intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hệ sinh thái hợp tác của các trường đại học Việt Nam và doanh nghiệp: Quan điểm của giảng viên

Chia sẻ: Danh Nguyen Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

91
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu từ góc độ giảng viên có tham gia nghiên cứu (242 người) về mức độ hợp tác trường đại học và doanh nghiệp. Kết quả của nghiên cứu cho thấy giảng viên hợp tác với doanh nghiệp ở mức độ thấp và trung bình tương ứng với tám phương thức hợp tác: hợp tác trong nghiên cứu và phát triển, luân chuyển của giảng viên, luân chuyển của sinh viên, xây dựng và triển khai chương trình đào tạo, học tập suốt đời.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hệ sinh thái hợp tác của các trường đại học Việt Nam và doanh nghiệp: Quan điểm của giảng viên

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94<br /> <br /> HỆ SINH THÁI HỢP TÁC CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP:<br /> QUAN ĐIỂM CỦA GIẢNG VIÊN<br /> Nguyễn Kim Dung1, Phạm Thị Hương2<br /> Viện Nghiên cứu Giáo dục – Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh<br /> Trường Đại học Tài chính - Marketing<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> <br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 16/05/2017<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 28/06/2017<br /> Ngày chấp nhận đăng: 10/2017<br /> Title:<br /> Vietnamese university business cooperation<br /> ecosystem: Perspective of<br /> academics<br /> Keywords:<br /> University - business<br /> cooperation, UBC ecosystem,<br /> academics, Vietnam<br /> Từ khóa:<br /> Hợp tác trường đại học –<br /> doanh nghiệp, hệ sinh thái<br /> hợp tác, giảng viên,<br /> Việt Nam<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Most of higher education institutions in Vietnam are oriented to be institutions<br /> that can meet the employment of society through collaborating with business.<br /> This article examines the state of university – business collaborations in<br /> Vietnam from the perspective of academics. An online survey was employed as<br /> a major research instrument to investigate the state of collaborating between<br /> university and business in Vietnam. A group of 242 research academics joined<br /> the study. The extent of cooperation was found to be at low and medium level<br /> for research academics in eight types of cooperation: collaboration in R&D,<br /> mobility of academics, mobility of students, curriculum development and<br /> delivery, lifelong learning, entrepreneurship, commercialization of research<br /> and development results, and governance. Drivers, barriers, and situational<br /> factors of the cooperation were also identified in this study. The study was<br /> quantitative in nature and was conducted online. This provides an overall view<br /> of the extent of cooperation in Vietnam. It is suggested to investigate the state of<br /> cooperation in depth applying qualitative methods including interviews with<br /> experts. The article discusses the ecosystem of university-business cooperation<br /> (UBC) in Vietnam. Based on the system, the authors offer suggestions to policy<br /> makers on how to keep the UBC ecosystem work.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trong giai đoạn phát triển hiện nay hầu hết các trường đại học ở Việt Nam đều<br /> xác định là các cơ sở giáo dục có thể đáp ứng được nhu cầu việc làm của xã<br /> hội. Một trong những cách tiếp cận để các trường có thể đào tạo nguồn nhân<br /> lực như vậy là thông qua hợp tác với các doanh nghiệp. Bài viết xem xét thực<br /> trạng hợp tác của các trường đại học và doanh nghiệp tại Việt Nam từ quan<br /> điểm của giảng viên thông qua khảo sát trực tuyến. Khảo sát được thiết kế cho<br /> ba nhóm đối tượng: giảng viên có hợp tác với các doanh nghiệp ở mức rất thấp,<br /> giảng viên có nghiên cứu khoa học và đại diện cơ sở giáo dục đại học. Bài viết<br /> trình bày kết quả nghiên cứu từ góc độ giảng viên có tham gia nghiên cứu (242<br /> người) về mức độ hợp tác trường đại học và doanh nghiệp. Kết quả của nghiên<br /> cứu cho thấy giảng viên hợp tác với doanh nghiệp ở mức độ thấp và trung bình<br /> tương ứng với tám phương thức hợp tác: hợp tác trong nghiên cứu và phát<br /> triển, luân chuyển của giảng viên, luân chuyển của sinh viên, xây dựng và triển<br /> khai chương trình đào tạo, học tập suốt đời, tinh thần khởi nghiệp, thương mại<br /> <br /> 77<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94<br /> hóa, phát triển các kết quả nghiên cứu và quản trị đại học. Thuận lợi, khó khăn<br /> và yếu tố khác của sự hợp tác cũng được phân tích trong nghiên cứu này.<br /> Nhóm tác giả đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và đã được thực<br /> hiện trực tuyến. Kết quả nghiên cứu giúp xác định bức tranh tổng thể về hợp tác<br /> giữa doanh nghiệp và trường đại học tại Việt Nam từ quan điểm của giảng viên.<br /> Bài viết cũng thảo luận mô hình sinh thái hợp tác trường đại học – doanh<br /> nghiệp ở Việt Nam. Từ đó, nhóm tác giả đưa ra các khuyến nghị cho các nhà<br /> hoạch định chính sách để hỗ trợ phát triển hợp tác trường đại học và doanh<br /> nghiệp ở Việt Nam.<br /> <br /> này, ở tất cả các cấp của trường đại học, được tạo<br /> ra bằng cách kết nối với nhà tuyển dụng, trong khi<br /> các kỹ năng của sinh viên cũng được rèn luyện<br /> qua các hoạt động kết nối với nhà tuyển dụng. Để<br /> có thể kết hợp với các trường đại học tái cấu trúc<br /> chương trình đào tạo và cái tiến thực tập nghề<br /> nghiệp, điều này đòi hỏi phải có cách thức và<br /> phương pháp hợp tác hiệu quả giữa trường đại học<br /> và doanh nghiệp. Sức mạnh, chiều sâu và cường<br /> độ của sự hợp tác trường đại học-doanh nghiệp<br /> (HTTĐH&DN) là những yếu tố ảnh hưởng đến<br /> chất lượng giáo dục, được đo qua tiêu chí khả<br /> năng việc làm.<br /> <br /> 1. GIỚI THIỆU NGỮ CẢNH VÀ LỊCH SỬ<br /> VẤN ĐỀ<br /> Báo cáo phát triển Việt Nam (2013) của Ngân<br /> hàng Thế giới nhấn mạnh rằng, các nhà tuyển<br /> dụng ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong<br /> quá trình tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp. Điều<br /> này phản ánh những thách thức của thị trường lao<br /> động, một khoảng cách lớn giữa yêu cầu của nhà<br /> tuyển dụng và khả năng đáp ứng của sinh viên tốt<br /> nghiệp ở Việt Nam. Các kỹ năng nhà tuyển dụng<br /> yêu cầu là kỹ năng giao tiếp, khả năng làm việc<br /> theo nhóm, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng về công<br /> nghệ thông tin, kỹ năng tư duy phê phán và sáng<br /> tạo (The World Bank, 2012). Truyền thông Việt<br /> Nam và các bên liên quan khác luôn bày tỏ sự<br /> không hài lòng với tỷ lệ việc làm và tình trạng<br /> thất nghiệp của sinh viên tốt nghiệp.<br /> <br /> Dự án POHE2 đã bắt đầu từ giả định rằng chất<br /> lượng của sinh viên được đánh giá dựa vào khả<br /> năng làm việc của sinh viên tốt nghiệp trên thị<br /> trường lao động. Dự án POHE2 đã có cơ hội để<br /> thử nghiệm và nghiên cứu trong thực tế với quy<br /> mô 8 trường đại học thí điểm. Nghiên cứu này là<br /> một trong ba nghiên cứu, mỗi nghiên cứu tập<br /> trung vào một trong ba nhóm đối tượng liên quan,<br /> bao gồm: (a) doanh nghiệp, (b) nhà nước, và (c)<br /> các trường đại học. Các nghiên cứu từ quan điểm<br /> của chính phủ và các doanh nghiệp đã được thực<br /> hiện, nghiên cứu này tập trung vào quan điểm<br /> trường đại học.<br /> <br /> Để giải quyết tình trạng thất nghiệp của sinh viên<br /> sau khi ra trường và lấp khoảng cách về kỹ năng<br /> sống và tồn tại như báo cáo của Ngân hàng Thế<br /> giới, các bên có liên quan cho rằng, các trường đại<br /> học có chất lượng thì phải đáp ứng các yêu cầu<br /> này của xã hội. Điều này cũng trùng với một kết<br /> quả trong nghiên cứu của Phạm Thị Hương<br /> (2016) về quan điểm chất lượng của giáo dục đại<br /> học ở Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã đưa ra<br /> các sáng kiến khác nhau, bao gồm các thí nghiệm,<br /> các thử nghiệm và nỗ lực điều tiết tiếp xúc giữa<br /> các trường đại học và doanh nghiệp nhằm giúp<br /> các trường đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội.<br /> <br /> 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN<br /> Một số tác giả (Coaldrake P & Stedman, 1999; De<br /> Ziwa, 2005) đã bàn về triết lý của trường đại học<br /> và những triết lý này thay đổi như thế nào theo<br /> thời gian. Triết lý đầu tiên là mô hình Humbodt về<br /> các trường đại học định hướng nghiên cứu và kiến<br /> tạo kiến thức thông qua các nghiên cứu khám phá<br /> <br /> Giúp sinh viên đạt được kiến thức mà thị trường<br /> lao động yêu cầu trở thành một điều kiện tiên<br /> quyết của các trường đại học. Những kiến thức<br /> 78<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94<br /> <br /> hơn là chỉ truyền tải các kỹ năng trong quá khứ<br /> hay giảng dạy (Anderson, 2010). Có ý kiến cho<br /> rằng, triết lý này đã thúc đẩy hợp tác và nghiên<br /> cứu ứng dụng giữa doanh nghiệp và các trường<br /> đại học theo mô hình Humboldt. Một mô hình<br /> khác, mô hình các trường đại học Anglo - Saxon<br /> của Newman, ngược lại, tập trung vào một nền<br /> giáo dục tự do, ủng hộ sự phân biệt giữa khám<br /> phá và giảng dạy (EU, 2014). Liên minh châu Âu<br /> đề cập đến mô hình thứ ba của các trường đại học,<br /> mô hình Napoleon, đã thống trị ở miền Nam châu<br /> Âu nơi mà nhà nước quy định và kiểm soát giáo<br /> dục đại học, dẫn đến việc giáo dục không gắn với<br /> kinh tế địa phương.<br /> <br /> quốc gia đã dẫn đến một loạt các chính sách được<br /> ban hành nhằm khuyến khích các trường đại học<br /> xây dựng liên kết chặt chẽ với các doanh<br /> nghiệp. Theo nhu cầu này, các doanh nghiệp được<br /> cho là nên tham gia vào việc thiết kế chương trình<br /> giảng dạy và học tập, và các trường đại học nên<br /> làm việc chặt chẽ hơn với các đối tác kinh doanh<br /> và công nghiệp để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp,<br /> sự dịch chuyển của các học giả và sinh viên, dịch<br /> chuyển giữa doanh nghiệp và trường đại học<br /> nhằm thúc đẩy quá trình học tập suốt đời. Do đó,<br /> một loạt các nghiên cứu đã tiến hành trong thập<br /> kỷ qua để nghiên cứu về sự hợp tác này. Một<br /> nghiên cứu tổng quan về HTTĐH&DN ở Châu<br /> Âu (SBMRC, 2011) và báo cáo Wilson do chính<br /> phủ Anh tài trợ (Wilson, 2012) là một vài ví dụ.<br /> <br /> Vào thế kỷ 19, để đáp ứng yêu cầu của các ngành<br /> công nghiệp đang phát triển, các trường đại học<br /> dân sự ở Anh (Goddard, 2009) và các trường cao<br /> đẳng Land - Grant ở Mỹ (McDowell, 2003) đã<br /> được thành lập. Những trường đại học này chủ<br /> yếu có chức năng cung cấp lực lượng lao động có<br /> tay nghề cao cho các ngành nghề mới phát triển.<br /> Đây là kết quả của cuộc cách mạng công nghiệp<br /> và nông nghiệp (Delanty, 2002). Giáo dục đại học<br /> của các trường đại học này dần dần thoát khỏi mô<br /> hình Newman. Từ giữa thế kỷ 20, chức năng này<br /> của giáo dục đại học ngày càng mờ nhạt do nhiều<br /> nước quản lý giáo dục đại học theo hướng tập<br /> trung (centralism) và tăng ngân sách công cho<br /> nghiên cứu (Goddard, 2009). Các trường đại học<br /> đã không còn phục vụ các mục đích cụ thể nhằm<br /> đáp ứng nhu cầu của địa phương. Ngược lại, việc<br /> phân cấp quản lý của Mỹ và sự phụ thuộc của các<br /> trường đại học cả công lập và ngoài công lập vào<br /> kinh phí địa phương đã ngày càng gắn kết hợp tác<br /> nghiên cứu và mối quan hệ giữa các trường đại<br /> học và ngành công nghiệp (Mowery, 1999).<br /> <br /> Bên cạnh đó cũng có các nghiên cứu thực nghiệm<br /> về mặt chính sách giúp phát triển HTTĐH&DN.<br /> Những nghiên cứu này, chủ yếu về các yếu tố<br /> quyết định của sự hợp tác, hoặc là từ quan điểm<br /> của các doanh nghiệp và công ty tham gia vào hợp<br /> tác (Cohen, Nelson và Walsh, 2002; Fontana và<br /> cộng sự, 2006) hoặc từ quan điểm của các trường<br /> đại học và/hoặc khoa (DiGregorio & Shane, 2003;<br /> Friedman & Silberman, 2003; Tornquist &<br /> Kallsen, 1994) đã giúp các bên có liên quan hiểu<br /> biết nhiều hơn về hợp tác.<br /> Đối với các trường đại học và các khoa, Meyer Krahmer và Schmock (1998) cho rằng, các nhà<br /> nghiên cứu tại các trường đại học chọn hợp tác<br /> với các doanh nghiệp vì một số lý do bao gồm: cơ<br /> hội tăng nguồn thu nhập từ kinh phí nghiên cứu,<br /> khả năng ứng dụng của nghiên cứu, tiếp cận với<br /> cơ sở vật chất và kỹ năng của doanh nghiệp, và<br /> cập nhật các vấn đề của doanh nghiệp.<br /> Đối với doanh nghiệp và ngành công nghiệp,<br /> động lực chính của hợp tác với các trường đại học<br /> bao gồm:<br /> <br /> HTTĐH&DN ngày càng được thúc đẩy và phát<br /> triển xuất phát từ các tác động của các bên có liên<br /> quan và lợi ích mà các bên tham gia hợp tác có<br /> được.<br /> <br /> • Tiếp cận cơ sở dữ liệu khoa học được các<br /> <br /> trường đại học xây dựng thông qua nguồn kinh<br /> phí tài trợ của Nhà nước.<br /> <br /> 2.1 Động lực và lợi ích của hợp tác<br /> Việc các trường đại học đóng vai trò ngày càng<br /> tăng trong quá trình phát triển kinh tế của một<br /> 79<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94<br /> <br /> Có rất nhiều tác giả đã đưa ra các cách phân loại<br /> phương thức hợp tác khác nhau. Santoro (2000)<br /> phân loại hợp tác trường đại học – doanh nghiệp<br /> thành bốn loại: hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao<br /> công nghệ, chuyển giao kiến thức, và hợp tác<br /> nghiên cứu. Davey, Muros, và Meerman (2011)<br /> đưa ra phân loại chi tiết hơn về phương thức hợp<br /> tác. Đây là kết quả của công trình nghiên cứu về<br /> hợp tác trường đại học – doanh nghiệp tại Châu<br /> Âu năm 2010 - 2011, bao gồm:<br /> <br /> • Tiếp cận với kiến thức được phát triển trong<br /> <br /> các trung tâm nghiên cứu cũng thông qua<br /> nguồn kinh phí tài trợ của Nhà nước.<br /> • Tiếp cận với các nhà nghiên cứu đẳng cấp thế<br /> <br /> giới cả về khoa học và công nghiệp.<br /> • Có được lợi thế cạnh tranh bằng cách tiếp cận<br /> <br /> với tiềm năng tốt hơn thông qua các kênh<br /> thông tin nhanh hơn so với đối thủ cạnh tranh<br /> của họ.<br /> • Giảm chi phí vì hợp tác nghiên cứu với các<br /> <br /> • Hợp tác trong nghiên cứu và phát triển.<br /> <br /> trường đại học có thể hiệu quả hơn về mặt<br /> kinh phí do các trường đại học có thể đã có cơ<br /> sở hạ tầng tại chỗ từ các hoạt động nghiên cứu<br /> được Nhà nước cung cấp kinh phí (Doleey &<br /> Kirk, 2007, tr. 321).<br /> <br /> • Luân chuyển của các học giả, giới hàn lâm.<br /> • Luân chuyển của sinh viên.<br /> • Thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và<br /> <br /> phát triển.<br /> <br /> Trong giáo dục, nhiều HTTĐH&DN chủ yếu tập<br /> trung vào các dự án liên quan đến nghiên cứu. Sự<br /> hợp tác này có thể có tác động gián tiếp vào việc<br /> giảng dạy và học tập, chẳng hạn như một học giả<br /> có thể mời một đối tác doanh nghiệp giảng bài<br /> hoặc tổ chức một chuyến đi thực tế (EU,<br /> 2014). Ngân hàng Thế giới (2012) đã có một<br /> nghiên cứu nhằm rà soát các hình thức hợp tác<br /> trong thực tế để xác định các phương thức liên kết<br /> chặt chẽ hơn giữa trường đại học và doanh<br /> nghiệp. Báo cáo cho rằng, các phương thức liên<br /> kết mạnh hơn có thể cải thiện dòng luân chuyển<br /> thông tin giữa các trường đại học và doanh<br /> nghiệp. Hợp tác cho phép các trường đại học đáp<br /> ứng nhu cầu kỹ năng và nghiên cứu của doanh<br /> nghiệp để đối phó với quá trình toàn cầu hóa, với<br /> sự thay đổi công nghệ nhanh và cộng tác với các<br /> nhà nghiên cứu khác. Tuy nhiên, những loại hình<br /> hợp tác này lại là một trong những nguyên nhân<br /> dẫn đến việc dừng hợp tác giữa các trường đại học<br /> và xã hội (Ngân hàng Thế giới, 2012).<br /> <br /> • Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo.<br /> • Thúc đẩy học tập suốt đời.<br /> • Hỗ trợ tinh thần sáng nghiệp và các hoạt động<br /> <br /> khởi nghiệp.<br /> • Tham gia quản trị trường đại học.<br /> <br /> Nghiên cứu này đã sử dụng 8 phương thức hợp<br /> tác này để khảo sát thực trạng hợp tác ở Việt<br /> Nam.<br /> 2.3 Các rào cản và thách thức của hợp tác<br /> trường đại học và doanh nghiệp<br /> HTTĐH&DN cũng đối mặt với những thách thức<br /> lớn (Elmuti, Abebe, và Nicolosi, 2005). Dooley<br /> và Kirk (2007) cho rằng, các nền văn hóa khác<br /> nhau có thể cản trở sự thành công của hợp tác.<br /> Trường đại học và doanh nghiệp với hai lĩnh vực<br /> hoạt động khác nhau, có những mục tiêu khác<br /> nhau và có các hệ thống giá trị khác nhau có thể là<br /> rào cản cho hợp tác trường đại học - doanh nghiệp<br /> (Elmuti và cộng sự, 2005). Thách thức lớn nhất là<br /> làm sao cân bằng được sự khác biệt để thỏa mãn<br /> các bên liên quan. Một thách thức khác là mâu<br /> thuẫn giữa mong muốn của học giả được công bố<br /> công trình nghiên cứu và ngành công nghiệp phải<br /> duy trì bí mật để bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ<br /> (SHTT) và duy trì lợi thế cạnh tranh. Các vấn đề<br /> liên quan đến quyền sở hữu của các sản phẩm<br /> <br /> Dường như là không có bất cứ hình thức hợp tác<br /> duy nhất nào có thể đáp ứng tất cả động lực để<br /> thúc đẩy HTTĐH&DN. Phần sau đây trình bày<br /> tổng quan về các phương thức hợp tác.<br /> 2.2 Phương thức hợp tác<br /> <br /> 80<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 17 (5), 77 – 94<br /> <br /> SHTT và phân chia doanh thu giữa các bên<br /> thường dẫn đến tranh luận mạnh mẽ giữa các bên<br /> tham gia hợp tác. Bất đồng là rất phổ biến trong<br /> lĩnh vực này, với các doanh nghiệp và ngành công<br /> nghiệp, các yêu cầu về giá cả của các trường đại<br /> học đối với SHTT thường quá cao và các trường<br /> đã bỏ qua rủi ro ngành công nghiệp phải đương<br /> đầu khi thương mại hóa sản phẩm. Ngược lại, các<br /> trường đại học lo ngại rằng ngành công nghiệp có<br /> thể ăn cắp những khám phá của họ và tạo ra<br /> nguồn doanh thu mà đúng ra phải thuộc về các<br /> trường đại học. Những thách thức như thế này chỉ<br /> có thể được khắc phục thông qua một qui trình cụ<br /> thể và tin tưởng lẫn nhau. Các bên phải thay đổi<br /> chiến lược để đáp ứng với môi trường bên<br /> ngoài. Những thay đổi này có thể dẫn đến mức độ<br /> tương tác giữa các trường đại học và doanh<br /> nghiệp theo hướng tăng hoặc giảm. Vì hầu hết các<br /> nghiên cứu học thuật về bản chất là lâu dài<br /> (Chiesa & Piccaluga, 2000), sự bất ổn trong hỗ trợ<br /> của ngành công nghiệp có thể dẫn đến những khó<br /> khăn cho các trường đại học trong việc lập kế<br /> hoạch.<br /> <br /> tạo ngành công nghệ phần mềm cho sinh viên<br /> cũng như các hoạt động phát triển chuyên<br /> môn. Họ phát hiện ra rằng, hợp tác đáp ứng một<br /> cách đáng kể các yêu cầu đào tạo và bồi dưỡng<br /> chuyên môn cho các kỹ sư phần mềm, bao gồm<br /> nâng cao nhận thức và đánh giá cao<br /> HTTĐH&DN, dẫn đến mối quan hệ tốt hơn và tin<br /> cậy lẫn nhau, tăng doanh thu tiềm năng giữa các<br /> đối tác, mở rộng quan hệ và các nguồn lực từ cả<br /> hai phía, danh tiếng nâng cao cho tất cả các bên<br /> tham gia hợp tác và tăng cơ hội phát triển kinh<br /> doanh với các chương trình tương tự và liên kết<br /> khác. Họ cũng nhận thấy rằng đối với giảng viên,<br /> hợp tác đã giúp giảng viên tiếp cận với các ứng<br /> dụng thực tế, giúp phát triển chuyên môn, mua<br /> sắm trang thiết bị, và các nguồn lực khác để<br /> nghiên cứu và tư vấn. Đối với sinh viên từ các<br /> ngành công nghiệp, các hợp tác cung cấp các khóa<br /> học có liên quan ở các địa điểm, thời gian và hình<br /> thức triển khai rất thực tế nhằm đáp ứng nhu cầu<br /> của họ tại nơi làm việc.<br /> <br /> 2.4 Kết quả của hợp tác trường đại học và<br /> doanh nghiệp<br /> <br /> Hình 1 mô tả mô hình hệ sinh thái HTTĐH&DN<br /> của Davey, Muros, và Meerman (2016). Mô hình<br /> là sản phẩm của công trình nghiên cứu về hợp tác<br /> trường đại học – doanh nghiệp năm 2010 - 2011<br /> tại Châu Âu.<br /> <br /> 2.5 Hệ sinh thái hợp tác trường đại học và<br /> doanh nghiệp<br /> <br /> Mead và cộng sự (1999) đã tiến hành khảo sát<br /> hình thức hợp tác chính thức giữa các trường đại<br /> học và doanh nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu đào<br /> <br /> Hình 1. Hệ sinh thái hợp tác trường đại học và doanh nghiệp của Davey, Muros, và Meerman (2016)<br /> <br /> 81<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1