Hội thảo khoa học cấp quốc gia tác động của các Hiệp định thương mại tự do đến cơ cấu kinh tế Việt Nam
lượt xem 4
download
Hội thảo khoa học cấp quốc gia tác động của các Hiệp định thương mại tự do đến cơ cấu kinh tế Việt Nam trình bày các nội dung chính sau: Tương lai của Hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới”; FTA thế hệ mới; Tác động của việc thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến thu nhập và bất bình đẳng ở Việt Nam;... Mời các bạn cùng tham khảo để nắm nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hội thảo khoa học cấp quốc gia tác động của các Hiệp định thương mại tự do đến cơ cấu kinh tế Việt Nam
- ISBN: 978-604-84-4317-7 HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP QUỐC GIA TÁC ĐỘNG CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO ĐẾN CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM Đà Nẵng, ngày 03 tháng 12 năm 2018
- BAN TỔ CHỨC 1. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Toàn Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Trưởng ban ĐHĐN 2. PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh Đồng Trưởng ban tế - ĐHĐN 3. PGS.TS. Nguyễn Thu Thủy Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại Phó trưởng ban thương 4. PGS.TS. Vũ Hoàng Nam Trưởng phòng QLKH – Trường Đại học Ủy viên Ngoại thương 5. PGS.TS. Nguyễn Phúc Nguyên Trưởng phòng KH&HTQT – Trường Ủy viên ĐHKT- ĐHĐN BAN NỘI DUNG TS. Huỳnh Thị Diệu Linh Thư ký đề tài Trưởng ban Trường ĐHKT - ĐHĐN PGS.TS. Từ Thúy Anh Trường Đại học Ngoại thương Ủy viên TS. Huỳnh Thị Hồng Hạnh Thành viên đề tài Ủy viên Trường ĐHKT - ĐHĐN TS. Nguyễn Thị Hương Thành viên đề tài Ủy viên Trường ĐHKT-ĐHĐN TS. Đặng Hữu Mẫn Phó trưởng Phòng KH&HTQT Ủy viên TS. Vũ Huyền Phương Phó trưởng Phòng QLKH- Trường Đại Ủy viên học Ngoại thương
- MỤC LỤC Stt Tên bài báo Tác giả Trang 1 Tương lai của hiệp định thương mại tự do “thế Hoàng Thanh Hiền 1 hệ mới” (Free Trade Agreements – FTAs): hướng đi nào sau CPTPP? 2 FTA thế hệ mới – Những tác động nổi bật Trần thị Trang, Hoàng 8 Thị Lan Phương 3 Tác động của việc thực thi các hiệp định thương Đào Hữu Hòa 15 mại tự do (FTA) và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến thu nhập và bất bình đẳng ở Việt Nam 4 FTAs và định hướng cải cách chính sách thuế Kiều Thị Khánh. Hoàng 41 của Việt Nam Hà 5 Phân tích và dự báo các tác động của Hiệp định Lê Vũ Tường Vy 49 Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đến các Doanh nghiệp Bình Định 6 Ảnh hưởng của Tiêu chuẩn SPS đến xuất khẩu Nguyễn Anh Tuấn, Đặng 59 nông sản Việt Nam Trần Ngọc Thương 7 Các hướng tiếp cận tăng trưởng và chuyển dịch Phạm Quang Tín 69 cơ cấu kinh tế Việt Nam dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh 8 Lợi thế so sánh hiện (Revealed Comparative Ông Nguyên Chương 78 Advantage-RCA) trong xu hướng xuất khẩu của Việt Nam 9 Ngành có lợi thế phát triển trong điều kiện hội Bùi Quang Bình 86 nhập: Theo lý thuyết và quan điểm thực tiễn Việt Nam 10 Phát triển nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh Lê Bảo 91 tự do hóa thương mại
- 11 Phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam Trần Khánh Linh 97 trong bối cảnh hiệp định CPTPP được ký kết: Cơ hội và thách thức 12 Tác động kinh tế - xã hội của hiệp định thương Huỳnh Thị Diệu Linh 107 mại tự do EU –Việt Nam (EVFTA) 13 Ảnh hưởng của các FTAs đối với số thu ngân Vũ Huyền Phương, 126 sách Nhà nước của ngành Hải quan giai đoạn Nguyễn Thị Diệu Hoa 2016-2018
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TƯƠNG LAI CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO “THẾ HỆ MỚI” (FREE TRADE AGREEMENTS – FTAS): HƯỚNG ĐI NÀO SAU CPTPP? Hoàng Thanh Hiền Đại học Duy Tân, Đà Nẵng 1. Giới thiệu Theo số liệu của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đến tháng 01/2019, đã có hơn 290 thỏa thuận thương mại song phương hoặc đa phương hiện đang có hiệu lực trên toàn thế giới. Hệ thống phức tạp và chồng chéo gồm nhiều thỏa thuận này đã được Bhagwati (1995) gọi bằng một thuật ngữ rất hình tượng là “Bát mì Spaghetti”. Để hình dung sự phức tạp của “bát mì Spaghetti” này chúng ta hãy cùng xem sự phát triển của các thỏa thuận thương mại ở các nước thuộc khu vực Mỹ Latin và Ca-ri-bê sau 20 năm (từ năm 1995 đến năm 2016) trong Hình 1 dưới đây. Trong những năm gần đây, hình thức FTA (Free Trade Agreement) “thế hệ mới” song phương hoặc đa phương ngày càng trở nên phổ biến hơn, với phạm vi hợp tác rộng hơn, và dần sẽ có khả năng thay thế cho các thỏa thuận thương mại thế hệ cũ. 1 Một số lượng khá lớn các FTA đã được kí kết và thực hiện gần đây thu hút được rất nhiều sự chú ý, quan sát và đánh giá các tác động xung quanh các hiệp định này, ví dụ như Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP), FTA Việt Nam – EU (EVFTA), các FTA ASEAN + 1, …. Hiện nay trong bối cảnh đàm phán thương mại đa phương thông qua WTO đang bế tắc (vòng đàm phán Doha), sự gia tăng mạnh các FTA song phương và khu vực đã trở thành một xu hướng mới ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư quốc tế trong những năm gần đây. Cùng với việc Anh (United Kingdom – UK) lựa chọn rời khỏi Liên minh Châu Âu (European Union - EU), hay còn gọi là Brexit, sau nhiều thập kỷ gắn bó sẽ có một loạt các hiệp định thương mại mới đi vào đàm phán và ký kết.Ví dụ như Anh sẽ phải đàm phán và ký kết lại FTA với EU hoặc với các nước mà Anh đã từng có hiệp định hoặc đang đàm phán khi còn là thành viên của EU như các nước thành viên CPTPP, Canada, Úc, New Zealand, Mỹ (Webb et al., 2019). Bên cạnh đó, mặc dù Mỹ đã rút khỏi TPP đã được kí kết trước đây vào tháng 02/2016, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã được ký kết lại vào tháng 03/2018 bởi các Bộ trưởng Thương mại từ 11 quốc gia TPP khác và bắt đầu chính thức có hiệu lực với 7/11 nước thành viên từ tháng 01/2019. Trước đó, Hiệp định Kinh tế và thương mại toàn diện EU-Canada (EU-Canada Comprehensive Economic and Trade Agreement – CETA) đã bắt đầu có hiệu lực từ tháng 09/2017. Tầm quan trọng của các hiệp ước này được minh họa bởi số lượng và quy mô của các nền kinh tế liên quan tham gia kí kết Hiệp định. Đây chính là lí do mà chúng ta cần nhìn lại các đặc điểm của các hiệp định thương mại mới, đặc biệt là các hiệp định với rất nhiều vùng lãnh thổ tham gia (megaregional free trade agreements - MFTAs). MFTAs hiện đang là xu hướng mới và được hoan nghênh vì nó giúp đơn giản hóa bối cảnh phức tạp của các hiệp định thương mại song phương chồng chéo như bát mì Spaghetti của Bhagwati, đồng thời chúng còn giúp phát triển các quy tắc và quy định nhất quán nhằm giảm phi phí thương mại và đóng góp gia tăng quy mô nền kinh tế. 1 Thuật ngữ “thế hệ mới: ở đây chỉ mang tính tương đối, nhằm phân biệt với các thỏa thuận thương mại trước đây chủ yếu chỉ nhằm mục đích cắt giảm hàng rào thuế quan. Các FTA “thế hệ mới” không chỉ giới hạn trong việc thực hiện cắt giảm hàng rào thuế quan mà còn cả xúc tiến và tự do hoá đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực và nhiều nội dung mới khác như lao động, môi trường (Nguyễn, 2019). 1
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Hình 1: Thỏa thuận thương mai khu vực Mỹ Latin và Ca-ri-bê, 1995-2016 Nguồn: IDB Integration and Trade Sector Các MFTAs cơ bản bao gồm TPP (sau này là CPTPP), TTIP giữa Mỹ và EU, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) giữa Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand và các quốc gia thuộc ASEAN, và CETA. Với vị trí và vai trò của các quốc gia thành viên thuộc CPTPP trong nền kinh tế thế giới, rõ ràng hiệp định này sẽ đóng vai trò tham chiếu quan trọng cho các cuộc đàm phán FTA trong tương lai (VD: các đàm phán FTA giữa Anh và EU), cũng đồng thời ảnh hưởng đến các nền kinh tế khác trên thế giới (VD: đàm phán hiệp ước đầu tư EU-Trung Quốc, hoặc là đàm phán Hiệp định thương mại tự do Canada-Trung Quốc). Bài viết này nhằm mục đích phân tích các yếu tố “mới” của CPTPP trong các điểm chính yếu nhằm mục đích cung cấp một cái nhìn về phương pháp tiếp cận, cơ sở lý luận cơ bản, và đưa ra một nền tảng dự đoán cho cách tiếp cận các FTA mới cho Việt Nam trong tương lai. Bài viết chia làm 2 phần, phần 1 sẽ trình bày một vài thông tin chính yếu về CPTPP và ảnh hưởng của CPTPP đến Việt Nam. Phần 2 sẽ phân tích một số điểm mới của CPTPP so với nền tảng là các quy định của WTO trước đây. 2. Tóm tắt về CPTPP và ảnh hưởng của nó đến Việt Nam Hiệp định TPP ban đầu bao gồm 12 nền kinh tế thuộc 3 châu lục bao gồm Châu Mỹ, Châu Á và Châu Úc. Tuy nhiên đến đầu năm 2017, Mỹ - nền kinh tế lớn nhất, chính thức tuyên bố rút khỏi hiệp định. Điều 2 này đã dẫn đến việc đàm phán lại và ký kết Hiệp định CPTPP giữa các nước thành viên với mục tiêu duy trì những mong muốn đầy tham vọng của hiệp định TPP ban đầu. Hiện nay CPTPP đã bắt đầu có hiệu lực với các nước Úc, Canada, Nhật, Mexico, New Zealand, Singapore và Việt Nam và đang chờ đợi phê chuẩn của các nước Brunei, Chile, Malaysia và Peru. Sau khi đi vào thực hiện, CPTPP sẽ tạo ra một thị trường với khoảng 500 triệu khách hàng và chiếm 13,5% GDP toàn thế giới (Webb et al., 2019). 2.1. Thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên CPTPP Theo số liệu từ TCTK thì trong năm 2018, Việt Nam đã xuất khẩu lượng hàng hóa tương đương với giá trị là 36.810,45 triệu USD đến các nước thành viên trong Hiệp định CPTPP, đồng thời Việt Nam cũng nhập khẩu một lượng hàng hóa tương đương với 37.667,64 triệu USD, thâm hụt thương mại khoảng 857,198 triệu USD (xem Bảng 1). 2 Châu Mỹ bao gồm các nước: Mỹ, Canada, Pê ru, Chi Lê và Mexico, Châu Á bao gồm: Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Brunei và Việt Nam. 2
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Trong 10 nước thành viên CPTPP thì Việt Nam đạt thặng dư thương mại với 5 nước là Canada, Chile, Mexico, Úc và Pê ru, và thâm hụt thương mại với các nước còn lại. Việt Nam giao dịch thương mại tập trung chủ yếu với Nhật Bản, Úc, Malaysia, Singapore và Canada, chiếm khoảng 90% các giao dịch thương mại xuất nhập khẩu trong khối CPTPP. Về tổng số thì giao dịch thương mại giữa Việt Nam và các thành viên CPTPP trong năm 2018 chiếm khoảng 15,6% về tổng xuất khẩu và 16,3% về tổng nhập khẩu của cả nước. Như vậy có thể thấy tiềm năng xuất khẩu cho Việt Nam đến các nước thành viên CPTPP còn lại là rất lớn, khi hiện giao dịch chủ yếu vẫn là giữa 5 nước đã nêu ở trên. Bảng 1: Thương mại song phương giữa Việt Nam và các nước thành viên CPTPP, 2018 Xuất khẩu Nhập khẩu XK - NK Triệu US$ % tổng số Triệu US$ % tổng số Brunei 18.46402 0.05016 36.66877 0.097348 -18.2048 Malaysia 4047.83 10.99642 7450.336 19.77914 -3402.51 Singapore 3138.275 8.525501 4523.631 12.00933 -1385.36 Canada 3014.386 8.188941 858.9073 2.280226 2155.478 Chile 781.7105 2.123611 306.6096 0.813987 475.1009 Mexico 2239.874 6.084887 1118.891 2.97043 1120.983 New Zealand 504.0143 1.369215 530.8998 1.409432 -26.8855 Nhật Bản 18850.61 51.20995 19010.89 50.47007 -160.275 Úc 3965.09 10.77164 3747.218 9.948107 217.872 Pê ru 250.1912 0.679674 83.59539 0.221929 166.5958 Tổng cộng 36810.45 100 37667.64 100 -857.198 Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK), tác giả tổng hợp và biên soạn. Theo số liệu từ ASEAN thì hiện nay Việt Nam đang tiếp nhận vốn FDI từ 8/10 nước thành viên của CPTPP. Trong đó Nhật Bản, Singapore và Malaisia là 3 trong số 10 quốc gia trên thế giới đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam dựa trên số vốn đăng ký cũng như số dự án đăng ký. Theo số liệu từ TCTK, tính đến cuối năm 2017, tổng số vốn đăng ký còn hiệu lực của 3 quốc gia này chiếm khoảng 32,6% số vốn FDI trên toàn quốc. Có thể thấy rằng các thành viên CPTPP đã và sẽ là nguồn FDI rất quan trọng cho Việt Nam cả trong hiện tại và tương lai. Bảng 2: Luồng vốn FDI từ các nước thành viên CPTPP vào Việt Nam trong những năm gần đây, 2013- 2017, triệu US$. 2013 2014 2015 2016 2017 Nhật Bản 2,365.24 969.18 954.96 1,338.89 3,580.39 Singapore 1,801.09 1,219.52 638.48 1,250.60 2,085.64 Malaysia 59.39 163.75 1,285.01 472.53 114.46 Úc 52.19 62.12 104.31 231.41 62.53 Brunei 34.15 36.85 78.58 162.43 18.44 Canada 10.47 125.22 3.14 35.01 17.79 New Zealand 0.60 1.79 5.70 9.59 1.38 Chile 0.01 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ ASEAN Statistics Division. 3
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 2.2. Dự báo tác động của CPTPP đến Việt Nam Theo một tính toán của Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB) thì việc CPTPP chính thức đi vào thực hiện sẽ giúp Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu, giảm nghèo, tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tiếp tục mở rộng các ngành dịch vụ (World Bank 2018). Cụ thể thì theo tính toán của WB, dự báo xuất khẩu hàng năm của Việt Nam sẽ tăng khoảng 4,32% nhờ sự đa dạng hóa của thị trường xuất khẩu. Dự kiến đến năm 2030, nhờ việc tham gia vào CPTPP, lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng thêm 13,1 tỉ US$ chủ yếu tập trung vào các ngành thực phẩm, đồ uống, may mặc và dệt may. Bên cạnh đó, theo dự đoán, CPTPP sẽ giúp thoát nghèo cho 0,9 triệu và 0,6 triệu người tương ứng theo từng thời điểm 2025 và 2030 (với mức chuẩn nghèo là 5,5 US$/ngày PPP). 3 Tuy nhiên, WB cũng đưa ra cảnh báo về việc bất bình đẳng thu nhập sẽ ngày càng tăng khi mà nhóm có thu nhập cao sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ CPTPP. Điều này có thể được giải thích từ việc hiệp định sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh tế hơn cho các lao động có tay nghề cao, có trình độ học vấn so với các lao động có trình độ thấp. Như vậy ở đây sẽ cần đến các chính sách điều chỉnh làm công cụ để bù đắp cho những đối tượng bị tụt lại phía sau cũng như xây dựng các cơ chế hỗ trợ giúp dịch chuyển từ các ngành ít cơ hội kinh tế sang các ngành có nhiều cơ hội hơn. Ngoài yếu tố thúc đẩy thương mại thì CPTPP còn ảnh hưởng đến cải cách ở nhiều lĩnh vực như dịch vụ, hải quan, thương mại điện tử, môi trường, sở hữu trí tuệ, chi tiêu công, đầu tư, tiêu chuẩn lao động, các vấn đề pháp lý, tiếp cận thị trường cho hàng hóa, quy tắc xuất xứ, các biện pháp phi thuế quan như SPS (các quy tắc về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và sức khỏe động, thực vật) và TBT (các quy tắc về xây dựng, chấp nhận và áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp), …. CPTPP được kỳ vọng là sẽ góp phần thúc đẩy sự minh bạch và hỗ trợ việc hình thành các thể chế hiện đại ở Việt Nam. Bên cạnh việc tăng xuất khẩu, về lâu dài hiệp định cũng thúc đẩy sự hình thành các chuỗi cung ứng trong nước, làm giảm sự phụ thuộc vào yếu tố đầu vào nhập khẩu từ đó thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Nguồn vốn FDI cũng được dự kiến sẽ có sự chuyển hướng tập trung vào các ngành công nghiệp “thượng nguồn” với chức năng sản xuất hàng hóa trung gian cho các ngành công nghiệp hưởng lợi nhiều từ CPTPP như dệt, may mặc, da, thực phẩm …. Tuy nhiên thách thức cũng xuất hiện cùng với cơ hội, đó là Việt Nam cần có những chính sách khôn ngoan, phù hợp để lựa chọn các luồng vốn FDI với công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó việc cải cách ở các điểm nghẽn trong tiếp nhận dòng vốn FDI cũng cần được khơi thông, ví dụ như: cơ sở hạ tầng, đường xá, cảng biển, dịch vụ hậu cần … hiện vẫn bị đánh giá là còn yếu kém và làm tăng chi phí thương mại cho các nhà đầu tư nước ngoài. 3. Các điểm mới và quan trọng trong các quy định trong CPTPP Giảm thuế hoặc loại bỏ thuế quan là mục tiêu mà các FTA như CPTPP theo đuổi, tuy nhiên đây không phải là mục tiêu duy nhất khi mà các điều khoản của CPTPP cũng đồng thời chứa đựng các nội dung về đầu tư, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững, lao động và môi trường cụ thể như sau. 3.1. Thương mại hàng hóa Các thành viên của CPTPP đều đồng ý giảm khoảng 95% các loại thuế theo thời gian, các điều chỉnh về thuế này đồng thời cũng áp dụng cho các sản phẩm nông nghiệp. Quy tắc xuất xứ sản phẩm cũng được quy định rất chặt chẽ (rules of origin – RoO), theo đó thì đầu vào từ một thành viên của Hiệp định sẽ được đối xử tương tự như các thành phần từ các thành viên khác và do đó đủ điều kiện để hưởng thuế quan ưu đãi. Nhìn chung các điều khoản về hàng rào thuế quan và phi thuế quan đã được xây dựng dựa trên các quy tắc sẵn có của WTO hoặc cao hơn các quy định đó, đặc biệt trong lĩnh vực hải quan và thuận lợi hóa thương mại. Các thỏa thuận cũng giải quyết vấn đề hàng rào phi thuế quan như việc hợp tác trong thiết lập các tiêu chuẩn về thực phẩm. So với các quy định hiện hành của WTO, thì CPTPP đã tiến thêm một bước trong việc thắt chặt các quy tắc chống lại các biện pháp phi thuế quan nhằm mục đích giảm chi phí giao dịch. Các ví dụ 3 Lưu ý đây là mức chuẩn nghèo mà WB sử dụng cho các nước có mức thu nhập trung bình cao, còn với các nước có mức thu nhập trung bình thấp, chuẩn nghèo tương ứng sẽ là 3,2 US$/ngày PPP. 4
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng bao gồm thuận lợi hóa thương mại, chi tiêu của chính phủ, quy tắc tương đương trong các chỉ tiêu về vệ sinh và kiểm dịch thực vật (sanitary and phytosanitary – SPS) và việc chấp nhận lẫn nhau các kết quả đánh giá phù hợp. Bên cạnh đó, thỏa thuận còn yêu cầu việc tăng cường đơn giản hóa thủ tục hải quan để giải phóng nhanh hàng hóa xuất nhập khẩu, và thúc đẩy mạnh mẽ việc mua sắm của chính phủ. 3.2. Dịch vụ Các quy định về dịch vụ của CPTPP dẫn đến sự tự do hóa sâu rộng hơn các cam kết của WTO, bao gồm cả danh sách các ngành dịch vụ “tiêu cực”. Điều này có nghĩa là dịch vụ sẽ được giao dịch tự do hơn trong bất kỳ lĩnh vực nào không bị liệt kê là có sự duy trì các rào cản và tăng cường các biện pháp bảo vệ cho nhà đầu tư dịch vụ. Đây là cách tiếp cận mới và đang được áp dụng trong các hiệp định thương mại gần đây của EU với Canada và Nhật Bản. Theo CPTPP, các nhà cung cấp dịch vụ từ các quốc gia thành viên được đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước và không bị hạn chế việc cung cấp dịch vụ. 3.3. Đầu tư Nhìn chung, các quy định về đầu tư đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài được bảo vệ và đối xử tương đương như các nhà đầu tư trong nước. Bên cạnh đó, chính phủ sẽ được quyền điều chỉnh các mục tiêu về môi trường, sức khỏe và các quy định khác liên quan đến cộng đồng. Tuy nhiên, việc đặt ra các yêu cầu về hiệu suất như việc phải có yếu tố địa phương hoặc công nghệ địa phương phải bị loại bỏ. Như vậy bên cạnh việc bảo vệ nhà đầu tư thì đồng thời CPTPP cũng cung cấp một không gian pháp lý rộng hơn cho các chính phủ. Phát triển thương mại dịch vụ cũng là một lĩnh vực mà CPTPP hướng tới với các điều khoản được phát triển dựa trên GATS. Cách tiếp cận nhằm hướng tới tự do hóa thương mại dịch vụ bao gồm việc sử dụng danh sách tiêu cực (negative lists) dùng cho các quốc gia và tiêu chuẩn tiếp cận thị trường, loại bỏ các hàng rào thương mại như việc cộng đồng công nhận lẫn nhau về trình độ chuyên môn (dựa trên điều VIII của GATS) và tăng cường bảo vệ nhà đầu tư dịch vụ (Delimatsis, 2017). 4 3.4. Sở hữu trí tuệ Một điểm đáng lưu ý trong phần sử hữu trí tuệ là CPTPP chỉ ra rằng bảo vệ chỉ dẫn địa lý (geographical indications – GIs) có thể thực hiện không chỉ thông qua nhãn hiệu mà còn là hệ thống các chỉ dấu riêng biệt (sui generis systems) hoặc các phương pháp pháp lý khác. Tương tự các hiệp định FTA trước đây, phần sử hữu trí tuệ trong CPTPP cũng được phát triển chủ yếu từ Hiệp định TRIPS (Điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ) và chứa đựng các ngĩa vụ pháp lý trong “WTO-plus”, ví dụ như trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian và internet. 3.5. Phát triển bền vững Nhìn chung CPTPP đã thiết lập các tiêu chuẩn chi tiết hơn hoặc cao hơn các FTA trước đó về phát triển bền vững cũng như nhấn mạnh hơn việc thực thi các quy tắc. Các quy định về lao động, môi trường, hợp tác và thúc đẩy thương mại hỗ trợ phát triển bền vững, sự minh bạch, diễn đàn xã hội dân sự cũng được quy định đầy đủ. Bên cạnh việc tham khảo từ các Tuyên bố của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), CPTPP cũng cung cấp một số điều khoản lao động mới, ví dụ như các quy định về điều kiện làm việc được chấp nhận, bảo hộ lao động tại các khu chế xuất, thương mại hàng hóa được sản xuất bằng lao động cưỡng bức. Ngoài ra, CPTPP yêu cầu luật pháp trong nước đảm bảo điều kiện làm việc tối thiểu trong ba lĩnh vực bao gồm: tiền lương tối thiểu, giờ làm việc và tiêu chuẩn an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Đây là các điểm mới và tiến bộ trong CPTPP khi mà các điều khoản được tuyên bố rõ ràng là quyền lao động. Có thể thấy rõ rằng, các điều luật về môi trường trong CPTPP bao quát nhiều vấn đề, phạm trù hơn những FTA trước đây. Chẳng hạn như việc nhấn mạnh thương mại phải thân thiện với bảo vệ môi trường, 4 Negative lists sẽ bao gồm các lĩnh vực hoặc tiểu ngành mà các quốc gia có thể tạo ra giới hạn hoặc bảo lưu các biện pháp ngăn cản sự tiếp cận thị trường. Do đó, cách tiếp cận danh sách tiêu cực thúc đẩy tính minh bạch cho các lĩnh vực không được tự do hóa hoàn toàn. 5
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế và có sự tham gia của cộng đồng. Khuyến khích thương mại và đầu tư các lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ thân thiện với môi trường. Ngoài các quy định về lâm sản, hải sản và thủy sản, CPTPP cũng bao trùm thêm các vấn đề liên quan đến bảo vệ tầng ozone, bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiểm từ tàu thuyền và hoạt động đánh bắt hải sản, buôn bán động vật hoang dã và gỗ. Đây rỏ ràng là một thách thức lớn cho các nhà quản lý ở Việt Nam, khi mà các biện pháp khai thác đánh bắt thủy, hải sản ở ta đang còn mang tính chất riêng biệt, cục bộ theo địa phương và sự tuân thủ luật pháp lại phụ thuộc phần lớn vào ý thức của ngư dân. 3.6. Kết luận Trong một nghiên cứu gần đây, Wang (2018) đã phân tích các văn bản pháp lý của 2 hiệp định vừa ký kết là CPTPP và CETA. Tác giả đã nhận xét rằng cả 2 Hiệp định này dường như đã có hiện tượng hội tụ trong các điều luật quy định, sự khác biệt giữa chúng là không đáng kể. Các lĩnh vực như đầu tư, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, cả 2 văn bản đều có sự tương đồng rất cao. Điều này cho thấy là cả CPTPP và CETA đang đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập lại các tiêu chuẩn mới thông qua sự thay đổi cấu trúc và thiết lập các quy định cho thương mại đa phương, đầu tư, môi trường và luật lao động, và bảo vệ người tiêu dùng. Cả 2 hiệp định này đều đã đi chệch khỏi các hiệp định thương mại truyền thống thường tập trung vào thuế quan và các biện pháp liên quan, và cả 2 cùng giải quyết các vấn đề phát sinh mới trong thương mại hiện đại như thương mại điện tử, doanh nghiệp quốc doanh và lao động. Cả 2 thỏa thuận này đều áp dụng những quy định nghiêm ngặt và nhấn mạnh việc thực thi theo quy tắc đã ký kết. Bên cạnh đó, 2 hiệp định này còn cố gắng tìm ra sự cân bằng giữa chính sách công và thị trường tự do. Một mặt, quyền điều chỉnh (the right to regulate), quyền chủ quyền của các quốc gia quy định quyền lợi công cộng và không gian chính sách của họ, được công nhận đối với các vấn đề trên phạm vi rộng bao gồm cả thương mại dịch vụ và đầu tư (Cho & Kurtz, 2018). Một mặt khác, các biện pháp khác nhau cũng được thực hiện nhằm thúc đẩy thị trường tự do ví dụ như việc cắt giảm và đơn giản hóa các quy trình và thông tin bắt buộc trong áp dụng CPTPP. 4. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong các FTA thế hệ mới Sau hơn 10 năm là thành viên của WTO, đến nay, Việt Nam đã tham gia và hoàn tất đàm phám 16 Hiệp định FTA song phương và đa phương. Trong số đó, 12 FTA đã có hiệu lực và đang thực thi (bao gồm cả CPTPP vừa bắt đầu có hiệu lực từ tháng 01/2019). Với việc đàm phán, ký kết hàng loạt các FTA này, Việt Nam đang bước vào ngưỡng cửa hội nhập sâu rộng, được các đối tác đánh giá rất cao. Các FTA này hứa hẹn mang lại cơ hội hợp tác về vốn, về những mô hình, phương thức quản lý mới, hiện đại và hiệu quả hơn cho DN Việt Nam. Theo số liệu của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI), có đến 66% trong tổng số 10.000 doanh nghiệp (DN) Việt Nam được hỏi ủng hộ và tin vào những lợi ích mà các FTA thế hệ mới mang lại cho họ. Trong khi đó, tỷ lệ này ở các DN vốn FDI khiêm tốn hơn, chưa tới 30% (Lan, 2016). Các FTA thế hệ mới sẽ gần như ngay lập tức mở cửa thị trường cho các DN nước ngoài tiến vào thị trường Việt Nam, nhưng cũng được coi là “tấm vé” thông hành để các DN Việt Nam tiến sâu hơn vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu (EU). Khảo sát của VCCI cho thấy, DN Việt Nam đã sẵn sàng hơn trước các FTA. Cụ thể: có 83% DN biết về EVFTA; 93,78% DN biết về Cộng đồng Kinh tế ASEAN; 97,35% DN biết về WTO; 77,8% DN biết về Hiệp định FTA Việt Nam - Hàn Quốc. Cơ hội lớn nhất mà các FTA thế hệ mới mang lại là mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản thương mại để hàng hóa của Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Trong đó, các đối tác FTA của Việt Nam đều là các đối tác thương mại quan trọng, thể hiện ở giá trị thương mại lớn và tỷ trọng cao trên tổng số thương mại với thế giới của Việt Nam hằng năm. Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã và đang đàm phán luôn chiếm trên 80% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam. Đây chính là cơ hội tốt để Việt Nam tăng sức cạnh tranh về giá. Nếu so sánh với WTO (các nước chỉ cam kết cắt giảm thuế chứ không phải loại bỏ thuế và chỉ với một số dòng thuế chứ 6
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng không phải là hầu hết các dòng thuế), các FTA đã và đang mang lại những lợi thế hơn hẳn về thuế quan ưu đãi. Tuy FTA có nhiều cơ hội nhưng Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức. Đầu tiên, để có thể tận dụng tối đa các ưu đãi thuế quan, trước hết hàng hóa Việt Nam phải đáp ứng tốt các điều kiện về xuất xứ, rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ từ các thị trường nhập khẩu. Các hàng rào kỹ thuật và hệ thống vệ sinh và kiểm dịch thực vật khắt khe có thể là những rào cản khiến hàng hóa Việt Nam khó vào thị trường các nước đối tác FTA. Ngoài ra, khi mở cửa thị trường Việt Nam cho hàng hóa, dịch vụ đến từ các nước đối tác FTA, sẽ không còn khái niệm “sân nhà”. Điều này cũng đồng nghĩa là thách thức đối với DN Việt Nam chính là áp lực cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ, dịch vụ chất lượng tốt từ các nước đối tác trên chính thị trường nội địa. Theo số liệu của TCTK đưa ra qua kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017, trong tổng số 517.900 DN đăng ký, có đến 98,1% DN đang hoạt động là DN nhỏ và vừa, trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm con số là 385,3 nghìn DN, rõ ràng áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là từ các nước EU vào Việt Nam do giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn sẽ tác động đến lĩnh vực sản xuất trong nước. Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong nước. Để tối ưu hóa những tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế đến nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp dựa trên các nghiên cứu chuyên sâu và đầy đủ về các lĩnh vực liên quan. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] B., W. (World Bank 2018). Economic and Distributional Impacts of Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership: The Case of Vietnam. Retrieved from Washington, DC: World Bank. License: Creative Commons Attribution CC BY 3.0 IGO: [2] Bhagwati, J. N. (1995). Us Trade Policy: The Infatuation with Ftas. [3] Cho, S., and Kurtz, J. (2018). Convergence and Divergence in International Economic Law and Politics. European Journal of International Law, 29(1), 169-203. [4] Delimatsis, P. (2017). The Evolution of the Eu External Trade Policy in Services–Ceta, Ttip, and Tisa after Brexit. Journal of International Economic Law, 20(3), 583-625. [5] Lan, K. (2016). Cơ Hội Và Thách Thức Từ Các Hiệp Định Tự Do Thương Mại Thế Hệ Mới Với Việt Nam. Báo Điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Retrieved from http://www.dangcongsan.vn/preview/newid/406290.html [6] Nguyễn, L. (2019). Tác Động Của Các Hiệp Định Thương Mại Tự Do Thế Hệ Mới Với Kinh Tế Việt Nam. Tạp chí Tài Chính. [7] Wang, H. (2018). The Future of Deep Free Trade Agreements: The Convergence of Tpp (and Cptpp) and Ceta? Journal of World Trade, 53(2), 18-75. [8] Webb, D., Jozepa, I., and Ward, M. (2019). Future Free Trade Agreements: Us, Cptpp, Australia and New Zealand. Retrieved from House of Commons Library, UK: 7
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng FTA THẾ HỆ MỚI – NHỮNG TÁC ĐỘNG NỔI BẬT ThS. Trần Thị Trang, ThS. Hoàng Thị Lan Phương Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì TÓM TẮT Bài viết này tập trung phân tích những nội dung liên quan đến Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như đặc điểm, nội dung hay những tác động hiện hữu của FTA. Phương pháp nghiên cứu là phân tích, tổng hợp tài liệu. Nội dung nghiên cứu của bài viết được cấu trúc như sau: Thứ nhất, trình bày đặc điểm của FTA thế hệ mới. Thứ hai phân tích về phạm vi và nội dung của FTA. Thứ ba chỉ ra và đánh giá những tác động của FTA thế hệ mới. Trên cơ sở đó trong phần kết luận, bài viết chỉ ra một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp, chính phủ của các quốc gia thành viên nhằm tận dụng những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực để tranh thủ ưu đãi thuế quan trong xuất nhập khẩu hàng hóa; tăng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng mới hình thành trong khu vực hay hoàn thiện thể chế cơ chế kinh tế. Từ khóa: FTA; FTA thế hệ mới; quy tắc xuất sứ; tác động của FTA thế hệ mới. 1. Đặt vấn đề Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu năm 2008 tại Mỹ đã lan rộng ra khắp thế giới thông qua hai kênh chính là tài chính và ngoại thương bởi Mỹ là thị trường lớn nhất thế giới - thị trường mà hầu hết các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản hay Liên minh Châu Âu (EU), kể cả Việt Nam đều phải lệ thuộc vào sự tăng trưởng của nó. Do tình hình kinh tế khó khăn, tăng trưởng kinh tế chững lại, đầu tư trực tiếp (FDI) và ngoại thương toàn cầu giảm sút, thất nghiệp, nợ công gia tăng khiến các quốc gia có xu hướng quay lại chế độ bảo hộ nội địa bằng cách sử dụng các công cụ truyền thống như hàng rào thuế quan và phi thuế quan gây cản trở cho hàng hóa của các doanh nghiệp nước ngoài. Việc làm này làm giảm hiệu quả trong việc phân bổ các nguồn lực. Nếu WTO tăng cường vai trò của mình, tự do hóa thương mại sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ trở lại khi các quy định của WTO được xây dựng chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, để đạt được điều đó cần phải thông qua đàm phán đa phương giữa các quốc gia thành viên của WTO. Thực tế, các vòng đàm phám giữa các quốc gia thành viên của WTO không đạt được sự đồng thuận do sự bất đồng về chính sách thương mại trong các lĩnh vực (gần đây nhất là vòng đàm phán Doha – DDA - sự bất đồng về chính sách thương mại trong nông nghiệp giữa Mỹ và Ấn Độ). Để đối phó với sự bế tắc trong các vòng đàm phán của WTO, các quốc gia có xu hướng quay trở lại việc kí kết các Hiệp định thương mại tự do - FTA với xu hướng thúc đẩy thương mại tự do, hợp tác kinh tế và đầu tư. FTA dường như ưu việt hơn WTO do thời gian đàm phán ký kết ngắn, dễ đạt đồng thuận do ít nước tham gia, lĩnh vực FTA bao quát rộng hơn so với WTO. Trên cơ sở phân tích và tổng hợp tài liệu, chúng tôi có những luận bàn xung quanh các vấn đề như: quá trình phát triển của FTA thế hệ mới trong đó nhấn mạnh đến những đặc trưng của FTA thế hệ mới so với FTA truyền thống; nội dung của FTA và những tác động cơ bản của FTA đối với thương mại quốc tế, thị trường hàng hóa, dịch vụ đầu tư... 2. Phương pháp nghiên cứu Để nhìn nhận tổng quan về các nội dung liên quan đến Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, nhóm tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp tài liệu để khái quát đưa ra những đặc điểm, nội dung cũng như tác động của FTA thế hệ mới. Dữ liệu được thu thập từ các tài liệu báo, tạp chí, kỷ yếu hội nghị khoa học chuyên đề và một số luận văn luận án. Bài viết “Tìm hiểu khái niệm Hiệp định thương mại từ do” đăng trên tạp chí Cộng sản online đã tập trung phân tích nguyên nhân, lịch sử ra đời và phát triển mạnh mẽ của các hiệp đinh thương mại tự do FTA; những FTA Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán ký kết. 8
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Bài viết “Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: cơ hội và thách thức đối với Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thúy đăng trên tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam số 5 (114) – 2017 tập trung phân tích những cơ hội và thách thức của các Hiệp định thương mại tự do đối với Việt Nam. Các đánh giá tại diễn đàn khoa học: “Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia hiệp định thương mại thế hệ mới” do Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức năm 2017, đã có những đánh giá về cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt nam khi các Hiệp định thương mại tự do FTA thế hệ mới được ký kết và có hiệu lực. Cụ thể đó là cơ hội xuất khẩu; khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng mới hình thành trong khu vực; có điều kiện cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu hay việc hoàn thiện thể chế cơ chế kinh tế… Tuy nhiên, các ý kiến tại diễn đàn cũng nhận định thách thức đối với Việt Nam xuất phát từ quy mô doanh nghiệp; năng lực sản xuất của doanh nghiệp khi quy tắc ROO trong các FTA thế hệ mới được áp dụng. Các nghiên cứu về FTA thế hệ mới đề cập đến các vấn đề như: sự phát triển các FTA, nguyên nhân sự gia tăng số lượng các FTA đạt được thỏa thuận trong thời gian gần đây; những khác biệt của FTA truyền thống và FTA thế hệ mới. Các nghiên cứu đã cung cấp thông tin khá toàn diện về các nội dung của FTA thế hệ mới. Tiếp thu các kết quả nghiên cứu đi trước, bài viết sẽ hệ thống hóa các vấn đề cụ thể về đặc điểm của FTA thế hệ mới; nội dung hay lĩnh vực của các cam kết trong FTA thế hệ mới, đặc biệt bài viết sẽ làm rõ tác động và những yếu tố ảnh hưởng đến những tác động của FTA thế hệ mới. 3. Nội dung nghiên cứu 3.1. Đặc điểm của FTA thế hệ mới Theo quan niệm truyền thống, hiệp định thương mại tự do (FTA) là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng bằng việc cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên bên cạnh việc tiếp tục duy trì chế độ thuế quan độc lập với hàng nhập khẩu từ các quốc gia bên ngoài FTA. Các nội dung mà FTA đề cập đến thường bao gồm: quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; quy định danh mục hàng hóa đưa vào cắt giảm thuế quan; quy định lộ trình cắt giảm thuế quan và quy định về quy tắc xuất xứ. Sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng có tác động mạnh mẽ đến hoạt động thương mại thế giới. Nếu trước đây các hoạt động giao dịch chủ yếu là các sản phẩm hàng hóa hữu hình, thì ngày nay ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa dịch vụ, phi vật thể. Các phương thức giao dịch cũng ngày càng hiện đại, nhiều dịch vụ thương mại mới ra đời. Bên cạnh đó, các hoạt động xúc tiến đầu tư, hợp tác, chuyển giao công nghệ, hoàn thiện hóa thủ tục hải quan... trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các nhà sản xuất và phân phối cũng được đẩy mạnh. Do sự phát triển này, việc thỏa thuận giữa các quốc gia trong giao thương cũng ngày càng mở rộng nội dung. Nếu FTA truyền thống là sự thỏa thuận về tự do hóa thương mại hàng hóa hữu hình, cắt giảm thuế quan và cùng nhau thỏa thuận loại bỏ các rào cản phi thuế quan thì phạm vi cam kết của FTA hiện đại bao gồm những lĩnh vực rộng hơn như thuận lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm công, chính sách cạnh tranh, các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, lao động, môi trường, thậm chí còn gắn với những vấn đề dân chủ, nhân quyền hay chống khủng bố... Các FTA hiện đại này còn được gọi là FTA thế hệ mới, khi có hiệu lực sẽ tác động mạnh mẽ tới thể chế của các bên liên quan. Hội nhập quốc tế là yêu cầu tất yếu trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Việt Nam trong thời gian qua đã tích cực, nỗ lực tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do, các khu mậu dịch tự do nhằm tạo ưu thế trong sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hóa. Năm 2014, Việt Nam đã hoàn thành về cơ bản và tiến tới kết thúc đàm phán FTA với EU (EVFTA), Hàn Quốc (VKFTA) và Liên minh Hải quan (VCUFTA). Đây là các Hiệp định “FTA thế hệ mới” toàn diện, bao gồm: Thương mại hàng hóa, dịch vụ, điện tử; phòng vệ thương mại; đầu tư; quy tắc xuất xứ; các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch 9
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng động thực vật (SPS); thuận lợi hóa hải quan; hàng rào kỹ thuật thương mại (TBT); sở hữu trí tuệ; cạnh tranh; mua sắm công; phát triển bền vững; thể chế và pháp lý… Sự phát triển của FTA từ truyền thống đến hiện đại phản ánh quá trình phát triển ngày càng mạnh mẽ và đa dạng của quá trình tự do hóa thương mại và liên kết sản xuất trên phạm vi toàn cầu thông qua các hiệp định thương mại giữa các bên tham gia. Để phân biệt FTA thệ hệ mới, thường căn cứ vào các đặc điểm: Thứ nhất, mức độ tự do hóa thương mại. Các thỏa thuận trong FTA thế hệ mới thường xóa bỏ phần lớn hàng rào thuế quan. Nghĩa là khi tham gia FTA thế hệ mới, nền kinh tế của các bên liên quan có độ mở cao, các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ... cơ bản được tự do luân chuyển trong phạm vi không gian các quốc gia thành viên FTA. Thứ hai, phạm vi cam kết. Các FTA thế hệ mới là những hiệp định toàn diện, không chỉ bó hẹp trong thương mại và đầu tư như các FTA truyền thống mà còn bao gồm các nội dung tuy không phải là thương mại trực tiếp nhưng có liên quan đến thương mại như đấu thầu, môi trường, sở hữu trí tuệ, lao động nhằm tạo môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh công bằng giữa các thành viên. Thứ ba, cam kết linh hoạt. Nếu như trong FTA truyền thống lộ trình cắt giảm thuế thường kéo dài không quá 10 năm, thì trong các FTA thế hệ mới lộ trình được đẩy nhanh hơn. Thông thường lộ trình cắt bỏ hàng rào thuế quan được áp dụng trong vòng 5 - 10 năm, (trừ một số mặt hàng nhạy cảm có lộ trình trên 10 năm hoặc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan). Thứ tư, cơ chế giám sát của các FTA thế hệ mới có yêu cầu cao hơn, chặt chẽ hơn trong quá trình thực thi. Các thảo thuận của FTA cho phép bên nhập khẩu tạm ngừng ưu đãi thuế quan nếu phát hiện có gian lận xuất xứ hoặc nước xuất khẩu không hợp tác xác minh xuất xứ một cách có hệ thống. Thứ năm, các FTA thế hệ mới áp dụng cơ chế pháp lý mới trong giải quyết các tranh chấp phát sinh. Các FTA thế hệ mới nêu rất rõ quy chế giải quyết tranh chấp bằng việc nhà nước kiện nhà nước hoặc nhà đầu tư kiện nhà nước mà các FTA thế hệ cũ không có. Thứ sáu, trong các FTA thế hệ mới đều có thành viên với trình độ phát triển kinh tế cao hàng đầu thế giới. Đây chính là động lực dẫn dắt hợp tác, là cơ sở cho các thỏa thuận sâu, rộng, và các cam kết ở mức cao trong nội khối FTA. 3.2. Nội dung của FTA thế hệ mới 3.2.1. Thương mại hàng hóa Các nội dung chính về thương mại hàng hóa thường được các nước thành viên thỏa thuận trong Hiệp định FTA gồm: thuế quan, hạn ngạch thuế quan, thuận lợi hóa thương mại, TBT, SPS, các biện pháp phòng vệ thương mại, ROO. Để đánh giá tác động của FTA đến thương mại hàng hoá, cần phân tích sự thay đổi của các hàng rào thương mại trước và sau khi FTA đó được thực hiện. Xét về xuất khẩu, các FTA thế hệ mới xóa bỏ phần lớn thuế quan cho hàng hóa của các quốc gia thành viên. Trong đó có những đối tác đặc biệt lớn như Hoa Kỳ hay EU. Đây là cơ hội sản phẩm hàng hóa của các nước tăng sức cạnh tranh về giá. Nếu so sánh với WTO – các quốc gia thành viên chỉ cam kết cắt giảm thuế, không phải loại bỏ thuế, và chỉ áp dụng với một số dòng thuế chứ không phải với hầu hết các dòng thuế thì các FTA mang lại những lợi thế hơn hẳn về thuế quan ưu đãi. Tuy nhiên ưu đãi thuế quan chỉ dành cho các sản phẩm xuất khẩu có xuất xứ nội khối phù hợp (quy tắc xuất xứ - ROO). Hàng hóa đáp ứng ROO sẽ được cấp CO ưu đãi, là căn cứ pháp lý quan trọng để được hưởng ưu đãi thuế quan FTA. Mục đích của ROO là giúp cân bằng giữa thuận lợi hóa thương mại và phòng tránh gian lận thương mại. Như vậy, sản phẩm hàng hóa của các quốc gia muốn được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu sang các nước FTA thành viên thì sản phẩm phải đạt mức tiêu chuẩn 40% nguyên vật liệu có xuất xứ tại nước xuất khẩu hoặc xuất xứ từ các quốc gia thành viên FTA. Điều này sẽ kích thích việc phát triển các doanh nghiệp tìm kiếm, sản xuất các nguyên phụ liệu, hàng hóa trong phạm vi FTA cũng như kích thích đầu tư FDI tại các quốc gia, vùng lãnh thổ là thành viên FTA, tạo cơ hội để doanh nghiệp các nước trở 10
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng thành một thành tố, một mắt xích trong dây chuyền cung ứng các sản phẩm, nguyên liệu cũng như giúp họ cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn. 3.2.2. Thương mại dịch vụ; hành chính công và phát triển bền vững. FTA hiện đại còn bao phủ các nội dung khác như thương mại dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, phát triển bền vững, lao động và môi trường. Một trong những lợi ích mà các FTA thế hệ mới mang lại là giúp các nước thành viên như Việt Nam xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hỗ trợ tích cực trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Các FTA này sẽ hoàn thiện thể chế theo hướng cải thiện cơ chế điều hành kinh doanh, tạo ra môi trường kinh doanh mới với những đặc trưng: thuận lợi, thông thoáng hơn, minh bạch hơn và dễ dự đoán hơn trước đây. Việc hoàn thiện môi trường kinh doanh, kết hợp với những cơ hội mới được mở ra trên thị trường xuất khẩu sẽ giúp thúc đẩy đầu tư, cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài, giúp tạo ra năng lực sản xuất mới cho doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng GDP tốt hơn. Những tiêu chuẩn về quản trị công và chính sách phát triển bền vững hay lao động và môi trường của các FTA thế hệ mới sẽ giúp các quốc gia xây dựng cơ chế, chính sách, kiện toàn bộ máy nhà nước theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trên cơ sở tăng cường trách nhiệm, kỷ luật của các bên liên quan. Những cam kết của các FTA thế hệ mới là cơ hội để các quốc gia thành viên xây dựng phát triển toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội theo hướng đảm bảo quyền tự quyết của các quốc gia trên cơ sở tăng tính cam kết và mức độ chịu trách nhiệm. 3.3. Tác động của FTA thế hệ mới 3.3.1. Tác động tĩnh và các nhân tố ảnh hưởng đến tác động tĩnh của FTA Tác động tĩnh hay còn gọi là tác động thương mại. Khi ký các FTA, các thành viên sẽ được hưởng ưu đãi, trong đó có việc cắt giảm hoặc xóa bỏ các hàng rào thuế quan. Với việc này, xuất hiện tình trạng có hàng hóa thông qua nhập khẩu sẽ rẻ hơn so với hàng hóa sản xuất trong nước do có chi phí sản xuất cao hơn. Tác động thương mại được thể hiện ở tác động tạo lập thương mại và tác động chuyển hướng thương mại. Trong đó, tạo lập thương mại là việc thay thế hàng sản xuất trong nước có chi phí cao của một nước thành viên bằng hàng nhập khẩu rẻ hơn từ một nước thành viên khác do kết quả của tự do hoá thương mại trong khối; chuyển hướng thương mại diễn ra khi hàng nhập khẩu từ một nước không phải thành viên trong liên minh thuế quan (nhưng sản xuất hiệu quả hơn) bị thay thế bởi hàng nhập khẩu có giá thành cao hơn từ một nước thành viên do tác động của các ưu đãi trong nội bộ khối. Tác động tĩnh của FTA sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu nội khối và cũng vì vậy thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ cấu thương mại của các nước thành viên FTA. Đối với các FTA thế hệ mới, mức cắt giảm thuế thậm chí là loại bỏ thuế trên nhiều hàng hóa và dịch vụ đã tác động tạo lập thương mại ngày càng mạnh mẽ, cũng có nghĩa cơ hội đặt ra nhiều đi liền với thách thức trong quá trình cơ cấu lại, nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế của các quốc gia thành viên. Cùng với tác động tạo lập thương mại, việc ký các FTA sẽ tác động làm chuyển hướng thương mại. Trong quan hệ giữa các nước khi chưa tham gia FTA, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các quốc gia thường theo hướng: đối với các hàng hóa có chất lượng tương ứng mà chi phí sản xuất thấp sẽ có năng lực cạnh tranh cao và có cơ hội thực hiện các giao dịch xuất khẩu trên phạm vi rộng trong hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên, khi tham gia FTA do được giảm thuế và các ưu đãi khác, các quốc gia sẽ chuyển sang nhập khẩu hàng hóa nội khối, cho dù chí phí sản xuất có cao hơn nhưng vẫn đảm bảo tính cạnh tranh về giá của hàng hóa. Nghĩa là sẽ hàng hóa của các quốc gia không phải là thành viên FTA sẽ gặp khó khăn trong cạnh tranh với hàng hóa của các nước thành viên FTA. Về bản chất đây là sự phân biệt đối xử trong quan hệ 11
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng thương mại quốc tế. Đây là chính hiệu ứng thúc đẩy các quốc gia không là thành viên FTA đàm phán để tham gia FTA hay ký các FTA mới. Như vậy, với tác động thương mại của FTA, khi một FTA được ký kết và có hiệu lực, nó sẽ có những tác động đến lợi ích các quốc gia, sẽ làm thay đổi chính sách của các quốc gia là thành viên cũng như những quốc gia không là thành viên của một FTA nào đó. Tác động tĩnh của các FTA chịu ảnh hưởng từ các yếu tố. Thứ nhất, phạm vi, mức độ và hình thức liên kết của các nước thành viên FTA. Số lượng các quốc gia thành viên trong FTA càng nhiều thì FTA đó càng có khả năng tạo thị trường với quy mô lớn, làm giảm chệch hướng thương mại, tăng tác động tạo lập thương mại. Tuy nhiên, càng có nhiều thành viên, sự khác biệt giữa các quốc gia càng lớn, việc làm cho hài hoà hoá các chính sách sẽ trở nên khó khăn hơn. Do vậy, các quốc gia trong đàm phán FTA cần có những định hướng trong cơ chế, chính sách phát triển. Thứ hai, lợi thế so sánh và cơ cấu thương mại. Lợi thế so sánh của các nước thành viên trong FTA càng lớn thì cơ hội mở rộng thương mại giữa các nước và phúc lợi xã hội sẽ gia tăng tương ứng sau khi FTA được hình thành. Cơ cấu thương mại giữa các nước càng bổ sung lẫn nhau thì FTA có khả năng thúc đẩy gia tăng thương mại giữa các bên càng cao, tăng tạo lập thương mại. Lợi ích của FTA còn chịu ảnh hưởng bởi sự khác nhau trong cơ cấu xuất khẩu của nước đối tác ký kết FTA và các nước đối tác còn lại. Nghĩa là cơ cấu xuất khẩu của hai nhóm nước này càng có sự khác biệt lớn thì khả năng chệch hướng thương mại sẽ giảm đi, từ đó gia tăng lợi ích cho các nước thành viên FTA. 3.3.2. Tác động thúc đẩy và những yếu tố ảnh hưởng đến tác động thúc đẩy của FTA Tác động thúc đẩy được thể hiện ở những tác động đối với các hàng rào phía sau biên giới. Nghĩa là các tác động hướng đến thể chế, cơ chế chính sách hay hệ thống pháp lý. Các tác động thúc đẩy chủ yếu nhất của FTA gồm: Tăng năng suất trên cơ sở khai thác tính kinh tế của quy mô; cạnh tranh, chuyên môn hoá sản xuất và tính hiệu quả; thúc đẩy đầu tư; thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và phát triển bền vững; tạo ra cơ hội hài hoà hoá các chính sách kinh tế vĩ mô; tạo sức ép cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp lý. Cụ thể, tác động thúc đẩy của FTA thể hiện ở 3 dạng: mở rộng thị trường; thúc đẩy cạnh tranh và thu hút đầu tư. Tác động thúc đẩy đến từ việc mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Do được hưởng các ưu đãi và xóa bỏ các rào cản thuế nên xét về nguyên tắc, các thành viên FTA được hưởng lợi từ sự gia tăng quy mô thị trường. Cũng có nghĩa nhu cầu và tính đa dạng thị trường tăng lên, mở ra các cơ hội với nhà sản xuất theo phương thức xây dựng và phát triển các doanh nghiệp, đồng thời xét từ góc độ quản lý nhà nước, các quốc gia cũng phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển các doanh nghiệp. Đi liền với mở rộng thị trường là sự gia tăng cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Cạnh tranh được coi là động lực phát triển và đó cũng là tác động lớn nhất của FTA. Tham gia FTA đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp trong các quốc gia thành viên không còn nhận được sự bảo hộ từ các công cụ chính sách thương mại của nhà nước, không còn khái niệm “sân nhà”. Thách thức đối với họ chính là áp lực cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ, dịch vụ chất lượng tốt từ các nước thành viên FTA trên chính thị trường nội địa. Các tác động mang tính thúc đẩy tạo ra sức ép để các nhà sản xuất trong nước phải vận động vươn lên, nắm lấy cơ hội đổi mới hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, hạ giá thành sản phẩm. Đó là con đường duy nhất để thành công trong hội nhập đối với các doanh nghiệp. Tác thúc đẩy của FTA còn biểu hiện là hình thành sự lưu chuyển của các dòng vốn đầu tư. Do các cam kết bảo đảm lợi ích cao, và cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong FTA thế hệ mới và nhiều dịch vụ hỗ trợ đi kèm cùng các thị trường đầu tư mới xuất hiện, nên dòng vốn đầu tư lưu chuyển mạnh hơn. Điều này mở ra cơ hội với các nền kinh tế thành viên FTA, song cũng làm cho cạnh tranh đầu tư ngày càng quyết liệt. Những tác động thúc đẩy của FTA chịu ảnh hưởng từ các yếu tố: 12
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Thứ nhất, mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa các nước thành viên trong FTA. Một FTA giữa các nước có trình độ chệch lệch nhau dẫn đến khả năng lợi ích tiềm tàng không lớn bằng giữa các nước có trình độ tương tự nhau. Mối quan hệ kinh tế và thương mại giữa của các quốc gia trước khi đàm phán và hình thành FTA càng chặt chẽ thì lợi ích trong tương lai của FTA càng lớn. Thứ hai, chính sách thương mại của các nước trong FTA. Các hàng rào thương mại giữa các nước thành viên vào thời điểm đàm phán FTA càng cao và càng nhiều thì khả năng FTA làm gia tăng thương mại giữa các nước thành viên trong tương lai càng lớn, tuy nhiên có xu hướng dẫn đến chệch hướng thương mại. Một FTA có thể mang lại lợi ích khi nó có thể cắt giảm hoặc hài hoà hoá các rào cản phi thuế quan, đưa ra được các quy định về phạm vi sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cũng như yêu cầu các quốc gia thành viên minh bạch hoá các biện pháp phòng vệ thương mại. Các tác động của FTA đối với các quốc gia thành viên còn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mỗi quốc gia. Tuy nhiên, những tác động đó sẽ làm cho quá trình tự do hóa thương mại được tăng cường, thúc đẩy thương mại hàng hóa và các lĩnh vực liên quan tạo điều kiện cho tiến trình đàm phán tự do hóa thương mại đa phương. 4. Kết luận Những tác động của FTA có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia thành viên. Đó là quá trình cải thiện vị thế của các quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu thông qua các cơ hội đầu tư - kinh doanh mới, tạo điều kiện phát triển ổn định và bền vững. Vì vậy, đối với mỗi quốc gia có thể và cần phải quan tâm đến các vấn đề sau đây: Thứ nhất, cần nỗ lực đẩy mạnh hơn nữa quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế nhằm đáp ứng những cam kết trong các Hiệp định FTA đã kỹ kết hoặc đang đàm phán. Thứ hai, thực hiện giảm bớt khả năng chênh lệch thương mại bằng cách tích cực hội nhập với các nước thành viện FTA trước hết là trong các ngành chủ lực, thế mạnh. Thứ ba, Chính phủ và doanh nghiệp của các nước thành viên FTA cần hiểu rõ sự chênh lệch trong gia tăng xuất nhập khẩu giữa các nhóm ngành và mặt hàng để có cơ chế, chính sách cũng như chiến lược đầu tư và kinh doanh phù hợp. Thứ tư, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc tận dụng tác động lan tỏa của khu vực doanh nghiệp có vốn FDI nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở năng suất, chất lượng và hiệu quả gắn với chuỗi giá trị toàn cầu. Các thỏa thuận thương mại tự do theo chiều sâu của các FTA thế hệ mới sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia thành viên, thể hiện ở quan hệ bình đẳng, thu hút vốn đầu tư, khoa học công nghệ, cải thiện thể chế hành chính, môi trường kinh doanh… Tuy nhiên, các FTA cùng một lúc cũng đưa lại những khó khăn, thách thức đòi hỏi các doanh nhân, tổ chức, các nhà quản lý và giới hoạch định chính sách phải nỗ lực vươn lên nhằm thực thi và đảm bảo các cam kết theo hướng có lợi nhất cho sự phát triển quốc gia mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Báo cáo số 79/BC-CP của Chính phủ về kết quả đàm phán và ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), ngày 18/3/2016, tr. 10. [2] Bùi Trường Giang (2010), Hướng tới chiến lược FTA của Việt Nam - cơ sở lý luận và thực tiễn Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [3] Nguyên Hải (2016), “Thách thức thực hiện các FTA”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 16. [4] Kim Ngọc (2015), “Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực: Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9. [5] Nguyên Vũ (2016), “Ai tận dụng tốt cơ hội từ các FTA?”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 16. [6] Lê Thị Thúy (2017), “Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: cơ hội và thách thức đối với Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam số 5 (114). [7] http://thanglong.chinhphu.vn/truyen-thong-va-du-bao-ve-fta-the-he-moi-de-giup-dn-phat-trien 13
- Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng [8] http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2017/46874/Vai-tro-cua-cac-hiep-dinh- thuong-mai-tu-do-the-he.aspx [9] http://www.vccinews.vn/news/13888/cac-fta-the-he-moi-co-hoi-va-thach-thuc-cua-nen-kinh-te.html. 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế (Tập 1): Phần 1
401 p | 58 | 15
-
Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế (Tập 1): Phần 2
471 p | 16 | 11
-
Phát triển kinh tế-xã hội vùng Đông Nam Bộ lần 1 năm 2023 - Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phần 2
254 p | 14 | 9
-
Kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021 - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia: Phần 2
352 p | 13 | 6
-
Kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021 - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia: Phần 1
342 p | 11 | 6
-
Xu hướng chính sách thương mại quốc tế trong bối cảnh “khủng hoảng đa chiều”: Cơ hội và thách thức đặt ra đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
13 p | 18 | 6
-
Tác động của thể chế chính thức và phi chính thức đến kết quả đổi mới cấp quốc gia: Hàm ý chính sách cho Việt Nam
20 p | 16 | 5
-
Kỷ yếu hội thảo quốc tế dành cho các nhà khoa học trẻ khối trường kinh tế và kinh doanh năm 2021 (Volume 2)
910 p | 14 | 5
-
Kỷ yếu hội thảo quốc tế dành cho các nhà khoa học trẻ khối trường kinh tế và kinh doanh năm 2021 (Volume 4)
646 p | 13 | 4
-
Kỷ yếu hội thảo quốc tế dành cho các nhà khoa học trẻ khối trường kinh tế và kinh doanh năm 2021 (Volume 3)
652 p | 10 | 4
-
Kỷ yếu hội thảo quốc tế dành cho các nhà khoa học trẻ khối trường kinh tế và kinh doanh năm 2021 (Volume 1)
768 p | 12 | 4
-
Tác động của di dân quốc tế đến thu nhập hộ gia đình ở Việt Nam
12 p | 23 | 4
-
Khôi phục tổng cầu để thúc đẩy tăng trưởng trong năm 2024: Nhìn từ góc độ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
10 p | 9 | 4
-
Hội thảo Khoa học cấp quốc gia: Mô hình cân bằng tổng thể và các phương pháp phân tích tác động của các hiệp định thương mại tự do đến cơ cấu kinh tế quốc gia
114 p | 29 | 3
-
Hội thảo Khoa học cấp quốc gia: Xác định và phát triển các ngành kinh tế có lợi thế trong bối cảnh tự do hóa thương mại
274 p | 48 | 2
-
Tác động của logistics xanh đến xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang các quốc gia tham gia RCEP
18 p | 11 | 2
-
Các yếu tố ảnh hưởng tới việc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế trong các doanh nghiệp
14 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn