Đề bài: Kể lại truyện “Đất” của Anh Đức<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Hôm hai mươi tám Tết, chú Bảy cán bộ Mặt trận trở lại Xẻo Đước, mang theo một số <br />
tiền tương đương với chiếc xuồng do cơ quan xuất cho để hoàn lại ông Tám. Chú nhớ lại <br />
cách đây mấy năm, hồi Xẻo Đước còn là “ấp chiến lược” của địch. Trong bóng tối, ông <br />
Tám ôm chầm lấy chú giữa lúc tụi tự vệ hương thôn mới đi tuần qua. Tiếng chó sủa ran... <br />
Sau khi nghe trình bày chuyện mượn xuồng, ông Tám nói ngay: “Được, được, cứ việc lấy <br />
đi!”.<br />
<br />
Giữa đêm trừ tịch năm đó, chú Bảy và Định vượt khỏi Xẻo Đước trên chiếc thuyền <br />
xuồng của ông Tám. Dọc đường, trong lúc tìm quai chèo, họ phát hiện ra sau lái xuồng <br />
còn có bốn đòn bánh tét lớn còn ấm và hai gói trà “Thiết La Hán”.<br />
<br />
Gia đình ông Tám là một gia định quyết không rời bỏ Đảng và Cách mạng, ông Tám ngót <br />
bảy mươi, là người duy nhất ở Xẻo Đước còn để đầu tóc. Ông là người đầu tiên tới Xẻo <br />
Đước khấn đất, ông có cái mũi tinh nhạy, cả con người ông toát ra mùi vị của rừng nê địa. <br />
Ông Tám là một cuốn trong bộ sử biên niên của xứ U Minh Hạ này.<br />
<br />
Xẻo Đước hôm nay huyên náo hẳn lên. Tiếng cười nói của mấy thím mấy chị cười cười <br />
nói nói ở dưới bến, tiếng múa hát của các em túm tụm trên bờ. Lò bún ồn ào. Khói ấm <br />
bốc lên ở các mái nhà. Dây thép gai vây kín lấy xóm làng. Một tấm biển với dòng chữ <br />
“Quyết tử giữ làng” cắm ở ven sông.<br />
<br />
Bước vào nhà, người mà chú Bảy gặp đầu tiên không phải là ông Tám mà là anh Hai Cần, <br />
con của ông và một số anh em du kích. Họ đang ngồi quây quần trên bộ ván giữa, ăn <br />
uống, súng ống để bên cạnh. Anh Hai Cần kêu lên một tiếng, rồi nhảy từ trên bộ ván <br />
xuống và la: “Trời ơi, chú Bảy...Trời đất, chú đâu đi đâu mà đi biệt Xẻo Đước mấy năm <br />
nay vậy chú Bảy?”. Nghe hỏi về ông Tám, anh Hai Cần đứng sững rồi buông thõng: “Ba <br />
tôi chết rồi!” Chú Bảy nghe vậy rồi chưng hửng đứng lặng.<br />
Đều là người quen cũ, họ kéo chú Bảy ngồi xuống nhậu chơi vài li. Chú Bảy nhìn những <br />
tăm rượu trào lên trong li, thẫn thờ nghĩ tới ông Tám... Bữa tiệc rượu nhỏ đêm cuối năm <br />
kéo dài không lâu. Chị Hai Cần đi họp phụ nữ. Anh em du kích lần lượt xách súng đi bám <br />
lộ, đi gác. Còn lại hai người, chú Bảy hỏi về cái chết của bác Tám; anh Hai Cần lặng <br />
thinh, lát sau mới chậm rãi cho biết.<br />
<br />
Ba tôi mất hồi năm ngoái, chú Bảy à. Dạo ấy, bọn giặc kéo tới đóng đồn, chúng ráo riết <br />
dồn bà con vô ấp chiến lược. Năm lần bảy lượt bị giặc o ép, ông đều kiếm cách lướt qua <br />
hết! Ông dặn vợ con: “Nhà mình ở đầu xóm mà núng thế thì không làm gương được cho <br />
lối xóm!”. Nhà ông Tám không động đậy, cả xóm cũng không nhúc nhích.<br />
<br />
Bọn lính bót gặp ông Tám đều ngán. Một lần, bọn lính kéo tới đòi dỡ nhà, ông Tám đem <br />
cây mác mài bén ngót ra phóng cắm giữa nhà và nói cho chúng biết hễ chú nào leo lên rút <br />
một cọng lá tôi chém cho coi. Bọn lính bó tay kéo về.<br />
<br />
Thằng quận trưởng Sông Đốc tức lắm, cách chức tên đồn trưởng Xẻo Đước, cử thằng <br />
Đởm, chánh cống ác ôn về thay. Thằng Đởm tuyên bố: “Tôi không lừa được dân Xẻo <br />
Đước thì tôi chết sao?” Mới tới ngày hôm trước, hôm sau nó đã kéo lính tới, ập xộc vô <br />
nhà ông Tám. Ông Tám vẫn điềm tĩnh ngồi trên bộ ván giữa nhà. Anh Hai Cần luôn đứng <br />
sát bên cạnh ba mình. Vô tới sán, thằng Đớm đã nổ súng, ké miệng thổi phù phù vô cây <br />
nòng 12, rồi thét: “Ai là chủ nhà đây?”. Ông Tám bảo thằng Đởm đĩnh đại cho một chút. <br />
Hắn giục ông Tám cụ bị đồ đạc đi, rồi ngồi lên ván, tréo ngoe chân, đốt thuốc thơm hút. <br />
Hắn đắc chí ngó mấy lên lính.<br />
<br />
Ông Tám mở tủ thờ lấy cái áo dài bằng xuyến đen ra mặc; chiếc áo ông chỉ mặc khi có <br />
giỗ kị. Ông mặc áo, thong thả vuốt từng nếp nhăn trên áo. Ông xổ đầu tóc, rút mấy nén <br />
nhang. Ông sai anh Hai Cần đốt đèn lên. Ông thắp nhang rồi quỳ xuống trước bàn thờ, <br />
lầm rầm khấn: “Thưa ông bà, cha mẹ, thưa các hương hồn liệt sĩ, nhà cửa đất đai đây là <br />
của ông bà, cha mẹ và cách mạng đã tạo lập cho con. Bữa nay, người ta tới ép buộc con <br />
phải bỏ đi. Con không thể phụ bạc công ơn cha mẹ, công ơn cách mạng. Vậy con xin <br />
chết cho cha mẹ ngó thấy. Khấu đầu xin cha mẹ và các vị chứng miêng cho...”. Thẳng <br />
Đởm la lên: “Ông già câm miệng!”. Ông Tám cũng vừa khấn xong. Ông bước tới góc nhà <br />
chụp cây mác, rồi quay phắt tới trước mặt tháng Đởm, hỏi mấy người muốn gì? Thằng <br />
Đởm xanh mạt. Nó chĩa thẳng khẩu súng côn 12 vào ngực ông Tám. Ông Tám cũng chĩa <br />
mũi mác nhọn hoắt về phía thằng ắc ồn. Anh Hai Cần vớ ngay cây búa bửa củi giấu sau <br />
cánh cửa. Bọn lính lên đạn rốp rốp. Ông Tám nhích mũi mác tới. Thằng đồn trưởng lui <br />
lại, rồi tay nó run lẩy bẩy. Nó gặc mạnh nòng súng, một phát súng đã nổ đùng. Một dòng <br />
máu chảy ra trên mặt ông Tám, nhưng ông vẫn chĩa mũi mác xông tới. Thằng giặc lùi, rồi <br />
buông rơi khẩu súng, hoảng hốt rú lên, quay người bỏ chạy. Tức thì lưỡi búa trong tay <br />
anh Hai Cần bay theo, cắm phập vô gáy thằng ác ôn. Nó kêu "trời ơi” rồi té sấp, hai tay vã <br />
xuống nền nhà...<br />
<br />
Anh Hai Cần cúi xuống đỡ người cha thân yêu đã tắt thở. Anh cùng không chém bọn lính. <br />
Chợt một người lính cầm ngọn mác của ông Tám đưa cho anh và bảo: “Chạy trốn đi, để <br />
đây tụi tôi tính ”. Anh Hai Cần liền cầm cây mác lao ra vườn. Mấy tên lính la lên: “Tụi <br />
bây ơi, thằng già nó chém chết ông trung úy rồi!”.<br />
<br />
Một tháng sau, anh Hai Cần mới bị giặc bắt, nhưng bọn chúng không nghĩ anh đã chém <br />
chết tên đồn trưởng, trừ mấy người lính kia.<br />
<br />
Sau cái chết của ông Tám, dân Xẻo Đước vẫn không ai chịu dời đi, bọn giặc đưa dây thép <br />
gai tới rào làng biến thành ấp chiến lược. Bà con liên tục bứt nài tháo ống cả chục lần. <br />
Sau đó, anh em bộ đội kéo về, ém quân ngay trong ấp. Ta nổ súng. Bọn giặc đứa thì bị <br />
bắn gục, đứa thì đầu hàng. Bốt giặc bị phá tanh banh. Ấp chiếc lược về mình thì mình xài; <br />
không thèm phá...<br />
<br />
Gần lúc năm cũ đã đi qua. Và một năm mới đến. Anh Hai Cần rót rượu tràn ra li. Anh <br />
uống cạn, chằm chằm nhìn ra bóng tối. Bóng anh in trên vách bất động. Chú Bảy bồi hồi <br />
thắp nén nhang lên bàn thờ ông Tám, rồi chắp tay vái. Trong mùi nhang toả lên, chú tưởng <br />
như còn nghe tiếng khấn nguyền của ông Tám và tiếng rú “trời ơi" của thằng đồn trưởng <br />
ác ôn.<br />