởng sống 164 28.3

Biểu hiện khác 13 2.2

PL8

Câu 3. Bạn đã từng vi phạm nội quy, quy chế của trường với mức độ bị kiểm

điểm? (câu chọn 1 đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Đã từng 11.4 66

chọn Chưa từng 88.6 514

phiếu Tổng số 100 580

Câu 4. Theo bạn, tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò như

thế nào đối với xã hội Việt Nam hiện nay? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Là nền tảng tinh thần và nền tảng đạo 361 62.2

chọn đức của xã hội

phiếu Góp phần chống lại suy thoái đạo đức 267 46

của một bộ phận cán bộ, đảng viên và

một bộ phận trong xã hội

Giá trị và hình mẫu lý tưởng để bồi 291 50.2

dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ

Câu 5. Hãy cho biết ý kiến của bạn về sự cần thiết giáo dục tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh cho SV hiện nay? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

suất Tỷ lệ %

Tần chọn

Rất cần thiết 60.2 349

Tương đối cần thiết 30.3 176

Giá trị chọn phiếu Phân vân 7.2 42

Không cần thiết 2.2 13

Tổng số 100 580

PL9

Câu 6. Theo bạn, Đoàn thanh niên và Hội SV trường bạn đang học đã tổ chức

những phong trào, hoạt động nào nhằm giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh cho SV? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Tổ chức các hội thi gắn với tư tưởng, 460 79.3

chọn tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

phiếu Tổ chức các chiến dịch tình nguyện 367 63.3

Tổ chức các buổi sinh hoạt chính trị 372 64.1

thông qua các lớp học “6 bài lý luận

chính trị”, “Tuần sinh hoạt học sinh SV”

Hoạt động khác 81 14

Câu 7. Theo bạn, tấm gương Hồ Chí Minh tiêu biểu với những phẩm chất đạo

đức nào? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

Tần suất chọn Tỷ lệ %

Yêu nước, thương dân 439 75.7

Giá trị chọn Cần, kiệm, liêm, chính, chí 458 78.3

phiếu công vô tư

Ý chí, nghị lực phi thường 391 67.4

Đời tư trong sáng, nếp sống 421 72.6

giản dị, khiêm tốn

Nhân ái, vị tha, khoan dung 408 70.3

Phẩm chất khác 0 0

Câu 8. Hãy cho biết ý kiến của bạn về sự cần thiết học tập và rèn luyện

của SV hiện nay theo các phẩm chất đạo đức được rút ra từ tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh dưới đây? (với mỗi phẩm chất chọn 1 đáp án)

PL10

Các phẩm chất đạo đức Mức độ cần thiết

Rất cần Tương đối Phân Không

thiết cần thiết vân cần thiết

371 Có lòng yêu nước, yêu nhân 133 46 29

dân (64%) (23%) (8%) (5%)

Có ý chí, nghị lực vượt qua 354 104 70 52

khó khăn trong học tập và (61%) (18%) (12%) (9%)

cuộc sống

Yêu thương con người, vị 336 133 58 52

tha, khoan dung (58%) (23%) (10%) (9%)

Cần, kiệm, liêm, chính, chí 301 116 93 70

công vô tư (52%) (20%) (16%) (12%)

Câu 9. Bạn đã từng hành động bảo vệ cái đúng hoặc bảo vệ lợi ích của tập thể

chưa? (câu chọn 1 đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn Giá trị

chọn 47.1 273 Chưa từng

phiếu 52.9 307 Đã từng

100 580 Tổng số

Câu 10. Vậy lý do bạn chưa từng có hành động để bảo vệ cái đúng là gì? (câu

chọn 1 đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị E ngại, sợ va chạm, sợ phiền hà đến bản 42 15.4

chọn than

phiếu Cảm thấy không cần thiết phải đứng ra 15 5.5

PL11

bảo vệ cái đúng/lợi ích tập thể

Chưa từng rơi vào tình trạng phải bảo vệ 205 75.1

cái đúng/lợi ích tập thể

Lý do khác 11 4.0

Tổng số 273 100

Câu 11. Bạn đã bao giờ giúp đỡ bạn bè, những người sống xung quanh khi họ

rơi vào hoàn cảnh khó khăn? (câu chọn 1 đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Chưa từng 9 1.6

chọn Thỉnh thoảng 378 65.1

phiếu Thường xuyên 193 33.3

Tổng số 580 100

Câu 12. Bạn đã giúp đỡ bạn bè, những người sống xung quanh bằng những

việc làm cụ thể nào dưới đây? (câu có thể chọn nhiều đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị 62.6 Ủng hộ vật chất (tiền, sách vở, quần áo) 363

chọn 37.1 Hiến máu nhân đạo, các hoạt động từ 215

phiếu thiện

448 77.2 Động viên tinh thần

45.2 Kêu gọi những người khác cùng giúp đỡ 262

193 33.3 Giới thiệu việc làm thêm

6 1.0 Việc làm khác

Câu 13. Bạn đã từng tham gia các hoạt động tình nguyện do Đoàn trường

hoặc các tổ chức chính trị - xã hội ở ngoài tổ chức? (câu chọn 1 đáp án)

PL12

Tần suất Tỷ lệ %

Giá trị chọn

chọn Chưa từng 78 13.4

phiếu Đã từng 502 86.6

Tổng số 580 100

Câu 14. Lý do bạn tham gia vào các hoạt động tình nguyện đó là gì? (câu có

thể chọn nhiều đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Thấy cảm thông và muốn chia sẻ với 358 71.3

chọn những người cần giúp đỡ

phiếu Tham gia nhằm mục đích học hỏi, lấy 104 20.7

kinh nghiệm

Tham gia theo phong trào, bạn bè rủ rê 25 5.0

Tham gia để được ghi nhận, được trao 15 3.0

giấy khen

Lý do khác 0 0

Tổng số 502 100

Câu 15. Khi nghe hoặc đọc những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù

địch về các lãnh tụ, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, bạn đã có

hành động nào dưới đây? (có thể chọn nhiều đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Không quan tâm 77 13.3

chọn Trực tiếp phê phán, phản bác bằng quan 287 49.5

phiếu điểm, hiểu biết của cá nhân

PL13

Chia sẻ nội dung, clip, hình ảnh chính 146 25.2

thống, đúng đắn có ở trên mạng phản

bác, đấu tranh

Chia sẻ những nội dung tích cực, câu 263 45.3

chuyện “người tốt, việc tốt” trên mạng

xã hội

Hành động khác 22 3.8

Câu 16. Hãy cho biết mức độ tin tưởng của bạn vào sự nghiệp đổi mới đất

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam? (câu chọn 1 đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Rất tin tưởng 193 33.3

chọn Tương đối tin tưởng 361 62.2

phiếu Không tin tưởng 26 4.5

Tổng số 580 100

Câu 17. Hãy cho biết suy nghĩ của bạn về việc giải quyết mối quan hệ lợi ích

cá nhân và xã hội? (câu chọn 1 đáp án)

suất Tỷ lệ %

Tần chọn 77 13.3

Giá trị chọn phiếu

121 382 20.9 65.9

580 100 Luôn luôn đặt lợi ích của cá nhân lên trên Luôn luôn đặt lợi ích xã hội lên trên Đặt lợi ích cá nhân trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích xã hội, trong những trường hợp nếu có xung đột thì phải hy sinh lợi ích cá nhân Tổng số

PL14

Câu 18. Hãy cho biết, đối với đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

nhà nước, tình hình chính trị - xã hội của đất nước và địa phương, bạn quan

tâm như thế nào? (câu chọn 1 đáp án)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Không quan tâm 54 9.3

chọn Có quan tâm khi thầy (cô), bạn bè đề cập, 348 60.0

phiếu nói đến

Chủ động tìm hiểu qua sách, báo, hỏi thầy 178 30.7

(cô) và bạn bè

580 100 Tổng số

PL15

PHỤ LỤC 3

Để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, nghiên cứu sinh đã xây dựng phiếu

điều tra và tiến hành khảo sát tại 03 trường đại học ở Tây Nguyên, với 20

phiếu điều tra dành cho giảng viên khoa Lý luận chính trị.

Kết quả thu được từ hoạt động điều tra thực tế là cơ sở quan trọng để

luận án đi vào đánh giá thực trạng giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

cho sinh viên các trường đại học ở Tây Nguyên hiện nay.

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN

Chúng tôi đang nghiên cứu đề tài GIÁO DỤC TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC

HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC

Ở TÂY NGUYÊN.

Để thực hiện được đề tài, chúng tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của

quý thầy (cô), trong việc trả lời những câu hỏi trong phiếu này. Chúng tôi cam

đoan rằng, tất cả những thông tin mà quý thầy (cô) cung cấp chỉ được dùng

cho việc nghiên cứu, ngoài ra không dùng cho bất kỳ mục đích nào khác.

Xin thầy (cô) vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu

vào ô  cạnh câu trả lời.

Câu 1. Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến của mình về nhận định: sinh viên (SV)

hiện nay đang có những biểu hiện xuống cấp về đạo đức (câu hỏi có 1 lựa

chọn)

a.  Hoàn toàn đồng ý

b.  Tương đối đồng ý

c.  Phân vân

d.  Không đồng ý (chuyển xuống câu 3)

Câu 2. Theo thầy (cô), sự xuống cấp về đạo đức của SV xuất phát từ những

nguyên nhân nào? (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

PL16

a.  Cha (mẹ), thầy (cô) chưa thực sự chú trọng đến giáo dục đạo đức cho SV

b.  Hiệu quả các hoạt động giáo dục đạo đức cho SV chưa cao

c.  SV chưa nhận thức đúng về vai trò của đạo đức và tích cực tu dưỡng, rèn

luyện đạo đức

d.  Sự tác động tiêu cực từ môi trường xã hội, từ bạn bè

e. Lý do khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 3. Theo thầy (cô), SV có biểu hiện nào trong những biểu hiện đáng lo

ngại về đạo đức, lối sống dưới đây (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

a.  Thực dụng, chỉ biết đến bản thân

b.  Đề cao giá trị vật chất, đua đòi, thích hưởng thụ

c.  Thiếu trung thực trong thi cử

d.  Lười học tập, lười lao động, ít cố gắng rèn luyện

e.  Không có lý tưởng sống

f.  Biểu hiện khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 4. Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến của mình về sự cần thiết giáo dục tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV hiện nay? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

a.  Rất cần thiết

b.  Tương đối cần thiết

c.  Phân vân

d.  Không cần thiết

Câu 5. Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến nhận xét về mức độ quan tâm của Đảng

ủy, Ban giám hiệu đối với việc giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho

SV? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

a.  Rất quan tâm

b.  Tương đối quan tâm

c.  Không quan tâm (chuyển xuống câu 7)

PL17

Câu 6. Sự quan tâm của Đảng ủy, Ban giám hiệu được thể hiện như thế nào?

(câu hỏi có nhiều lựa chọn)

a.  Tạo điều kiện thuận lợi nhất để giảng viên (GV) được học tập nâng cao

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

b.  Tạo điều kiện về cơ sở vật chất để GV đổi mới phương pháp dạy học

c.  Hỗ trợ về vật chất và quan tâm, động viên tinh thần GV

d.  Ủng hộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh cho SV như tổ chức tọa đàm, hội thảo,…

e.  Có các đãi ngộ đặc biệt hơn GV các khoa khác trong trường

f.  Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 7. Thầy (cô) đã có những hành động nào dưới đây để chia sẻ, giúp đỡ

SV, những người sống xung quanh khi họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn? (câu

hỏi có nhiều lựa chọn)

a.  Ủng hộ vật chất (tiền, sách vở, quần áo)

b.  Hiến máu nhân đạo, các hoạt động từ thiện

c.  Động viên tinh thần

d.  Kêu gọi những người khác cùng giúp đỡ

e.  Giới thiệu việc làm thêm cho SV, giới thiệu việc làm chính thức cho SV

đã tốt nghiệp

f. Hành động khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 8. Thầy (cô) đã có những hành động nào để bảo vệ cái đúng hoặc bảo vệ

lợi ích của tập thể (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

a.  Chống gian lận, tiêu cực trong thi cử

b.  Khách quan trong đánh giá kết quả của SV

c.  Giữ gìn tài sản công, tiết kiệm của công

d.  Giảng dạy đúng giờ, hiệu quả

e.  Khách quan trong bình bầu khen thưởng

PL18

f. Hành động khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 9. Thầy (cô) đã đánh giá việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh ở SV thông qua những hình thức nào dưới đây? (câu hỏi có nhiều

lựa chọn)

a.  Qua nhận thức, tình cảm được thể hiện trong báo cáo thảo luận nhóm, trả

lời cá nhân

b.  Qua xử lý tình huống được GV đặt ra

c.  Qua nhận thức, tình cảm thể hiện trên bài thi hết môn

d.  Qua hành vi, ứng xử của SV với bạn bè, thầy cô và những người xung

quanh mà GV quan sát được

e. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 10. Theo thầy (cô), thời lượng dành cho học phần mà mình đang đảm

nhiệm như thế nào? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

a.  Tương đối phù hợp, vừa phải

b.  Quá ít

c.  Quá nhiều

Câu 11. Thầy (cô) có tích hợp những nội dung giáo dục tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh trong giảng dạy học phần mà mình đang đảm nhiệm không?

(câu hỏi có 1 lựa chọn)

a.  Chưa từng

b.  Thỉnh thoảng khi có điều kiện

c.  Thường xuyên

d. Ý kiến khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 12. Theo thầy (cô), mức độ hứng thú của SV trong học tập các môn lý

luận chính trị như thế nào? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

a.  Rất hứng thú

b.  Tương đối hứng thú

PL19

c.  Ít hứng thú

d.  Không có hứng thú

Câu 13. Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến của mình về hiệu quả của việc giáo dục

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV thông qua hoạt động giảng dạy các

môn lý luận chính trị hiện nay? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

a.  Rất hiệu quả (chuyển xuống câu 15)

b.  Tương đối hiệu quả (chuyển xuống câu 15)

c.  Ít hiệu quả

d.  Không hiệu quả

Câu 14. Lý do khiến cho việc giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho

SV thông qua hoạt động giảng dạy các môn lý luận chính trị chưa hiệu quả là

gì? (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

a.  GV thiếu sự đầu tư cho bài giảng

b.  GV chưa thực sự là tấm gương của những chuẩn mực đạo đức cách

mạng

c.  SV chưa nhận thức đúng về vai trò và tích cực tu dưỡng, rèn luyện theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

d.  Việc học của SV mang nặng tính thi cử, trả nợ môn

e.  Lớp học quá đông SV

f.  Khó vận dụng các chuẩn mực đạo đức cách mạng vào thực tiễn

g.  Suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và của một bộ

phận trong xã hội

h.  Lý do khác (vui lòng ghi rõ)

Câu 15. Theo thầy (cô), những điều gì cần phải thực hiện để nâng cao hơn

nữa hiệu quả giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV trong thời

gian tới? (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

a.  Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị, nhất là những

PL20

nội dung liên quan đến tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

b.  SV được tham quan di tích lịch sử gắn với cuộc đời, hoạt động cách

mạng của Hồ Chí Minh

c.  Thầy (cô) là tấm gương sáng về rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh

d.  Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội

e.  Nâng cao tính tích cực, tự giác của SV trong học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh

Thầy (cô) hãy vui lòng cho biết các thông tin cá nhân dưới đây:

- Giới tính của thầy (cô):

- Tuổi:

- Trình độ:

- Lĩnh vực chuyên môn:

- Thâm niên giảng dạy:

- Trường thầy (cô) công tác:

Chân thành cảm ơn sự cộng tác của thầy (cô)!

PL21

PHỤ LỤC 4

KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN CỦA GIẢNG VIÊN

Câu 1. Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến của mình về nhận định: sinh viên (SV) hiện

nay đang có những biểu hiện xuống cấp về đạo đức (câu hỏi có 1 lựa chọn).

Tần suất chọn Tỷ lệ %

Hoàn toàn đồng ý 0 0.0

Giá trị chọn phiếu Tương đối đồng ý 8 40.0

Phân vân 10 50.0

Không đồng ý 2 10.0

Tổng số 20 100

Câu 2. Theo thầy (cô), sự xuống cấp về đạo đức của SV xuất phát từ những

nguyên nhân nào? (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Cha (mẹ), thầy (cô) chưa thực sự chú 5 25.0

chọn trọng đến giáo dục đạo đức cho SV

phiếu Hiệu quả các hoạt động giáo dục đạo đức 7 35.0

cho SV chưa cao

SV chưa nhận thức đúng về vai trò của 15 75.0

đạo đức và tích cực tu dưỡng, rèn luyện

đạo đức

Sự tác động tiêu cực từ môi trường xã 7 35.0

hội, từ bạn bè

Lý do khác 0 0.0

Câu 3. Theo thầy (cô), SV có biểu hiện nào trong những biểu hiện đáng lo

ngại về đạo đức, lối sống dưới đây (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

PL22

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Thực dụng, chỉ biết đến bản thân 9 45.0

chọn Đề cao giá trị vật chất, đua đòi, thích 9 45.0

phiếu hưởng thụ

Thiếu trung thực trong thi cử 4 20.0

Lười học tập, lười lao động, ít cố gắng 13 65.0

rèn luyện

Không có lý tưởng sống 5 25.0

Biểu hiện khác 0 0.0

Câu 4. Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến của mình về sự cần thiết giáo dục tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV hiện nay? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

Tần suất chọn Tỷ lệ %

Rất cần thiết 20 100

Giá trị Tương đối cần thiết 0 0.0

chọn Phân vân 0 0.0

phiếu Không cần thiết 0 0.0

Tổng số 20 100

Câu 5. Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến nhận xét về mức độ quan tâm của Đảng

ủy, Ban giám hiệu đối với việc giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho

SV? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

Tần suất chọn Tỷ lệ %

Rất quan tâm 11 55.0

Giá trị Tương đối quan tâm 9 45.0

chọn Không quan tâm 0 0.0

phiếu Tổng số 20 100

PL23

Câu 6. Sự quan tâm của Đảng ủy, Ban giám hiệu được thể hiện như thế nào?

(câu hỏi có nhiều lựa chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Tạo điều kiện thuận lợi nhất để GV được 12 60.0

chọn học tập nâng cao trình độ chuyên môn,

phiếu nghiệp vụ

Tạo điều kiện về cơ sở vật chất để GV 13 65.0

đổi mới phương pháp dạy học

Hỗ trợ về vật chất và quan tâm, động 6 30.0

viên tinh thần GV

Ủng hộ các giải pháp nhằm nâng cao 8 40.0

hiệu quả giáo dục tư tưởng và tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh cho SV như tổ

chức tọa đàm, hội thảo,…

Có các đãi ngộ đặc biệt hơn giảng viên 0 0.0

(GV) các khoa khác trong trường

Ý kiến khác 0 0.0

Câu 7. Thầy (cô) đã có những hành động nào dưới đây để chia sẻ, giúp đỡ SV

và những người sống xung quanh khi họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn? (câu

hỏi có nhiều lựa chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Ủng hộ vật chất (tiền, sách vở, quần áo) 18 90.0

chọn Hiến máu nhân đạo, các hoạt động từ 7 35.0

phiếu thiện

PL24

50.0 Động viên tinh thần 10

25.0 Kêu gọi những người khác cùng giúp đỡ 5

55.0 Giới thiệu việc làm thêm cho SV, giới 11

thiệu việc làm chính thức cho SV đã tốt

nghiệp

Hành động khác 0 0.0

Câu 8. Thầy (cô) đã có những hành động nào để bảo vệ cái đúng, bảo vệ lợi

ích của tập thể (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị 55.0 Chống gian lận, tiêu cực trong thi cử 11

chọn 80.0 Khách quan trong đánh giá kết quả của 16

phiếu SV

35.0 Giữ gìn tài sản công, tiết kiệm của công 7

55.0 Giảng dạy đúng giờ, hiệu quả 11

35.0 Khách quan trong bình bầu khen thưởng 7

0.0 Hành động khác 0

Câu 9. Thầy (cô) đã đánh giá việc học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh ở SV thông qua những hình thức nào dưới đây? (câu hỏi có nhiều lựa

chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Qua nhận thức, tình cảm thể hiện trong 11 55.0

chọn báo cáo thảo luận nhóm hoặc trả lời cá

phiếu nhân

Qua xử lý tình huống được GV đặt ra 8 40.0

PL25

Qua nhận thức, tình cảm thể hiện trên bài 7 35.0

thi hết môn

Qua hành vi, ứng xử của SV với bạn bè, 4 20.0

thầy cô và những người xung quanh mà

GV quan sát được

Ý kiến khác 0 0.0

Câu 10. Theo thầy (cô), thời lượng dành cho học phần mà mình đang đảm

nhiệm như thế nào?(câu hỏi có 1 lựa chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị Tương đối phù hợp, vừa phải 6 30.0

chọn Quá ít 14 70.0

phiếu Quá nhiều 0 0.0

Tổng số 20 100

Câu 11. Thầy (cô) có tích hợp những nội dung giáo dục tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh trong giảng dạy học phần mà mình đang đảm nhiệm hay không?

(câu hỏi có 1 lựa chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị 3 15.0 Chưa từng

chọn 14 70.0 Thỉnh thoảng khi có điều kiện

phiếu 3 15.0 Thường xuyên

0 0 Ý kiến khác

20 100 Tổng số

Câu 12. Theo thầy (cô), mức độ hứng thú của SV trong học tập các môn lý

luận chính trị như thế nào? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

PL26

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị 3 15.0 Rất hứng thú

chọn 6 30.0 Tương đối hứng thú

phiếu 9 45.0 Ít hứng thú

2 10.0 Không có hứng thú

20 100 Tổng số

Câu 13. Thầy (cô) hãy cho biết ý kiến của mình về hiệu quả của việc giáo dục

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV thông qua giảng dạy các môn lý

luận chính trị? (câu hỏi có 1 lựa chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị 3 15.0 Rất hiệu quả

chọn 9 45.0 Tương đối hiệu quả

phiếu 7 35.0 Ít hiệu quả

1 5.0 Không hiệu quả

20 100 Tổng số

Câu 14. Lý do khiến cho việc giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho

SV thông qua giảng dạy các môn lý luận chính trị? (câu hỏi có nhiều lựa

chọn)

Tần suất Tỷ lệ %

chọn

Giá trị 7 35.0 GV thiếu sự đầu tư cho bài giảng

chọn 25.0 GV chưa thực sự là tấm gương của những 5

phiếu chuẩn mực đạo đức cách mạng

SV chưa nhận thức đúng về vai trò và tích 12 60.0

PL27

cực tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh

Việc học của SV mang nặng tính thi cử, 15 75.0

trả nợ môn

Lớp học quá đông SV 7 35.0

Khó vận dụng các chuẩn mực đạo đức 5 25.0

cách mạng vào thực tiễn

Suy thoái đạo đức của một bộ phận cán 9 45.0

bộ, đảng viên và của một bộ phận trong xã

hội

Lý do khác 0 0.0

Câu 15. Theo thầy (cô), những điều gì cần phải thực hiện để nâng cao hơn

nữa hiệu quả giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho SV trong thời

gian tới? (câu hỏi có nhiều lựa chọn)

suất Tỷ lệ %

Tần chọn 14 70.0

Giá trị chọn phiếu

10 50.0

5 25.0

4 20.0

12 60.0

Đổi mới phương pháp dạy học các môn lý luận chính trị, nhất những nội dung liên quan đến tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh SV được tham quan di tích lịch sử gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh Thầy (cô) là tấm gương sáng về rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Tăng cường phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội Nâng cao tính tích cực, tự giác của SV trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh