Hình ảnh đất nước, dân tộc trong văn chương Tản Đà
lượt xem 1
download
Vấn đề đất nước, dân tộc là một trong số những nội dung lớn trong văn chương Tản Đà. Ông đề cập nhiều đến quê hương, đến tình cảm với đất nước, lòng yêu nước trong nhiều bài thơ, tiểu thuyết, luận thuyết của mình. Tình cảm của ông với đất nước được biểu hiện ở nhiều phương diện và cấp độ khác nhau. Bài viết phân tích hình ảnh quê hương, đất nước và tinh thần tiếp thu cái mới trong thơ văn ông để thấy rõ được thái độ và tình cảm của ông với đất nước.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hình ảnh đất nước, dân tộc trong văn chương Tản Đà
- 42 CHUYÊN MỤC VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC HÌNH ẢNH ĐẤT NƢỚC, DÂN TỘC TRONG VĂN CHƢƠNG TẢN ĐÀ (Qua Tản Đà toàn tập của Nguyễn Khắc Xƣơng) NGUYỄN HƢƠNG NGỌC* Vấn đề đất nước, dân tộc là một trong số những nội dung lớn trong văn chương Tản Đà. Ông đề cập nhiều đến quê hương, đến tình cảm với đất nước, lòng yêu nước trong nhiều bài thơ, tiểu thuyết, luận thuyết của mình. Tình cảm của ông với đất nước được biểu hiện ở nhiều phương diện và cấp độ khác nhau. Bài viết phân tích hình ảnh quê hương, đất nước và tinh thần tiếp thu cái mới trong thơ văn ông để thấy rõ được thái độ và tình cảm của ông với đất nước. Từ khóa: Tản Đà, đất nƣớc, dân tộc, văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX Nhận bài ngày: 31/3/2021; đưa vào biên tập: 02/4/2021; phản biện: 11/4/2021; duyệt đăng: 05/5/2021 1. DẪN NHẬP báo, Tản Đà đƣợc tập trung chú ý và Tƣ tƣởng và tinh thần yêu nƣớc từng tranh luận ở các mặt giai cấp, yêu là vấn đề đƣợc nhiều nhà phê bình văn nƣớc, thái độ chính trị, Tản Đà tƣ sản học nhắc đến khi phân tích tác phẩm hay phong kiến, yêu nƣớc hay không? của Tản Đà (nhà thơ, nhà văn, nhà Thái độ với thực dân Pháp thế nào? báo, nhà viết kịch), nhất là trong giai Và cuối cùng tiêu điểm tranh luận dồn đoạn 1945-1975. Theo Tầm Dƣơng về bài thơ Thề non nước biểu hiện (1964: 115) Tản Đà là ngƣời có “tinh lòng yêu nƣớc hay tình yêu lứa đôi?” thần dân tộc có tinh chất cải lƣơng”. (Nguyễn Khắc Xƣơng, 1997: 517). “Suốt cả thời kỳ dài từ cuối những Các bài báo tranh luận về lòng yêu năm 50 đến những năm 70 trên sách nƣớc của Tản Đà (chủ yếu thông qua bài thơ Thề non nước) xuất hiện trên * Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân nhiều số báo và trên Tạp chí Văn học. văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Triều Dƣơng, Bùi Văn Nguyên, Tƣởng
- NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – HÌNH ẢNH ĐẤT NƢỚC, DÂN TỘC… 43 Đăng Trữ, Nguyễn Hữu Cự, Nguyễn Một bức tranh tình trải mấy thu?” Văn Hoàn cho rằng trong bài thơ hàm (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, chứa lòng yêu nƣớc và cả tình yêu đôi tập 1: 93). lứa. Với Nguyễn Khắc Xƣơng, Nguyễn Ông nhắn nhủ ngƣời đời rằng chốn ấy Văn Hạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn chƣa đến thật đáng tiếc: Quảng Tuân, Bùi Văn Nguyên: Thề “Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối non nước là một bài thơ chỉ thể hiện Phàm trần chƣa biết nhắn nhe cho.” tinh thần yêu nƣớc. Còn Trần Yên (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, Hƣng lại cho rằng bài thơ thuần túy tập 1: 93). chỉ có nội dung tình yêu đôi lứa. Khi nhắc đến Tản Đà, nhiều ngƣời Trong bài viết này, chúng tôi không thƣờng nhắc đến câu chuyện “Rau phân tích một tác phẩm mà thông qua sắng chùa Hƣơng”: toàn bộ các tƣ liệu về cuộc đời, hành “Muốn ăn rau sắng chùa Hƣơng trạng và văn nghiệp để đƣa ra kết luận Tiền đò ngại tốn, con đƣờng ngại xa. về tình yêu nƣớc trong văn chƣơng Ngƣời đi, ta ở lại nhà, Tản Đà nói riêng và cuộc đời Tản Đà Cái dƣa thời khú, cái cà thời thâm.” nói chung. (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, 2. ĐẤT NƢỚC, DÂN TỘC TRONG tập 1: 231). VĂN CHƢƠNG TẢN ĐÀ Có khi ông thích thú miêu tả lại con Từ văn học dân gian, trung đại đến đƣờng vào Huế chơi trong một bài thơ hiện đại, hình ảnh đất nƣớc luôn là lục bát (Chơi Huế) khá dài nhƣng chủ đề gợi niềm cảm hứng bất tận không có ý nào, câu nào thừa. Đƣờng cho ngƣời cầm bút. Với Tản Đà hình đi và không gian trên chuyến hành ảnh các vùng miền của đất nƣớc trình đều để lại cảm xúc với Tản Đà. đƣợc ông thể hiện nhiều trong các Chẳng thế mà, đến cuối bài ông phải sáng tác (Qua cầu Hàm Rồng hứng than rằng: bút, Tới chùa Hương, Chơi Hòa Bình, “Cảnh còn nhƣ rƣớc nhƣ chào, Chơi Huế, Gửi lại, Đêm nhớ các bạn ở Tiếc thay! Ai mới qua vào đã ra.” Vàng Danh, Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng, (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, Nhớ trong Nam…), bởi đó không chỉ tập 1: 219). là những nơi ông thích, ông đến mà Ông tiếc phải rời Huế với bao cảnh còn là hình ảnh của Tổ quốc. đẹp, song: Trƣớc sự trù phú của thiên nhiên, “Còn trời, còn nƣớc, còn non. cảnh vật, di tích, Tản Đà đều thể hiện Tiền trình vạn lý, anh còn chơi xa. sự ngƣỡng mộ. Có lúc ông say mê Chơi cho biết mặt sơn hà, trƣớc cảnh vật trời cho của chùa Cho sơn hà biết ai là mặt chơi!” Hƣơng Tích (Chơi chùa Hương Tích): (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, “Chùa Hƣơng trời điểm lại trời tô tập 1: 219).
- 44 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (273) 2021 Tản Đà khẳng định sẽ tiếp tục đi nhiều qua cách ông nói về những ngƣời anh nơi nữa, khám phá nhiều cảnh vật. hùng nhƣ Bà Triệu, Bà Trƣng, Nguyễn Sau những chuyến đi chơi xa, Tản Đà Trãi, Lê Lợi. Đây cũng là điểm mà Tản “nhớ”: Đà có sự gặp gỡ với văn học dân gian “Ai xui ta nhớ Hàm Rồng và với tiền nhân. Cảm hứng với quê Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn hƣơng đất nƣớc từ điểm nhìn lịch sử, khuây” từ những nhân vật, sự kiện đã thành (Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng - dẫn theo “điển” là một cảm hứng rất quen thuộc Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, tập 1: đã tồn tại trong ca dao và đặc biệt là 241). trong văn chƣơng của các nhà nho Ông là ngƣời thích đƣợc đi nhiều nơi, trung đại. khám phá các không gian thiên nhiên Trong số các nhân vật lịch sử, ông và văn hóa nhiều vùng miền của đất bày tỏ sự thích thú, ngƣỡng mộ đặc nƣớc. Ở những sáng tác về danh lam biệt với Lê Lợi. Ông phân tích mƣời thắng cảnh, ông có sự đồng điệu với năm tiến thủ của vua Lê Lợi để làm những tác phẩm ca dao, dân ca về nổi bật tài năng của ngƣời anh hùng quê hƣơng đất nƣớc, về vẻ đẹp thiên (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, nhiên của các vùng miền. Đồng thời, tập 3: 52-60). Tản Đà so sánh Lê Lợi ông cũng có sự gặp gỡ với thơ vịnh với các vị vua Trung Hoa với suy nghĩ cảnh của nhiều tác giả khác nhƣ rằng: “Song nghĩ nhƣ đức Lê Thái Tổ Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Chu ta mà đem xem với các vị đế vƣơng Mạnh Trinh… Ông có sự tiếp tục của anh hùng Trung Hoa, thời lịch sử Việt lối ngâm vịnh, tức cảnh sinh tình khi Nam mà có ngày có giá trị chăng. Sẽ thăm thú nơi này nơi khác của các tao không thẹn cùng các dân tộc văn minh nhân mặc khách hay cũng bộc lộ ở trong cõi Á Đông vậy” (dẫn theo những thú hƣởng lạc của nhà nho tài Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, tập 3: 29). tử, cùng với đó là cả những cảm xúc Ông so sánh Lê Thái Tổ với Hán Cao mới, sự tự bộc lộ cá tính của cá nhân Tổ và Chu Nguyên Chƣơng để thấy nhiều hơn so với những bậc đi trƣớc. “vua Lê ta mới thực là một vị đế Thông qua các tác phẩm văn chƣơng vƣơng anh hùng, tuyệt hiếm có giá trị” của mình, Tản Đà đã bày tỏ tấm lòng (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, của mình trƣớc cảnh sắc quê hƣơng tập 3: 29), và khẳng định: “Trong lịch đất nƣớc. Ông trân quý những nét độc sử ta bốn nghìn năm, đức Hùng đáo của mỗi vùng miền. Vƣơng là thủy tổ riêng hẳn một địa vị, Với Tản Đà quê hƣơng đất nƣớc không dám kể, còn ngoài ra muốn tìm không chỉ là cảnh vật, thiên nhiên, đặc lấy một ai là ngƣời đệ nhất, ý tôi xin sản, lối sống vùng miền mà còn là hiểu là vua Lê. Vua Lê Thái Tổ không chiều dài lịch sử đáng tự hào. Sự những là một ngƣời đệ nhất trong lịch hãnh diện của ông với lịch sử thể hiện sử nƣớc Nam ta mà xem với nhƣ ở
- NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – HÌNH ẢNH ĐẤT NƢỚC, DÂN TỘC… 45 lịch sử Tàu cũng chƣa hẳn xuống thứ lịch sử mấy ngàn năm dựng nƣớc và ba, thứ bốn” (dẫn theo Nguyễn Khắc giữ nƣớc của ngƣời Việt với giọng văn Xƣơng, 2002, tập 3: 29). tự hào. Ông mong trẻ em sẽ học, biết Bên cạnh Lê Lợi, Tản Đà cũng đặc và yêu những trang lịch sử đó, bởi điều biệt ngƣỡng mộ Nguyễn Trãi. Trong đó thể hiện đƣợc phẩm chất “uống Giấc mộng con II, Tản Đà trân trọng nƣớc nhớ nguồn”. Không trực tiếp tài năng, tôn kính đức độ của bậc hiền đứng lên chiến đấu nhƣng Tản Đà thể nhân. hiện tình cảm yêu kính đối với những vị anh hùng đã vì nền độc lập của đất Ngoài ra, trong số các nhân vật lịch sử, nƣớc mà cầm gƣơm chiến đấu. Tản Đà cũng dành sự kính trọng cho hai nữ tƣớng là Bà Trƣng và Bà Triệu. Đồng thời, lòng tự tôn của ông rất cao mỗi khi nhắc đến tiếng dân tộc. Chẳng “Một đàn em bé theo sau đít thế mà trong Xem Ẩm Băng, tác giả Mấy chú quân Tàu chạy đứt đuôi. bày tỏ sự “hoảng hốt nhƣ cõi trần mà Hồn đã lên tiên còn tiếc nƣớc lại gặp ngƣời cửu nguyên” (Nguyễn Ngàn thu sông Cấm bóng trăng soi.” Khắc Xƣơng, 2002, tập 3: 53) khi đọc (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, đƣợc hai chữ Trung Quốc liệt ngang tập 1: 152). hàng với tên các nƣớc lớn. Ông ngỡ “Duyên trần chẳng chút tơ vƣơng mối ngàng vì Trung Quốc đã vƣợt qua Nợ nƣớc riêng mình gánh nặng vai. nƣớc ta để đứng ngang hàng với các Thua đƣợc cũng cho Ngô biết mặt nƣớc lớn. Sự giật mình ấy chính là sự Lam Sơn còn có gái tài trai”. giật mình của một ngƣời yêu đất nƣớc (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, và kỳ vọng vào vị thế của nƣớc nhà, tập 1: 132). kỳ vọng rằng nƣớc Việt Nam rồi cũng Trong một tài liệu viết tay chƣa đƣợc sẽ có lúc đạt đƣợc vị thế nhƣ thế. in lúc Tản Đà còn sống, ông đã viết Việc truyền bá chữ quốc ngữ, tạo điều một bài Luận Hai Bà Trưng để ca ngợi kiện để ngƣời dân học chữ quốc ngữ hai vị nữ anh hùng này bằng giọng là một hành động “khai hóa văn minh” văn biền ngẫu hào hùng. Ông cho có tính toán của chế độ đô hộ bấy giờ. rằng “trƣợng phu mà con gái thời Tản Đà nhận thức điều đó rõ ràng nên nhiều, con gái mà trƣợng phu có ít” ông nhận ra đƣợc cái lợi và gọi đó là (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, “công lao” của ngƣời Pháp. Nhƣng tất tập 2: 20) nên những ngƣời nhƣ Hai nhiên, trong lòng Tản Đà luôn chất Bà Trƣng lại càng là tấm gƣơng sáng chứa mâu thuẫn. Trong Vấn đề Hán của nữ nhi thiên hạ. học ở Nam Trung, Tản Đà từng viết: Tản Đà đặc biệt trân trọng những “Vậy nay theo đại thể của xã hội mà ngƣời anh hùng trong lịch sử dựng nghĩ, việc Âu học phải cần gấp là để nƣớc, giữ nƣớc của dân tộc. Trong thủ về trí khôn, việc Hán học cũng Lên sáu và Lên tám, ông cũng viết về phải chấn hƣng là để duy trì đức tính”
- 46 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (273) 2021 (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, thực dân Pháp thì họ cũng tự cảm tập 2: 191). Với Tản Đà, văn minh nhận đƣợc lực hút của những tinh hoa Tây phƣơng quan trọng và Hán học trong nền văn hóa phƣơng Tây hiện truyền thống cũng quan trọng không đại. Trong hành vi chống lại lẫn ủng kém. Cả hai nguồn tri thức đều có thể hộ những ƣu trội của văn hóa Pháp góp phần làm nên sự toàn diện của đều thể hiện tính hai mặt trong nhận con ngƣời trong thời bấy giờ. Theo thức về xã hội, về văn hóa phƣơng quan điểm của chúng tôi, không phải Tây nói chung, văn hóa Pháp nói riêng Tản Đà không yêu chữ quốc ngữ mà của giới trí thức Nho giáo bấy giờ. việc ông muốn khôi phục Hán học và Ngƣời Việt tuy chống lại sự cƣỡng Nho giáo là thể hiện sự yêu nƣớc, bức văn hóa trắng trợn và thẳng tay mong muốn đƣợc tìm lại đất nƣớc do của thực dân xâm lƣợc nhƣng cũng mình làm chủ của ông. Hán học và nhận ra đƣợc điểm mới đáng để học Nho giáo lúc này không chỉ là công hỏi của văn hóa phƣơng Tây, đồng cụ của giao tiếp, giáo dục mà quan thời thấy đƣợc sự lạc hậu và mất dần trọng hơn nó thể hiện khao khát vị trí lịch sử của nền văn hóa Nho giáo muốn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của lâu đời. Các trí thức Việt Nam hay nói ngƣời Pháp. đúng hơn là các nhà nho cấp tiến 3. TINH THẦN TIẾP THU CÁI MỚI nhận ra đƣợc sự thụ động và yếu thế TỪ VĂN HÓA PHƢƠNG TÂY TRONG của hệ tƣ tƣởng Nho giáo cũng nhƣ VĂN CHƢƠNG TẢN ĐÀ vai trò của chính họ trƣớc cơn quốc Vấn đề xã hội nổi bật nhất của bối biến qua sự thất bại của phong trào cảnh Việt Nam giai đoạn này chính là Cần Vƣơng, một trong những phong sự tồn tại của một chính quyền thực trào lớn cuối cùng nhân danh nhà vua dân Pháp song song, hay nói đúng – mà hoàng gia, nhà nho cũng chính hơn là sự cƣỡng chế và đè nén của là một phần nƣớc nhà. Vì thế, ngƣời chủ nghĩa này lên mô hình nhà nƣớc Việt Nam đã chủ động tiếp xúc và học Nho giáo truyền thống. Để thực hiện hỏi những tinh hoa của thế giới nhằm đƣợc ý đồ đô hộ Việt Nam, Pháp khai thông chính nền dân trí của nƣớc không chỉ áp dụng các chính sách bóc nhà, để hội nhập và cũng là để tự lột kinh tế, áp đặt về chính trị mà còn chống lại thế lực xâm lƣợc Tây cƣỡng bức về văn hóa. Rất nhiều phƣơng hiện đại. Ngay Tản Đà, một những hành động phản kháng, cuộc nhà nho từ trong gốc rễ, luôn muốn khởi nghĩa đã nổ ra liên tục mà tiêu gìn giữ và chấn hƣng Hán học cũng biểu là phong trào Cần Vƣơng. Tuy đã phải thốt lên: “vậy nay theo đại thể nhiên, cần phải thấy mặt khác của vấn của xã hội mà nghĩ, việc Âu học phải đề đó là, trong khi ý thức dân tộc đã cần gấp là để tiến thủ về trí khôn…” khiến các nho sĩ chống lại sự nô dịch (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, về cả kinh tế, chính trị và văn hóa của tập 3: 191).
- NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – HÌNH ẢNH ĐẤT NƢỚC, DÂN TỘC… 47 Trong các bài báo và sáng tác của ta, rèn cặp ta, nung đúc ta, mở mang mình, Tản Đà đôi lần gọi nƣớc Pháp cho ta, mong cho ta cũng có cái tinh bằng cụm từ “đại Pháp”, nƣớc Pháp thần nhƣ ngƣời Pháp [...], nếu tự ta bảo hộ. Khi nói về sự đô hộ của thực không biết bắt chƣớc, chăng thật là dân Pháp, ông viết: “Dân tộc An Nam đáng tiếc lắm ru?” (dẫn theo Nguyễn ta kể từ sau đời Hồng Lạc, trải bao Khắc Xƣơng, 2002, tập 3: 501). Có lẽ, phen Bắc thuộc, cảnh cơ hàn nếm đủ bản thân Tản Đà khi chứng kiến sức chua cay hội Á Âu mà lại có phen này mạnh hiện đại của văn minh Tây nhờ Đại Pháp làm thay cho đƣợc biết phƣơng theo chân ngƣời Pháp đến chính giác của Thái Tây là thế thế… cũng có những ngỡ ngàng nhất định. Hai nhăm triệu đồng bào nữ sĩ, xin Thực chất, chính ông cũng đƣợc hãy cứ vui lòng cùng cảnh ngộ, nhờ hƣởng nhiều lợi ích từ nền văn minh Đại Pháp hết lòng khai hóa, để chờ đó mà rõ ràng nhất là từ việc xuất xem khí vận tuần hoàn” (dẫn theo hiện và phát triển của ngành in và Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, tập 3: nghề báo. Nếu ngày xƣa, không thể 22-23). Tản Đà cho rằng “từ ngày đỗ bảng vàng, công danh coi nhƣ nƣớc Pháp là một nƣớc dân chủ không đƣợc thỏa chí thì nay dẫu sang bảo hộ, mà tƣ tƣởng bình đẳng không cần thi, ông vẫn có thể thực cũng tràn sang cõi đất Đông Dƣơng. hiện ƣớc nguyện lập thân của mình. Ngƣời nƣớc ta từ nay về sau tranh Ông ủng hộ chuyện ngƣời dân trong nhau danh giá lại có trọng chữ tài, kẻ nƣớc lúc này học theo những cái hay có tài đƣợc dịp lấy mình làm trọng và của ngƣời Pháp. Ngay cả trong đƣơng dịp lấn tới, thực buổi nhu tài, quyển Lên sáu, một quyển sách dạy thời những kẻ có tài cũng nên biết lấy trẻ con mang nhiều tinh thần Khổng mình làm trọng” (dẫn theo Nguyễn giáo, ông cũng viết: Khắc Xƣơng, 2002, tập 2: 192). Theo “Mày đẻ ra, chúng tôi, nhiều khả năng vì sự bãi là ngƣời Việt; bỏ khoa cử Hán học, mở ra nhiều cơ mày phải biết, hội lập nghiệp khác cũng danh giá yêu nƣớc Nam. không kém con đƣờng thăng tiến làm Bốn nghìn năm quan ngày xƣa. Có thể nhƣ nhiều nƣớc đã cũ; nhà văn, nhà báo bấy giờ, để duy trì nhờ Bảo hộ công việc chính, Tản Đà buộc phải dần văn minh.” lồng nhiều dòng ca ngợi nƣớc Pháp (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, bảo hộ để lách sự kiểm duyệt khắt tập 1: 497). khe của chính quyền thực dân. Thậm chí, đã có lúc, Tản Đà còn gọi ngƣời Tuy có phần đề cao việc ngƣời Pháp Pháp là thầy: “Ông thầy dạy ta ngày mang văn minh Tây phƣơng đến nay là ngƣời nƣớc Đại Pháp, từ Âu nhƣng đối với tay sai của thực dân châu sang ta, cùng ở với ta mà dạy Pháp và Việt gian Tản Đà khinh
- 48 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (273) 2021 thƣờng, phản kháng trực diện. Căm tìm sao cho thấy” (Nguyễn Khắc giận Từ Đạm - “tay xu nịnh và đục Xƣơng, 1990: 77). Cũng nhƣ bài thơ khoét có tiếng…”, Tản Đà đã thuê đục Nhắn Từ Đạm, bài này cũng đƣợc viết bài thơ Nhắn Từ Đạm (1). với giọng châm biếm, mỉa mai, chế Tản Đà không ngại nói mỉa quan tuần giễu những hành động lố lăng của phủ Ninh Bình về một việc làm thể Hoàng Cao Khải và cũng là tiếng cƣời hiện sự dốt nát, khệnh khạng của hắn. coi thƣờng với những ngƣời đang xu Trong bài thơ, Tản Đà đã thể hiện nịnh hắn. giọng điệu châm biếm, đả kích rõ rệt. Tản Đà yêu nƣớc, đau xót trƣớc hiện Thái độ của ông là coi thƣờng một kẻ thực đất nƣớc bị thực dân Pháp đô hộ. nhƣ Từ Đạm. Điều này cũng đƣợc Điều đó lý giải cho thái độ của ông với ông làm với Hoàng Cao Khải, kẻ lúc những bọn tay sai và Việt gian. Có lẽ bấy giờ bị coi là điển hình cho “loại ông căm giận chúng vì chúng là ngƣời nhà nho hợp tác với giặc” trong bài Việt Nam nhƣng lại quay lƣng với dân Chim họa mi trong lồng: tộc, xu nịnh thực dân, làm hại ngƣời “Họa mi ai vẽ nên mi? dân trong nƣớc. Tản Đà buồn trƣớc Trông mi mi đẹp, hót thì mi hay! những điều ấy, trƣớc thời thế nhƣ vậy. Ai đƣa mi đến chốn này? Bốn bài thơ có nội dung về “bức địa Nƣớc trong gạo trắng, mi ngày ăn chơi! đồ rách” chính là những tác phẩm thể Lồng son cửa đỏ thảnh thơi, hiện tâm trạng ấy. Mi bay mi nhảy sƣớng đời nhà mi! “Nọ bức dƣ đồ thử đứng coi Nghĩ cho mi cũng gặp thì, Sông sông núi núi khéo bia cƣời. Rừng xanh mi có nhớ gì nữa không?” Biết bao lúc mới công vờn vẽ (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, Sao đến bây giờ rách tả tơi” tập 1: 220). (Vịnh bức dư đồ rách 1 - dẫn theo Theo tƣ liệu của Nguyễn Khắc Xƣơng, Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, tập 1: 119). Hoàng Cao Khải chơi chim họa mi và Ông đau xót vì không thể làm gì hơn tổ chức một cuộc thi vịnh chim ở Thái cho đất nƣớc lúc này ngoài nhìn “bức Hà ấp. Tản Đà đƣợc Ngô Thế Phổ rủ địa đồ rách”: đi nghe thơ. Đến đó, ông nghe nhiều “Còn núi còn sông vẫn nhìn rõ bài thơ có giọng xu nịnh nên cảm thấy rất lố lăng. Nghe theo lời của Có hồ có giấy dễ mà chơi. Ngô Thế Phổ, Tản Đà đã làm và đọc Bởi chƣng hồ giấy ta chƣa có bài thơ này trong lúc ông Phổ ra Đành chịu ngồi trông rách tả tơi” ngoài gọi xe trƣớc. Sau khi đọc xong, (Vịnh bức dư đồ rách 2 - dẫn theo hai ngƣời ra xe đi luôn. “Cụ phó Trẹt Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, tập 1: 120). nói thêm chi tiết: lặng đi một lúc, cả Ông cũng trông chờ vào những ngƣời đám đông xôn xao và Hoàng quát cùng chí nguyện làm sao để gắn lại lính tìm bắt ngƣời đọc thơ nhƣng còn bức địa đồ đã rách, làm sao để lấy lại
- NGUYỄN HƢƠNG NGỌC – HÌNH ẢNH ĐẤT NƢỚC, DÂN TỘC… 49 dáng hình đất nƣớc thuở chƣa bị thực hƣởng trực tiếp đến vận mệnh dân tộc, dân Pháp đô hộ: đất nƣớc theo quan điểm tiến bộ và “Hồ giấy chƣa mua, tiền chẳng sẵn có trách nhiệm xã hội nhất. Non sông đứng ngắm lệ nhƣờng vơi. Tản Đà phân biệt rất rõ ràng giữa Việc nhà chung cả ai ai đó những tiến bộ mà ngƣời Pháp mang Ai có cùng ta sẽ liệu bồi?” lại với những hành động bán nƣớc, hại (Vịnh bức dư đồ rách 4 - dẫn theo dân của Việt gian và tay sai. Ông đặc Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, tập 1: 121). biệt căm ghét những kẻ xu nịnh Pháp mà làm khổ đồng bào, làm nhục đất Tản Đà cổ vũ cho những ngƣời dám nƣớc. Đây là ứng xử của một trí thức đứng lên chống lại thực dân Pháp, biết đƣợc những hạn chế của thế hệ điển hình là việc ông viết bài Ba Đình mình, sẵn sàng tiếp nhận cái mới để ký nhƣ lời khóc thƣơng cho Đề đốc thay đổi mà vẫn phải giữ bản sắc của Đinh Công Tráng trong cuộc chiến mình, luôn hết mực yêu nƣớc, thƣơng chống thực dân Pháp. Mặc dù cuộc dân. Ở đây ông không thể đi xa trong chiến thất bại nhƣng dƣ âm vẫn còn: phản kháng chế độ thực dân giống lớp “Nƣớc non vẫn nƣớc non nhà nho sĩ nhƣ Phan Đình Phùng, Phạm Nhớ ai một khúc gọi là viếng ai” Văn Nghị, Nguyễn Thƣợng Hiền… (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, nhƣng ông không bảo thủ đến mức tập 1: 262). không phân biệt đƣợc trong số những Tấm lòng dành cho đất nƣớc của Tản điều mà chế độ bảo hộ đƣa lại thì cái Đà lúc nào cũng thƣờng trực chỉ có gì là có ích cho đất nƣớc, giống nòi. điều không phải lúc nào ông cũng có 4. KẾTLUẬN điều kiện để thể hiện. Thêm vào đó, Những phân tích trên của chúng tôi với chế độ kiểm duyệt khắt khe của cho thấy lòng yêu nƣớc của Tản Đà chính quyền thực dân, đôi khi ông thể hiện khi ông đả kích những ngƣời không thể nói thẳng những điều mình làm tay sai, Việt gian; và thể hiện trên nghĩ, thậm chí phải nói những điều những trang báo khi ca ngợi văn hóa làm vừa lòng chính quyền Pháp để có truyền thống của dân tộc và tầm vóc thể đƣợc xuất bản sách, báo. con ngƣời Việt Nam, qua những bài Việc Tản Đà đề cập đến thực dân thơ về cảnh sắc quê hƣơng đất nƣớc, Pháp và tay sai trong thơ văn của mình trong thơ văn và tƣ tƣởng của ông có thể hiện ông quan tâm đến những vấn tinh thần yêu nƣớc, lòng tự tôn dân đề mang tính chính trị, xã hội, có ảnh tộc. CHÚ THÍCH (1) Từ Đạm cho đục lên đá một bài thơ Nôm ca ngợi bản thân, rồi lại cho đục hai bàn chân và một bàn cờ. Tản Đà bất bình nên đã thuê thợ đục (bên cạnh) bài Nhắn Từ Đạm:
- 50 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (273) 2021 “Năm ngoái năm xƣa đục mấy vần Năm nay quan lại đục hai chân Khen cho đá cũng bền gan thật Đứng mãi cho quan đục mấy lần” (dẫn theo Nguyễn Khắc Xƣơng, 2002, tập 1: 79). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Tầm Dƣơng. 1964. Tản Đà khối mâu thuẫn lớn. Hà Nội: Nxb. Văn học. 2. Nguyễn Khắc Xƣơng. 1990. Ông thần ngông. Hà Nội: Nxb. Văn học. 2. Nguyễn Khắc Xƣơng (sƣu tầm và biên soạn). 1997. Tản Đà trong lòng thời đại: hồi ức - bình luận - tư liệu. Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn. 3. Nguyễn Khắc Xƣơng (biên soạn). 2002. Tản Đà toàn tập - tập 1, 2, 3. Hà Nội: Nxb. Văn học.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1 p | 3572 | 1100
-
Trầu cau trong đời sống văn hóa dân tộc (phần 2)
11 p | 771 | 236
-
Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
396 p | 210 | 21
-
Lịch sử Myanmar
28 p | 104 | 14
-
Xây dựng nhân cách con người Việt Nam và các vai trò của gia đình: Phần 1
108 p | 87 | 12
-
Học giả Đào Duy Anh - Nhà văn hóa lớn
7 p | 87 | 5
-
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - “cội nguồn lý luận”, ánh sáng soi đường cho mọi thắng lợi của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
12 p | 34 | 5
-
Ảnh hưởng của thể chế vương quyền Trung Quốc đối với Triều Tiên thời phong kiến (từ nửa sau thế kỷ I đến đầu thế kỷ XX)
9 p | 73 | 4
-
Toàn tập về Văn kiện Đảng (6-1993 - 12-1994) - Tập 53
345 p | 23 | 4
-
Dương Diên Nghệ
5 p | 114 | 3
-
Hình ảnh các vị sứ thần Đại Việt qua dòng thơ sứ trình trung đại Việt Nam
14 p | 28 | 2
-
Vai trò của đất sản xuất đối với việc xóa đói giảm nghèo ở khu vực Tây Nguyên
13 p | 75 | 2
-
Bài kệ Thị tịch của đại sư Khuông Việt – Những tâm truyền đầy ý nghĩa cho mọi người trong cuộc sống
6 p | 83 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn