intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hàm lượng Cadimi trong các loài động vật thân mềm và giáp xác ở Nha Trang

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

58
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của nguyên cứu này nhằm cung cấp những thông tin có giá trị cho việc đánh giá phơi nhiễm và đánh giá nguy cơ của người dân thành phố Nha Trang đối với cadimi do tiêu thụ các loài động vật thân mềm và giáp xác. Hàm lượng cadimi được khảo sát trong các loài động vật thân mềm và giáp xác được tiêu dùng phổ biến từ tháng 5/2008 đến tháng 1/2009 bằng phương pháp ICP-MS. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hàm lượng cadimi nằm trong khoảng 0.012-0.073 mg.kg-1 và dưới giới hạn tối đa của Qui định về an toàn thực phẩm của Việt Nam (46/2007/QD-BYT) và Châu Âu (1881/2006/EC).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hàm lượng Cadimi trong các loài động vật thân mềm và giáp xác ở Nha Trang

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 3/2014<br /> <br /> THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br /> <br /> HÀM LƯỢNG CADIMI TRONG CÁC LOÀI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM<br /> VÀ GIÁP XÁC Ở NHA TRANG<br /> CADMIUM CONCENTRATIONS IN MOLLUSCS AND CRUSTACEANS<br /> IN NHA TRANG<br /> Nguyễn Thuần Anh1<br /> Ngày nhận bài: 16/6/2013; Ngày phản biện thông qua: 12/4/2013; Ngày duyệt đăng: 13/8/2014<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục đích của nguyên cứu này nhằm cung cấp những thông tin có giá trị cho việc đánh giá phơi nhiễm và đánh giá<br /> nguy cơ của người dân thành phố Nha Trang đối với cadimi do tiêu thụ các loài động vật thân mềm và giáp xác. Hàm<br /> lượng cadimi được khảo sát trong các loài động vật thân mềm và giáp xác được tiêu dùng phổ biến từ tháng 5/2008<br /> đến tháng 1/2009 bằng phương pháp ICP-MS. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hàm lượng cadimi nằm trong khoảng<br /> 0.012-0.073 mg.kg-1 và dưới giới hạn tối đa của Qui định về an toàn thực phẩm của Việt Nam (46/2007/QD-BYT) và Châu<br /> Âu (1881/2006/EC).<br /> Từ khóa: động vật thân mềm, giáp xác, cadimi, kim loại nặng, Nha Trang<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The aim of this study was to provide useful information for exposure evaluation and risk assessment of Nha trang<br /> consumers to cadmium contaminants due to molluscous and crustaceous consumption. Cadmium contamination levels<br /> have been investigated by Inductively Coupled Plasma- Mass Spectrometry (ICP-MS) from May 2008 to January 2009<br /> in some molluscs and crustaceans popularly consumed. This study shows that cadmium concentations in molluscs and<br /> crustaceans in locall markets in Nha trang are range from 0.012 to 0.073 mg.kg-1 and within the maximum limit of<br /> regulatory of Vietnam (46/2007/QD-BYT) and European community (1881/2006/EC).<br /> Keywords: Molluscs, crustaceans, cadmium, heavy metals, Nha Trang<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Cadimi (Cd) là một trong số các kim loại nặng<br /> có tính tích lũy và gây hại cho sức khỏe con người<br /> ngay cả khi tồn tại ở dạng vết (Järup và cs, 1998;<br /> ATSDR, 1999; Liu và cs, 2008). Cadimi có trong<br /> môi trường do các hoạt động của tự nhiên (như hoạt<br /> động của núi lửa, sự rửa trôi của đất…) hoặc do<br /> hoạt động của con người (sự đốt than và đốt các<br /> sản phẩm dầu lửa, sự cải tạo đất, sự đốt rác sinh<br /> hoạt…) (Bisson và cs, 2005). Cadimi ảnh hưởng<br /> chủ yếu lên thận, ngoài ra còn tác động lên phổi,<br /> máu, gây độc lên xương do làm rối loạn quá trình<br /> chuyển hóa canxi và gây rối loạn chức năng gan<br /> (JECFA, 1989). Trung tâm nghiên cứu ung thư quốc<br /> tế đã xếp cadimi vào nhóm các chất gây ung thư<br /> <br /> 1<br /> <br /> cho người dựa trên các nghiên cứu trên động vật và<br /> các nghiên cứu ở những người nhiễm cadimi do các<br /> hoạt động nghề nghiệp (IARC, 1993). Cadimi nhiễm<br /> vào cơ thể người qua đường hô hấp và đường ăn<br /> uống (Dab và cs, 1999; EFSA, 2009).<br /> Các loài động vật thân mềm và giáp xác được<br /> tiêu dùng phổ biến được chọn làm đối tượng để<br /> đánh giá mức độ ô nhiễm cadimi vì chúng được coi<br /> là nguồn thực phẩm quan trọng cung cấp protein,<br /> khoáng và axit béo không no như omega 3 nhưng<br /> lại có khả năng tích tụ các chất ô nhiễm, đặc biệt là<br /> kim loại nặng (Miquel, 2001).<br /> Việc thực hiện nghiên cứu này là cần thiết để<br /> xác định hàm lượng cadimi trong các loài động vật<br /> thân mềm và giáp xác được tiêu dùng phổ biến<br /> <br /> TS. Nguyễn Thuần Anh: Khoa Công nghệ thực phẩm - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 3<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> ở thành phố Nha Trang, một thành phố đại diện cho<br /> thành phố ven biển miền Trung trong tiêu thụ các<br /> loài thủy hải sản này. Nghiên cứu góp phần cung<br /> cấp nguồn số liệu cho việc đánh giá nguy cơ của<br /> người tiêu dùng đối với cadimi do tiêu thụ các loài<br /> động vật thân mềm và giáp xác để từ đó có cơ sở<br /> đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm an toàn<br /> thực phẩm cho người tiêu dùng.<br /> II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> Kế thừa kết quả khảo sát của Nguyen và cs<br /> (2010), 19 loài động vật thân mềm và giáp xác<br /> <br /> Số 3/2014<br /> được tiêu dùng phổ biến (ốc nhảy, ốc hương, ốc<br /> vú nàng, ốc bàn tay, ốc đụn, mực ống, vẹm xanh,<br /> hàu, điệp, ngao dầu, ngao vân, sò lông, ngao<br /> móng tay, sò huyết, bàn mai, cua, moi, ghẹ, tôm)<br /> đã được chọn lựa để lấy mẫu và xác định hàm<br /> lượng cadimi. 4 mẫu hỗn hợp (hai mảnh vỏ, chân<br /> đầu, chân bụng và giáp xác) đã được chuẩn bị để<br /> làm giảm số mẫu mà không làm giảm độ chính<br /> xác của kết quả (WHO, 1985). Tỷ lệ các loài động<br /> vật thân mềm và giáp xác trong mỗi hỗn hợp mẫu<br /> thành phần được kế thừa từ số liệu của cuộc điều<br /> tra tiêu thụ (Nguyen và cs, 2010) và được trình<br /> bày ở bảng 1.<br /> <br /> Bảng 1. Tỷ lệ các loài động vật thân mềm và giáp xác trong mỗi hỗn hợp mẫu thành phần<br /> Hỗn hợp mẫu<br /> <br /> Tên khoa học<br /> <br /> % trong hỗn hợp<br /> <br /> Khối lượng<br /> mẫu<br /> <br /> Số lượng cá thể<br /> được lấy ở nơi bán<br /> <br /> Hai mảnh vỏ<br /> <br /> Perna viridis<br /> Anadara granosa<br /> Anadara subcrenata<br /> Comptopallium radula<br /> Solen grandis<br /> Meretrix meretrix<br /> Crassostrea belcheri<br /> Pinna bicolor<br /> Meretrix lusoria<br /> Tổng<br /> <br /> 32,6<br /> 3,9<br /> 9.1<br /> 11,7<br /> 4,3<br /> 10,9<br /> 12,5<br /> 3,5<br /> 11,5<br /> 100<br /> <br /> 65,1<br /> 7,8<br /> 18,1<br /> 23,4<br /> 8,7<br /> 21,9<br /> 25,0<br /> 7,1<br /> 22,9<br /> 200<br /> <br /> 7<br /> 4<br /> 5<br /> 4<br /> 3<br /> 5<br /> 4<br /> 2<br /> 5<br /> <br /> Giáp xác<br /> <br /> Penaneus monodon<br /> Acetes erythraeus<br /> Scylla paramamosain<br /> Portunus sanguinolentus<br /> Tổng<br /> <br /> 41,1<br /> 6,3<br /> 8,2<br /> 44,2<br /> 100<br /> <br /> 82,0<br /> 12,0<br /> 17,0<br /> 89,0<br /> 200<br /> <br /> 5<br /> 20<br /> 2<br /> 2<br /> <br /> Chân bụng<br /> <br /> Cellana testudinaria<br /> Tectus pyramis<br /> Strombus luhuanus<br /> Lambis lambis<br /> Babylonia arealata<br /> Tổng<br /> <br /> 14,1<br /> 9,0<br /> 41,9<br /> 12,2<br /> 20,6<br /> 100<br /> <br /> 28,2<br /> 18,0<br /> 88,4<br /> 24,4<br /> 41,0<br /> 200<br /> <br /> 4<br /> 3<br /> 8<br /> 4<br /> 6<br /> <br /> Chân đầu<br /> <br /> Loligo edulis Hoyle<br /> <br /> 100<br /> <br /> 200<br /> <br /> 3<br /> <br /> Kết quả nghiên cứu của Nguyen và cs (2010) cho thấy, chỉ có 2% và 3% động vật thân mềm và giáp xác<br /> được mua ở cảng và siêu thị nên không cấu thành nên mẫu thành phần. Với các tỷ lệ mua ở nhà hàng (10%),<br /> chợ tạm (30%) và chợ (55%) sẽ cấu thành nên cơ cấu lấy mẫu. Cụ thể, 10% hải sản được mua ở nhà hàng thì<br /> số mẫu được lấy ở nhà hàng là 1; 30% hải sản được mua ở chợ tạm nên số mẫu được lấy ở chợ tạm là 2 và<br /> 55% hải sản được mua ở chợ nên số mẫu được lấy ở chợ là 3 (hình 1). Vậy tổng số 6 mẫu (1 mẫu ở nhà hàng,<br /> 2 mẫu ở chợ tạm và 3 mẫu ở chợ) (200 g/1 mẫu) được gộp lại và đồng hóa để có được mẫu đồng nhất (1200 g)<br /> đem phân tích. Nguồn gốc và phân bố của 6<br /> mẫu thành phần như sau: 1 mẫu thành phần ở<br /> nhà hàng Biển Ngọc, 2 mẫu thành phần ở chợ<br /> tạm và 3 mẫu thành phần ở chợ Xóm Mới. Năm<br /> đợt lấy mẫu được tiến hành ở 2 mùa: mùa khô<br /> (tháng 5 và 7 năm 2008) và mùa mưa (tháng<br /> 9, 11 năm 2008 và tháng 1 năm 2009). Số mẫu<br /> Hình 1. Cấu thành nên mẫu thành phần tùy theo nơi bán<br /> hỗn hợp để phân tích cadimi là 20 mẫu.<br /> <br /> 4 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 3/2014<br /> bằng ANOVA với phép thử Tukey bằng phần mềm<br /> SPSS verson 16. Sự khác biệt được coi là có ý<br /> nghĩa thống kê khi p < 0.05.<br /> Hàm lượng cadimi (mg/kg) trong mẫu ướt được<br /> tính như sau: B = Ck. A/100 (B (mg/kg): hàm lượng<br /> cadimi (mg/kg) trong mẫu ướt, Ck: Hàm lượng<br /> cadimi (mg/kg) trong mẫu khô, A: hàm lượng<br /> chất khô trong mẫu ướt đem phân tích (%)) với<br /> A = S .100/P (P: khối lượng mẫu ướt (g), S: khối<br /> lượng mẫu khô (g))<br /> <br /> Theo hướng dẫn chuẩn bị mẫu của Cộng đồng<br /> chung Châu Âu 333/2007/EC (EC, 2007), các mẫu<br /> phân tích các loài hai mảnh vỏ, chân bụng và giáp<br /> xác là các phần ăn được bao gồm cả nội tạng,<br /> riêng mẫu phân tích các loài chân đầu phải loại bỏ<br /> nội tạng.<br /> Các mẫu xác định cadimi được sấy khô trong tủ<br /> Memert (Đức) ở 1050C đến khối lượng không đổi.<br /> Sau đó 0,5 g mẫu khô được vô cơ hóa với 5 ml HNO3<br /> và 2ml H2O2 trong lò vi sóng MWS2 - BERGHOF<br /> (Đức). Hàm lượng cadimi được xác định bằng<br /> phương pháp ICP-MS (Varian, MS - 820). Các mẫu<br /> trắng và phân tích đôi được thực hiện để kiểm soát<br /> độ tin cậy của quá trình phân tích. Độ lệch được<br /> khảo sát bằng cách xác định hiệu suất thu hồi. Sự<br /> khác biệt của hàm lượng cadimi được đánh giá<br /> <br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> Hàm lượng cadimi trong các loài hai mảnh vỏ,<br /> chân bụng, giáp xác và chân đầu xác định được<br /> trong các tháng lấy mẫu đại diện cho hai mùa mưa<br /> và mùa khô được trình bày trong bảng 2.<br /> <br /> Bảng 2. Hàm lượng cadimi trong các loài động vật thân mềm và giáp xác<br /> được tiêu dùng phổ biến tại Nha Trang năm 2008 và 2009<br /> Nhuyễn thể<br /> <br /> Tháng<br /> <br /> Hàm lượng Cd (khối lượng ướt) (mg/kg)<br /> <br /> Độ lệch chuẩn (%)<br /> <br /> Hai mảnh vỏ<br /> <br /> 5<br /> 7<br /> 9<br /> 11<br /> <br /> 0,032<br /> 0,032<br /> 0,068<br /> 0,073<br /> <br /> 4,7<br /> 3,6<br /> 1,3<br /> 1,2<br /> <br /> 1<br /> 5<br /> 7<br /> 9<br /> 11<br /> 1<br /> 5<br /> 7<br /> 9<br /> 11<br /> 1<br /> 5<br /> 7<br /> 9<br /> 11<br /> 1<br /> <br /> 0,073<br /> <br /> 1,1<br /> <br /> 0,019<br /> 0,019<br /> 0,026<br /> 0,034<br /> 0,032<br /> 0,033<br /> 0,033<br /> 0,064<br /> 0,072<br /> 0,067<br /> 0,012<br /> 0,013<br /> 0,013<br /> 0,013<br /> 0,013<br /> <br /> 5,4<br /> 6,7<br /> 4,0<br /> 2,9<br /> 3,2<br /> 3,6<br /> 3,0<br /> 1,6<br /> 1,1<br /> 1,7<br /> 8,9<br /> 8,6<br /> 6,2<br /> 4,6<br /> 6,6<br /> <br /> Giáp xác<br /> <br /> Chân bụng<br /> <br /> Chân đầu<br /> <br /> Sự khác biệt của hàm lượng cadimi giữa các tháng đã được đánh giá ANOVA với phép thử Tukey bằng<br /> phần mềm SPSS 16. và được trình bày ở bảng 3.<br /> Bảng 3. Sự khác biệt của hàm lượng cadimi theo tháng (sử dụng One-Way ANOVA)<br /> Loài<br /> <br /> Tháng<br /> 5 và 7<br /> <br /> Tháng<br /> 5 và 9<br /> <br /> Tháng<br /> 5 và 11<br /> <br /> Tháng<br /> 5 và 1<br /> <br /> Tháng<br /> 7 và 9<br /> <br /> Tháng<br /> 7 và 11<br /> <br /> Tháng<br /> 7 và 1<br /> <br /> Tháng<br /> 9 và 11<br /> <br /> Tháng<br /> 9 và 1<br /> <br /> Tháng<br /> 11 và 1<br /> <br /> Hai mảnh vỏ<br /> <br /> -<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> -<br /> <br /> Giáp xác<br /> <br /> -<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> -<br /> <br /> Chân bụng<br /> <br /> -<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> +<br /> <br /> Chân đầu<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> +: khác nhau có ý nghĩa ở mức 5% (p < 0,05); -: khác nhau không ý nghĩa (p > 0,05)<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 5<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 3/2014<br /> (p > 0,05). Hàm lượng cadimi trong ba tháng của<br /> mùa mưa (tháng 9, 10/2008 và 1/2009) cao gần gấp<br /> đôi mùa khô (tháng 5 và 7). Điều này có thể là do<br /> quá trình rửa trôi các kim loại nặng từ đất sau những<br /> trận mưa lớn làm tăng lượng cadimi trong nước vào<br /> mùa mưa. Theo Pierce (2007), hàm lượng cadimi<br /> tập trung phần lớn ở ống tiêu hóa.<br /> Kết quả so sánh hàm lượng cadimi được xác<br /> định trong nghiên cứu này với các nghiên cứu thực<br /> hiện ở Việt Nam và Châu Á được trình bày ở bảng 4.<br /> <br /> Kết quả ở bảng 2 và bảng 3 cho thấy, hàm<br /> lượng cadimi trong các loài hai mảnh vỏ, chân bụng<br /> và giáp xác trong các tháng lấy mẫu phân tích là<br /> khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), ngoại<br /> trừ tháng 5 và tháng 11, tháng 11 và tháng 1. Trong<br /> cùng một thời điểm (tháng) lấy mẫu thì hàm lượng<br /> cadimi trong các loài hai mảnh vỏ và chân bụng cao<br /> hơn trong các loài giáp xác và chân đầu. Hàm lượng<br /> cadimi trong các loài chân đầu thấp nhất và không<br /> khác nhau có ý nghĩa thống kê ở các tháng lấy mẫu<br /> <br /> Bảng 4. Hàm lượng cadimi (mg.kg-1 khối lượng ướt) trong các loài động vật thân mềm và giáp xác<br /> được tiêu dùng phổ biến ở Việt Nam và Châu Á<br /> Nghiên cứu này<br /> Động vật thân mềm<br /> và giáp xác<br /> <br /> Loài hai<br /> mảnh vỏ<br /> <br /> Hàm lượng<br /> cadimi<br /> <br /> 0,056<br /> (0,032- 0,073)<br /> <br /> Các nghiên cứu khác ở Việt nam và Châu Á<br /> <br /> Động vật<br /> thân mềm<br /> và giáp xác<br /> <br /> Năm<br /> <br /> Vẹm<br /> <br /> Nước<br /> <br /> Hàm lượng cadimi<br /> <br /> Tham khảo<br /> <br /> 2000<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 0,09<br /> <br /> Đào Việt Hà, 2002<br /> <br /> Sò<br /> <br /> 2005<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 2,13*<br /> <br /> Lê Thị Vinh và cs, 2005<br /> <br /> Hàu<br /> <br /> 2005<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 0,4 - 3,1*<br /> <br /> Lê Thị Vinh, 2006<br /> <br /> Hàu<br /> <br /> 2006<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 0,27 - 0,3<br /> <br /> Lê Thị Vinh, 2006<br /> <br /> Vẹm<br /> <br /> 209<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 0,06<br /> <br /> Ngô Đăng Nghĩa và cs, 2008<br /> <br /> Hai mảnh vỏ<br /> <br /> 2006<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 0,244 - 0,980<br /> <br /> NAFIQAD, 2006<br /> <br /> Nghêu<br /> <br /> 2006<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 0,993<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Nghêu<br /> <br /> 2007<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 0,01<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Nghêu<br /> <br /> 2008<br /> <br /> Việt Nam<br /> <br /> 0,01 - 0,063<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Vẹm<br /> <br /> 2005-2006<br /> <br /> Malaysia<br /> <br /> 0,07 (0,04 - 0,12)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Vẹm<br /> <br /> 2007<br /> <br /> Thái Lan<br /> <br /> 0,1 (0,002 - 0,79)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Nghêu<br /> <br /> 2007<br /> <br /> Thái Lan<br /> <br /> 0,12 (0,02 - 0,35)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Sò<br /> <br /> 2005-2006<br /> <br /> Malaysia<br /> <br /> 0,33 (0,06 - 0,81)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Sò<br /> <br /> 2004<br /> <br /> Singapore<br /> <br /> 0,542 (0,136 - 0,794)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Hai mảnh vỏ<br /> <br /> 2007<br /> <br /> Indonesia<br /> <br /> 1,234 - 2,404<br /> <br /> Soegianto và Supriyanto, 2008<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2006<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 0,013 - 0,033<br /> <br /> NAFIQAD, 2006<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2006<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 0,003<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2007<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 0,051<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2006<br /> <br /> Mianmar<br /> <br /> > 0,005, < 0,04<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2006<br /> <br /> Thái Lan<br /> <br /> < 0,01<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2005-2006<br /> <br /> Malaysia<br /> <br /> 0,01 (< 0,0048 - 0,07)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2005 2006<br /> <br /> Malaysia<br /> <br /> 0,01 (< 0,0048 - 0,02)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2005 2006<br /> <br /> Malaysia<br /> <br /> 0,02 (< 0,0048 - 0,04)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2005 2006<br /> <br /> Malaysia<br /> <br /> 0,04 (0,01 - 0,1)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Giáp xác<br /> <br /> --<br /> <br /> Ấn độ<br /> <br /> nd - 0,12<br /> <br /> Sivaperumal và cs, 2007<br /> <br /> Cua<br /> <br /> --<br /> <br /> Trung Quốc<br /> <br /> 0,795 - 0,506<br /> <br /> Ip và cs, 2005<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> --<br /> <br /> Trung Quốc<br /> <br /> 0,835 - 0,637<br /> <br /> Ip và cs, 2005<br /> <br /> 6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Loài giáp xác<br /> <br /> Loài chân đầu<br /> <br /> Loài chân bụng<br /> <br /> 0,026<br /> (0,019 -0,034)<br /> <br /> 0,013<br /> (0,012 - 0,013)<br /> 0,054<br /> (0,033- 0,072)<br /> <br /> Số 3/2014<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2001<br /> <br /> Indonesia<br /> <br /> 0,05 - 0,03<br /> <br /> Soegianto và Hamami, 2007<br /> <br /> Tôm<br /> <br /> 2002<br /> <br /> Indonesia<br /> <br /> 0,01<br /> <br /> Soegianto và Hamami, 2007<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2006<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 0,134<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2007<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 0,01<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2008<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 0,21 - 0,621<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2008<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 1,132 - 1,396<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2007 -2008 Mianmar<br /> <br /> > 0,005, < 0,04<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2007 - 2008 Mianmar<br /> <br /> > 0,005, < 0,04<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2005 -2006 Malaysia<br /> <br /> 0,1 (0,02 - 0,21)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2004<br /> <br /> Singapour<br /> <br /> 0,166 (0,096 - 0,246)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2005<br /> <br /> Thái Lan<br /> <br /> 0,18 (0,04 - 0,54)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2005<br /> <br /> Thái Lan<br /> <br /> 0,31 (0,04 - 0,94)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Mực<br /> <br /> 2005<br /> <br /> Thái Lan<br /> <br /> 0,36 (0,02 - 0,9)<br /> <br /> Hsia và Huiyi, 2008<br /> <br /> Chân bụng<br /> <br /> --<br /> <br /> Ấn độ<br /> <br /> nd - 0,47<br /> <br /> Sivaperumal và cs, 2007<br /> <br /> Bào ngư<br /> <br /> --<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 0,04 - 0,077<br /> <br /> Ngô Đăng Nghĩa và cs, 2008<br /> <br /> Chân bụng<br /> <br /> --<br /> <br /> Việt nam<br /> <br /> 0,04 - 0,62<br /> <br /> Lê Thị Vinh, 2006<br /> <br /> nd: không phát hiện, *: mg/kg khối lượng khô<br /> <br /> So sánh kết quả của nghiên cứu này với<br /> các giới hạn hàm lượng cadimi của Bộ Y tế Việt<br /> Nam 46/2007/QD-BYT và qui định của Châu Âu<br /> 1881/2006/EC (bảng 5) cho thấy, hàm lượng<br /> <br /> cadimi trong các loài động vật thân mềm và<br /> giáp xác sử dụng phổ biến xác định được trong<br /> nghiên cứu này không cao và đều nằm dưới giới<br /> hạn tối đa.<br /> <br /> Bảng 5. So sánh kết quả hàm lượng cadimi trung bình trong động vật thân mềm và giáp xác<br /> được xác định trong nghiên cứu hiện tại với các giới hạn qui định<br /> Cd (mg/kg)<br /> Loài<br /> <br /> Giới hạn Cd tối đa<br /> <br /> Hàm lượng Cd trong nghiên cứu<br /> <br /> EC<br /> <br /> 1<br /> <br /> Codex2<br /> <br /> Việt Nam3<br /> <br /> Hai mảnh vỏ<br /> <br /> 0.056 ± 0.02<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Chân bụng<br /> <br /> 0.054 ± 0.017<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Giáp xác<br /> <br /> 0.026 ± 0.006<br /> <br /> 0,5<br /> <br /> 0,5<br /> <br /> 0,5<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> --<br /> <br /> Chân đầu<br /> 1<br /> <br /> 0.013 ± 0.001<br /> <br /> : EC/1881/2006, : CAC, 2001; CAC, 2004; WHO, 2006, : MS/46/2007<br /> 2<br /> <br /> 3<br /> <br /> IV. KẾT LUẬN<br /> Kết quả nghiên cứu trên các mẫu được chuẩn<br /> bị theo cách được sử dụng thông thường (mẫu<br /> hai mảnh vỏ, chân bụng, giáp xác còn nguyên nội<br /> tạng và mẫu chân đầu đã bỏ nội tạng) cho thấy<br /> sự ô nhiễm cadimi ở các loài động vật thân mềm<br /> và giáp xác được tiêu dùng phổ biến ở thành phố<br /> Nha Trang ở thời điểm lấy mẫu là tương đối thấp<br /> <br /> và dưới mức cho phép được qui định bởi Châu Âu<br /> và Việt Nam. Bên cạnh đó kết quả còn cho thấy<br /> hàm lượng cadimi trong nhóm hai mảnh vỏ và chân<br /> bụng ở mùa mưa cao hơn mùa khô. Đây là các dữ<br /> liệu có giá trị cho việc đánh giá phơi nhiễm và đánh<br /> giá nguy cơ của người dân thành phố Nha Trang<br /> đối với cadimi do ăn các loài động vật thân mềm<br /> và giáp xác.<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2