
Điều Trị Nội Khoa Hội Chứng Ruột Ngắn
Bệnh nhân trải qua cắt đoạn ruột non quá dài thường có những biểu hiện rối
loạn nước điện giải nặng ở giai đoạn hậu phẫu sớm.
Ưu tiên số một là phải đảm bảo rằng bệnh nhân đã được hồi sức đầy đủ và
ổn định về mặt huyết động học.
Theo Cosnes và đồng sự (1985), rối loạn nước điện giải là nhóm biến
chứng sớm nhất trong thời kỳ hậu phẫu ở những bệnh nhân này.
H1-Hội chứng ruột ngắn do cắt phần lớn hỗng tràng

Scolapio và Fleming (1998) đã đưa ra các hướng dẫn điều trị bồi hoàn nước
điện giải ở những bệnh nhân này, bao gồm bồi hoàn nước điện giải mất qua ống
sonde mũi-dạ dày và qua phân.
Các tác giả khuyến cáo bù thêm khoảng 300-500 mL vào thể tích dịch tổng
cộng đã được truyền để thay thế lượng dịch bị mất không nhận biết rõ ràng được.
Thể tích dịch thay thế này được bù thêm vào thể tích duy trì hàng ngày của
bệnh nhân đã được tính toán sẵn. Lượng nước tiểu hàng ngày phải đạt ít nhất 1 L.
Dinh dưỡng qua đường tiêm truyền là trị liệu quan trọng nhất trong chăm
sóc bệnh nhân có hội chứng ruột ngắn.
Dinh dưỡng qua đường tiêm truyền cung cấp đầy đủ lượng protein,
calories, các chất dinh dưỡng và các yếu tố vi lượng khác cho đến khi ruột có đủ
thời gian để thích nghi.
Thời gian tối ưu để ruột thích nghi còn nhiều tranh luận. Booth (1994) cho
rằng ruột không thể kịp thích nghi trước một năm hoặc hơn sau phẫu thuật cắt
đoạn.
Carbonnel (1996) và các tác giả khác cho rằng ít có khả năng bù trừ ruột
(bowel compensation) xảy ra sau 3 tháng.
Các dữ liệu nghiên cứu trên động vật do Wilmore và đồng sự tiến hành
(1971) cho thấy việc nuôi ăn thêm bằng đường ruột cộng với dinh dưỡng bằng
đường tiêm truyền trong giai đoạn hậu phẫu sớm sẽ giúp ruột thích nghi tốt hơn.
Điều này có thể do trữ lượng calorie và nguồn nitrogen đã được bổ sung
đầy đủ hơn.

Theo Nightingale và đồng sự (1990), khi sự hấp thu dinh dưỡng ở ruột
giảm dưới 1/3 so với khả năng trước khi bị bệnh, cần thiết phải bổ sung một lượng
chất dinh dưỡng qua đường tiêm truyền.
- Dinh dưỡng qua đường tiêm truyền được khởi đầu bằng công thức chuẩn,
truyền trong thời gian 24 giờ mỗi ngày trên cơ sở điều trị nội trú.
- Cố gắng truyền đủ lượng cần thiết mỗi ngày với thời gian tiêm truyền
ngày càng ngắn hơn trước khi cho người bệnh xuất viện.
Phương pháp này gọi là truyền theo chu kỳ (cycling) và giúp bệnh nhân
được giải phóng khỏi máy bơm dung dịch ít nhất trong một khoảng thời gian nào
đó trong ngày.
- Ngoài ra, cần thực hiện các xét nghiệm sinh hoá máu, thường xuyên kiểm
tra các chất vô cơ và các chất vi lượng, điều chỉnh các rối loạn thông qua lượng
chất dinh dưỡng tiêm truyền đường tĩnh mạch.
- Với thời gian, đa số các bệnh nhân đều có khả năng phục hồi và tăng
lượng thực phẩm qua đường miệng.
- Khởi đầu bằng cách cho ăn nhiều bữa ăn nhỏ và tăng dần khẩu phần tuỳ
theo sự dung nạp.
Theo Scolapio và Fleming (1998), quy trình “cai” chất dinh dưỡng qua
đường tiêm truyền có thể bắt đầu một khi lượng calorie nhập qua đường miệng
vượt quá 1000 kcal/ngày.
Tiếp tục giảm lượng dinh dưỡng qua tiêm truyền dựa trên tăng dần khẩu
phần ăn.

Woolf và đồng sự (1987) cho rằng rằng lượng chất dinh dưỡng sẽ không
được hấp thu hoàn toàn ở những bệnh nhân mất từ một nửa lượng ruột non hoặc
hơn.
Do đó, họ thường cần khoảng 30-40 kcal/kg/ngày qua đường tiêm truyền để
đáp ứng đầy đủ nhu cầu năng lượng hàng ngày.
Một nhóm bệnh nhân cắt hồi tràng và đại tràng với số lượng đáng kể có thể
mất dịch khá nhiều. Lưu lượng dịch qua ống tiêu hoá có khi vượt quá 2,5 L/ngày.
Đa số các bệnh nhân này thường lệ thuộc dịch truyền kéo dài. Một số có thể
thích nghi tốt với lượng nước, glucose và sodium dùng đường uống.
Nhóm nghiên cứu Wilmore's (1997) đã báo cáo thành công tốt đẹp với
Gatorade, một loại nước giải khát dùng cho các vận động viên.
Scolapio và Fleming (1998) cho rằng dung dịch này cần chứa ít nhất 90
mmol/L sodium mới phù hợp.
Điều này cho thấy cần phải thêm muối vào các dung dịch có sẵn trên thị
trường.

H2- Bệnh nhân hội chứng ruột ngắn lệ thuộc dinh dưỡng qua đường tiêm
truyền
Mặc dù có sự thích nghi của ruột và việc điều trị rất kỹ lưỡng về mặt dinh
dưỡng, một số bệnh nhân cũng không thể ngưng được đường dinh dưỡng qua dịch
truyền.
Thường là những bệnh nhân chỉ còn lại ít hơn 60 cm ruột non, mất hồi
tràng và van hồi manh tràng, mất đại tràng.
Wilmore, Byrne, và đồng sự (1997) là những người dẫn đầu trong quan
niệm bù trừ ruột bằng thuốc (pharmacologic bowel compensation) bao gồm những
biện pháp nhắm đến việc tăng cường sự thích nghi của ruột, có thể giúp một số
trường hợp rất khó “cai” dinh dưỡng bằng tiêm truyền.
Việc điều trị bao gồm:

