intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giới thiệu phân tích chi phí và lợi ích - Phiên dịch: Lê Thủy

Chia sẻ: Viet Hung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:180

330
lượt xem
122
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của cuốn sách là nhằm đưa ra các chỉ dẫn rõ ràng và tương đối đơn giản cho việc tiến hành một cách chuẩn xác các phân tích lợi ích chi phí (CostBenefit Analysis ~ CBA) đối với các dự án đã và đang được đề xuất triển khai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giới thiệu phân tích chi phí và lợi ích - Phiên dịch: Lê Thủy

  1. Giới Thiệu Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe Phiên dịch: Lê Thủy 1.1 Mục đích của cuốn sách Mục đích của cuốn sách là nhằm đưa ra các chỉ dẫn rõ ràng và tương đối đơn giản cho việc tiến  hành một cách chuẩn xác các phân tích lợi ích­chi phí (Cost­Benefit Analysis ~ CBA) đối với các  dự án đã và đang được đề xuất triển khai. Hay nói một cách khác, mục đích của cuốn sách là  nhằm giúp độc giả có thể nhìn nhận một cách phê phán các CBA họ gặp phải trong quá trình làm  việc hay nghiên cứu. Đúng là chúng ta nên tin tưởng rằng tất cả các nghiên cứu đều được tiến  hành một cách có trách nhiệm và chuẩn xác. Song những nghiên cứu hiện hành thể hiện những  khác biệt lớn về cấp độ chất lượng. Cuốn sách không đưa ra những thảo luận thấu đáo về các  khái niệm, kỹ thuật CBA mà chỉ tóm lược những điểm quan trọng nhất của một nghiên cứu CBA.  Tuy nhiên, những kỹ thuật được phác thảo ở đây sẽ giúp các bạn thực hiện được những phân tích  một cách chuẩn xác. Bất kỳ ai có kiến thức tốt về kinh tế học đều có thể tiếp cận được với cuốn  sách này. Một ưu điểm lớn của CBA là nó cung cấp cho ta một khung mục đích mà trong đó chúng ta có thể  thảo luận, sửa chữa và bổ sung. Rủi ro lớn nhất xảy ra khi dữ liệu cứng lại có xu hướng bị coi là  dữ liệu mềm. Cần phải lưu ý chú trọng đúng mức đến các tác động chưa được số lượng hóa hay  được số lượng hóa một cách thô sơ. Để làm được điều này chúng ta nên coi CBA như một công  cụ hỗ trợ cho quá trình thương thuyết và đưa ra quyết định thay vì coi bản thân nó là quá trình ra  quyết định. Không nên coi CBA là một quá trình bí hiểm. Một cách đơn giản, CBA là quá trình chúng ta tính  toán giá trị của tất cả các đầu vào và đầu ra của một dự án rồi sau đó lấy hiệu số của đầu ra trừ  đi đầu vào. Đôi lúc, chúng ta có thể sử dụng một số quy trình phức tạp để xác định giá trị của một  mặt hàng chưa được xác định mức giá song các khái niệm cốt lõi của CBA thì tương đối đơn giản. Độc giả nên nhận biết một điều rằng CBA không phải là công cụ duy nhất để đánh giá một dự án.  Một dự án có thể được đánh giá dựa trên một cơ sở nào đó khác hơn là lợi ích ròng mà dự án đó  đem lại. Đôi khi phương thức này lại được ưa thích hơn. Có nhiều dự án vẫn được thông qua nhằm  thúc đầy một quá trình chính trị nào đó ngay cả khi phân tích lợi ích ròng của dự án đưa ra kết  luận là không nên tiến hành dự án. Trong phân tích CBA, có thể có những giá trị không được số  số lượng hóa hay không thể được số số lượng hóa. Điều này đồng nghĩa với việc một dự án tuy  không vượt qua được một cuộc kiểm tra CBA nghiêm ngặt song vẫn có vẻ là đáng để triển khai.  Tuy nhiên, xu hướng chung cho thấy các kết quả thu được qua CBA dù sao cũng buộc những  người muốn đưa ra quyết định trái ngược có nghĩa vụ phải tìm cách biện chứng cho quyết định  của mình. Vì lý do này, các chính trị gia thường phản đối CBA vì họ cảm thấy rằng những phân 
  2. tích kiểu này có thể sẽ hạn chế các khả năng lựa chọn của họ. Dù sao thì ít nhất CBA cũng cho  phép ta tính toán chi phí rõ ràng cho những dự án không qua được kiểm tra CBA hay các dự án  mà các mục tiêu đề ra lớn hơn so với những gì mà theo CBA dự án có thể đạt được. 1.2 CBA là gì Phân tích lợi ích chi phí là một kỹ thuật phân tích để đi đến quyết định xem đây có nên tiến hành  các dự án đã triển khai hay không hay hiện tại có nên cho triển khai các dự án được đề xuất hay  không. Phân tích lợi ích chi phí cũng được dùng để đưa ra quyết định lựa chọn giữa hai hay nhiều  các đề xuất dự án loại trừ lẫn nhau. Người ta tiến hành CBA thông qua việc gắn giá trị tiền tệ cho  mỗi một đầu vào cũng như đầu ra của dự án. Sau đó so sánh các giá trị của các đầu vào và các  đầu ra. Cơ bản mà nói, nếu lợi ích dự án đem lại có giá trị lớn hơn chi phí mà nó tiêu tốn, dự án đó  sẽ được coi là đáng giá và nên được triển khai. Những dự án mà phân tích CBA xếp vào loại đáng được triển khai là những dự án cho đầu ra có  giá trị lớn hơn đầu vào đã sử dụng. Trong trường hợp phải chọn một dự án trong số nhiều dự án  được đề xuất, CBA sẽ giúp chọn được dự án đem lại lợi ích ròng lớn nhất. Cũng có thể dùng CBA  để đánh giá mức độ nhạy cảm của các đầu ra trong dự án đối với rủi ro và bất chắc. Mặc dù ý tưởng thì đơn giản song trong thực tế sẽ có nhiều khó khăn để có thể tiến hành được  một CBA có chất lượng. Chỉ đơn giản là việc xác định đâu là chi phí, đâu là lợi ích cũng đã đòi hỏi  chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng. Cũng có thể có nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề này.  Trong khi một số đầu vào, đầu ra có thể có các mức giá phổ biến và ổn định thì một số khác lại  có mức giá biến đổi trong quá trình triển khai dự án. Và có thể có một số đầu vào, đầu ra không  được đưa ra buôn bán trên thị trường. Điều này khiến cho chúng ta cần phải đưa ra những phương  pháp định giá khác nhau. CBA mặc định rằng tất cả các mặt hàng đều có một giá trị tiền tệ nhất định. Điều này là cần thiết  trong việc so sánh giữa đầu vào và đầu ra để quyết định xem liệu một dự án có khả thi về mặt  kinh tế hay không. Trong khi chúng ta có những kỹ năng thích hợp để quy ra tiền với phần lớn các  mặt hàng thì chúng ta khó có thể làm như vậy với một số mặt hàng nhất định. Ví dụ như không  khí trong lành và sức khỏe tốt đều rất đáng quý song sẽ là một thách thức lớn để có thể xác định  chính xác lợi ích ròng của một chương trình mang lại không khí trong lành và sức khỏe tốt cho  mọi người. Tuy nhiên, ta có thể xác định được một khoảng chi phí nào đó mà nếu chi phí của  chương trình nằm trong khoảng đó thì chương trình là có giá trị và ngược lại. Cần phải nhận thấy một điều rằng người ta đưa các quyết định liên quan đến các dự án không chỉ  đơn thuần dựa trên cơ sở CBA. Các tính toán chính trị và xã hội nằm ngoài CBA có thể có tầm  quan trọng ít nhất là ngang bằng với các lợi ích kinh tế trong việc quyết định có nên triển khai dự  án hay không. Điều này đúng nhất là trong trường hợp đưa ra các quyết định công. Lúc đó, các tài  nguyên thường được phân bổ dựa trên các lý do khác chứ không phải là hiệu quả kinh tế. Những  vấn đề công bằng, bình đẳng trong các trường hợp này có thể sẽ thế chỗ cho thậm chí là những  nguồn lợi ròng lớn về kinh tế. Nhưng ít nhất cũng có thể hy vọng rằng một CBA có thể tác động 
  3. tới quyết định của một người còn đang do dự hay có thể đưa chúng ta đến với lựa chọn tối ưu giữa  các dự án có tác động chính trị, xã hội tương tự như nhau. 1.3 Các bước tiến hành CBA Phân tích lợi ích chi phí có thể được nghĩ đến như một quá trình vận hành trong đó có một số  bước nổi bật. Không phải phân tích nào cũng yêu cầu phải thực hiện đầy đủ tất cả các bước đi  này. Một dự án ngắn hạn sẽ không đòi hỏi phải chiết khấu lợi ích trong tương lai. Một dự án đã  triển khai nhiều lần có thể sẽ không gặp phải rủi ro hay bất chắc. Tuy nhiên, trong phần lớn các  trường hợp, để cân nhắc có nên triển khai một dự án hay không hay nên chọn triển khai dự án  nào giữa các dự án được đề xuất, chúng ta cần bám theo các bước sau: 1. Làm rõ vấn đề chỗ đứng/vị thế Khi bắt đầu một phân tích, cần phải chỉ rõ nghiên cứu này là do ai làm, chi phí ai phải chi, lợi ích  ai được hưởng. Chúng ta luôn phải rõ ràng và nhất quán trong việc giải quyết những vấn đề này  cũng như trong việc tính toán lợi ích và chi phí cho những người/nhóm người khác nhau. 2. Xác định những phương án thay thế Một phân tích cần phải nêu rõ được dự án hay các dự án là đối tượng xem xét. Chúng có loại trừ  lẫn nhau hay không. Cần phải đưa được các lựa chọn thay thế tương ứng vào phân tích. Mốc  chuẩn để so sánh là lựa chọn không tiến hành dự án. Song đó có thể chỉ là một cơ sở để so sánh.  Ví dụ như trong thảo luận về Đập Tellico, chính quyền Thung lũng Tennesee đã không so sánh  được việc xây đập với một lựa chọn thay thế khác là tận dụng dòng chảy của con sông để vận  hành một chiếc tuốc­bin phát điện. Những thiếu sót kiểu này không phải là hiện tượng hiếm khi  xảy ra. Khi chúng ta thay đổi quy mô, thời hạn thực hiện của một dự án, chúng ta có thể có được  những thay thế thích ứng. Ví dụ như, một chương trình tiêm chủng có thể không qua được kiểm  nghiệm CBA ở quy mô toàn quốc song lại có thể vượt qua kiểm nghiệm CBA đối với một vùng có  tỷ lệ mắc bệnh cao liên quan đến loại vắcxin sẽ được tiêm chủng. 3. Đưa ra các Giả định Giả định là một phần thiết yếu của một phân tích. Có thể giả định này tốt hơn giả định kia. Cũng  có thể dùng giả định cho hàng loạt các yếu tố số lượng hàng, chi phí, điều kiện thị trường, thời  hạn hay các mức lãi sất. Trong một phân tích được tiến hành một cách có trách nhiệm, những giả  định này được nêu một cách rõ ràng. Nếu có thể chúng được phân bổ cho những nguồn lực đáng  tin cậy. Nếu đưa ra một diện giá trị giả định thì phải có quy định rõ ràng về diện giá trị được đưa  ra. 4. Lập danh sách các Tác động của mỗi Dự án Thay thế
  4. Nên liệt kê các tác động tiềm tàng của mỗi dự án một cách đầy đủ nhất có thể. Có thể liệt kê tác  động của một hay nhiều dự án cụ thể được xem xét cũng như tác động của các lựa chọn thay thế:  giữ nguyên hiện trạng hay không triển khai bất kỳ dự án nào. Điều quan trọng là tiến hành số lượng hóa các tác động nếu có thể. Để đánh giá chuẩn xác một  dự án đòi hỏi phải biết được lượng đầu vào và đầu ra cần có. Khi không thể số lượng hóa được  một tác động thì ít nhất ta cũng phải đề cập đến tác động đó. Một dự án hạn chế quyền tự do cá  nhân nên đề cập đến tác động này ngay cả khi không có nỗ lực nào được đưa ra để định giá  quyền tự do cá nhân. 5. Quy các Giá trị Cụ thể cho những Tác động này Có thể quy mỗi tác động này ra một giá trị tiền tệ nhất định nếu có thể. 6. Xử lý các Tác động Không được Số lượng hóa Cần phải kiệt kê rõ ràng bất kỳ tác động nào chưa được quy ra giá trị vật chất cụ thể . Chỉ bằng  cách này, chúng ta mới có thể cân nhắc giữa chúng với những chi phí và lợi ích đã được định giá  cụ thể. Một cách tiếp cận với các lợi ích phi số lượng hóa là tính toán xem các lợi ích này lớn đến mức độ  nào thì đủ để đảo ngược các kết quả của CBA. Thông thường người ta có thể đưa ra một đánh giá  chung chung về việc những lợi ích này có khả năng đảo ngược quyết định hay không. Bằng cách  xem xét rõ ràng những tác động như vậy theo cách này, chúng ta sẽ tránh được tình trạng lâm  vào phân tích bị chi phối bởi các dữ liệu cứng. Ví dụ như, khi cân nhắc một dự án hạn chế quyền tự do cá nhân, có thể dùng các lợi ích và chi  phí khác để tính mức lợi ích ròng của dự án đó, bỏ qua bất kỳ một cân nhắc về quyền tự do cá  nhân nào. Sau đó, có thể dành cho độc giả quyền tự quyết định xem những lợi ích ròng khác có  đủ để bù đắp hạn chế về quyền tự do cá nhân hay không, việc tiến hành dự án có phải là một  quyết định đúng đắn hay không. 7. Chiết khấu giá trị tương lai để có được giá trị hiện tại Đối với phần lớn các dự án, cần phải tính chi phí và lợi ích được chiết khấu tại những thời điểm  khác nhau. Người ta thường thực hiện điều này bằng cách sử dụng biện pháp chiết khấu lũy thừa  (exponential discounting) để tính giá trị hiện tại của chi phí lợi ích. Rất khó để có thể lựa chọn  được một mức lãi suất chiết khấu đúng. Tuy nhiên, nhiều tổ chức nghiên cứu đưa ra những mức  lãi suất chuẩn dùng cho các phân tích. 8. Xác định và lý giải độ bất chắc Có lẽ khiếm khuyết hay gặp nhất trong phân tích CBA là thất bại trong việc xử lý rủi ro và bất  chắc. Bất chắc có thể tiềm ẩn trong nhiều khía cạnh của dự án. Phải xác định được đầy đủ 
  5. nguyên nhân gây ra các bất chắc này một cách đầy đủ nhất có thể. Chẳng hạn như kinh phí dự  toán cho một công trình xây dựng, điều kiện thời tiết bất ổn khiến cho các hoạt động ngoài trời trở  nên khó khăn hơn hay mức tăng trưởng dân số dẫn đến mật độ sử dụng các thiết bị tiện dụng  tăng lên. Nên nỗ lực trong việc nhận thức được rủi ro hay bất chắc của dự án. Có thể dùng cách đơn giản  như đưa ra một phân tích độ nhạy cảm. Phân tích này sẽ tính toán giá trị của dự án theo những  kết quả dài hạn khác nhau. Cũng có thể dùng cách phức tạp hơn như phân tích các lựa chọn  thực. Phân tích này cố tìm cách tính được giá trị chính xác của dự án có tính đến yếu tố rủi ro. 9. So sánh Lợi ích và Chi phí Sau khi đã tính toán được (hay ít nhất là đã liệt kê ra được) các chi phí và lợi ích, chúng ta phải so  sánh chúng với nhau để xác định xem giá trị hiện tại (Net Present Value ~ NPV) của dự án có thể  mang giá trị dương không. Nếu đang xem xét lựa chọn giữa nhiều dự án thì dự án có mức NPV  cao nhất là dự án sẽ được chọn. 10. Tiến hành phân tích sau khi dự án kết thúc Khi có thể, nên tiến hành phân tích sau khi hoàn thành dự án nhằm đưa ra định hướng cho các  giám đốc dự án, xác định giá trị của phân tích gốc nhằm cải thiện các phân tích và các dự án  được tiến hành sau này. 1.4 Quy đổi ra Giá trị bằng Tiền CBA sử dụng các giá trị tiền mặt để so sánh các loại hàng hoá với nhau. Được gán cho mỗi đầu  vào và đầu ra của dự án, các giá trị này đại diện cho tầm quan trọng của đầu vào và đầu ra trong  phân tích. Nếu tổng giá trị của đầu ra lớn hơn tổng giá trị của đầu vào thì dự án được coi là đáng  được tiến hành vì lúc đó độ quan trọng tổng thể của đầu ra đối với xã hội lớn hơn độ quan trọng  tổng thể của đầu vào. Tuy việc gán các giá trị thực cho các đầu vào, đầu ra rồi so sánh chúng với  nhau là cần thiết song đây cũng là một quá trình gây nhiều tranh cãi. Cần phải có một độ cẩn  trọng và tinh tế nhất định khi tiến hành quá trình này. Nhiều loại đầu vào và đầu ra là các mặt hàng thường xuyên được buôn bán trên thị trường với  mức giá chung phổ biến và có thể đoán trước được. Giá trị của các đầu vào như lao động, bê  tông, thép, máy tính, xăng dầu hay các đầu ra như điện có thể được xác định dựa trên mức giá thị  trường, có điều chỉnh trong một số trường hợp nhất định. Các đầu vào và đầu ra khác không được trao đổi trực tiếp nên rất khó có thể được định giá.  Chẳng hạn như khoảng thời gian đi lại mà một dự án xây dựng đường cao tốc tiết kiệm được, giá  trị của dịch vụ thuỷ lợi do một dự án xây đập mang lại hay tình hình sức khoẻ của cộng đồng được  cải thiện thông qua việc xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải. Giá trị cho các loại  hàng hoá này phải được ước tính thông qua những tính toán gián tiếp, phức tạp và tương đối chủ 
  6. quan. Thường thì phương hướng hành động thích hợp nhất là tìm ra và sử dụng các mức giá dự  kiến đã được đưa ra trong các nghiên cứu trước đây. Mục đích của cuốn sách này là nhằm tìm ra được các mức giá trị thị trường và phi thị trường cho  một loạt các mặt hàng khác nhau. Cuốn sách cũng đưa ra chỉ dẫn phải xử lý thế nào với hàng  loạt các loại giá trị tiềm tàng và phức tạp trong phân tích của bạn. 1.5 Cơ cấu Thời gian của Chi phí và Lợi ích Phần lớn các dự án được điều hành trong một khoảng thời gian nhất định. Khi tiến hành phân tích  CBA bạn nên xác định xem khi nào thì chi phí và lợi ích sẽ thay đổi. Đâu là múi thời gian cuối  cùng cho phân tích của bạn nếu không phải là của toàn bộ dự án. Ví dụ như một con đường cao tốc được mở trong vòng ba năm, đưa vào sử dụng lâu dài và tiến  hành những bảo dưỡng cần thiết năm năm một lần. Cứ sau một khoảng thời gian nhất định thì chi  phí xây dựng và bảo dưỡng mới xuất hiện trong khi lợi ích mà con đường đem lại là liên tục. Có  thể lợi ích này càng ngày càng tăng khi dân số của một vùng tăng. Con đường có thể tồn tại vĩnh  viễn. Song theo chỉ dẫn hành chính thì khi đánh giá dự án có thể chỉ cần tính đến lợi ích dự án  đem lại trong vòng hai mươi năm đầu tiên. Nhìn chung, có một thực tế vẫn được thừa nhận đó là các mức chi phí, lợi ích trong tương lai có  giá trị thấp hơn chi phí lợi ích hiện tại.[1] Chính vì vậy, việc khấu trừ chi phí lợi ích tương lai bằng  cách sử dụng một mức lãi suất nào đó và cách khấu trừ theo số mũ là một thông lệ được chấp  nhận. Tuy có nhiều cơ quan quy định cụ thể mức hay các mức lãi suất được nhiều nhóm, nhiều cơ  quan khác nhau dùng hay đồng tình song quyết định khó nhất gặp phải trong quá trình này vẫn là  xác định mức lãi suất thích hợp. 1.6 Phân tích độ Nhạy cảm (Sensitivity analysis) Bất kỳ một dự án nào đều gắn với hàng loạt các con số được đề xuất khác nhau. Chúng là ước  tính khối lượng vật liệu và lao động cần thiết, mức giá của các đầu vào này, số người hưởng lợi  cuối cùng, giá trị quy đổi của việc họ sử dụng sản phẩm làm ra, mức lãi suất thích hợp dùng để  khấu trừ chi phí và lợi ích của dự án. Các con số này đều có nguy cơ bị dự đoán sai. Người ta  cũng rất dễ lâm vào tình trạng không thể nhất trí về một con số dự kiến nhất định. Câu trả lời có  trách nhiệm nhất cho việc có hàng loạt những giá trị ước tính hay gợi ý là đưa ra những tính toán  dựa trên nhiều kịch bản khác nhau rồi thảo luận những thay đổi trong từng kịch bản tạo ra tác  động gì trong phân tích độ nhạy cảm. Điều này có nghĩa là nên chỉ rõ việc thay đổi các mức giá  trị khác nhau có tác động như thế nào đến đánh giá dự án. Ví dụ, nếu phí xây dựng thực tế cao  hơn mức phí dự đoán là 10% thì lợi ích ròng của dự án thay đổi như thế nào? Nếu dùng một mức  lãi suất cao hơn để khấu trừ các chi phí và lợi ích tương lai thì liệu dự án còn được mong đợi nữa  hay không? Nếu như giá trị cho các lợi ích của một dự án mang lại cho tình hình sức khoẻ ở mức  thấp chứ không phải ở mức cao trong miền lợi ích ước tính thì giá trị của dự án thay đổi như thế  nào?
  7. Một cách tiếp cận thường gặp là tính toán khả năng tốt nhất, xấu nhất và các khả năng trung  bình. Phân tích này có nghĩa là thoạt đầu tính toán NPV của một dự án bằng cách dùng các mức  giá trị ước tính tối đa hoá giá trị của dự án, rồi dùng các mức giá trị ước tính tối thiểu hoá giá trị  của dự án và cuối cùng là dùng các mức giá trị trung gian. Điều này sẽ cho các nhà hoạch định  chính sách ý tưởng về tính không chắc chắn của dự án cũng như tầm quan trọng của tính không  chắc chắn này có thể là bao nhiêu. 1.7 Các nguồn lực Vấn đề thực tiễn lớn nhất trong việc tiến hành một phân tích CBA trên thực tế là tìm được các mức  giá trị thích hợp cho các đầu vào và các đầu ra của dự án. Các nhà lên kế hoạch cho dự án nên  có một vài ý tưởng nào đó về lượng đầu vào sẽ được sử dụng và lượng đầu ra được tạo ra. Song  làm thế nào để xác định được giá trị của chúng? Cuốn sách này sẽ cung cấp cho bạn nhiều thông số tham khảo về các nguồn lực khác nhau được  dùng làm đầu vào, đầu ra của dự án, các giá trị gắn liền với chúng, mức lãi suất đề xuất trong  khấu trừ, độ co dãn cung và độ co dãn cầu. Chúng tôi cũng đưa ra những tham khảo về việc định  giá các loại hàng hoá ít được trao đổi trên thị trường và tập trung vào các kỹ thuật và các giá trị do  các nhà nghiên cứu khác đưa ra. Tuy danh sách các nguồn lực được đưa ra không phải là một danh sách hoàn chỉnh song ít nhất  nó cũng đem lại cho độc giả một xuất phát điểm trong việc tìm ra các mức giá trị cần thiết để  phân tích một dự án hay đánh giá một cách phê phán một nghiên cứu hiện tại. 1.8 Cơ cấu của Cuốn sách Nội dung của cuốn sách được sắp xếp theo thứ tự cần có khi tiến hành một nghiên cứu. Chương hai bàn đến vấn đề vị thế, hay giá trị của ai sẽ được đưa vào phân tích. Điều này sẽ tác  động cách thức xử lý những chi phí khác nhau trong dự án. Song quan trọng hơn, nó sẽ quyết  định chi phí nào, lợi ích nào được đưa vào trong phân tích. Phần lớn các đầu vào và đầu ra được trao đổi trên các thị trường. Giá trị của chúng có thể được  xác định dựa trên các mức giá thị trường và phân tích cung cầu cơ bản. Chương ba bàn đến lý  thuyết về các thay đổi phúc lợi xã hội mà một dự án mang lại. Chương bốn và năm mô tả các  phương pháp xác định giá trị của đầu vào, đầu ra được trao đổi trên thị trường với mức giá phổ  biến. Nhiều loại hàng hoá không được trao đổi trực tiếp trên thị trường. Hai chương tiếp theo bàn đến  các cách tiếp cận với việc định giá những loại hàng hoá kiểu đó. Chương sáu mô tả các kỹ thuật  trong đó có các giá trị bóng (shadow values). Chương bảy bàn đến phương pháp định giá phát  sinh (contingent valuation method).
  8. Một khi đã xác định được giá trị của đầu vào, đầu ra, chúng ta còn cần phải thực hiện thêm một  số bước trong việc chuẩn bị một phân tích. Chương tám đưa ra cơ chế khấu trừ, chỉ dẫn trong việc  lựa chọn mức lãi suất phù hợp trong việc khấu trừ chi phí lợi ích tương lai. Chương chín bàn đến  phân tích độ nhạy cảm và phân tích rủi ro. Phân tích này đặc biệt quan trọng đối với các trường  hợp các chi phí lợi ích là bất ổn. Cuối cùng, chương mười đưa ra những tài liệu tham khảo bổ ích cho các độc giả trong việc chuẩn  bị và đánh giá các phân tích trong đó có nêu nguồn gốc của các mức giá, lãi suất, độ co dãn ước  tính và số lượng thị trường. Một số nghiên cứu điển hình sẽ khép lại cuốn sách. Các nghiên cứu này mô tả việc ứng dụng các  kỹ thuật này vào các vấn đề thực tế. Tham khảo Portney and Weyant (1999).
  9. Bài giảng 3: Tổng Kết Hợp Về Thời Gian Dr. Allen Bellas Phương Hạnh dịch Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian[1] Chủ đề này là về chiết khấu chi phí và lợi nhuận tương lai để phản ánh quan điểm rằng những thứ  trong tương lai sẽ có ít giá trị hơn hiện tại. Ví dụ, nếu một cộng đồng sắp có một bệnh viện mới, miễn là những thứ khác cũng giống nhau,  người dân sẽ có thể mong muốn thà có bệnh viện hôm này còn hơn một năm sau mới có nó. Giá  trị bệnh viện mới hiện nay lớn hơn giá trị bệnh viện mới một năm sau. Vậy bệnh viện hiện nay có giá trị nhiều hơn bao nhiêu? Câu hỏi này được trả lời bằng Tỷ Lệ Ưu   Tiên Thời Gian. Tỷ lệ ưu tiên thời gian là tỷ lệ mà người dân sẵn sàng từ bỏ tiêu dùng hiện nay để đổi chác lấy  thêm tiêu dùng một khoảng thời gian (thông thường là một năm kể từ bây giờ). Hoặc, tỷ lệ ưu tiên thời gian là tỷ lệ phần trăm mà theo đó, giá trị của một hạng mục bị giảm bớt đi  nếu một người phải chờ thêm một khoảng thời gian nữa mới lấy được nó (thông thường là một  năm). Nếu mọi người trong cộng đồng đồng ý sẽ trả $100 triệu để có bệnh viện mới ngay bây giờ nhưng  chỉ trả $95 triệu để có nó một năm sau, thì tỷ lệ ưu tiên thời gian ngụ ý của họ là xấp xỉ khoảng  5%. Nghĩa là, mỗi năm họ phải chờ để có được cái gì đó sẽ làm giảm giá trị của cái đó đi khoảng  5%. Sử Dụng Chiết Khấu Trong Thực Tế Dẹp tất cả những mối quan tâm này sang một bên, hãy giả sử rằng bạn có tỷ lệ lãi suất nào đó để  áp dụng trong chiết khấu chi phí và lợi nhuận tương lai. Trong nhiều trường hợp thực tế trên thế  giới, con số này sẽ đơn giản được ấn định sẵn cho bạn. Phương thức đúng để đánh giá một dự án là nhìn vào giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng. Nếu giá  trị hiện tại ròng (NPV) là dương, thì dự án là đáng để thực hiện. Nếu có hai dự án cùng độc quyền  lẫn nhau thì nên triển khai dự án có NPV lớn nhất.
  10. Công Thức Tính Giá Trị Hiện Tại Ròng Giá trị hiện tại ròng là giá trị hiện tại của lợi nhuận trừ đi giá trị hiện tại của chi phí. Giá trị hiện tại ròng của dự án (cũng được biết đến như là giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng) có  thể được biểu diễn như một tổng của các lợi nhuận ròng trong mỗi giai đoạn trong đó chúng ta chấp nhận chung rằng: và n là phạm vi quy hoạch hay đánh giá dự án Nhìn chung, chúng ta cũng tin rằng một tỷ lệ không âm[2] nên được áp dụng để chiết khấu tương  lai, để mà Một điều kiện tiên quyết để xác định giá trị hiện tại ròng là quyết định qua khoảng thời gian nào  dự án sẽ được đánh giá. Một số dự án có tuổi thọ nhất định, và dễ dàng xác định được khoảng  thời gian nào để đánh giá chi phí và lợi nhuận của chúng. Những dự án khác sẽ có chi phí và lợi  nhuận trong một khoảng thời gian không hạn định và buộc phải quyết định khoảng thời gian bao  lâu để đánh giá dự án. Nếu dự án sẽ không có chi phí và lợi nhuận sau N năm, thì giá trị hiện tại bằng trong đó : Bt là lợi nhuận trong thời gian t Ct là chi phí trong thời gian t
  11. i là tỷ lệ lãi suất chiết khấu Nếu dự án sẽ để lại một số tài sản nhất định sau N năm, giá trị của tài sản đó là giá trị cuối cùng  của dự án. Giá trị cuối cùng có thể là giá trị của những thứ vật chất, hoặc nó cũng có thể là giá trị  dự tính của giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng trong tương lai của dự án vượt ra ngoài khoảng thời  gian đang được xem xét rõ ràng: trong đó : Bt là lợi nhuận trong thời gian t Ct là chi phí trong thời gian t i là tỷ lệ lãi suất chiết khấu TN là giá trị cuối cùng, giá trị của cái sẽ được để lại sau quãng thời gian N VD: Một dự án không có giá trị cuối cùng Khoảng thời gian 0 1 2 3 Lợi nhuận 0 300 300 300 Chi phí 450 100 100 100 Lợi nhuận ròng ­450 200 200 200 Nếu tỷ lệ lãi suất bằng 10% thì giá trị hiện tại của dự án có thể được tính toán là Cho nên, do NPV > 0, đây là một dự án tốt đáng để thực hiện. Tuy nhiên, nếu dự án này được thẩm định lại với tỷ lệ chiết khấu là 20%, chúng ta có
  12. Cho nên, với tỷ lệ chiết khấu cao hơn, đây là một dự án tồi không nên thực hiện. Nói chung, do hầu hết các dự án có chi phí và lợi nhuận ban đầu sau một khoảng thời gian nào  đó, khi tỷ lệ chiết khấu tăng lên, số lượng dự án tốt sẽ giảm đi. Dưới đây là biểu đồ mô tả dự án nói trên diễn biến như thế nào tại các mức tỷ lệ lãi suất khác  nhau: Tỷ Lệ Thực Tế với Tỷ Lệ Danh Nghĩa Chênh lệch giữa tỷ lệ lãi suất thực tế (TT) và tỷ lệ lãi suất danh nghĩa (DN) chính là tỷ lệ lạm phát  (LP). Sử dụng tỷ lệ nào phụ thuộc vào bản chất chi phí và lợi nhuận liên quan đến một dự án. Mối quan hệ giữa tỷ lệ lãi suất thực tế, tỷ lệ lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát là: Ví dụ, nếu tỷ lệ lãi suất danh nghĩa là 30% và tỷ lệ lạm phát là 20%, thì tỷ lệ lãi suất thực tế là
  13. Tính xấp xỉ, thông thường có thể chấp nhận được để nói rằng thực tế = danh nghĩa ­ lạm phát Công thức này sẽ càng đúng khi tỷ lệ lạm phát nhỏ. Tất nhiên, có những thời điểm và địa phương  nơi tỷ lệ lạm phát không nhỏ. VD: danh nghĩa=450%, lạm phát=440% i=(1+4.50)/(1+4.40) ­ 1 = 0.0185 hay 1.85%, không phải là 10%. Nếu chi phí hay lợi nhuận được biểu thị bất biến bằng đồng đôla hoặc dưới dạng hàng hoá và  dịch vụ (thông thường là trường hợp), thì những giá trị này sẽ đợc điều chỉnh cho lạm phát và chỉ  có tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất thực tế mới cần được bao gồm trong tỷ lệ bạn áp dụng. Nếu chi phí hay lợi nhuận được biểu thị bằng các số tiền đôla danh nghĩa, thì lạm phát sẽ ảnh  hưởng đến giá trị của chúng và, do vậy, lạm phát nên được bao gồm trong tỷ lệ chiết khấu, có  nghĩa là tỷ lệ danh nghĩa nên được sử dụng. Tỷ Lệ Chiết Khấu Xã Hội, hay Nên Sử Dụng Tỷ Lệ Nào? Chi phí và lợi nhuận liên quan đến một dự án điển hình thường phát sinh tại những thời điểm khác  nhau. Quan trọng là việc có thể so sánh các chi phí và lợi nhuận phát sinh tại những thời điểm  khác nhau. Thực hiện điều này trong một nền kinh tế đơn giản, có một người và có hai giai đoạn là tương đối  dễ. Một người sẽ có vài cơ hội tiêu dùng giữa hai giai đoạn và sẽ tối đa hoá độ thoả dụng tiêu  dùng giữa hai giai đoạn. Tỷ Lệ Thay Thế Biên (Marginal Rate of Substituion ~ MRS) sẽ bằng với  Tỷ Lệ Chuyển Đổi Biên (Marginal Rate of Transformation ~ MRT) và đây sẽ là tỷ lệ lãi suất phù  hợp để áp dụng tính chiết khấu chi phí và lợi nhuận tương lai. .
  14. Nhìn từ góc độ quan điểm xã hội, tồn tại một đường biên các xác suất tiêu dùng liên quan đến  mức tiêu dùng giai đoạn này với mức tiêu dùng giai đoạn tiếp theo. Độ dốc của đường cong này là  Tỷ Lệ Chi Phí Cơ Hội Xã Hội (Social Opportunity Cost Rate ~ SOCR). Xã hội cũng sẵn sàng từ bỏ tiêu dùng hiện tại để đổi lấy đầu tư dẫn đến tiêu dùng lớn hơn trong  tương lai. Sự sẵn lòng này được thể hiện bởi độ dốc của đường cong đẳng dụng xã hội, độ dốc  của đường cong này là Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian Của Xã Hội (Societal Rate of Time Prefence ~  SRTP). Nếu tất cả các thị trường đều hoàn hảo, chúng ta có sự cân bằng liên thời gian xã hội (societal  intertemporal equilibrium):
  15. Tại một điểm giống như X, tỷ lệ chi phí cơ hội xã hội SOCR bằng với tỷ lệ ưu tiên thời gian của xã  hội SRTP, do đó tỷ lệ mà tại đó xã hội có thể trao đổi cái này lấy cái kia giữa mức tiêu dùng hiện  tại và mức tiêu dùng tương lai chính xác bằng với tỷ lệ mà nó muốn để trao đổi giữa hai thứ và đó  là tỷ lệ mà tại đó mức tiêu dùng tương lai nên được chiết khấu tương xứng với mức tiêu dùng hiện  tại. Nếu xã hội có một khoản tiền tại một điểm giống như Z, thì xã hội nên giảm mức tiêu dùng hiện  tại để nhằm tăng mức tiêu dùng tương lai bởi vì chi phí biên của mức tiêu dùng hiện tại (xét về  mức tiêu thụ tương lai dự tính trước) lớn hơn tỷ lệ biên mà tại đó xã hội sẵn lòng để trao đổi giữa  hai thứ. Xét từ góc độ cá nhân, có một tỷ lệ ưu tiên thời gian của cá nhân (Private Rate of Time  Preference ~ PRTP) biểu hiện cho tỷ lệ mà tại đó mọi người sẵn sàng thực hiện trao đổi thoả hiệp  biên giữa mức tiêu dùng hiện tại và mức tiêu dùng tương lai. Những cá nhân này có cơ hội đầu tư vào các thị trường tín dụng trong đó có một tỷ lệ chi phí cơ  hội cá nhân (Private Opportunity Cost Rate ~ POCR) mà tại đó những nguồn lực hiện tại có thể  được đầu tư để đổi lấy mức tiêu dùng tương lai. Tỷ lệ này chính là độ dốc của đường thẳng ngân  sách liên thời gian và cũng là tỷ lệ lãi suất.
  16. Một người có một khoản tiền T trong khoảng thời gian 0 sẽ lựa chọn để tiết kiệm một chút trong  số đó (∆C0) để nhằm có mức tiêu dùng trong khoảng thời gian 1. Do đó, một lần nữa, nếu thị trường hoàn hảo thì độ dốc của đường cong đẳng dụng cá nhân  (PRTP) sẽ bằng với độ dốc của đường cong đẳng dụng xã hội (SRTP) và chúng sẽ bằng với độ  dốc của đường hạn chế ngân sách liên thời gian của cá nhân (POCR) và độ dốc của đường giới  hạn khả năng tiêu dùng (SOCR). Tuy nhiên, điều này không phải như thế. Nếu chúng ta có hiệu dụng năng động (dynamic efficiency), thì tỷ lệ thay thế biên liên thời gian  của các cá nhân sẽ bằng với tỷ lệ chuyển đổi biên liên thời gian của họ. Điều này tương ứng với  việc nói rằng tỷ lệ này sẽ bằng nhau giữa tất cả các cá nhân. Nói cách khác, tỷ lệ mà mọi người  mong muốn trao đổi mức tiêu dùng giữa hai khoảng thời gian bằng với tỷ lệ mà tại đó họ có thể  trao đổi thoả hiệp. Chúng ta có thể phân biệt giữa tỷ lệ cá nhân và tỷ lệ xã hội ... Trong những thị trường vốn hoàn hảo : Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian Cá Nhân (PRTP) = Tỷ Lệ Chi Phí Cơ Hội Cá Nhân (POCR) Đối với tổng thể xã hội Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian Xã Hội (SRTP) = Tỷ Lệ Chi Phí Cơ Hội Xã Hội (SOCR)
  17. Và chừng nào mà SRTP=PRTP và PRTP=POCR và SOCR=POCR, thì bạn có tính hiệu dụng năng động và tỷ lệ lãi suất thật sự và chính thức bằng với tất cả những  tỷ lệ này. Có rất nhiều lý do giải thích tại sao điều này có thể không đúng như vậy ... 1. Những thị trường vốn có hoàn hảo không? Nghĩa là, PRTP=i=POCR hay không? Có thể ở những thành phố lớn có nhiều khoản tiền lớn, nhưng không phải ở những thị trường có  số lượng hạn chế những phương tiện tài chính hay ngân hàng. Những người tiêu dùng tiết kiệm được thêm nhiều tiền cho đến khi tỷ lệ ưu tiên thời gian của họ  bằng với tỷ lệ lãi suất họ có thể kiếm được từ các khoản tiền tiết kiệm của mình (PRTP=itiền tiết kiệm )  trong khi đó các thể chế tài chính tiến hành cho vay bổ sung cho đến khi chi phí cơ hội của họ  bằng với lợi nhuận họ thu lại được từ các khoản cho vay đó (POCR=ikhoản cho vay ). Nếu itiền tiết kiệm= ikhoản cho vay thì tính hiệu dụng năng động có giá trị. Điều này không đúng, nhưng đối  với hầu hết người dân ở Mỹ và ở một số nước phát triển khác, điều này có thể gần sát. Đối với  những người sống ở các thị trấn hay các nước nhỏ không có các thể chế tài chính vững chắc, đó  có thể không phải là một phép xấp xỉ hợp lý. Nghĩa là, tỷ lệ lãi suất áp cho các khoản vay có thể  cao hơn nhiều tỷ lệ lãi suất mọi người nhận được từ tiền tiết kiệm của mình. Trên thực tế, đối với các thể chế tài chính đang hoạt động, có thể đúng là POCR=ikhoản cho vay >  PRTP=itiền tiết kiệm. (TQ hiệu đính: vì các thể chế tài chánh và ngân hàng kiếm lời,tỷ lệ lợi nhuận cho vay lớn hơn tỷ lệ  tiền tiết kiệm họ phải trả cho bà con. Trong những thành phố có nhiều thể chế tài chánh cạnh  tranh, thì hai tỷ lệ này sai biệt rất ít, như 6.5% và 5.7%. Còn ở những thị trấn nhỏ, tỷ lệ mượn nợ  thì cao, trong khi tỷ lệ tiền tiết kiệm thì quá thấy, hay không đáng kể). 2. SRTP=PRTP hay không? Có thể không. Nhìn chung, người ta cho rằng SRTP 
  18. Nếu các thế hệ tương lai là "một hàng hoá công cộng", thì những thị trường tư nhân sẽ cung cấp  hàng hoá đó không đủ. (TQ hiệu đính: thế hệ tương lai không chỉ con ruột của mình, mà là tất cả  mọi người đồng lứa tuổi con của mình. Bao nhiêu người trong chúng ta lo cho con nhà hàng xóm). 3. POCR=SOCR hay không? Không nếu có thuế đánh vào lợi nhuận biên thu từ được việc bán các khoản đầu tư hay tài sản.  POCR là tỷ lệ sau thuế trong khi SOCR là tỷ lệ trước thuế, hay POCR = (1­t)SOCR Do đó POCR 
  19. Thuế đánh vào thu nhập từ tiền lãi hay đầu tư làm giảm lợi nhuận sau thuế của các cá nhân thu  được từ tiền tiết kiệm của họ từ i (là mức mà người đi vay đã trả sau khi đã đóng thuế cho lợi  nhuận của mình) xuống (như trình bày trong Hinh 10.3) pz. 3. Thiếu sự tham gia của các thế hệ tương lai Do các thế hệ tương lai vẫn chưa thực sự bày tỏ bất kỳ quan điểm nào, nên chúng ta không biết  chúng muốn chúng ta đánh giá như thế nào mức tiêu dùng của chúng tương ứng với mức tiêu  dùng của chúng ta. Nếu chúng muốn mức tiêu dùng của mình được đánh giá nhiều hơn mức hiện  nay chúng ta đang làm, thì tác động sẽ là làm cho đường cong đẳng dụng xã hội thẳng hơn, làm  cho điểm tối ưu không phải là X mà là điểm gì đó giống Y hơn. 4. Rủi Ro và Tính Bấp Bênh Các dự án tư nhân phải hoàn trả lại một tỷ lệ phần trăm hơi cao hơn một chút cho các nhà đầu tư  của mình do một thực tế là có những rủi ro liên quan đến mỗi dự án. Xét từ góc độ xã hội, có một  số lượng đủ lớn những dự án đầu tư tiềm năng đối với rủi ro tránh được hoàn toàn. Để xem xét kỹ hơn các vấn đề tỷ lệ lãi suất, hãy xem xét biểu đồ dưới đây được trình bày lại từ  sách của Boardman et al. Cung và cầu ban đầu là D0 và S0, và chúng bị giảm xuống là DI và SS  do thuế đánh vào lợi nhuận doanh nghiệp và thu nhập tiền lãi. Tại điểm cân bằng mới, tỷ suất lợi  nhuận từ các khoản đầu tư của doanh nghiệp là rz trong khi tỷ lệ mà các hộ gia đình nhận được từ  tiền tiết kiệm là pz.
  20. Một dự án của chính phủ cần khoản vay rất lớn sẽ làm tăng nhu cầu về tín dụng tới mức DI' đồng  thời kéo theo làm tăng tổng số tiền tín dụng trên thị trường. Cho vay chính phủ được cấu thành  bởi mức tăng về tiết kiệm của các hộ gia đình (tương đương với mức giảm về tiết kiệm của các hộ  gia đình) và mức giảm về đầu tư tư nhân. Mức tăng của tiết kiệm hộ gia đình được định giá theo  đường cong cung, S0, trong khi mức giảm về đầu tư tư nhân được định giá theo tỷ lệ chi phí cơ hội  cá nhân, rz. Năm Giải Pháp Đề Xuất Có năm giải pháp đối với các vấn đề nên áp dụng tỷ lệ chiết khấu nào được đề xuất trong phần  văn bản: 1. Sử dụng tỷ suất lợi nhuận trước thuế từ các khoản đầu tư cá nhân (rz) • Nếu chính phủ dự định sắp huy động tiền cho một dự án, thì dự án đó nên làm tốt ít nhất cũng  bằng mức mà một dự án đầu tư khu vực tư nhân sẽ làm. • Các tỷ lệ tư nhân bao gồm phí bảo hiểm rủi ro có thể không thích hợp trong bối cảnh khu vực  công cộng với số lượng đủ lớn các dự án có thể • Tỷ lệ hiệu dụng ở đây là khoảng 8% 2. Sử dụng tỷ suất lợi nhuận sau thuế từ các khoản đầu tư cá nhân (pz) • Đây là tỷ lệ mà tại đó các cá nhân thoả hiệp đổi cái này lấy cái kia giữa mức tiêu dùng hiện tại  và mức tiêu dùng tương lai, do đó có thể đó cũng là một tỷ lệ xã hội thích hợp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2