Giáo trình Thị trường kỳ hạn
lượt xem 109
download
Giáo trình gồm các nội dung chính: Khái niệm thị trường kỳ hạn và giao sau, sự hình thành và phát triển thị trường kỳ hạn và giao sau, cấu trúc thị trường kỳ hạn và giao sau, cơ chế giao dịch giao sau, các loại chi phí giao dịch,... Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung giáo trình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Thị trường kỳ hạn
- ̣ LUC MUC ̣ Taì liêu ̣ tham khao ̉
- 1. Khái niệm thị trường kỳ hạn và giao sau 1.1. Thị trường kỳ hạn Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó yêu cầu giao một hàng hóa tại một thời điểm trong tương lai với giá cả đã đồng ý ngày hôm nay. Ví dụ: • Tiền thuê căn hộ là một chuỗi các hợp đồng kỳ hạn: Việc sử dụng căn hộ tháng này là một giao dịch giao ngay, nhưng thỏa thuận sử dụng căn hộ trong những tháng tiếp theo với mức giá đã xác định hôm nay là một hợp đ ồng kỳ hạn. • Việc đặt mua báo dài hạn cũng là một ví dụ về hợp đồng kỳ hạn vì trong đó không những đã chốt lại mức giá cho ngày hôm nay (giao dịch giao ngay) mà còn cho những ngày sau đó trong tương lai (giao dịch kỳ hạn). • Việc đặt giao bánh pizza cũng là một hợp đồng kỳ hạn (mặc dù các thỏa thuận chỉ vừa thực hiện trước đó vài chục phút). • Giả sử Mr. X muốn mua một ngôi nhà trong vòng 1 năm tới, đồng thời Mr. Y sở hữu một căn nhà và anh ta muốn bán trong cùng thời gian đó. Y thoả thuận bán ngôi nhà của Y cho X sau 1 năm nữa với giá là $104.000, hợp đ ồng này là một hợp đồng kì hạn. Vì X là người mua nên X mong muốn giá sẽ tăng trong tương lai, ngược lại, Y muốn giá giảm. Cuối năm, giả sử giá thị trường của ngôi nhà lúc đó là $110.000, trong khi Y có nghĩa vụ phải bán nhà cho X với giá $104.000 theo như cam kết trong hợp đồng nên có thể coi như Y đã lỗ $6.000, còn X lãi $6.000 (vì X có thể mua nhà của Y với giá $104.000 và bán ngay trên th ị trường với giá $110.000. Nhìn chung nếu không tính đến các nhân tố khác thì giá kì hạn bao giờ cũng lớn hơn giá giao ngay, vì nó bao gồm cả lãi suất. Tiếp tục ví dụ trên, giả sử giá bán hiện nay của ngôi nhà là $100.000, thì Y có thể bán ngay để đem gửi ngân hàng để hưởng lãi suất 4%/năm. Sau 1 năm Y sẽ có số tiền $104.000 mà không phải chịu chút rủi ro nào. Trong khi đó nếu X muốn mua ngay ngôi nhà anh ta s ẽ đ ến vay ngân hàng số tiền $100.000, và cũng phải trả lãi 4%/năm. Còn ngược lại nếu kí hợp đồng mua kì hạn anh ta sẽ không phải trả lãi nên X cũng s ẵn sàng b ỏ ra $104.000 để mua ngôi nhà trong vòng 1 năm nữa. Đó là lý do vì sao giá kì hạn được thống nhất ở $104.000 chứ không phải là $100.000. 1.2. Thị trường giao sau Hợp đồng giao sau là một cam kết pháp lý của các bên về việc mua hoặc bán một lượng hàng hóa vào một thời điểm trong tương lai thông qua Sở giao dịch và các cơ quan trung gian ở một giá được định trước. Hợp đồng giao sau là một hợp đồng kỳ hạn đã được tiêu chuẩn hóa, chúng được điều chỉnh theo thị trường hằng ngày trong đó khoản lỗ của một bên được chi trả cho bên còn lại. (Thị trường này chưa có ở Việt Nam) Ví dụ: Công ty A bán cho công ty B 100.000 thùng dầu giao tháng 5/2007 theo một hợp đồng tương lai với giá $65/thùng. Đến tháng 5/2007, giá dầu lên $85/thùng thì hoặc là A sẽ phải giao cho B 100.000 thùng dầu với giá $65 hoặc A sẽ không phải giao dầu mà thanh toán cho B là 20x100.000 = 2tr USD. Phân loại (theo thời điểm thanh lý hợp đồng)
- - HĐGS được thanh lý sau khi giao hàng: Đây là loại hợp đồng tồn tại một sự giao hàng thực sự theo như thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp này, về bản chất thì HĐGS tương tự như hợp đồng kỳ hạn (Forward). - HĐGS được thanh lý trước ngày giao hàng ghi trong hợp đ ồng: Đây là loại hợp đồng không có sự giao hàng trên thực tế xảy ra, các bên chấm dứt sự ràng buộc của mình đối với phía bên kia bằng nghiệp vụ thanh toán bù trừ, nghĩa là các bên mua hoặc bán lại chính loại hàng hóa đó ngược với vị thế mà mình đã có (vị thế mua hoặc bán trước đây). Đây là dạng phổ biến, nhờ đó mà tồn tại thị trường giao sau. 2. Sự hình thành và phát triển thị trường kỳ hạn và giao sau Vào những thời kỳ đầu của giao thương, như trong các phiên chợ thời Trung cổ - các nhà buôn thường thỏa thuận giao nhận hàng hóa với một mức giá ấn định trước. Vài thế kỷ sau đó, các thị trường giao ngay hàng hóa có tổ chức bắt đ ầu phát triển ở các thành phố, chủ yếu của Châu Âu và Nhật. Mặc dù vậy, đánh dấu sự ra đời của một thị trường giao sau hiện đại là sự kiện thành lập Hội đồng thương mại Chicago (CBOT) vào năm 1848. 2.1. Thị trường kỳ hạn Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường kỳ hạn nằm trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường tài chính phái sinh. - Bắt nguồn từ các thị trường ngoại hối (thị trường liên ngân hàng – Interbank market). - Phát triển nhanh chóng nhờ vào sự thả nổi của các đồng tiền mạnh vào đầu thập niên 1970. - Thập niên 1980, đã chứng kiến bước nhảy ngoạn mục của các công cụ tài chính phái sinh – động lực chính của những tăng trưởng trên thị tr ường này là các giao dịch hoań đổi Swap. Tại Việt Nam Ở Việt Nam, giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên theo Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên trên thực tế hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng (Interbank) ở VN chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá. 2.2. Thị trường giao sau 2.2.1. Thị trường giao sau hàng hóa (Chicago) Vào thập niên 1980, Chicago nhanh chóng trở thành trung tâm phân phối nông sản của vùng Trung Tây nước Mỹ. Nông dân Mỹ phải đối mặt với nhiều vấn đề trong sản xuất, dự tr ữ hay bán hàng bởi các yếu tố như thời tiết, vận chuyển,… ảnh hưởng đến cung và cầu. Trong trường hợp giá cả tăng lên, nông dân luôn sẵn sàng đẩy mạnh sản xuất, nhưng trong trường hợp giá cả giảm sút sẽ xảy ra hiện tượng bán tống bán tháo hàng loạt. Dần dần, hoạt động này trở nên sôi nổi đến mức hầu như không
- đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Ngoài ra, sự tồn tại những phương pháp nghèo nàn trong việc cân và phân loại hàng hóa đã đẩy người nông dân vào tình thế phải chịu sự định đoạt của các thương nhân. Cũng tương tự, những thương nhân luôn đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn do biến động trong giá cả gây nên. Một cơ chế để có thể giảm thiểu hay hạn chế bởi những rủi ro trên là nhu cầu bức thiết. Bằng những thoả thuận trước về giá cả, người mua cũng như người bán có thể phòng ngừa được những rủi ro do biến động giá cả trong tương lai gây nên. Nhờ đó, nông dân xác định được một mức giá chắc chắn cho l ượng hàng họ sẽ sản xuất ra mà không phải lo ngại về tình trạng nguồn cung quá lớn sẽ dẫn đến giảm giá, gây thiệt hại cho đời sống của họ. Những thương nhân đóng vai trò trung gian giữa nông dân và người tiêu dùng cuối cùng sẽ không còn phải lo ngại về những biến động bất lợi của giá cả khi họ có thể phải thu mua với giá cao và bán ra với mức giá thấp không được dự tính trước. Tuy nhiên, cơ chế người mua và người bán gặp nhau để thoả thuận trước những giao dịch trong tương lai, xác định trước về giá cả và ngày thời gian giao hàng tỏ ra không hiệu quả. Thực tế đó làm phát sinh yêu cầu cần có một có chế thị trường trung gian tham gia vào, đây là khởi điểm cho sự phát triển của Thị trường tương lai về sau. Năm 1848, 82 thương gia đã đến Chicago và đã cùng thành l ập nên Trung tâm giao dịch The Chicago Board of Trade (CBOT). Ở đó, người nông dân và các thương nhân có thể mua bán trao ngay tiền mặt và lúa mì theo tiêu chuẩn v ề s ố lượng và chất lượng do CBOT qui định. Nhưng các giao dịch ở CBOT bấy giờ chỉ dừng lại ở hình thức của một chợ nông sản vì hình thức mua bán chỉ là nhận hàng – trao tiền đủ, sau đó thì quan hệ các bên chấm dứt. Lịch sử phát triển của thị trường giao sau không dừng lại ở đó. Đến năm 1874, The Chicago Produce Exchange được thành lập và đổi tên thành Chicago Butter and Egg Board. Năm 1898, tổ chức này lại đổi tên thành Chicago Mercantile Exchange (CME), giao dịch thêm một số loại nông sản khác và trở thành thị trường giao sau lớn nhất Hoa Kỳ. (Hiện nay là sàn giao dịch hợp đồng giao sau lớn thứ 2 thế giới). Năm 1979, thành lập sàn giao dịch giao sau New York – Chi nhánh của sàn giao dịch chứng khoań New York. Thị trường giao sau sau đó tiếp tục phát triển qua các quốc gia như Anh, Nhật, Ý Pháp, Úc, Phần Lan, Newzeland, Tây Ban Nha,… và các quốc gia mới nổi như Hungary, Romania, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Singapore, Nam Phi,… Mặc dù có nhiều thăng trầm trong quá trình phát triển thị trường giao sau ở mỗi nước nhưng các sàn giao dịch giao sau vẫn tồn tại và hoạt động cho đến nay. 2.2.2. Thị trường giao sau tài chính Năm 1971 Hiệp ước Bretton Wood sụp đổi, tỷ giá các nước biến động mạnh. Năm 1972 Hợp đồng giao sau tiền tệ ra đời là hợp đồng giao sau tài chính đầu tiên trên thế giới. Năm 1975 Hợp đồng giao sau lãi suất ra đời. Năm 1977 Hợp đồng giao sau chứng khoań ra đời. Năm 1980 Hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoań bắt đầu thành công vang dội. Thị trường quyền chọn giao sau (quyền chọn hàng hóa)
- Năm 1982 Hợp đồng quyền chọn mà tài sản cơ sở là một hợp đồng giao sau đã được tạo ra tại Mỹ. Năm 1987 các quyền chọn trên hợp đồng giao sau được phép thực hiện chính thức tại Mỹ và ở nhiều thị trường trên thế giới. Một quyền chọn giao sau cho phép người nắm giữ quyền được mua, nếu là quyền chọn mua, và bán, nếu là quyền chọn bán, một hợp đồng giao sau tài sản cụ thể tại một mức giá cố định vào một ngày đáo hạn trong tương lai. Sản phẩm phái sinh này thực hiện trên một sản phẩm phái sinh khác à tài sản cơ sở chính là một sản phẩm phái sinh. Có hai ngày đáo hạn, ngày đáo hạn của quyền chọn và ngày đáo hạn của hợp đồng giao sau. Thông thường, hợp đồng quyền chọn có thời gian đáo hạn trước nhưng tương đối gần với ngày đáo hạn của hợp đồng giao sau. Hình thành một thị tr ường hiệu quả cao độ ở các nước phát triển. Một số sàn giao sau trên thế giới • Sàn Giao Dịch Chicago (CME). • Sàn Giao Dịch Tiền Tệ Quốc Tế Singapore (SIMEX). • Sàn giao dịch giao sau bận rộn nhất trên thế giới là EUREX, là sàn giao dịch liên kết giữa Đức và Thụy Sĩ. • Một số sàn giao sau trên thế giới
- Ngày nay, TTGS đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản ban đầu, nó trở thành công cụ tài chính để bảo vệ các loại hàng hóa truyền thống và cũng là một trong những công cụ đầu tư hữu hiệu nhất trong ngành tài chính. TTTL hiện nay hoạt động liên tục thông qua hệ thống Globex nối liền 12 trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Sự thay đổi giá cả của các loại hàng hóa chuyển biến từng giây một và gây ảnh hưởng không chỉ đến nền kinh tế của một quốc gia mà cả khu vực và toàn thế giới. • Một số hợp đồng giao sau phổ biến • Ngũ cốc và hạt có dầu • Gia súc sống và thịt • Thực phẩm và sợi • Kim loại và xăng dầu • Ngoại tệ • Trái phiếu và lãi suất • Chỉ số kinh tế • Chỉ số chứng khoan ́
- Ví dụ về một số sản phẩm nông sản trong hợp đồng giao sau 3. Cấu trúc thị trường kỳ hạn và giao sau 3.1. Cấu trúc thị trường kỳ hạn Thị trường kỳ hạn là một thị trường lớn rộng khắp trên toàn thế giới. Do trong thị trường kỳ hạn, các bên tham gia phải chịu rủi ro tiềm ẩn không thực hiện nghĩa vụ từ bên kia nên những thành viên của thị trường là các tổ chức lớn có uy tín như ngân hàng, công ty và chính phủ. Hai bên ký kết hợp đồng kỳ hạn phải đồng ý thực hiện nghĩa vụ với nhau, tức là mỗi bên phải chấp nhận rủi ro tín dụng của bên kia. Dạng hợp đồng này không giống như hợp đồng trên thị trường quyền chọn, nơi mà người bán không chịu bất cứ rủi ro tín dụng nào từ người mua. Hợp đồng kỳ hạn cũng mang lại những thuận lợi đáng kể. Thuận lợi chính là các điều khoản và điều kiện được thiết kế theo nhu cầu cụ thể của hai bên. Giả định một công ty mong muốn chốt lại giá mua trong tương lai của 500.000 tạ cà phê. Do công ty không tìm thấy trên thị trường giao sau loại hợp đồng phù hợp với nhu cầu của mình về chủng loại, khối lượng và thời gian giao hàng nên đã tìm đến hợp đồng kỳ hạn để có thể yêu cầu thiết kế c ụ th ể các điều khoản. Thuận lợi thứ hai là do hợp đồng kỳ hạn là thiết kế riêng giữa người mua và người bán. Tính riêng biệt này đã mang đến sự linh hoạt cho các thành viên tham gia, tiết kiệm tiền của họ và cho phép thị trường thích ứng một cách nhanh chóng với các thay đổi trong nhu cầu và hoàn cảnh của thị trường do việc này sinh thêm các vấn đề mới từ các hợp đồng cũ. Thị trường kỳ hạn là thị trường OTC vì thế công chúng không biết chính xác các giao dịch đã được thực hiện như thế nào. Do đó khó có thể thống kê đầy
- đủ quy mô của các giao dịch kỳ hạn do những bất cân xứng thông tin trên thị trường này. Tất cả những thuận lợi trên nhằm để bù trừ cho chi phí của rủi ro tín dụng , chính vì vậy các giao dịch kỳ hạn thường phải đủ lớn với quy mô lên đ ến vài triệc đôla hoặc hơn nữa. Cho đến giờ vẫn khó có thể đưa ra một kết luận chính xác rằng liệu sử dụng thị trường nào (kỳ hạn hoặc giao sau) thì ít tốn kém chi phí hơn, nhưng có điều do các thị trường này cùng tồn tại song hành với nhau nên chúng phải hoạt động hiệu quả để thu hút khách hàng. 3.2. Cấu trúc thị trường giao sau 3.2.1. Thiết kế và phát triển các hợp đồng Một trong những hoạt động quan trọng của sàn giao dịch là thiết kế, giới thiệu và phát triển các hợp đồng giao sau mới. Hầu hết các sàn giao dịch đều có bộ phận nghiên cứu liên tục theo dõi và kiểm tra tính khả thi của các h ợp đ ồng mới. Tại Mỹ, sau khi xác định một hợp đồng có khả năng thành công thì sàn giao dịch sẽ thảo các điều khoản, điều kiện và đề trình cho CFTC để xin phép được giao dịch hợp đồng này. Ở các nước khác quá trình này cũng được thực hiện tương tự. Khi mới hình thành thị trường giao sau, thường các tài sản có khả năng dự trữ mới được làm tài sản cơ sở cho các hợp đồng giao sau, chẳng hạn như ngũ cốc, dầu, kim loại…Sau đó phát triển các tài sản chính như lãi suất, tỷ giá, các chỉ số chứng khoan, ́ lạm phát…và ngay cả thời tiết cũng được sử dụng làm tài sản cơ sở. Vấn đề quan trọng là khi thiết kế một hợp đồng giao sau dựa trên bất cứ tài sản cơ sở nào cũng xem thử có thoả mãn được nhu cầu của những thành viên tham gia thị trường hay không. Một hợp đồng được thiết kế phù hợp sẽ được giao dịch sôi động, còn không đời sống của hợp đồng đó rất ngắn ngủi. Sàn giao dịch khi thiết kế hợp đồng còn phải lưu ý là liệu rằng các nhà đầu cơ có đ ủ hứng thú đ ể nhận lấy rủi ro của hợp đồng đó hay không. 3.2.2. Cấu trúc của một hợp đồng giao sau Khác với thị trường kỳ hạn, thị trường giao sau là thị trường được tổ chức và được chuẩn hoá cao. Tất cả giao dịch được thực hiện trên sàn giao dịch. Sàn giao dịch giao sau là một công ty gồm nhiều thành viên. Thường các thành viên là các cá nhân nhưng cũng có khi thành viên là công ty. Các thành viên chọn ra một ban giám đốc và ban giám đốc này lại chọn ra các cá nhân để quản lý công ty. Sàn giao dịch có một hệ thống cấp bậc gồm các giám đốc, nhân viên và uỷ ban. Sàn giao dịch xây dựng điều lệ cho các thành viên và có thể sử dụng những hình thức kỷ luật đối với những người phạm luật. Mặc dù các sàn giao dịch giao sau thường là các công ty phi lợi nhuận với cổ phiếu được giao dịch ra công chúng. Thông thường Uỷ ban giao sau của các nước quy định cho các sản giao dịch xây dựng chi tiết các điều khoản của hợp đồng. Chi tiết cho mỗi hợp đồng bao gồm quy mô hợp đồng, đơn vị tính, dao động giá tối thiểu, cấp độ, và giờ giao dịch. Ngoài ra, hợp đồng còn phải nêu rõ các điều kiện giao hàng và giới hạn giá hàng ngày cũng như tiến trình giao nhận hàng. Quy mô hợp đồng là số lượng cụ thể các đơn vị hàng hoa, ́ có thể là s ố giá ngũ cốc, cà phê hoặc mệnh giá tính bằng đôla cho các công cụ tài chính. Quy mô hợp đồng là một yếu tố quan trọng trong giao dịch giao sau. Nếu quy mô hợp đồng
- quá nhỏ, các nhà đầu vơ phải tốn kém nhiều chi phí giao dịch hơn vì phải tham gia nhiều hợp đồng. Nếu quy mô hợp đồng quá lớn, sức hấp dẫn sẽ thấp và nhiều người không đủ điều kiện để tham gia giao dịch. Đơn vị niêm yết là đơn vị trong đó giá được xác định cụ thể. Ví dụ ở các sàn giao dịch trên thế giới, bắp được yết giá đến ¼ cents và trái phiếu kho bạc tính điểm phần trăm và 1/32 điểm trên mệnh giá. Trong hầu hết các trường hợp, người ta luôn sử dụng đơn vị yết giá trên thị trường giao ngay. Quan hệ mật thiết với đơn vị yết gía là biên độ giao động giá tối thiểu. Đây thường là đơn vị yết giá nhỏ nhất. Ví dụ trái phiếu kho bạc được yết giá tối thiểu là 1/32 đơn vị. Như vậy thay đổi giá tối thiểu trên hợp đồng giao sau trái phiếu kho bạc là 1/32 của 1% giá hợp đồng hoặc 0,0003125 ($100,000)= $31,25. Sàn giao dịch cũng xây dựng cấp độ của hợp đồng. Cấp độ này tuỳ thuộc vào chất lượng của tài sản cơ sở. Thời gian giao nhận cũng được quy định rõ ràng trong hợp đồng. Hầu hết các giao dịch hợp đồng giao sau nông sản trong khoảng 3h hoặc 4h trong ngày. Hầu hết các hợp đồng giao sau tài chính khoảng 6h.1 3.2.3. Quy định về giao nhận hàng hoá Trong hợp đồng giao sau cũng phải xác định ngày hoặc các ngày giao hàng cụ thể, quá trình giao nhận hàng và một tập hợp các tháng đáo hạn. Trong tr ường hợp hàng hoá mang tính thời vụ, sàn giao dịch thường xây dựng các tháng đến hạn tương ứng với các tháng thu hoạch. Đối với những hàng hoá không mang tính thời vụ như các hợp đồng giao sau tài chính ở các sàn giao dịch Chicago thường đáo hạn vào tháng 3, 6, 9 và 12. Sàn giao dịch cũng quyết định ngày đáo hạn là bao lâu trong tương lai. Đối với một vài hợp đồng thời kỳ đáo hạn kéo dài chỉ một hoặc hai năm trong khi hợp đồng giao sau Eurodollar kéo dài khoảng 10 năm. Sau khi xác định được tháng đáo hạn, sàn giao dịch phải xác định ngày giao dịch cuối cùng. Ở các sàn giao dịch trên thế giới thông lệ là bất cứ ngày nào trong tháng, nhưng thường là vào ngày thứ Sáu thứ ba trong tháng và ngày kinh doanh trước ngày kinh doanh lần vừa rồi trong tháng. Ngày giao nhận hàng đầu tiên cũng được xác định. Hầu hết các hợp đồng cho phép giao hàng bất kỳ ngày nào trong tháng vào một ngày cụ thể. Thường ngày giao hàng thích hợp đầu tiên là ngày kinh doanh đầu tiên trong tháng nhưng đối với những hợp đồng cụ thể thì có thể chọn những ngày khác thích hợp hơn. Trong trường hợp hợp đồng giao sau thì chỉ số giá cổ phiếu và các hợp đồng thanh toán tiền mặt khác thì thanh toán vào ngày giao dịch cuối cùng hoặc vào ngày sau ngày giao dịch cuối cùng. Trong trường hợp các hợp đồng không thanh toán tiền mặt, tiến trình giao nhận hàng phải được xác định cụ thể. Hàng hoá giao nhận ngay phải được chuyển đến những địa điểm thích hợp. Việc điều chỉnh giá vào ngày giao hàng sẽ đ ược tiến hành khi hàng hoá giao nhận có cấp độ thấp hơn so với cấp độ thoả thuận trong hợp đồng. 3.2.4. Quy định về giới hạn giá và điểm dừng giao dịch Dĩ nhiên là giá cả sẽ thay đổi liên tục trong suốt quá trình giao dịch. Tuy vậy, để giảm bớt sự biến động giá quá lớn, các sàn giao dịch có quy định giá trần và giá sàn trong ngày giao dịch được gọi là giới hạn giá. Các giao dịch nào ở trên giá trần hoặc ở dưới giá sàn thì không được phép thực hiện giao dịch. Việc giới 1 Tham khảo một số hợp đồng giao sau trên thế giới tại Phụ lục 1
- hạn giá cũng rất linh hoạt. Nhiều sàn giao dịch trên thế giới không quy định cho tất cả các loại hợp đồng mà chỉ quy định cho một vài loại cụ thể hoặc trong một thời gian cụ thể nào mà thôi. Chẳng hạn một vài hợp đồng chỉ giới hạn trong vài phút mở cửa; một vài hợp đồng khác có các mức giới hạn có thể kéo dài ra theo quy định. Một quy định khác nhằm kiểm soát sự biến động giá cả là điểm dừng giao dịch (built-in trading halts), đặc biệt là đối với những hợp đồng mà tài sản cơ sở là các loại chỉ số. Khi giá cả biến động nhanh, giao dịch có thể ngừng lại trong các thời kỳ đã được xác định trước. Các điểm ngừng này có thể xảy ra cùng với các điểm ngừng tương tự trên thị trường giao ngay. Việc ngừng giao dịch như vậy được quy định từ sau cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính vào năm 1987 do có những quan ngại rằng các thị trường biến động mạnh cần phải có một thời gian để làm dịu lại. Hiện nay vẫn còn có những tranh luận về các điểm ngừng giao dịch có thực sự hiệu quả hay không, nhưng cho dù như thế nào đi chăng n ữa thì chúng vẫn còn sẽ được các sàn giao dịch tiếp tục quy định trong tương lai. 3.2.5. Những trách nhiệm khác của sàn giao dịch Sàn giao dịch cũng quy định cụ thể rằng các thành viên phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về mặt tài chính. Đối với một vài hợp đồng, sàn giao dịch có thể xây dựng giới hạn vị thế giống như các thị trường quyền chọn, chẳng hạn như hạn chế số hợp đồng mà một nhà giao dịch cá nhân có thể nắm giữ. Sàn giao dịch thiết lập các điều luật quản lý các hoạt động trên sàn giao dịch và duy trì một b ộ phận quan sát giao dịch để xác định xem liệu có ai đang cố gắng thao túng thị trường hay không. Trong một vài trường hợp đặc biệt, sàn giao dịch có thể quy ết định đình chỉ giao dịch nếu các sự kiện không bình thường xảy ra. Một điểm khác quan trọng nữa là sàn giao dịch phải chuẩn bị cơ sở vật chất thuận tiện cho các giao dịch được diễn ra một cách suôn sẻ và an toàn, đặc biệt là khi thực hiện khớp lệnh tự động. 3.2.6. Phí thành viên và sự biến động trong giá Seat Ở các sàn giao dịch giao sau trên thế giới, số lượng thành viên chính thức thường có giới hạn. Các thành viên chính thức này gọi là seat. Seat cũng có giá cả và thị trường giao dịch công khai. Dĩ nhiên là các thành viên phải đóng góp một khoản lệ phí nhất định và thoả mãn một số quy định khác thì mới có thể trở thành thành viên của sàn giao dịch và họ nắm giữ một seat. Giá seat có xu hướng biến động theo số lượng giao dịch trên thị trường và số hợp đồng mới phát sinh. Seat có thể đem giao dịch hoặc cho thuê. Giống như đối với thị trường quyền chọn, trong thị trường giao sau, các khoản lãi của người này chính là lỗ của người khác. Nhưng đa phần các nhà giao dịch giao sau phải chịu mất một khoản tiền. Thường thì có một số ít các cá nhân kiếm được các khoản lợi nhuận lớn do họ chấp nhận mạo hiểm trong các giao dịch giao sau. Tất nhiên hẳn là sẽ có một số người rất hạnh phúc đã chiến thắngcuộc chơi trên nỗi đau của những người thua cuộc. 3.2.7. Ai là người giao dịch trên thị trường kỳ hạn? Thị trường kỳ hạn luôn bị các định chế lớn khổng lồ, như là các ngân hàng và các công ty chi phối mạnh mẽ. Một nhà giao dịch trên thị trường kỳ hạn điển hình mà chúng ta có thể hình dung được là một cá nhân ngồi tại bàn giấy với điện thoại và một máy chủ. Nhà giao dich sử dụng máy tính hoặc điện thoại đ ể phát
- hiện ra giá hiện hành trên thị trường, sau đó các nhà giao dịch có thể đồng ý giá này với một nhà giao dịch hoặc là một công ty khác. Nhà giao dịch có thể đại diện cho công ty riêng của mình hoặc có thể thực hiện giao dịch cho một khách hàng nào đó. Các giao dịch này có thể là một giao dịch để phòng ngừa rủi ro, giao dịch tìm chênh lệch giá mua bán, hoặc là kinh doanh chênh lệch. Thực ra, có tớ hàng ngàn nhà giao dịch ngoài sàn mà hoạt động kinh doanh chênh lệch của họ đóng vai trò quyết định để làm cho thị trường trở thành một thị trường hiệu quả. Vì thị trường kỳ hạn và thị trường giao sau cung cấp sản phẩm tương t ự nhau nên chúng có mối liên hện khác chặt chẽ với nhau. Mặc dù rõ ràng là hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau có những đặc trưng riêng biệt mà giữa chúng không thể đánh đổi được với nhau. Nhưng nhìn chung, một nhà giao dịch có thể mở hợp đồng kỳ hạn và ngay lập tức sau đó mở tiếp một hợp đồng giao sau dể phòng ngừa rủi ro trên thị trường kỳ hạn. 3.3. Mối quan hệ giữa thị trường kỳ hạn và thị trường giao sau 3.3.1. So sánh hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng giao sau Được tiêu chuẩn hoá Thiết kế thích hợp cho nhu Quy mô hợp đồng (62.500 pound hoặc cầu của từng cá nhân Can$100.000…) Được tiêu chuẩn hoá (vào Thiết kế thích hợp cho nhu Ngày giá trị thứ tư tuần thứ ba của cầu của từng cá nhân các tháng 3, 6, 9, 12…) Các ngân hàng, các nhà môi Các ngân hàng, các nhà Các thành viên giới, các công ty đa quốc gia môi giới và các công ty đa tham gia và những nhà đầu tư phòng quốc gia, thích hợp cho ngừa rủi ro các nhà đầu cơ Bắt buộc ký gửi với một Thường là 0, đôi khi đòi hỏi số lượng nhất định và Yêu cầu ký quỹ hạn mức tín dụng từ 5% điều chỉnh theo thị trường đến 10% hàng ngày Nhà đảm bảo Không Công ty thanh toán bù trừ Sàn giao dịch trung tâm Thông qua mạng điện thoại Nơi trao đổi với hệ thống thông tin toàn cầu toàn cầu Hầu hết được quyết toán Hầu hết được bù trừ vị Tính thanh khoản bởi các giao nhận tiền tệ thế, rất ít có giao nhận thực sự thật sự Được xác định bởi chênh Chi phí giao dịch lệch giá mua và giá bán của Phí môi giới thoả thuận ngân hàng Thị trường thứ Phải thanh toán với ngân Có thể bán trên thị trường cấp hàng
- 3.3.2. Mối liên hệ giữa thị trường giao sau và thị trường kỳ hạn Những giao dịch hàng ngày trên thị trường ngoại hối cho thấy các hợp đồng kỳ hạn có quy mô lớn gấp nhiều lần so với thị trường các hợp đồng giao sau. Tuy nhiên, mặc dù có sự khác biệt với nhau rất lớn về quy mô thì cả hai thị trường vẫn có mối quan hệ phụ thuộc tương hỗ lẫn nhau theo cách thị trường này có thể tác động đến thị trường kia. Sự phụ thuộc qua lại lẫn nhau này là do sự tác động của các nhà kinh doanh chênh lệch giá thực hiện các trạng thái cân bằng vị thế mua và vị thế bán ở hai thị trường trong những tình huống giá cả ở 2 thị trường có sự chênh lệch. Một dạng kinh doanh chênh lệch tỷ giá đơn giản nhất là bù trừ vị thế của hợp đồng kỳ hạn mua (bán) đứt và vị thế của các hợp đồng giao sau. Giả sử giá mua bảng Anh kỳ hạn 3 tháng là 1,4USD = 1GBP trong khi giá bán cùng ngày trên thị trường giao sau là 1 GBP = 1,4020USD. Một nhà kinh doanh chênh lệch giá có thể mua kỳ hạn từ ngân hàng và bán giao sau trên sở giao dịch để kiếm được 0,002 USD cho một GBP. Tuy nhiên, bởi vì giá trên các hợp đồng giao sau phải điều chỉnh theo thị trường hàng ngày và có khả năng các nhà kinh doanh chênh lệch giá sẽ gặp phải rủi ro. Chính vì rủi ro này cho nên khi quan sát trên thị trường ngoại hối chúng ta mới thấy tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá trên các hợp đồng giao sau không bao giờ bằng nhau mà phải hơi khác nhau. Khoảng chênh lệch này được gọi là phần bù rủi ro, là phần thưởng do rủi ro tăng thêm khi các nhà đ ầu cơ thực hiện các hành vi trên. Mặc dù từ những bằng chứng thực nghiệm trên thị trường ngoại hối thì chênh lệch giữa giá giao sau và giá kỳ hạn chỉ kéo dài trong khoảng 1 vài tháng và hầu như là rất bé, tuy vậy, chúng ta cũng nên xem xét kỹ lưỡng hơn giá giao sau so với giá kỳ hạn ở phần tiếp theo. Giá giao sau so với giá kỳ hạn. Khi đáo hạn, giá giao sau và giá kỳ hạn bằng với giá giao ngay trong một số điều kiện nhất định. Giả định là không có r ủi ro mất khả năng thanh toán, chúng ta sẽ khảo sát 2 trường hợp: (1) Một ngày trước khi đáo hạn (thời điểm t) và (2) 2 hoặc nhiều ngày trước khi đáo hạn. Bây giờ chúng ta hãy xem trường hợp 1. Một hợp đồng giao sau chỉ có 1 ngày còn lại sẽ được điều chỉnh theo thị trường vào ngày kế đó có nghĩa là ngày đáo hạn. Hợp đồng kỳ hạn sẽ thanh toán vào ngày đáo hạn. Như vậy, các hợp đồng kỳ hạn và giao sau có dòng tiền giống nhau và do đó là hợp đồng giống nhau. Nếu chúng ta trở về 2 ngày trước khi đáo hạn, việc so sánh sẽ trở nên khó khăn hơn. Tuy vậy, chúng ta có thể phân chia ra các trường hợp sau đây đ ể đánh giá: 1. Giả sử chúng ta giả định là lãi suất phi rủi ro hoặc là giống nhau cho cả 2 ngày hoặc là chúng ta có thể biết trước các mức lãi suất này. Do đó, chúng ta loại trừ một cách hiệu quả tính không chắc chắn của lãi suất. Trong trường hợp này, có thể thấy giá kỳ hạn bằng với giá giao sau. 2. Nếu giả dụ rằng lãi suất là bất ổn và không biết trước. (i) Nếu lãi suất có tương quan cùng chiều với giá giao sau thì một nhà đ ầu tư nắm giữ vị thế mua sẽ thích hợp đồng giao sau hơn vì khi giá tăng người mua giao sau sẽ có được một khoản lãi trong tài khoản (do điều chỉnh theo thị trường) và cũng tại lúc đó lãi suất tăng nên người mua sẽ có lợi hơn vì họ có thể rút số tiền chênh lệch để đầu tư với lãi suất cao hơn. Nếu giá giao
- sau giảm, người mua sẽ bị lỗ trên tài khoản và vì lãi suất tương quan cùng chiều với giá giao sau nên lúc này lãi suất cũng giảm và mặc dù lỗ nhưng cơ hội phí mất đi cũng sẽ thấp hơn do lãi suất giảm. Điều này có nghĩa là các khoản kiếm được sẽ được tái đầu tư ở mức lãi suất cao hơn và lỗ sẽ xảy ra khi chi phí cơ hội giảm. Vì thế hợp đồng giao sau sẽ có giá cao hơn giá kỳ hạn. (ii) Nếu lãi suất thay đổi ngược chiều với giá giao sau, một nhà đầu tư nắm giữ vị thế mua sẽ ưa thích hợp đồng kỳ hạn hơn vì hợp đồng giao sau điều chỉnh theo thị trường sẽ trở nên bất lợi. Hợp đồng kỳ hạn sẽ có giá cao hơn. (iii) Nếu lãi suất và giá giao sau không có mối tương quan với nhau thì hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau có giá như nhau. Dĩ nhiên là hợp đồng kỳ hạn gánh chịu rủi ro không có khả năng thanh toán còn hợp đồng giao sau thì không do có công ty thanh toán bù tr ừ đ ảm bảo. Rủi ro thanh khoản này cũng tác động đến chênh lệch giá giao sau và giá kỳ hạn. Có th ể là nếu người mua (người bán) hợp đồng kỳ hạn có rủi ro cao hơn người bán (người mua) thì giá kỳ hạn sẽ bị đẩy lên (giảm xuống). Tuy nhiên, thị trường kỳ hạn không tính đến rủi ro tín dụng trong giá. Hầu hết các thành viên tham gia có đủ tiêu chuẩn trên thị trường OTC phải thanh toán hoặc nhận với cùng một mức giá. Các bên nào có rủi ro tín dụng cao hơn phải trả dưới hình thức phụ thêm hoặc phải có các bảo lãnh tín dụng khác. Vì thế chúng ta không có khả năng quan sát chênh lệch trong giá kỳ hạn và giao sau do có phát sinh các vấn đề liên quan đến tín dụng. Tóm lại, một lần nữa chúng ta kết luận rằng do không có bất cứ chênh lệch đáng kể nào giữa giá giao sau và kỳ hạn nên chúng ta giả đ ịnh rằng giá giao sau bằng với giá kỳ hạn. 4. Cơ chế giao dịch giao sau 4.1. Yết giá và cách đọc yết giá giao sau Thông tin về giá giao sau thường được đăng tải trên các sàn giao dịch và các nhật báo lớn. Thông tin yết giá thường là giá thanh toán, giá cao, giá thấp, giá mở cửa, giá đóng cửa, thay đổi trong giá thanh toán, giá cao nhất, giá thấp nhất trong suốt thời gian hợp đồng, số lượng hợp đồng của các tài sản cơ sở. Trong bản in của tạp chí Wall Street không chỉ có các hợp đồng giao sau của Mỹ mà còn có thông tin về các hợp đồng giao sau năng động nhất thế giới.
- Để có được thông tin tốt nhất mà không phải trả phí thì Internet là nguồn tốt nhất. Trang web của tạp chí Wall Street cung cấp yết giá miễn phí cho tất cả các hợp đồng giao sau. Có lẽ nơi cung cấp thông tin giá giao sau tốt nhất là trang web của các sàn giao dịch giao sau. Mặc dù các trang web này thường không cung cấp giá mua giá bán, nhưng có các thông tin gần nhất như giao dịch cuối cùng, tổng hợp đồng giao sau đang lưu hành. Hình minh họa trang web của sàn giao dịch CME yết giá giao sau như thế nào? Các hợp đồng được nhóm thành các nhóm sản phẩm nông nghiệp như: gia súc sống, thịt; bắp, lúa gạo; lúa mì, hạt có dầu…nhóm năng lượng gồm điện và xăng dầu, nhóm kim loại gồm đồng, vàng, bạch kim, bạc…nhóm chỉ số, nhóm lãi suất và các loại khác như tiền tệ, thời tiết… Trong các bảng yết giá, chúng ta thấy cột đầu tiên là tháng đến hạn của hợp đồng, giá sau cùng, sự thay đổi giá, giá đóng cửa của ngày hôm qua, giá mở cửa, giá cao, giá thấp, số lượng giao dịch. Hai cột cuối là giới hạn giá và cập nhật thời gian giao dịch gần nhất. Tên hợp đồng giao sau được thể hiện ở hàng đầu tiên cùng sàn giao dịch. Chẳng hạn hợp đồng giao sau chỉ số S&P 500 theo ngày giao dịch tại sàn giao dịch Chicago (CME). 4.2. Cơ chế giao dịch giao sau Trước khi đặt một lệnh để giao dịch các hợp đồng giao sau, một cá nhân phải mở một tài khoản với người môi giới. Bởi vì rủi ro của giao dịch giao sau là khá cao nên cá nhân phải đặt cọc tối thiểu, số tiền đặt cọc này do sàn giao dịch quy định 4.2.1. Đặt lệnh Người giao dịch có thể đặt một số lệnh như các lệnh ngừng, các lệnh hạn chế, lệnh có hiệu lực đến khi bị hủy và lệnh trong ngày. Việc đ ặt các loại l ệnh này về mặt bản chất, giống như các lệnh trong quyền chọn. Trong hệ thống giao dịch pit, khi một nhà đầu tư đặt lệnh, người môi giới gọi điện thoại cho người giao dịch của công ty tại sàn giao dịch và chuyền lệnh đến người môi giới tại sàn
- giao dịch của công ty. Người môi giới tại sàn đến trạm giao dịch, các hợp đ ồng đang giao dịch hiện đang diễn ra tại Pit. Người môi giới hoặc là đưa tay ra dấu các ký hiệu hoặc là sử dụng lời nói để đặt mua và trả giá. Quá trình này đ ược gọi là đấu giá công khai (open cryout). Cuối cùng, khi các lệnh được thu thập đ ầy đ ủ, thông tin được chuyển tải trở về văn phòng của người môi giới. Tại đó, người môi giới sẽ gọi điện thoại cho khách hàng để xác nhận giao dịch. Quá trình đặt và thực hiện lệnh thông qua hệ thống đấu giá công khai là một hệ thống mang tính truyền thống đã tồn tại hơn 140 năm nay. Tuy nhiên, hệ thống này trong tương lai có thể trở thành “đồ cổ”. Hầu hết các sàn giao dịch giao sau trên thế giới đã tự động hóa các lệnh đặt mua, trả giá và toàn bộ giao dịch được thực hiện thông qua máy tính, chứ không phải thực hiện trên sàn. Thậm chí một vài hệ thống cũng nối kết với người bán và người mua. Như đã đề cập trước đây, mặc dù CBOT đã phát triển hệ thống tự động hóa trong đặt lệnh quyền chọn nhưng họ vẫn duy trì thị trường đấu giá công khai. Nghịch lý này cho thấy các thành viên của sàn giao dịch vẫn mong muốn giữ gìn một hệ thống đấu giá công khai, nơi họ có thể tham gia trực diện với nhau và tận hưởng không khí giao dịch sôi động hàng ngày. Ngày nay các sàn giao dịch đã triển khai các hệ thống giao dịch điện tử do đó chúng được sử dụng trong suốt 24 giờ, thậm chí ngay cả khi sàn giao dịch đã đóng cửa. Mặc dù vậy, nhưng giao dịch thông qua đấu giá công khai vẫn là hình thức được ưa chuộng. 4.2.2. Thanh toán bù trừ hàng ngày Mỗi sàn giao dịch đều có công ty thanh toán độc lập của sàn. Công ty thanh toán bù trừ là một định chế và là một nhà đảm bảo cho các giao dịch giao sau. Công ty thanh toán bù trừ đầu tiên được thành lập vào năm 1952 tại CBOT. Công ty thanh toán bù trừ là một công ty độc lập và cổ đông của nó là các công ty thanh toán thành viên. Mỗi công ty duy trì một số dư tài khoản với công ty thanh toán bù trừ và phải đáp ứng những điều kiện nhất định về mặt tài chính. • Mô tả một giao dịch trên sàn giao sau
- (1a)(1b) Người mua và người bán yêu cầu các nhà môi giới của họ quản lý các giao dịch giao sau. (2a)(2b) Nhà môi giới của người mua và người bán yêu cầu công ty môi giới hoa hồng làm thủ tục pháp lý cho giao dịch. (3) Các công ty môi giới hoa hồng gặp nhau trên sàn giao dịch giao sau và đồng ý về một mức giá nào đó. (4) Thông tin về giao dịch được báo cáo cho công ty thanh toán bù trừ. (5a)(5b) Các công ty môi giới hoa hồng báo mức giá đã được chấp nhận cho các nhà môi giới của người mua và người bán. (6a)(6b) Các nhà môi giới của người mua, người bán báo mức giá đã được chấp nhận cho người mua, người bán. (7a)(7b) Người mua, người bán đặt cọc tiền cho nhà môi giới của họ. (8a)(8b) Các nhà môi giới đặt cọc tiền ký quỹ cho các công ty thanh toán thành viên. (9a)(9b) Các công ty thanh toán thành viên đặt cọc tiền ký quỹ cho công ty thanh toán bù trừ. Đối với mỗi giao dịch, có hai đối tác tham gia, người mua được gọi là ở vị thế mua, người bán được gọi là ở vị thế bán. Nếu không co sự hiện diện của công ty thanh toán bù trừ trong các giao dịch của hai bên, mỗi bên phải có trách nhiệm với bên kia. Nếu một bên bị phá sản thì quyền của bên còn lại không còn nữa. Chính vì thế, công ty thanh toán bù trừ đóng vai trò trung gian cho mỗi giao dịch. Công ty bảo đảm cho người mua là người bán sẽ thực hiện nghĩa vụ c ủa họ và bảo đảm người bán rằng người mua sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình. Như đã trình bày, công ty thanh toán bù trừ chỉ theo dõi các công ty thanh toán thành viên, đ ến lượt mình các công ty thanh toán theo dõi các vị thế mua và các vị thế bán c ủa các giao dịch cá nhân và các công ty. Tất cả các bên trong giao dịch giao sau phải có tài khoản tại công ty thanh toán hoặc với một công ty có tài khoản với công ty thanh toán. Do thị trường kì hạn là một thị trường OTC nên các đối tác sẽ liên lạc tr ực
- tiếp với nhau, không có công ty thanh toán bù trừ để đảm bảo các bên thực hiện nghĩa vụ của mình. Công ty thanh toán bù trừ sử dụng các hình thức ký quỹ và thanh toán hàng ngày trên tài khoản để duy trì hoạt động của mình. Mỗi hợp đồng đều có cả hai loại ký quỹ: ký quỹ ban đầu là số tiền phải đặt cọc vào ngày bắt đầu giao dịch và ký quỹ duy trì là số tiền mà mỗi bên phải góp thêm vào để duy trì số tiền ký quỹ luôn ở mức tối thiểu nào đó. Đối với các giao dịch phòng ngừa rủi ro và kinh doanh chênh lệch giá, mức ký quỹ ban đầu và mức ký quỹ duy trì ở mức thấp hơn các giao dịch chỉ thuần túy mang tính chất đầu cơ. Khoản ký quỹ này không hoàn toàn giống với ký quỹ trên các giao dịch cổ phiếu. Trong giao dịch cổ phiếu nhà đầu tư đặt cọc tiền và vay phần còn lại c ủa giá cổ phiếu từ nhà môi giới. Trong giao dịch giao sau, các yêu cầu ký quỹ không những thấp hơn nhiều mà nhà giao dịch không phải vay phần còn lại. Ký quỹ bảo chứng giống với một khoản đặt cọc chứng khoań để làm tin hơn là một số tiền cụ thể. Vào cuối mỗi ngày, công ty thanh toán bù trừ xác định giá thanh toán. Giá này được tính bằng trung bình các mức giá của các giao dịch cuối cùng trong ngày. Mỗi tài khoản được điều chỉnh theo thị trường căn cứ vào biến động giá thanh toán hàng ngày. Người ta sẽ tính toán chênh lệch giữa giá thanh toán hiện tại và giá thanh toán ngày trước đó. Nếu chênh lệch là một số dương do giá thanh toán tăng, thì số tiền này sẽ được cộng thêm vào tài khoản ký quỹ của những người nắm giữ vị thế mua, được thanh toán từ tài khoản của người nắm giữ vị thế bán. Quá trình này đôi khi được gọi là thanh toán hàng ngày, là một đặc điểm quan trọng nói lên sự khác biệt của thị trường giao sau và thị trường kì hạn. Trên các hợp động kỳ hạn, các khoản lãi và lỗ xảy ra vào thời điểm kết thúc hợp đồng, khi các bên đã thực hiện xong việc giao nhận. Trong khi đó, thị trường giao sau lại thực hiện các quá trình này dựa vào sự thay đổi giá hàng ngày. Quá trình thanh toán hàng ngày giúp đảm bảo tính toàn vẹn của thị trường, bởi vì các khoản lãi lớn trải ra thành từng khoản nhỏ tại mọi lúc chứ không xảy ra một lúc vào thời điểm cuối hợp đồng mà lúc đó người bị lỗ có khả năng không thể thanh toán nổi những khoản lỗ này. Ví dụ: Ngày thứ nhất, hợp đồng mua bảng Anh giao sau vào tháng 6 với giá mở cửa là 1,450 USD/GBP. Như vậy, một hợp đồng 62.500 GBP có giá trị thị trường là: 1,4500 x 62.500 = 90.625 USD Giả sử ký quỹ ban đầu là 2.000 USD. Giá thanh toán là giá được xác định vào cuối ngày là 1,4510 USD/GBP. Đây là giá giao ngay kỳ vọng của thị trường trên hợp đồng giao sau vào cuối ngày thứ nhất. Với giá này, hợp đồng mua 62,500 GBP trị giá: 1,4510 x 62.500 = 90.687,5 USD Việc mua giao sau bảng Anh đã tạo ra một khoản lãi cho người mua: 90.678,5 - 90.625 = 62,5 USD Phần này được cộng thêm vào phần ký quỹ ban đầu của người mua. Ngày thứ hai, tỷ giá hợp đồng giao sau tháng 6 của đồng bảng Anh giảm xuống còn 1,4402 USD/GBP. Hợp đồng hiện giờ chỉ có giá trị là:
- 1,4402 x 62.500 = 90.012,5 USD Lúc này, người mua bị lỗ một khoản là: 90.012,5 - 90.687,5 = - 675 USD Phần lỗ này được khấu trừ vào tài khoản ký quỹ làm tài khoản ký quỹ giảm xuống còn: 2.062,5 - 675 = 1.387,5 USD Giả sử mức duy trì là 1.200 USD, nên người mua không phải đóng thêm vào ký quỹ. Ngày thứ ba, do có một sự sụt giảm trong tỷ giá giao ngay kỳ vọng của hợp đồng giao sau, giá thanh toán bảng Anh tháng 6 giảm xuống 1,4308 USD/GBP. Giá trị hợp đồng bây giờ là: 1,4308 x 62.500 = 89.425 USD Người mua lại lỗ tiếp một khoản là: 89.425 - 90.012,5 = - 587,5 USD Làm cho khoản ký quỹ còn lại: 1.387,5 - 587.5 = 800 USD Số tiền này dưới mức duy trì là 1.200 USD, nên người mua hợp đồng giao sau phải đóng thêm vào tài khoản ký quỹ để đủ 2.000 USD. Vậy, số tiền phải đóng thêm ít nhất là: 2.000 - 800 = 1.200 USD Ngày thứ tư, tỷ giá hợp đồng giao sau là 1,4401 USD/GBP, hợp đồng sẽ có trị giá là: 1,4410 x 62.500 = 90.006,25 USD Kết quả, này tạo ra một khoản lãi so với giá thanh toán ngày hôm trước là: 90.006,25 - 89.425 = 581,25 USD Tài khoản ký quỹ bây giờ là 2.581,25 USD và người mua hợp đồng giao sau có thể rút ra khỏi quỹ là 581,25 USD hoặc có thể sử dụng vào một hợp đồng giao sau khác. Trong ví dụ trên, chúng ta giả sử là người mua hợp đồng giao sau rút ra khỏi ký quỹ. Tổng cộng nhà đầu tư bị lỗ vì số tiền đóng vào 2.000 USD + 1.200 USD = 3.200 USD lớn hơn số tiền rút ra 2.581,25 USD một khoản là 618,75 USD. Số tiền chênh lệch giá giao sau vào thời điểm kết thúc hợp đồng so với lúc mở cửa nhân cho khối lượng giao dịch: ( 1,4401 - 1,450) x 62.500 = - 618,75 USD Giá mở cửa Giá hợp Góp thêm hoặc giá Điều chỉnh Tài khoản Ngày đồng (+)/rút khỏi thanh toán ký quỹ ký quỹ (USD) (-) quỹ (GBP/USD) 1. Mở cửa $ 1,4500 $ 90.625 0 (+) $2.000 $2.000 2. Thanh toán $ 1,4510 $ 90.687,5 (+) $62,5 0 $2.062,5 3. Thanh toán $ 1,4402 $ 90.012,25 (-) $675 0 $1.387,5 4. Thanh toán $ 1,4308 $ 89.425 (-) $587,5 (+) $1.200 $2.000 5. Thanh toán $ 1,4401 $ 90.006,25 (+) $581.25 (-) $581,25 $2.000 Như đã đề cập ở phần trên, nếu nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối sẵn sàng chấp nhận rủi ro thì giá giao sau bằng với tỷ giá giao ngay kỳ vọng của thị trường trên hợp đồng giao sau. Ví dụ trên cho thấy các hợp đ ồng giao sau đ ược
- xem như những đánh cược hàng ngày trên tỷ giá giao ngay kỳ vọng của thị trường trên hợp đồng giao sau, theo đó các khoản cá cược được thanh toán mỗi ngày. Cụ thể, đó chính là các điều chỉnh trên tài khoản ký quỹ của người mua (và người bán). Khi tài khoản ký quỹ của người mua được điều chỉnh tăng thì tài khoản ký quỹ của người bán sẽ được điều chỉnh giảm với cùng một lượng tương ứng. Nghĩa là, những gì người mua lời thì người bán lỗ và ngược lại. Trong trường hợp thị trường biến động mạnh theo hướng không có lợi cho nhà đầu tư và số dư trên tài khoản bị thâm hụt đáng kể, các nhà môi giới yêu cầu nhà đầu tư phải đặt cọc thêm. Nếu nhà đầu tư không đủ tiền để bơm thêm vào tài khoản, người môi giới sẽ đóng vị thế của bạn lại. Ví dụ, nhà đầu tư A đang ở vị thế giao sau và thị trường biến đ ộng rất nhanh, nhanh đến mức trước khi hợp đồng đóng lại. Cuối cùng cũng có thể là A bán (giao sau) được hợp đồng nhưng lúc đó đã quá muộn và A phải chịu thêm nhiều thiệt hại. Trong một chừng mực nào đó, rối cuộc thì vị thế mua có th ể b ị thiệt hại bằng toàn bộ giá trị hợp đồng. Điều đó xảy ra nếu như giá giao sau tiến tới zero. Trong khi vị thế bán do không có một giới hạn trên nào c ủa mức giá nên những tổn thất về lý thuyết là vô tận. Một giải pháp mà các sàn giao dịch giao sau áp dụng để hạn chế những tổn thất xảy ra vào bất cứ ngày nào là giới hạn giá hàng ngày. Tương tự, công ty thanh toán bù trừ có thể yêu cầu bạn tăng thêm số tiền cọc ngay trong phiên giao d ịch thay vì chờ cho đến cuối ngày như thông lệ. Các thị trường kỳ hạn vốn không tồn tại các công ty thanh toán bù trừ, các giới hạn giá hoặc là thanh toán hàng ngày, cũng có thể có hoặc không yêu cầu ký quỹ, tùy thuộc vào khả năng chi trả của các bên. Trong nhiều trường hợp các yêu cầu tín dụng có thể do ngân hàng bảo lãnh bằng thư tín dụng. Ngân hàng này sẵn sàng cho vay để bạn chi trả cho các khoản lỗ. Tổng số hợp đồng giao sau vào một thời điểm nào đó gọi là hợp đồng đang lưu hành. Hầu hết các nhà giao dịch giao sau không nắm giữ vị thế của họ cho đến khi đáo hạn, họ sẽ tham gia lại vào thị trường bằng cách thực hiện một giao d ịch bù trừ. Nếu một người nắm giữ vị thế mua trong hợp đồng, họ có thể bán hợp đồng đó trên thị trường. Công ty thanh toán bù trừ sẽ thông báo một cách chính thức là vị thế của nhà giao dịch đã được bù trừ. Nếu vị thế đó chưa đ ược bù tr ừ trước tháng đến hạn, nghĩa là việc giao nhận sẽ được thực hiện. 4.2.3. Đóng vị thế giao sau Khi hợp đồng giao sau đến hạn, quá trình thanh toán và giao nhận sẽ diễn ra. Mỗi hợp đồng có một tháng giao nhận nhưng quá trình giao nhận của các hợp đồng không giống nhau. Một vài hợp đồng có thể giao nhận vào bất cứ ngày kinh doanh nào trong tháng giao nhận. Các hợp đồng khác chỉ cho phép giao nhận sau khi hợp đồng được giao dịch đến ngày cuối cùng – là ngày cũng sẽ khác nhau giữa các hợp đồng. Nhưng cũng có thể có các hợp đồng được thanh toán bằng tiển mặt và như vậy không có giao nhận nào xảy ra. Hầu hết các hợp đồng giao sau tài chính không sử dụng tiền mặt cho phép giao nhận vào bất kỳ ngày nào trong tháng giao nhận. Quá trình giao nhận thường là lộ trình 3 ngày, bắt đầu vào 2 ngày kinh doanh trước ngày giao nhận có thể xảy ra đầu tiên. Các công ty thành viên báo cáo với công ty thanh toán bù tr ừ ngày giao nhận của các khách hàng đang nắm vị thế mua. Hai ngày kinh doanh trước ngày
- giao nhận dự kiến, người nắm giữ vị thế bán nào có ý định thực hiện giao nhận sẽ thông báo cho công ty thanh toán bù trừ biết ý muốn của mình (ngày này gọi là ngày vị thế). Vào ngày kinh doanh tiếp theo, gọi là ngày thông báo, sàn giao dịch sẽ chọn người nào hiện đang nắm giữ vị thế mua lâu nhất cho đến giờ để nhận hàng. Vào ngày thứ ba là ngày giao nhận, việc giao nhận sẽ xảy ra và người mua sẽ thanh toán cho người bán. Đối với hầu hết các hợp đồng giao sau tài chính, việc giao nhận được thực hiện thông qua chuyển giao bằng điện tín. Hầu hết các hợp đồng giao sau có thể có nhiều cách thức giao dịch rất linh hoạt. Các hợp đồng thường ghi rõ giá người mua phải thanh toán cho người bán nhưng giá này là giá có hiệu chỉnh lại để phản ánh những chênh l ệch chất l ượng hàng hóa. Đối với các hợp đồng thanh toán bằng tiền mặt như hợp đồng giao sau chỉ số cổ phiếu chẳng hạn, giá thanh toán trong ngày kinh doanh cuối cùng được chốt lại ở mức giá giao ngay lúc đóng cửa của hàng hóa cơ sở. Tất cả các hợp đồng được hiệu chỉnh theo thị trường vào ngày đó, và các vị thế được đóng lại. Một ngoại lệ cho tiến trình này là hợp đồng giao chỉ số S&P 500, hợp đồng này đóng giao dịch vào ngày thứ Năm trước ngày thứ Sáu tuần thứ ba của tháng đáo hạn nhưng giá thanh toán sau cùng căn cứ trên giá mở cửa của cổ phiếu mở cửa vào sáng thứ Sáu. Là do các sàn giao dịch muốn tránh để không vướng phải những rắc rối phát sinh khi một hợp đồng thanh toán ở mức giá đóng cửa. Các hợp đồng giao sau có thể được giao nhận hoặc là thanh toán bằng tiền mặt nhưng hầu hết các giao nhận đều không có giao nhận cuối cùng mà thường là thanh toán bằng tiền mặt (khoảng 99%). Như vậy, giao nhận, mặc dù là yếu tố quan trọng trong hợp đồng giao sau nhưng lại ít khi nào xảy ra. Hầu hết các nhà giao dịch đều đóng vị thế của họ lại trước khi hợp đồng đáo hạn bằng một giao dịch bù trừ. Chính vì thế, thị trường giao sau không phải là một nguồn cung ứng tốt nhất để bạn mua hàng hóa, bởi những người nắm giữ hợp đồng ở vị thế mua phó mặc cho người ở vị thế bán tự định đoạt. Người bán có thể giao nhận vào bất kỳ một ngày giao nhận nào đó và có thể chọn giao nhận bất kỳ một loại hàng hóa có liên quan hoặc khác chút ít. Người mua phải chấp nhận bất cứ những gì người bán đưa ra. Vì lẽ đó nên người mua thường đóng vị thế hợp đồng sớm hơn ngày đáo hạn. Nếu bạn có nhu cầu mua hàng hóa thực sự, tốt hơn nên mua chúng trên thị trường giao ngay. Cho dù người bán có những linh hoạt của mình trong khi giao dịch với người mua, thì trong một vài trường hợp họ vẫn giao hàng thông qua một quá trình gọi là trao đổi thỏa thuận (EFP) hay còn gọi là thỏa thuận ngoài sàn hoặc là thỏa thuận phi tài chính. Trong thực tế, đây là một loại giao dịch giao sau có thỏa thuận và không xảy ra trên sàn giao dịch. Trong một giao dịch EFP, người nắm giữ vị thế mua và người nắm giữ vị thế bán cùng nhau thỏa thuận về một hợp đồng giao ngay và đóng lại các vị thế giao sau của họ. Ví dụ, bác nông dân A nắm giữ vị thế bán trong hợp đồng giao sau lúa mì và công ty B ở vị thế mua trong cùng một hợp đồng. Công ty B muốn mua lúa mì của bác nông dân A, nhưng hoặc là lúa mì không thỏa mãn các điều kiện ghi trên hợp đồng, hoặc là bác nông dân thấy tốn kém ghê gớm khi giao hàng tại Chicago theo hợp đồng yêu cầu. Trong mỗi trường hợp, bác nông dân A và công ty B có thể dàn xếp để giao nhận lúa mì tại một địa điểm khác và B trả cho A với giá thỏa thuận.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thị trường chứng khoán - Chương 2
25 p | 320 | 130
-
Bài giảng Chương 3:CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
61 p | 678 | 120
-
Bài tập nghiệp vụ thị trường mở
3 p | 1135 | 117
-
TIỀN TỆ VÀ NGÂN HÀNG - CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
38 p | 220 | 48
-
Thị trường tài chính - GV Trần Thị Thanh Phương
44 p | 105 | 24
-
Bài giảng Tài chính quốc tế - Chương 2: Thị trường tài chính quốc tế
19 p | 140 | 15
-
Quá trình hình thành và phương pháp sử dụng tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa p3
10 p | 95 | 14
-
Giáo trình Tài chính quốc tế (Tái bản lần 2 có sửa chữa và bổ sung): Phần 1
220 p | 42 | 9
-
Giáo trình chứng khoán cổ phiếu và thị trường (Hà Hưng Quốc Ph. D.) - 1
41 p | 90 | 8
-
Giáo trình Kinh doanh ngoại hối: Phần 1
267 p | 31 | 8
-
Bài giảng Thị trường chứng khoán: Phần 5 - ThS. Lương Minh Lan
27 p | 68 | 8
-
Nghiên cứu thị trường tài chính: Phần 1
238 p | 41 | 8
-
Giáo trình phân tích khả năng ứng dụng về tài chính doanh nghiệp ngân hàng trên thị trường p3
5 p | 75 | 6
-
Nghiên cứu thị trường hối đoái: Phần 1
196 p | 19 | 4
-
Giáo trình hình thành ứng dụng điều chỉnh quy trình quốc hữu hóa doanh nghiệp tư bản tư nhân p1
10 p | 51 | 4
-
Giáo trình Chứng khoán phái sinh: Phần 1
139 p | 14 | 3
-
Bài giảng Thanh toán quốc tế: Chương 3 - ThS. Nguyễn Trần Tú Anh
12 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn