intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kế toán môi trường, kinh nghiệm thế giới và việc vận dụng vào Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

48
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Kế toán môi trường, kinh nghiệm thế giới và việc vận dụng vào Việt Nam hiện nay giới thiệu một số vấn đề về kế toán môi trường, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm trong triển khai thực hiện có hiệu quả kế toán môi trường ở Việt Nam trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kế toán môi trường, kinh nghiệm thế giới và việc vận dụng vào Việt Nam hiện nay

  1. KẾ TOÁN MÔI TRƯỜNG, KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM HIỆN NAY Phạm Huy Hùng, Ngô Thị Kiều Trang Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội Tóm tắt Bài viết nhằm giới thiệu một số vấn đề về kế toán môi trường, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm trong triển khai thực hiện có hiệu quả kế toán môi trường ở Việt Nam trong thời gian tới. Đồng thời, bài viết cũng góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu nghiên cứu về kế toán môi trường cũng như khía cạnh thực hiện kế toán môi trường ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Kế toán môi trường; Kế toán quản trị môi trường; Môi trường. Abstract Environmental accounting, world experience and application in Vietnam today The article aims to introduce some environmental accounting issues, international experience and practical application in Vietnam, thereby drawing some lessons learned in effective implementation of environmental accounting in Vietnam in the near future. At the same time, the article also contributes to enriching research materials on environmental accounting as well as aspects of implementing environmental accounting in Vietnam today. Keywords: Environmental accounting; Environmental management accounting; Environment. 1. Giới thiệu Phát triển kinh tế bền vững thông qua việc thúc đẩy các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ít phát thải các bon, đầu tư vào vốn tự nhiên đang là xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế của các nước trên thế giới hiện nay, nhất là các nước đang phát triển. Trong chiến lược và kế hoạch phát triển quốc gia, Việt Nam luôn xác định không đánh đổi môi trường cũng như sức khỏe của người dân để lấy tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, mà luôn hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nếu ưu tiên đặt mục tiêu phát triển kinh tế cao thì khả năng phải sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, khả năng xảy ra sự ô nhiễm từ các chất thải công nghiệp là rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững. Do đó, sự quan tâm và giám sát của các bên liên quan như chính phủ, cơ quan quản lý môi trường, truyền thông và cộng đồng đối với việc bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp sẽ ngày càng gia tăng. Từ đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp cần phải có các phương pháp của kế toán cho phép doanh nghiệp nhận dạng chi phí môi trường, nhận diện các khoản thu nhập và cung cấp các cách thức hợp lý nhất để đo lường các chỉ tiêu và hỗ trợ cho các báo cáo kết quả về môi trường. Vì thế, kế toán môi trường là công cụ hữu hiệu giúp các nhà quản lý nắm bắt được thông tin về môi trường nhằm phục vụ cho các quyết định quản trị nội bộ doanh nghiệp. Đồng thời, thông tin kế toán môi trường có ảnh hưởng đáng kể tới quyết định của người sử dụng thông tin kế toán bên ngoài doanh nghiệp, như: Khách hàng, nhà đầu tư, chính quyền, dân chúng địa phương,... Bên cạnh đó, kế toán môi trường khắc phục nhược điểm của kế toán truyền thống khi bổ sung thông tin vật lý môi trường vào khía cạnh tiền tệ của kế toán truyền thống, phù hợp với yêu cầu xã hội, hỗ trợ cải thiện trách nhiệm doanh nghiệp và tạo ra phản hồi tích cực hơn cho các bên liên quan. Kế 446 Hội thảo Quốc gia 2022
  2. toán môi trường giúp cho việc ghi nhận, đo lường, công bố đầy đủ các tác động môi trường của doanh nghiệp [8]. Sự xuất hiện và phát triển của kế toán môi trường giúp nâng cao hiểu biết về môi trường, chi phí môi trường và tác động môi trường [6, 15]. Tại Việt Nam, trên thực tế thì kế toán môi trường đã bước đầu được áp dụng tại các doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường. Tuy nhiên, các văn bản pháp lý, chế độ, chuẩn mực kế toán hiện nay vẫn chưa đề cập đến việc tổ chức kế toán môi trường trong doanh nghiệp. Chế độ kế toán hiện hành không có những quy định hướng dẫn cụ thể trong việc hạch toán, ghi nhận các khoản chi phí phát sinh liên quan đến môi trường cũng như các khoản doanh thu và thu nhập. Hơn nữa, thông tin trên báo cáo tài chính vẫn chưa thể hiện được các khoản doanh thu, chi phí môi trường dẫn đến việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chưa chính xác. Ngoài ra, trong các tài khoản chi phí lại phản ánh chung những chi phí quản lý của doanh nghiệp với chi phí liên quan đến môi trường, khiến doanh nghiệp khó phân loại và nhận biết được quy mô cũng như tính chất của từng khoản chi phí môi trường. Những bất cập, hạn chế kể trên đã làm giảm đáng kể hiệu quả thực hiện kế toán môi trường tại các doanh nghiệp. Qua khảo cứu các tài liệu, tác giả nhận thấy, hầu hết các nghiên cứu về kế toán môi trường trong những năm vừa qua nhấn mạnh đến sự cần thiết phải thực hiện kế toán môi trường. Một số các nghiên cứu khác thì tìm hiểu về các nhân tố và lượng hóa mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến việc thực hiện kế toán môi trường trong doanh nghiệp [5, 14]. Hay các nghiên cứu về kế toán môi trường ở khía cạnh sâu hơn là kế toán trách nhiệm [4]. Như vậy, thực trạng kế toán môi trường ở Việt Nam hiện nay ra sao và giải pháp nào cần được chú trọng để kế toán môi trường thực sự trở thành công cụ quản lý sắc bén, hiệu quả đối với các doanh nghiệp, tổ chức và các cơ quan quản lý môi trường là những vấn đề cần phải được làm rõ trong bài viết này nhằm bổ sung thêm một phần cơ sở lý luận quan trọng liên quan đến kế toán môi trường. 2. Bản chất và nội dung của kế toán môi trường 2.1. Bản chất của kế toán môi trường Theo Ủy ban Bảo vệ môi trường của Mỹ - USEPA (1995) [19], kế toán môi trường là một khái niệm rộng, bao gồm ba lĩnh vực khác nhau: (i) Kế toán môi trường cho thu nhập quốc dân (National income accounting), (ii) Kế toán tài chính môi trường (Financial environmental accounting) và (iii) Kế toán quản trị môi trường (Managenment environmental accounting). Ba lĩnh vực này có phạm vi áp dụng và đối tượng sử dụng thông tin khác nhau, trong đó: Kế toán môi trường cho thu nhập quốc dân, có phạm vi áp dụng là quốc gia hay vùng lãnh thổ và hướng đến việc cung cấp thông tin cho công chúng, thúc đẩy việc sử dụng nguồn tài nguyên bền vững, phát triển kinh tế bền vững. Kế toán tài chính môi trường, có phạm vi áp dụng là doanh nghiệp và cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, hướng tới việc cải thiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Kế toán quản trị môi trường, có phạm vi áp dụng là doanh nghiệp và cung cấp thông tin cho các đối tượng bên trong doanh nghiệp, phục vụ mục đích quản trị nội bộ doanh nghiệp là chính. Như vậy, kế toán môi trường là một lĩnh vực mở rộng của kế toán, được sử dụng ở phạm vi khác nhau, chẳng hạn như phạm vi một quốc gia, một vùng lãnh thổ hoặc một doanh nghiệp [1]. Cho đến nay, có khá nhiều các khái niệm khác nhau về kế toán môi trường. Sự khác nhau này xuất phát từ mục tiêu, hướng nghiên cứu và cách thức tiếp cận khác nhau của các tổ chức và các nhà nghiên cứu, cụ thể như sau: Hội thảo Quốc gia 2022 447
  3. Theo USEPA (1995), kế toán môi trường là một trong những chiến lược để đánh giá khía cạnh môi trường trong phát triển bền vững. Những chiến lược này khác nhau về mức độ, khả năng so sánh giữa các chỉ số về năng lượng, nước, vật liệu và dòng chảy gây ô nhiễm [19]. Theo Gauthier và cộng sự (1997), kế toán môi trường trong doanh nghiệp là một bộ phận của kế toán liên quan đến các vấn đề môi trường và không thể tách rời khỏi kế toán tài chính và kế toán quản trị, đó là hệ thống thông tin cho phép thu thập, phân tích dữ liệu, kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động, ra quyết định và quy trách nhiệm cho các nhà quản lý đối với các chi phí và rủi ro môi trường [3]. Theo Schaltegger & Burritt (2017), kế toán môi trường là một nhánh của kế toán liên quan đến các hoạt động, phương pháp và hệ thống, ghi chép, phân tích và báo cáo về các tác động tài chính và tác động sinh thái của một đơn vị kinh tế [15]. Theo Deegan & Deegan (2003), kế toán môi trường là một thuật ngữ rộng, cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động môi trường cho các bên liên quan cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Kế toán môi trường có thể áp dụng tại doanh nghiệp, cấp quốc gia hoặc vùng lãnh thổ [2]. Theo JMOE (2005), kế toán môi trường với mục tiêu đạt được sự phát triển bền vững, duy trì mối quan hệ tốt đẹp với cộng đồng và theo đuổi các hoạt động bảo vệ môi trường hiệu quả. Các phương pháp kế toán môi trường cho phép một doanh nghiệp xác định được chi phí môi trường, xác định lợi ích thu được từ bảo vệ môi trường, cung cấp phương tiện đo lường tốt nhất bằng tiền tệ hoặc hiện vật và phương thức công bố thông tin. Vì vậy, kế toán môi trường có thể được sử dụng như một hệ thống thông tin môi trường để hỗ trợ cả chức năng bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp. Kế toán môi trường bao gồm các dữ liệu liên quan đến chi phí bảo vệ môi trường, lợi ích bảo vệ môi trường, lợi ích kinh tế gắn với hoạt động bảo vệ môi trường,…[7]. Theo IFAC (2005), kế toán môi trường là một thuật ngữ rộng được sử dụng trong một số bối cảnh kế toán khác nhau: Báo cáo và kế toán tài chính; Kế toán quản trị; Kế toán chi phí đầy đủ; Kế toán tài nguyên, báo cáo và kế toán quốc gia và kế toán bền vững. Ở cấp độ tổ chức, kế toán môi trường phân thành kế toán quản trị (Đánh giá thiết bị kiểm soát ô nhiễm và doanh thu từ vật liệu tái chế; Tiết kiệm tiền hàng năm từ thiết bị tiết kiệm năng lượng mới) và kế toán tài chính (Đánh giá và báo cáo nợ phải trả liên quan đến môi trường) [6]. Mặc dù còn một số khác biệt trong quan điểm nhìn nhận kế toán môi trường giữa các tổ chức, cá nhân nhưng thông qua các khái niệm trên có thể thấy, kế toán môi trường là một bộ phận trong hệ thống kế toán, sử dụng khuôn khổ lý thuyết và phương pháp kế toán mới để ghi nhận, đo lường và công bố thông tin tài chính môi trường và thông tin phi tài chính môi trường nhằm hỗ trợ hữu ích cho việc ra quyết định của các bên liên quan bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Kế toán môi trường là phương tiện để đo lường những tương tác giữa môi trường và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhấn mạnh liên kết giữa hiệu quả môi trường với hiệu quả kinh tế hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. 2.2. Nội dung của kế toán môi trường Theo USEPA (1995) và IFAC (2005) [19, 6] thì kế toán môi trường trong doanh nghiệp bao gồm cả nội dung về kế toán tài chính môi trường và kế toán quản trị môi trường. Kế toán môi trường được xem là một bộ phận không tách rời của kế toán doanh nghiệp, do đó đối tượng của kế toán môi trường về tổng quát cũng gồm toàn bộ tài sản, nguồn vốn, quá trình kinh doanh cùng với các quan hệ kinh tế pháp lý phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp nhưng được xem xét dưới góc độ môi trường nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng bên trong và bên 448 Hội thảo Quốc gia 2022
  4. ngoài doanh nghiệp sử dụng. Do vậy, nội dung của kế toán môi trường có thể bao gồm: Tài sản môi trường, nợ phải trả môi trường, thu nhập môi trường, chi phí môi trường và công bố thông tin kế toán môi trường. Tài sản môi trường: Là các chi phí môi trường được vốn hóa bởi vì chúng đã đáp ứng các tiêu chí ghi nhận như một tài sản [16]. Để chi phí môi trường được vốn hóa thì một chi phí môi trường như là một phần không tách rời của một tài sản liên quan, hoặc một tài sản riêng, nếu thích hợp. Định nghĩa của một tài sản chỉ ra rằng nếu một chi phí phát sinh bởi một doanh nghiệp sẽ mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai, nó sẽ được vốn hóa. Việc vốn hóa cũng được coi là phù hợp khi chi phí môi trường phát sinh vì lý do an toàn, hoặc làm giảm, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường tiềm ẩn, bảo vệ môi trường trong tương lai. Mặc dù có thể không trực tiếp làm tăng lợi ích kinh tế nhưng chi phí này có thể là cần thiết để doanh nghiệp được hoặc tiếp tục thu được lợi ích kinh tế trong tương lai xuất phát từ các tài sản khác. Khi một chi phí môi trường được ghi nhận như một tài sản có liên quan đến một tài sản khác, thì chi phí môi trường đó là bộ phận hợp thành của tài sản và không được ghi nhận riêng biệt. Nợ phải trả môi trường: Theo UNCTAD (1998, 2002) [18, 16], nợ phải trả môi trường là các nghĩa vụ liên quan đến các chi phí môi trường mà doanh nghiệp phải gánh chịu và đáp ứng các tiêu chuẩn để ghi nhận như một khoản nợ. Khi số tiền hoặc thời gian của chi phí phát sinh để thanh toán khoản nợ không chắc chắn, “Nợ phải trả môi trường” ở một số quốc gia được gọi là “Dự phòng về nợ phải trả môi trường”. Thu nhập môi trường: Theo IFAC (2005) [6] thu nhập môi trường được bắt nguồn từ bán phế liệu, chất thải, trợ cấp, doanh số bán hàng vượt quá năng suất của các thiết bị xử lý chất thải, doanh thu phát sinh từ bảo hiểm bồi hoàn cho các khiếu nại liên quan đến môi trường, lợi nhuận cao hơn vì sản phẩm thân thiện với môi trường. Tiết kiệm liên quan đến môi trường như cải thiện hiệu quả làm giảm vật liệu sử dụng. Tiết kiệm cũng là kết quả từ những cải tiến phát sinh trong các lĩnh vực như quy hoạch, dự toán môi trường. Chi phí môi trường: Theo UNCTAD (1998, 2002) [18, 16], chi phí môi trường bao gồm chi phí các bước thực hiện, hoặc bắt buộc phải thực hiện, để quản lý các tác động môi trường của hoạt động doanh nghiệp theo cách có trách nhiệm với môi trường và các chi phí khác theo các mục tiêu, yêu cầu về môi trường của doanh nghiệp. Chi phí môi trường như các chi phí bên trong, bên ngoài và tất cả các chi phí phát sinh được cho là có liên quan đến việc gây hại và bảo vệ môi trường bao gồm: Chi phí phòng ngừa, xử lý, lập kế hoạch, kiểm soát, thay đổi các hoạt động, khắc phục thiệt hại xảy ra tại doanh nghiệp và có ảnh hưởng đến các chính phủ hay người dân [17]. Công bố thông tin kế toán môi trường: Báo cáo môi trường thường được sử dụng để mô tả về các dữ liệu có liên quan về môi trường của một đơn vị, đề cập đến các rủi ro về môi trường, tác động môi trường, chính sách, chiến lược môi trường, mục tiêu môi trường, chi phí môi trường, nợ phải trả môi trường, hiệu quả môi trường và được cung cấp đến những đối tượng sử dụng thông tin. Mục đích của báo cáo môi trường là nhằm hỗ trợ hoặc gia tăng khả năng phát triển các mối quan hệ của đơn vị báo cáo với các đối tượng sử dụng thông tin thông qua các báo cáo như báo cáo thu nhập, báo cáo kế toán, báo cáo tiêu chuẩn (Báo cáo độc lập về hiệu quả hoạt động môi trường của công ty), báo cáo môi trường trọng điểm,… Bên cạnh đó, việc công bố thông tin về chi phí môi trường và nợ phải trả môi trường là rất quan trọng nhằm mục đích làm rõ hoặc giải thích cho các chỉ tiêu đã trình bày trong bản báo cáo tình hình tài chính và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh [16]. Hội thảo Quốc gia 2022 449
  5. 3. Kế toán môi trường tại một số quốc gia trên thế giới 3.1. Kế toán môi trường tại Nhật Bản Nhật Bản tiến hành nghiên cứu kế toán môi trường vào năm 1997 và 1999 là năm đầu tiên áp dụng kế toán môi trường tại đất nước này. Theo Kokubu và cộng sự (2003) [10] thực hiện kế toán môi trường ở Nhật Bản đã được dẫn dắt bởi hai tổ chức chính phủ, đó là: Bộ Môi trường (MOE) và Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI). Hướng dẫn của MOE nhấn mạnh việc áp dụng kế toán môi trường với các bên liên quan bên ngoài và hướng dẫn METI nhấn mạnh các ứng dụng nội bộ của kế toán môi trường. MOE đã ban hành báo cáo về đo lường và công bố chi phí môi trường trong doanh nghiệp vào năm 1999. Năm 2000 và những năm sau đó, MOE đã ban hành các hướng dẫn kế toán môi trường nhằm khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện cung cấp thông tin môi trường ra bên ngoài. Hướng dẫn năm 2000 của MOE đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện kế toán môi trường tại Nhật Bản và làm cho số lượng doanh nghiệp tiết lộ thông tin môi trường trong báo cáo môi trường tăng lên nhanh chóng. Trong khi đó, METI khởi động dự án nghiên cứu kế toán quản trị môi trường vào năm 1999 với 12 công ty hàng đầu Nhật Bản như: Toyota, Fuji, Ricoch, Canon, Fujitsu,…. nhằm phát triển các công cụ kế toán quản trị môi trường phù hợp. Sau 03 năm, dự án này hoàn thành và METI đã xuất bản hướng dẫn kế toán quản trị môi trường vào tháng 6 năm 2002 [10]. Hướng dẫn của METI đã cung cấp một khuôn khổ kế toán quản trị môi trường và các phương pháp kỹ thuật kế toán quản trị môi trường như: Chi phí chu kỳ sống, chi phí dòng vật liệu, đánh giá hiệu quả môi trường,… Để phát triển hơn nữa, METI tiếp tục phát triển các công cụ mới của kế toán quản trị môi trường, tổ chức các hội thảo kế toán quản trị môi trường tại Tokyo và Osaka để phổ biến các khái niệm, thực tiễn về kế toán quản trị môi trường và nhắm vào các công ty lớn trong lĩnh vực sản xuất. Hướng dẫn của MOE có trước hướng dẫn của METI nên kế toán tài chính môi trường tại Nhật Bản được khuếch tán rộng hơn kế toán quản trị môi trường [10]. Trước khi METI công bố kế toán quản trị môi trường, kiến thức kế toán môi trường của các doanh nghiệp Nhật Bản bị giới hạn trong hướng dẫn của MOE và có ít kiến thức về các công cụ kỹ thuật kế toán quản trị môi trường. Nghiên cứu của Kokubu và cộng sự (2003) [10] cho thấy nội dung và hình thức báo cáo môi trường của các doanh nghiệp Nhật Bản bị ảnh hưởng mạnh bởi hướng dẫn kế toán môi trường của MOE và việc sử dụng kế toán môi trường cho mục đích quản lý doanh nghiệp tại Nhật Bản còn hạn chế. Kokubu & Nashioka (2001) [11] cho thấy, có 257/1430 doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Tokyo đã công bố báo cáo môi trường năm 2000 và 184/257 doanh nghiệp (71,6 %) công bố thông tin môi trường. Trong các công cụ kế toán quản trị môi trường, MFCA được Chính phủ Nhật Bản thúc đẩy thông qua dự án xúc tiến kế toán quản trị môi trường của METI nên số lượng doanh nghiệp sử dụng MFCA ngày càng tăng. Công ty Tanabe Seiyaku sử dụng phương pháp này vào quy trình sản xuất dược phẩm tại Nhà máy Onoda vào năm 2001 giúp tiết kiệm 60 triệu yên chi phí bảo vệ môi trường và giảm mạnh lượng khí thải chloroform. Đến năm 2006, Tanabe Seiyaku đã áp dụng MFCA kết hợp với hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) trên quy mô toàn công ty, cho tất cả 422 sản phẩm và 12.310 quy trình và kết quả làm giảm 230 triệu yên. Kokubu & Nashioka (2005) [9] cho thấy, ngày càng nhiều doanh nghiệp Nhật Bản thực hiện kế toán quản trị môi trường. Việc thực hiện kế toán quản trị môi trường có mối quan hệ tích cực bởi nhận thức lợi ích kế toán quản trị môi trường của nhà quản trị và sự tham gia của bộ phận môi trường vào hoạt động ra quyết định. 450 Hội thảo Quốc gia 2022
  6. 3.2. Kế toán môi trường tại Hàn Quốc Vào cuối những năm 90, chính phủ Hàn Quốc đã nỗ lực phổ biến kế toán môi trường vào lĩnh vực công nghiệp nhằm khuyến khích sự phát triển bền vững ở Hàn Quốc. Tháng 1/2000, Bộ Môi trường Hàn Quốc (KMOE) với sự tài trợ của Ngân hàng thế giới (WB) đã bắt đầu nghiên cứu dự án “Hệ thống kế toán môi trường và chỉ tiêu hiệu quả hoạt động môi trường”. Năm 2001, Viện Kế toán Hàn Quốc (KAI) đã ban hành báo cáo giới thiệu về kế toán tài chính môi trường với tựa đề “Chuẩn mực kế toán chi phí và nợ phải trả môi trường”. Báo cáo này bao gồm định nghĩa kế toán môi trường, khung lý thuyết về kế toán tài chính môi trường và dự thảo chuẩn mực kế toán môi trường [12]. Năm 2002, KMOE đã ban hành hướng dẫn đo lường chi phí môi trường và công bố thông tin môi trường cho các bên liên quan bên ngoài thông qua báo cáo môi trường. Hướng dẫn này đề xuất phương pháp chi phí dựa trên hoạt động (ABC) và phân loại chi phí môi trường theo bốn hoạt động, đó là: Chi phí hoạt động xử lý ô nhiễm, chi phí hoạt động phòng ngừa ô nhiễm, chi phí hoạt động của các bên liên quan và chi phí hoạt động khắc phục và tuân thủ môi trường. Trong khi đó, Viện Chiến lược môi trường LG (LGESI) do Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc (KMOCIE) tài trợ đã thực hiện dự án kế toán quản trị môi trường nhằm thúc đẩy nhà quản trị ra quyết định nội bộ [13]. Từ tháng 10/2002, LGESI đã thực hiện dự án kế toán quản trị môi trường trong vòng 3 năm với sự tham gia của các công ty hàng đầu trong các ngành công nghiệp của Hàn Quốc như: Posco (Thép), LG Chemicals, Hanwha Chemicals (Hóa chất), Samsung Electronics và Hynix (Điện tử và Thiết bị bán dẫn), Korea Gas Corp (Gas), Yuhan- Kimberley (Giấy và chăm sóc sức khỏe), SK (Dầu), Hyndai Motors (Ô tô). Mục đích của dự án này là phát triển phương pháp hữu ích để đo lường chính xác chi phí môi trường và truyền bá thực hành kế toán môi trường tốt nhất vào ngành công nghiệp Hàn Quốc. Posco là một trong những nhà sản xuất thép lớn nhất thế giới, đã nhận ra bảo vệ môi trường là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của việc kinh doanh. Posco thực hiện chính sách môi trường vào năm 1995 và áp dụng hệ thống quản lý môi trường nội bộ dựa trên tiêu chuẩn ISO 14001 vào năm 1996. Tham gia vào dự án kế toán quản trị môi trường của LGESI, Posco đã hoàn thiện các tiêu chuẩn kế toán môi trường như chi phí môi trường, tài sản môi trường, lợi ích môi trường hỗ trợ cho việc ra quyết định nội bộ hiệu quả. Thông qua dự án kế toán quản trị môi trường này, các yếu tố chính ảnh hưởng đến giới thiệu và thực hiện kế toán quản trị môi trường đã được nhận diện, bao gồm: (i) Sự quan tâm và hỗ trợ của nhà quản trị doanh nghiệp, (ii) Sự phối hợp giữa các bộ phận trong doanh nghiệp để xác định, đo lường và phân bổ chi phí môi trường, (iii) Liên kết kế toán môi trường vào hệ thống kế toán hiện có vì phân bổ chi phí môi trường là công việc khó khăn đối với trình độ kế toán và tốn thời gian, (iv) Thực hiện chương trình đào tạo kế toán quản trị môi trường [13]. 3.3. Kế toán môi trường ở Vương Quốc Anh Ở Anh, EMA bắt đầu được chú ý từ những năm 90 khi Anh xuất bản nghiên cứu về chi phí liên quan đến môi trường “The costs to industry of adopting environmentally friendly practices” do CIMA tài trợ. Một ứng dụng về EMA nổi bật ở Anh là “Sáng kiến hạch toán môi trường” do Cơ quan môi trường của Anh đề xuất. Sáng kiến này có 3 mục tiêu: Phát triển một hệ thống hạch toán môi trường bên trong quá trình quản lý tài chính của công ty; Giảm tiêu thụ tài nguyên; Thực hiện báo cáo các khoản tiết kiệm chi phí. EMA tại Anh được chú trọng nhiều vào nội dung PEMA, sử dụng nhiều các số liệu vật chất, dẫn đến sự tập trung của các công trình vào kế toán dòng chảy năng lượng và nguyên liệu, bảng đầu vào, đầu ra số liệu hàng năm về ô nhiễm nước và không khí, chất thải rắn và ô nhiễm đất do phát triển các ngành công nghiệp. Vì vậy, các phương pháp được sử dụng phổ biến là kế toán dòng nguyên vật liệu, phân tích vòng đời của sản phẩm, kế toán chi phí dựa trên hoạt động, phân tích đầu vào - đầu ra. Hội thảo Quốc gia 2022 451
  7. 4. Thực trạng kế toán môi trường ở Việt Nam hiện nay Một vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội cả nước hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra. Vấn đề này ngày càng trầm trọng, đe dọa trực tiếp sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Những năm gần đây, Việt Nam đã chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Luật Môi trường lần đầu vào năm 1993 và được sửa đổi, bổ sung vào năm 2020 quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng đã ban hành một số thông tư liên quan đến thuế môi trường, như: Thông tư số 152/2011/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 67/2011/NĐ-CP của Chính phủ; Thông tư số 159/2012/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 152/2011/TT-BTC và Thông tư 212/2015/TT-BTC hướng dẫn chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động bảo vệ môi trường,… Trong khi đó, ngày 24/8/2016, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ký ban hành Thông tư số 19/2016/TT-BTNMT về báo cáo công tác bảo vệ môi trường. Những quy định pháp luật này cho thấy, Chính phủ và các cơ quan hữu quan đã quan tâm chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường bằng việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về lĩnh vực môi trường nhằm tạo hành lang pháp lý, đồng thời cũng là để khích lệ doanh nghiệp quan tâm hơn đến vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và kế toán môi trường nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay những văn bản pháp quy về kế toán môi trường chưa được quy định cụ thể, rõ ràng dẫn đến nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện công tác kế toán môi trường, khái niệm kế toán môi trường vẫn còn khá xa lạ với hầu hết các nhà quản lý. Bộ Tài chính hiện tại chưa ban hành được hệ thống văn bản quy định hướng dẫn về kế toán môi trường cho doanh nghiệp. Chế độ hiện hành chưa có các văn bản hướng dẫn doanh nghiệp trong việc bóc tách và theo dõi chi phí môi trường trong chi phí sản xuất kinh doanh, chưa có đầy đủ các tài khoản cần thiết để hạch toán các khoản chi phí môi trường cũng như doanh thu hay thu nhập môi trường; đồng thời, khoản chi phí và thu nhập này cũng chưa thể hiện trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và chưa giải trình cụ thể trên thuyết minh báo cáo tài chính nên việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là chưa đầy đủ, chưa xác định cụ thể trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường. Trên thực tế, chỉ một số ít các doanh nghiệp là công ty liên doanh và công ty có 100 % vốn đầu tư nước ngoài (Ford Việt Nam, Panasonic AVC Việt Nam, Unilever Việt Nam, Pepsico Việt Nam,…) mới tổ chức kế toán môi trường. Vì theo quy định của các quốc gia này phải tổ chức kế toán môi trường, phải báo cáo những thông tin về môi trường cho các đối tượng sử dụng. Từ thực trạng trên, có thể chỉ ra một số nguyên nhân chính khiến kế toán môi trường vẫn chưa được chú trọng ở Việt Nam: Một là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa hoàn thiện. Việt Nam hiện chưa quy định trong những chuẩn mực kế toán hiện hành về tài sản môi trường, nợ phải trả môi trường, chi phí môi trường vô hình, chi phí môi trường bên ngoài, thu nhập môi trường,... Chưa quy định trong chế độ kế toán hiện hành về chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, báo cáo tài chính để phản ánh những thông tin về môi trường. Chưa có những quy định hướng dẫn cụ thể vế cách hạch toán những thông tin về môi trường phát sinh trong doanh nghiệp,... Hai là, các chính sách xử phạt hành chính đối với những doanh nghiệp, những tổ chức gây ảnh hưởng nguy hại đến môi trường chưa thực sự thích đáng, chưa tính toán tác động xấu của 452 Hội thảo Quốc gia 2022
  8. doanh nghiệp đến môi trường trong dài hạn, dẫn đến mức xử phạt chưa hợp lý gây tình trạng tái phát lại hành vi gây hại đến môi trường của doanh nghiệp. Nhà nước chưa có những biện pháp hỗ trợ những doanh nghiệp thực hiện tốt vấn đề bảo vệ môi trường và thực hiện kế toán môi trường trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Ba là, nội dung của kế toán môi trường không được phổ biến, các nhà quản trị, những người làm công tác kế toán trong doanh nghiệp, phần lớn đều chưa hiểu sâu về kế toán môi trường. Khái niệm về kế toán môi trường còn xa lạ với những người làm công tác kế toán và các nhà quản trị doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư chỉ chú trọng đến kế toán tài chính, kế toán quản trị của công ty mà chưa quan tâm đến kế toán môi trường. Bốn là, nhận thức của các nhà quản trị doanh nghiệp về kế toán môi trường còn hạn chế, chưa nhận thức được vai trò quan trọng của kế toán môi trường, dẫn đến chưa có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến vấn đề kế toán môi trường. 5. Một số bài học kinh nghiệm về kế toán môi trường cho Việt Nam Trên cơ sở khảo cứu kinh nghiệm kế toán môi trường tại một số quốc gia đã đề cập ở trên cùng với thực tiễn thực hiện kế toán môi trường ở Việt Nam hiện nay, nhóm tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm kế toán môi trường cho Việt Nam, như sau: Thứ nhất, thực hiện kế toán môi trường cần được xây dựng trên hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và nỗ lực thúc đẩy của các tổ chức chính phủ. Kinh nghiệm ở các quốc gia trên cho thấy Chính phủ có vai trò quan trọng trong định hướng phát triển kế toán môi trường thông qua ban hành các hướng dẫn đầy đủ, chi tiết về các khái niệm, chức năng, vai trò, lợi ích của kế toán môi trường cũng như các phương pháp kế toán để ghi nhận, đo lường và công bố thông tin môi trường. Do vậy, Chính phủ và các cơ quan chức năng cần thực hiện các giải pháp sau: (i) Hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật về kế toán và môi trường. Cần phối hợp với hiệp hội nghề nghiệp để ban hành những chuẩn mực về kế toán môi trường, quy định những thông tin môi trường trình bày trong báo cáo cung cấp cho bên ngoài doanh nghiệp, nhằm đảm bảo sự thống nhất quản lý về môi trường. Các chuẩn mực này cần nghiên cứu kinh nghiệm của các nước phát triển ứng dụng hiệu quả kế toán môi trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh Quốc,... nhằm tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế. (ii) Bổ sung văn bản pháp lý hướng dẫn về lĩnh vực kế toán môi trường. Bộ Tài chính cần ban hành các văn bản pháp lý hướng dẫn về lĩnh vực kế toán môi trường trong doanh nghiệp. Cụ thể, cần bổ sung tài khoản kế toán, các nguyên tắc và phương pháp kế toán đối với hoạt động môi trường, các chỉ tiêu liên quan đến hoạt động môi trường trong hệ thống báo cáo tài chính. (iii) Chính phủ và các cơ quan hữu quan cần ban hành các biện pháp xử lý đối với những doanh nghiệp gây nguy hại cho môi trường cần phải nghiêm ngặt hơn nữa. Khi xử phạt các doanh nghiệp vi phạm luật bảo vệ môi trường cần phải tính đến những tác động xấu lâu dài của doanh nghiệp đến môi trường để tránh xử phạt nhẹ gây nên sự lặp lại hành vi gây hại môi trường của doanh nghiệp. Từ đó làm cơ sở cho doanh nghiệp chú trọng hơn đến kế toán môi trường. (iv) Cần có các chính sách khuyến khích, tuyên truyền để các doanh nghiệp nhận thức được các lợi ích mà việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường mang lại cho quốc gia và doanh nghiệp. Đồng thời, cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất nhưng sản phẩm có lợi cho môi trường. Những doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ môi trường thì Nhà nước nên có chính sách trợ giá, miễn giảm thuế để tạo cơ sở bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Thứ hai, cần phân loại đối tượng doanh nghiệp, ngành công nghiệp và có phương thức phù hợp khi triển khai, thực hiện kế toán môi trường. Trong giai đoạn đầu, kế toán môi trường cần Hội thảo Quốc gia 2022 453
  9. được khuyến khích áp dụng cho các doanh nghiệp có quy mô lớn, cho các ngành công nghiệp nhạy cảm với môi trường. Đồng thời, để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong dữ liệu kế toán môi trường thì tổ chức chính phủ cần ban hành các quy định bắt buộc thực hiện bên cạnh các hoạt động khuyến khích. Thứ ba, cần nâng cao nhận thức của các nhà quản lý trong doanh nghiệp về vấn đề môi trường, từ đó mới thúc đẩy việc thực hiện kế toán môi trường. Để làm được điều này, doanh nghiệp nói chung và các nhà quản lý nói riêng cần tích cực tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị,… khi đó sẽ giúp các nhà quản lý nhận thức sâu sắc lợi ích kế toán môi trường như: Giảm khối lượng chất thải, tiết kiệm chi phí đáng kể, cải thiện hình ảnh và vị thế doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả môi trường. Từ đó, nhà quản lý sẽ chủ động thực hiện kế toán môi trường tại doanh nghiệp mình. Tuỳ vào nhu cầu thông tin, trình độ quản lý và cơ sở vật chất mà doanh nghiệp thực hiện kế toán môi trường theo từng sản phẩm, quy trình hay toàn bộ doanh nghiệp. Thứ tư, nhân viên kế toán có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện kế toán môi trường trong doanh nghiệp. Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thực hiện kế toán môi trường là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của kế toán môi trường. Do vậy, doanh nghiệp cần thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho người làm công tác kế toán, bao gồm: đào tạo chuyên môn kế toán và kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin trong kế toán. Quá trình thu thập, xử lý, phân tích thông tin môi trường cho các quyết định của nhà quản trị các cấp khá phức tạp, đòi hỏi người làm kế toán có nhiều kỹ thuật khó, phải thực sự am hiểu toàn diện về quy trình công nghệ sản xuất, các tác động môi trường và chuyên môn kế toán nên quá trình đào tạo chuyên sâu càng trở nên cần thiết hơn. Đồng thời, chú trọng đầu tư nguồn lực tài chính cho bộ máy kế toán, trong đó có kế toán môi trường, vì lợi ích dài hạn các nhà quản lý cần coi đó là khoản đầu tư chứ không hoàn toàn là khoản chi phí. Thứ năm, cần tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa, cập nhật nhằm nâng cao chất lượng của các giáo trình giảng dạy về kế toán môi trường. Các trường đại học, học viện có chuyên ngành kế toán cần đưa kế toán môi trường vào giảng dạy như một học phần chuyên sâu, tổ chức thành các chuyên đề để sinh viên trao đổi, thảo luận và rút ra kinh nghiệm. Qua đó, tạo nguồn nhân lực có trình độ cao về công tác kế toán phục vụ cho các doanh nghiệp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường, mang đến sự phát triển bền vững cho các doanh nghiệp. Tóm lại, kế toán môi trường là một công cụ cần thiết giúp doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi trường một cách tiết kiệm, hiệu quả và nâng cao hình ảnh thương hiệu của doanh nghiệp. Việc vận dụng và phát triển kế toán môi trường ở Việt Nam sẽ góp phần quản lý chi phí, gia tăng lợi nhuận hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ở cấp doanh nghiệp và quốc gia. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bennett, M., & James, P. (2017). The green bottom line. The green bottom line, 30 - 60. Routledge. [2]. Deegan, C. M., & Deegan, C. M. (2003). Environmental management accounting: An introduction and case studies for Australia. Institute of Chartered Accountants in Australia. [3]. Gauthier, Y., Leblanc, M., Farley, L., & Martel, L. (1997). Introductory guide to environmental accounting. KPMG, Montreal. [4]. Hung, P. H. (2022). Influence of factors on responsible accounting organization in enterprises: Evidence from Vietnam. Journal of Positive School Psychology, 6(7), 4112 - 4130. [5]. Hung, P. H., Trang N. T. K., & Huyen, T. G. T. T. (2022). Factors affecting the application of environmental management accounting in manufacturing enterprises: Experimental research in Vietnam.  Journal of Positive School Psychology, 6(7), 4131 - 4148. 454 Hội thảo Quốc gia 2022
  10. [6]. International Federation of Accountants (IFAC), (2005). International guidance document: Environmental management accounting. New York: IFAC. [7]. Japan Ministry of the Environment (JMOE) (2005). Environmental accounting guidelines 2005 version. Tokyo. [8]. Jones, M. J. (2010). Accounting for the environment: Towards a theoretical perspective for environmental accounting and reporting. Accounting Forum (Vol. 34, No. 2, 123 - 138). No longer published by Elsevier. [9]. Kokubu, K., & Nashioka, E. (2005). Environmental management accounting practices in Japan. Implementing environmental management accounting: Status and Challenges  (321 -342). Springer, Dordrecht. [10]. Kokubu, K., Nashioka, E., Saio, K., & Imai, S. (2003). Two governmental initiatives on environmental management accounting and corporate practices in Japan. Environmental Management Accounting - Purpose and Progress (89-113). Springer, Dordrecht. [11]. Kokubu, K., & Nashioka, E. (2001). Environmental accounting practices of listed companies in Japan. Institute for Global Environmental Strategies (IGES). Kansai Discussion Paper, 3, 1 - 18. [12]. Lee, B. W., Jung, S. T., & Chun, Y. O. (2002). Environmental accounting in Korea: Cases and policy recommendations. Environmental management accounting: Informational and institutional developments (175 - 186). Springer, Dordrecht. [13]. Lee, B. W., Jung, S. T., & Kim, J. H. (2005). Environmental accounting guidelines and corporate cases in Korea. Implementing environmental management accounting: Status and challenges (239 - 255). Springer, Dordrecht. [14]. Nguyễn Thị Hằng Nga (2018). Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán quản trị môi trường tại các doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam - nghiên cứu cho các tỉnh thành khu vực phía Nam. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. [15]. Schaltegger, S., & Burritt, R. (2017). Contemporary environmental accounting: Issues, concepts and practice. Routledge. [16]. United Nations Conference on Trade and Development (2002). Accounting and financial reporting for environmental costs and liabilities. [17]. United Nations Division for Sustainable Development (2001). Environmental management accounting procedures and principles. [18]. United Nations Conference on Trade and Development (1998). Environmental financial accounting and reporting at the corporate level. [19]. USEPA (1995). Environmental accounting case studies: Green accounting at AT&T. Washington, D.C: United States Environmental Protection Agency. BBT nhận bài: 30/9/2022; Chấp nhận đăng: 31/10/2022 Hội thảo Quốc gia 2022 455
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2