Nguyễn Thị Hồng và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
83(07): 127 - 132<br />
<br />
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC THỦY SẢN Ở QUẢNG NINH<br />
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN<br />
Nguyễn Thị Hồng1, Nguyễn Thị Thu Cẩm2*<br />
1<br />
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br />
Học viên cao học K17 – Trường ĐH Sư phạm – ĐH Thái nguyên<br />
<br />
2<br />
<br />
Thủy sản là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trên nhiều phương diện: kinh tế, văn hóa, xã hội, an<br />
ninh quốc phòng và những tác động đến môi trường sinh thái. Với điều kiện tự nhiên khá thuận lợi,<br />
nghề khai thác thủy sản ở Quảng Ninh trong những năm qua đã có những bước phát triển đáng kể và<br />
đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên với tốc độ khai thác như<br />
hiện nay nguồn lợi thủy sản ở Quảng Ninh ngày một suy giảm, nhất là vùng gần bờ, do tàu thuyền tập<br />
trung cạnh tranh khai thác với mật độ cao, sử dụng các phương pháp đánh bắt mang tính hủy diệt như<br />
chất nổ, chất độc, xung điện…để khai thác vào mùa vụ sinh sản, giai đoạn còn nhỏ của các loài thủy<br />
sản, dẫn đến một số loài có nguy cơ cạn kiệt ở hầu hết các vùng nước ngọt, mặn, lợ, phá vỡ môi trường<br />
sinh thái, chất lượng sống của một số loài bị đe dọa, một số vùng còn có dấu hiệu ô nhiễm môi trường<br />
nước. Trước tình hình đó, yêu cầu các cơ quan ban ngành cần thực hiện các giải pháp sau một cách<br />
đồng bộ: quy hoạch tổng thể lại ngành thủy sản, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp một cách hợp lí ở cả<br />
hai tuyến khai thác, phát triển nhân lực, tổ chức lại chuỗi sản xuất,…nhằm phát triển ngành thủy sản<br />
theo hướng nhanh và bền vững.<br />
Từ khóa: Khai thác, thủy sản, tác động, môi trường, tài nguyên<br />
<br />
MỞ ĐẦU *<br />
Thủy sản đã trở thành một ngành kinh tế quan<br />
trọng của đất nước, hàng năm đem về cho<br />
nước ta một nguồn ngoại tệ lớn, phục vụ tái<br />
đầu tư thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại<br />
hoá đất nước. Thuỷ sản còn được đánh giá là<br />
thực phẩm giàu chất đạm, cung cấp nguồn<br />
dinh dưỡng thiết yếu cho con người, đồng thời<br />
giữ vai trò an ninh lương thực quốc gia, tạo<br />
việc làm và tăng thu nhập cho hàng ngàn lao<br />
động, góp phần xoá đói giảm nghèo cho đất<br />
nước. Ngành thủy sản của nước ta trong<br />
những năm gần đây đã có sự phát triển vượt<br />
bậc và đạt được nhiều kết quả to lớn. Hiện nay<br />
nước ta đã trở thành nước xuất khẩu thủy sản<br />
đứng thứ 6 trên thế giới, đứng thứ 3 thế giới<br />
về sản lượng thủy sản nuôi trồng và đứng thứ<br />
13 thế giới về sản lượng khai thác hải sản.<br />
Quảng Ninh là một tỉnh thuộc khu vực Đông<br />
Bắc Bộ, là một trong những địa phương ở<br />
nước ta có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi<br />
để phát triển kinh tế thủy sản và có tiềm năng<br />
khai thác thủy sản to lớn. Ngư trường vùng<br />
biển Quảng Ninh có diện tích khoảng 2.600<br />
hải lý vuông, được Bộ Nông nghiệp và PTNT<br />
*<br />
<br />
Tel: 0983261987; Email: nguyenthucam@gmail.com<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
xác định “Ngư trường Quảng Ninh – Hải<br />
Phòng là một trong 4 ngư trường khai thác<br />
trọng điểm của cả nước”. Vùng biển có độ sâu<br />
từ 30m nước trở vào là khu vực sinh sản và<br />
sinh trưởng của nhóm cá nổi như cá trích, cá<br />
nục, cá lầm và mực ống…Các loài cá tầng đáy<br />
cư trú và sinh sản vùng gần bờ, cồn rạn san hồ<br />
như cá song, cá hồng, cá tráp, cá trai và các<br />
loại tôm he, tôm sắt, tôm bột…Vùng ven bờ<br />
tỉnh Quảng Ninh có hàng ngàn hòn đảo lớn<br />
nhỏ đã tạo thành những áng, vụng kín gió là<br />
nơi cư trú, sinh trưởng và sinh sản của nhiều<br />
loại có giá trị kinh tế cao. Biển Quảng Ninh<br />
có những bãi tôm, bãi cá sinh trưởng tự<br />
nhiên như bãi tôm vùng hòn Mỹ, hòn Miều,<br />
vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, vịnh Cô<br />
Tô,…<br />
Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu Hải<br />
sản Hải Phòng, Quảng Ninh hiện có 168 loài<br />
hải sản (chiếm 25,3%) thuộc 117 giống trong<br />
69 họ (chiếm 51%) so với tiềm năng hải sản<br />
có trong vịnh Bắc Bộ, trong đó có nhiều loài<br />
hải sản có giá trị kinh tế cao như cá thu, cá<br />
nhụ, cá song…Trữ lượng nguồn lợi hải sản<br />
của Quảng Ninh lên tới 82.000 tấn, trong đó<br />
trữ lượng hải sản gần bờ là 38.000 tấn và xa<br />
bờ 44.000 tấn. Khả năng khai thác cho phép là<br />
29.000 tấn, chiếm 35,6% so với trữ lượng,<br />
127<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
trong đó khả năng được phép khai thác gần bờ<br />
là 11.600 tấn và xa bờ là 17.600 tấn [2]. Với<br />
tiềm năng như vậy tỉnh Quảng Ninh được<br />
Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm đầu tư<br />
lớn cho phát triển kinh tế thủy sản, trong đó<br />
có các hoạt động sản xuất khai thác thủy sản.<br />
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC THUỶ SẢN Ở<br />
QUẢNG NINH<br />
Nhờ những tiềm năng to lớn của tỉnh để phát<br />
triển thủy sản, cùng với những chính sách<br />
khuyến khích phát triển thủy sản và nhu cầu lớn<br />
của thị trường trong những năm qua, hoạt động<br />
khai thác thủy sản ở tỉnh Quảng Ninh ngày càng<br />
phát triển mạnh mẽ, sản lượng và giá trị của<br />
ngành thủy sản không ngừng tăng lên.<br />
Sản lượng khai thác thủy sản tăng nhanh trong<br />
những năm qua, năm 2001 sản lượng thủy sản<br />
khai thác là 20.000 tấn, đến năm 2009 là<br />
51.256 tấn. Qua 9 năm sản lượng thủy sản<br />
khai thác tăng 31.256 tấn, tăng gấp 2,6 lần.<br />
Trong tổng sản lượng khai thác thủy sản, cá<br />
chiếm tỉ trọng chủ yếu. Năm 2009 trữ lượng<br />
cá biển đạt 28.000 tấn, gấp 1,1 lần năm 2005<br />
[4].<br />
Giá trị sản xuất trong lĩnh vực khai thác thủy<br />
sản cũng theo đó mà tăng lên mạnh mẽ, đóng<br />
góp ngày càng nhiều vào thu nhập của tỉnh.<br />
Năm 2005 giá trị sản suất của ngành là 435,0<br />
tỉ đồng, đến năm 2009 là 620,4 tỉ đồng, tăng<br />
gấp 1,4 lần [4].<br />
Số lượng tàu thuyền tham gia khai thác thủy<br />
sản ở Quảng Ninh cũng tăng khá nhanh trong<br />
các năm qua. Năm 2002 toàn ngành có 7.198<br />
tàu, tổng công suất là 114550 CV*, trong đó<br />
khai thác hải sản gần bờ có 7.008 chiếc, đến<br />
năm 2008 có 11.475 tàu, số tàu có công suất<br />
trên 90 CV là 152 chiếc. Năm 2009 có 12.077<br />
tàu, số tàu đánh bắt hải sản xa bờ là 156 chiếc<br />
[4]. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì<br />
hiện nay số lượng tàu thuyền vẫn phát triển<br />
một cách tự phát, không theo định hướng qui<br />
hoạch phát triển biển, chủ yếu là phát triển các<br />
tàu thuyền có công suất nhỏ khai thác gần bờ,<br />
*<br />
<br />
CV là viết tắt của từ tiếng Pháp: cheval-vapeur, nghĩa<br />
là mã lực hay sức ngựa<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
83(07): 127 - 132<br />
<br />
chiếm gần 97% tổng số tàu của toàn tỉnh. Để<br />
giảm áp lực cho nguồn lợi ven bờ, số tàu đánh<br />
bắt xa bờ có tăng nhưng chiếm tỉ trọng chưa<br />
cao. Trong năm 2009 có 8 tàu công suất 90<br />
CV trở lên được đóng mới làm nghề khai thác<br />
và dịch vụ hậu cần nghề cá, bổ sung vào đội<br />
tàu khai thác xa bờ của tỉnh. Việc gia tăng số<br />
lượng tàu đánh bắt xa bờ ngoài ý nghĩa về<br />
kinh tế, tạo nhiều nguồn nguyên liệu chế biến<br />
xuất khẩu, giải quyết việc làm cho nhiều<br />
người lao động mà còn góp phần đảm bảo an<br />
ninh quốc phòng trên biển và bảo vệ nguồn lợi<br />
thủy sản gần bờ. Số lượng tàu tăng nên công<br />
suất khai thác cũng có xu hướng tăng. Năm<br />
2000 là 10,1 nghìn CV, đến năm 2008 đã lên<br />
tới 22,8 nghìn CV (gấp 2,25 lần) [4].<br />
Chủng loại tàu máy thay đổi theo hướng giảm<br />
tỉ lệ tàu thuyền nhỏ, tăng tỉ lệ tàu thuyền lớn.<br />
Trước việc số lượng và công suất tàu thuyền<br />
tăng nhanh, công tác quản lí tàu cá cũng được<br />
chú trọng. Hiện nay đã có 95% tàu cá được<br />
đăng kí đăng kiểm, một con số khá cao từ<br />
trước tới nay. Mặt khác do có quyền lợi kinh<br />
tế nên ngư dân cũng chủ động gặp cơ quan<br />
nhà nước để đăng kí. Số tàu chưa được đăng<br />
kí và cấp phép chủ yếu là tàu thuyền thủ công,<br />
lắp máy dưới 20 CV hoạt động gần bờ.<br />
Về cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản ở<br />
Quảng Ninh rất đa dạng và phong phú. Theo<br />
thống kê của Chi cục có 24 loại nghề khai<br />
thác khác nhau thuộc 4 nhóm nghề chính bao<br />
gồm: nhóm nghề câu, nhóm nghề lưới kéo,<br />
nhóm nghề chài chụp kết hợp ánh sáng, nhóm<br />
nghề lưới rê, khai thác trên các vùng biển tỉnh<br />
Quảng Ninh. Kết quả điều tra cho thấy các<br />
nghề khai thác đều đem lại hiệu quả cao, sản<br />
lượng khai thác liên tục tăng. Năm 2010 sản<br />
lượng khai thác thủy sản là 51.380 tấn bao<br />
gồm 28.136 tấn cá, 6.020 tấn tôm, 3.249 tấn<br />
mực, 5.650 tấn nhuyễn thể, 8.329 tấn hải sản<br />
khác [1]. Sự phát triển của hoạt động khai thác<br />
thủy sản trong ngành kinh tế thủy sản Quảng<br />
Ninh là sự phát triển toàn diện cả đánh bắt gần<br />
bờ và đánh bắt xa bờ, góp phần gia tăng giá trị<br />
sản xuất của ngành ngày càng cao, đóng góp<br />
ngày càng nhiều vào thu nhập của tỉnh.<br />
<br />
128<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Tuy nhiên, tùy vào đặc điểm của từng địa<br />
phương và đặc điểm nguồn lợi hải sản của<br />
từng huyện, thị mà phổ biến nghề khai thác<br />
nào cho phù hợp. Vùng biển Yên Hưng (chủ<br />
yếu là xã Phong Cốc, Cẩm La) có nghề lưới<br />
kéo là nghề truyền thống, họ chèo thuyền kéo<br />
giã từ Yên Hưng đến Vân Đồn, sản phẩm thu<br />
được là các loại tôm và cá ở tầng đáy như cá<br />
trai, cá bơn, cá uốp, cá ót. Tại Hoành Bồ có<br />
nghề cá lưới kìm, lưới cá đối, câu tay, câu<br />
quay. Ngoài đảo Vân Hải có nghề truyền<br />
thống lưới rê mòi ở đảo Vĩnh Thực (Móng<br />
Cái) và nghề tưng (vó bè trên biển). Tại các<br />
huyện Vân Đồn, Hải Hà phát triển mạnh nghề<br />
chài chụp, ngư trường hoạt động rộng, sản<br />
phẩm chủ yếu là mực ống và cá nổi. Ngoài ra<br />
trong vùng còn phát triển các nghề khai thác<br />
ven bờ khác như rê 3 lớp tôm ghẹ, chụp mực,<br />
khai thác sứa. Vào vụ Nam các tàu nhỏ ven bờ<br />
chuyển nghề khai thác sứa, lưới ghẹ đem lại<br />
hiệu quả kinh tế cao. Khi hết vụ sứa và vào<br />
đầu vụ Bắc các tàu quay lại các nghề truyền<br />
thống như rê trôi, giã tôm, cào ngao,<br />
vạng,…Như vậy cơ cấu nghề nghiệp khai thác<br />
thủy sản ở Quảng Ninh rất phong phú và đa<br />
dạng do tính đa loài của nguồn lợi thủy sản,<br />
ngư dân tiến hành đánh bắt quanh năm nhưng<br />
tập trung vào hai vụ chính là vụ cá Bắc ( từ<br />
tháng XI đến tháng VI năm sau) và vụ cá Nam<br />
(từ tháng V đến tháng X).<br />
Về tổ chức khai thác, hiện nay trên địa bàn<br />
tỉnh đã thành lập một số tổ đội sản xuất nhưng<br />
hoạt động của các tổ đội này mới chỉ ở mức<br />
độ hỗ trợ an toàn trên biển trong quá trình sản<br />
xuất, một số tổ đội hoạt động có hiệu quả như<br />
tổ đội câu vàng tại xã Tân An huyện Yên<br />
Hưng, các tổ đội chài chụp tại huyện Vân<br />
Đồn, Hải Hà…Đa số các tổ đội có công suất<br />
lớn, hoạt động khai thác chủ yếu tại tuyến<br />
khơi, thời gian một chuyến đi biển thường kéo<br />
dài 15 - 20 ngày.<br />
Như vậy tiềm năng thủy sản Quảng Ninh khá<br />
phong phú và đa dạng, tuy nhiên phương thức<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
83(07): 127 - 132<br />
<br />
khai thác chưa đạt hiệu quả cao và đã gây ra<br />
những ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường.<br />
HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC THỦY SẢN<br />
TÁC ĐỘNG TỚI TÀI NGUYÊN VÀ MÔI<br />
TRƯỜNG<br />
Tác động tới môi trường nước<br />
Các hoạt động khai thác thủy sản diễn ra<br />
quanh năm ở cả môi trường nước ngọt, nước<br />
lợ và nước mặn. Trong quá trình khai thác của<br />
con người không chỉ làm suy giảm tài nguyên<br />
đa dạng sinh học biển mà còn gây ô nhiễm<br />
môi trường nước. Hiện nay số lượng tàu<br />
thuyền khai thác thủy sản trên biển và các<br />
hoạt động vận tải biển ngày càng tăng vì vậy<br />
xăng dầu và các chất thải từ xăng dầu ra biển<br />
ngày càng nhiều gây ô nhiễm vùng nước, tác<br />
động xấu tới môi trường. Hàm lượng dầu<br />
trong vùng nghiên cứu tăng đáng kể từ tháng<br />
8 đến tháng 11 đặc biệt là vùng biển ven bờ<br />
Quảng Ninh. Nếu trong tháng 8 hàm lượng<br />
dầu cao nhất là 0,78mg/l thì trong tháng 11<br />
giá trị trung bình toàn khu vực ven bờ đạt<br />
0,76mg/l [5]. Thuyền không chỉ là công cụ<br />
đánh bắt mà còn là nhà của ngư dân. Con<br />
thuyền gắn bó với cuộc đời ngư dân sống thủy<br />
cư, họ thờ cúng tổ tiên trên thuyền. Một bộ<br />
phận ngư dân sống trên thuyền tập trung thành<br />
các làng chài ven biển thường xuyên thải các<br />
chất thải sinh hoạt xuống biển gây ô nhiễm<br />
môi trường nước. Không chỉ có vậy, các hoạt<br />
động khai thác thủy sản có sử dụng các hóa<br />
chất độc hại, thuốc nổ, xung điện…dẫn đến<br />
nhiều đàn cá, đàn tôm bị chết hàng loạt, xác bị<br />
phân hủy thối rữa, trôi nổi trên biển bốc mùi<br />
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đồng<br />
thời làm giảm giá trị mĩ quan của khu vực.<br />
Tác động tới tài nguyên đa dạng sinh học<br />
Nguồn lợi thủy sản không phải là vô tận như<br />
chúng ta vẫn nghĩ mặc dù chúng có khả năng<br />
tái sinh, với tốc độ khai thác như hiện nay thì<br />
nguồn lợi ngày một suy giảm và đang có nguy<br />
cơ cạn kiệt, đặc biệt một số loại hải sản có giá<br />
trị kinh tế cao như hải sâm, bào ngư, tôm<br />
hùm, cá song, cá mú, cá hồng, cua, sò, ốc…<br />
Theo số liệu thống kê, sản lượng khai thác<br />
năm 2008 là 49.682 tấn, vượt 414% so với trữ<br />
129<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
83(07): 127 - 132<br />
<br />
lượng khai thác là 12.000 tấn [2], do đó nguồn<br />
lợi đã và đang bị ảnh hưởng rất lớn, không thể<br />
tái tạo kịp. Hiện nay nguồn lợi thủy sản ở một<br />
số khu vực có độ sâu 30m nước trở vào đã bị<br />
khai thác vượt quá 200% - 300% giới hạn cho<br />
phép, năng suất khai thác của một số nghề<br />
chính như lưới kéo, rê, chài chụp kết hợp ánh<br />
sáng…giảm từ 30% - 60% so với những năm<br />
đầu thập kỉ 90, tỉ lệ cá tạp trong một mẻ lưới<br />
chiếm từ 60% - 85% (trong đầu thập kỉ 80 tỉ lệ<br />
này nhỏ hơn 50%). Tỉ lệ thủy sản chưa trưởng<br />
thành lẫn trong một mẻ lưới vượt quá giới hạn<br />
cho phép từ 20% - 45% (Theo Thông tư số<br />
02/2006 ngày 20/3/2006 của Bộ nông nghiệp<br />
và phát triển nông thôn qui định tỉ lệ này phải<br />
nhỏ hơn 15%) [1].<br />
Thêm vào đó, trên 80% tàu thuyền công suất<br />
nhỏ thường tập trung khai thác quá mức với<br />
cường độ lớn ở gần bờ từ độ sâu 30 – 50m<br />
nước trở vào, qui mô thì nhỏ lẻ, số tàu có công<br />
suất cao tăng nhưng chưa được trang bị đầy<br />
đủ các phương tiện, việc đầu tư chưa đồng bộ,<br />
mới chú trọng khâu đóng tàu trong khi ngư<br />
dân thiếu kĩ năng đánh bắt xa bờ, bảo quản<br />
sản phẩm sau khi đánh bắt còn lạc hậu, một số<br />
tàu vi phạm các qui định Nhà nước như khai<br />
thác trong vùng cấm có thời hạn, đó là khu<br />
vực Mỹ - Miều và khu vực Cô Tô làm đe dọa<br />
tới sự tái tạo của nguồn lợi thủy sản. Một số<br />
loài có nguy cơ hủy diệt như tôm he, cá mú<br />
và các loài nhuyễn thể như trai ngọc, bào ngư,<br />
tù hài…<br />
Trong những năm gần đây do thời tiết có<br />
nhiều thay đổi, nhiều thiên tai và giá xăng liên<br />
tục tăng trong khi đó giá sản phẩm thủy sản<br />
không tăng, thậm chí có lúc xuống giá gây<br />
khó khăn cho đời sống ngư dân, một số tàu<br />
đánh bắt xa bờ lại vào khai thác vùng gần bờ<br />
gây nên tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các<br />
nghề khai thác khác nhau trong cùng một<br />
vùng biển. Điều này đã gây tác động đến<br />
nguồn lợi thủy sản. Vì cuộc sống mưu sinh<br />
nhóm ngư dân này đã sử dụng công cụ có mắt<br />
lưới nhỏ hơn qui định để khai thác thủy sản<br />
nên tỉ lệ cá con bị đánh bắt cao.<br />
<br />
Nhiều phương pháp đánh bắt mang tính hủy<br />
diệt như sử dụng chất nổ, chất độc, xung<br />
điện…để khai thác vào mùa vụ sinh sản, giai<br />
đoạn còn nhỏ của các loài thủy sản, dẫn đến<br />
một số loài có nguy cơ cạn kiệt ở hầu hết các<br />
vùng nước ngọt, mặn, lợ làm cho hủy hoại<br />
môi sinh và môi trường của các vùng biển,<br />
chất lượng sống của một số loài bị đe dọa,<br />
một số vùng còn có dấu hiệu ô nhiễm. Tình<br />
trạng khai thác triệt để các giống loài hải sản<br />
còn nhỏ bán ra nước ngoài là một trong những<br />
nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng suy<br />
giảm nguồn lợi hải sản, bình quân hàng năm<br />
có khoảng 90 – 100 tấn cá giống bị khai thác<br />
bán sang thị trường Trung Quốc. Với tốc độ<br />
khai thác thủy sản và việc chuyển đổi mục<br />
đích sử dụng sang nuôi trồng thủy sản như<br />
hiện nay còn khiến cho nhiều hệ sinh thái ven<br />
bờ như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ<br />
biển... là nơi cư trú, cung cấp thức ăn và bãi<br />
đẻ cho các loài hải sản cũng đang bị phá huỷ<br />
nghiêm trọng và làm mất đi tính đa dạng sinh<br />
học của chúng.<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
130<br />
<br />
Theo Chi cục bảo vệ nguồn lợi và thú y thủy<br />
sản thì công tác quản lý của tỉnh Quảng Ninh<br />
đối với nghề khai thác thủy sản còn nhiều bất<br />
cập, việc điều tra nguồn lợi, dự báo ngư<br />
trường, mùa vụ còn hạn chế. Công tác quản lí<br />
nguồn lợi, đăng kí, đăng kiểm, cấp phép hoạt<br />
động nghề cá gặp nhiều khó khăn. Với điều<br />
kiện con người, cơ sở vật chất như hiện nay<br />
không đủ năng lực để thực hiện việc bảo vệ<br />
các vùng cấm, các đối tượng cấm khai thác<br />
cũng như kiểm soát vùng biển khơi. Bên cạnh<br />
đó cơ cấu nghề nghiệp khai thác chưa hợp lí,<br />
tốc độ chuyển dịch còn chậm do chưa có<br />
chính sách để khuyến khích ngư dân. Chất<br />
lượng tàu thuyền tham gia khai thác chưa đảm<br />
bảo, công nghệ khai thác lạc hậu, hơn nữa các<br />
nghề đánh bắt xa bờ đòi hỏi vốn khá lớn,<br />
trong khi khả năng đầu tư của ngư dân còn<br />
thấp, số vốn huy động chủ yếu từ các nguồn<br />
vay. Lao động khai thác hải sản chưa đáp ứng<br />
được yêu cầu về số lượng cũng như chất<br />
lượng, lực lượng lao động qua đào tạo ít, hoạt<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Thị Hồng và đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
động khai thác chủ yếu dựa vào kinh nghiệm<br />
tích lũy được. Cơ sở hậu cần, dịch vụ các cơ<br />
sở bến cá, cảng cá, cơ khí sửa chữa, tàu hậu<br />
cần dịch vụ…cho khai thác thủy sản còn yếu<br />
và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu.<br />
KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP<br />
Từ thực tế trên yêu cầu đặt ra đối với các cơ<br />
quan chức năng của tỉnh Quảng Ninh là cần<br />
sớm đưa ra các giải pháp sau nhằm bảo vệ<br />
nguồn lợi thủy sản phát triển bền vững và môi<br />
trường sinh thái biển:<br />
- Tuyên truyền Luật Thủy sản và nâng cao ý<br />
thức của ngư dân trong việc bảo vệ môi<br />
trường, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, vận động<br />
ngư dân không dùng phương tiện đánh bắt<br />
hủy diệt<br />
- Cần tiến hành chuyển đổi cơ cấu nghề ngiệp<br />
một cách hợp lí ở cả hai tuyến khai thác, phát<br />
triển nghề khai thác xa bờ, chuyển dần một bộ<br />
phận những hộ có tàu nhỏ làm nghề khai thác<br />
ven bờ kém hiệu quả sang nuôi trồng, dịch vụ<br />
thủy sản,…nhằm đảm bảo tính bền vững của<br />
ngư trường. Từng bước hình thành những đội<br />
tàu khai thác xa bờ với trang bị kĩ thuật hiện<br />
đại, nâng cao năng suất khai thác so với gần<br />
bờ, nâng cao trình độ kĩ thuật và kinh nghiệm<br />
khai thác của ngư dân, thuyền trưởng và thủy<br />
thủ trên tàu, theo đó xác định số lượng tàu<br />
thuyền của từng loại nghề và từng cỡ công<br />
suất máy cho mỗi vùng biển.<br />
- Tiến hành phân chia một cách hợp lí số<br />
lượng tàu thuyền ở mỗi huyện ven biển trên<br />
cùng một vùng biển trên cơ sở nguồn lợi của<br />
địa phương đó. Hỗ trợ một phần nguồn vốn<br />
(hoặc lãi suất) cho các đơn vị, hộ dân có dự án<br />
đóng mới, nâng cấp tàu đánh bắt xa bờ, hỗ trợ<br />
các hộ có nhu cầu chuyển đổi từ đánh bắt gần<br />
bờ kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản<br />
hoặc chuyển sang làm tàu dịch vụ trên biển.<br />
Tăng sản lượng và nâng cao giá trị sản lượng<br />
khai thác thủy sản là góp phần tăng kim ngạch<br />
xuất khẩu, nâng cao thu nhập và mức sống của<br />
ngư dân, góp phần xóa đói giảm nghèo cho<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
83(07): 127 - 132<br />
<br />
cộng đồng ngư dân và đảm bảo an toàn thực<br />
phẩm.<br />
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý<br />
nghiêm những trường hợp vi phạm trong vùng<br />
cấm khai thác. Đây là biện pháp nhằm tái tạo<br />
và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái, môi<br />
trường sống của các loài thủy sinh vật.<br />
- Củng cố và xây dựng các Hợp tác xã nghề cá<br />
hay tổ đội sản xuất khai thác thủy sản vì đây<br />
là cầu nối giữa cộng đồng ngư dân và Chính<br />
quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn<br />
để thực hiện các chủ trương, chính sách quản<br />
lí nghề cá.<br />
- Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả<br />
như nghề câu khơi, chụp mực khơi, giã đơn<br />
khai thác ngư trường 20m nước trở ra có sự hỗ<br />
trợ đầu tư của Nhà nước. Từng bước đẩy<br />
mạnh việc chuyển giao công nghệ sản xuất<br />
mới, áp dụng các nghiên cứu khoa học kĩ<br />
thuật vào trong sản xuất nhằm phát triển<br />
nhanh và hiệu quả ngành kinh tế thủy sản<br />
trong tỉnh.<br />
- Tiếp tục củng cố lại bộ máy khuyến ngư từ<br />
cấp tỉnh đến cấp huyện rồi đến cấp xã, hợp tác<br />
xã nuôi trồng và khai thác thủy sản tạo ra hệ<br />
thống khuyến ngư bao quát toàn tỉnh.<br />
- Cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng<br />
cán bộ khuyến ngư để nâng cao trình độ quản<br />
lí, nghiệp vụ khuyến ngư, trình độ kĩ thuật và<br />
kinh nghiệm thực tiễn.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Sở NN và PTNT tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo<br />
kết quả khai thác thủy sản năm 2009, kế hoạch<br />
triển khai nhiệm vụ năm 2010 tỉnh Quảng Ninh.<br />
[2]. Sở NN và PTNT tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo<br />
“Điều chỉnh qui hoạch tổng thể ngành thủy sản<br />
tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010, xây dựng quy<br />
hoạch đến năm 2015 và định hướng đến năm<br />
2010”<br />
[3]. Sở NN và PTNT tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo<br />
Tổng kết vụ cá Bắc năm 2009, kế hoạch triển khai<br />
vụ cá Nam năm 2010 tỉnh Quảng Ninh.<br />
[4]. Cục thống kê Quảng Ninh, Niên giám thống kê<br />
tỉnh Quảng Ninh, 2000 – 2008.<br />
<br />
131<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />