Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT CÁC TỔN THƯƠNG ĐƯỜNG MẬT<br />
Võ Văn Hùng*, Nguyễn Cao Cương*, Văn Tần*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mở đầu: Tổn thương đường mật do phẫu thuật là một biến chứng phức tạp, khó điều trị, có thể gây<br />
hậu quả trầm trọng, thậm chí tử vong. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá vai trò của phẫu<br />
thuật trong việc xử trí biến chứng này.<br />
Phương pháp: hồi cứu và tiền cứu, mô tả.<br />
Kết quả: Trong 4 năm từ 01/2003 đến 12/2006 chúng tôi có 21 trường hợp tổn thương đường mật<br />
được xử trí bằng phẫu thuật. 29% phát hiện trong khi mổ, 24% trong thời gian hậu phẫu, 47% phát hiện<br />
muộn sau mổ. Tùy theo mức độ thương tổn, chúng tôi may chỗ rách bằng mổ nội soi hoặc mổ mở (có hoặc<br />
không có dẫn lưu Kehr), khâu nối OMC tận – tận với dẫn lưu Kehr, nối đường mật – hổng tràng Roux en<br />
Y. Tỉ lệ biến chứng nhiễm trùng vết mổ 9,5%, dò mật tự hết 24%. Không có trường hợp nào có biến chứng<br />
phải mổ lại, không có tử vong.<br />
Kết luận: Điều trị tổn thương đường mật có nhiều phương pháp khác nhau. Trong những trường hợp<br />
tổn thương lớn, mất đọan OMC, hẹp đường mật hoàn toàn, điều trị nội soi thất bại, phẫu thuật là cần thiết<br />
và có kết quả tốt.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
RESULTS OF SURGICAL MANAGEMENT OF IATROGENIC BILE DUCT INJURIES<br />
Vo Van Hung, Nguyen Cao Cuong, Van Tan<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 61- 70<br />
Background: Iatrogenic bile duct injury is a serious and possibly mortal complication. The treatment is<br />
very difficult and complex. The goal of this study is to evaluate the role of surgery in managing this disease.<br />
Methods: retrospective and prospective study.<br />
Results: Between January 2003 and December 2006, 21 patients with iatrogenic bile duct injuries<br />
underwent surgical treatment. 29% detected during operation, 24% in postoperative period, 47% later.<br />
According to degree of bile duct injuries we made lacerated dile duct suture (laparoscopic or open surgery),<br />
end-to-end repair, Roux-en-Y biliary-enteric anastomosis. The infected wound rate 9,5%; the bile leak rate<br />
24% (spontaneously resolved within a few days). No complication required reoperation, no death.<br />
Conclusion: There are many methods of treatment for bile duct injuries. In most cases such as: major<br />
injuries, failed endoscopic managed injuries… Surgical repair is required with minimal morbidity and good<br />
outcomes.<br />
tỉ lệ tai biến và biến chứng do cuộc mổ hoặc do<br />
MỞĐẦU<br />
bệnh lý của bệnh nhân gây ra. Những tổn<br />
Hiện nay, số bệnh nhân bị các bệnh lý túi<br />
thương đường mật do phẫu thuật làmột vấn đề<br />
mật và đường mật được điều trị bằng phẫu<br />
lớn, nhất là trong phẫu thuật cắt túi mật nội soi.<br />
thuật càng ngày càng nhiều. Các phẫu thuật nội<br />
Trong đa số các báo cáo, tỉ lệ này đều cao hơn so<br />
soi điều trị bệnh lý này cũng được áp dụng rộng<br />
với phẫu thuật mở, ngay cả khi được thực hiện<br />
rãi hơn. Trong phẫu thuật, bao giờ cũng có một<br />
bởi các phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm(5,8,20).<br />
* Bệnh viện Bình Dân Tp.HCM<br />
<br />
Chuyên đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
<br />
1<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Các thương tổn đường mật bao gồm tổn thương<br />
ống mật chủ, ống gan. Các tổn thương này có thể<br />
được phát hiện và xử trí ngay trong khi mổ. Tuy<br />
nhiên, có một số trường hợp các tổn thương<br />
không được phát hiện trong khi mổ gây nên<br />
những bệnh cảnh khác nhau trong thời gian hậu<br />
phẫu như viêm phúc mạc mật,dò mật, vàng da<br />
tắc mật, nhiễm trùng đường mật. Đôi khi, biểu<br />
hiện muộn sau một thời gian vài tuần, vài tháng<br />
như hẹp đường mật. Đây là những bệnh không<br />
phổ biến nhưng lànhững thách thức điều trị trên<br />
lâm sàng. Triệu chứng của bệnh có thể không<br />
rầm rộ, nhưng gây những biến chứng rất trầm<br />
trọng đe dọa tính mạng bệnh nhân như viêm<br />
đường mật tiến triển, áp xe gan, xơ gan. Điều<br />
trị những tổn thương này có thể bằng nội soi<br />
nong hay đặt stent, hoặc phẫu thuật. Khuynh<br />
hướng điều trị bằng nội soi được nhiều phẫu<br />
thuật viên ưa thích nhưng có những trường<br />
hợp không thể đưa stent qua được và tỉ lệ hẹp<br />
tái phát cao(7). Gần đây, có một số nghiên cứu<br />
điều trị các tổn thương này bằng phẫu thuật<br />
nội soi, tuy nhiên số trường hợp còn ít và thời<br />
gian mổ rất dài (8h-10h).<br />
Tại Việt Nam, chưa có nhiều công trình<br />
nghiên cứu về bệnh lý này. Do đây là bệnh ít<br />
gặp, chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu và<br />
tiền cứu từ 1/2003 đến 01/2007 những trường<br />
hợp thương tổn đường mật do phẫu thuật, được<br />
điều trị bằng phẫu thuật tại bệnh viện Bình Dân.<br />
<br />
Mục tiêu<br />
Mục tiêu tổng quát<br />
Đánh giá vai trò của phẫu thuật trong điều<br />
trị các thương tổn đường mật do phẫu thuật.<br />
Mục tiêu chuyên biệt:<br />
Đề xuất chỉ định điều trị các thương tổn<br />
đường mật do phẫu thuật.<br />
Đánh giá kết quả điều trị bằng phẫu thuật<br />
các thương tổn đường mật do phẫu thuật dựa<br />
vào tỉ lệ thành công, tỉ lệ biến chứng của phẫu<br />
thuật. Chọn lựa phương pháp phẫu thuật thích<br />
hợp cho từng trường hợp cụ thể.<br />
<br />
Chuyên<br />
đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
2<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Loại nghiên cứu<br />
Hồi cứu và tiền cứu. Nghiên cứu mô tả.<br />
Cở mẫu<br />
Là bệnh ít gặp, cở mẫu nhỏ.<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
Tất cả các trường hợp bệnh nhân được chẩn<br />
đoán có thương tổn đường mật do phẫu thuật,<br />
được điều trị bằng phẫu thuật, nhập viện trong<br />
thời gian từ tháng 1/2003 đến hết tháng 12/2006.<br />
*Các tổn thương phát hiện và xử trí ngay trong lúc<br />
mổ<br />
Rách, đứt ngang, mất đoạn ống mật chủ, ống<br />
gan theo phân loại Strasberg. Các phương pháp<br />
điều trị trong lúc mổ như: may chỗ rách, tạo<br />
hình, khâu nối đường mật, khâu nối đường mật<br />
– hổng tràng.<br />
* Các tổn thương biểu hiện trong hậu phẫu<br />
Viêm phúc mạc mật, dò mật, tắc mật, nhiễm<br />
trùng đường mật. Bệnh nhân được làm các chẩn<br />
đoán hình ảnh để có chẩn đoán chính xác như:<br />
ERCP, ECHO, PTC, MRCP. Đánh giá theo phân<br />
loại strasberg. Các phương pháp phẫu thuật<br />
điều trị như: tạo hình ống mật chủ, khâu nối ống<br />
mật chủ, hoặc khâu nối đường mật - hổng tràng.<br />
*Các tổn thương biểu hiện muộn: hẹp đường mật.<br />
Bệnh nhân được làm các chẩn đoán hình<br />
ảnh, đánh giá vị trí tổn thương, mức độ tổn<br />
thương theo phân loại Strasberg. Chọn lựa bệnh<br />
nhân được điều trị bằng phẫu thuật. Các<br />
phương pháp phẫu thuật như khâu nối đường<br />
mật-hổng tràng, khâu nối OMC.<br />
Phân lọai Strasberg:<br />
- Lọai A: Dò mật từ ống túi mật, giường túi<br />
mật.<br />
- Lọai B: Cột ống gan phụ.<br />
Lọai C: Dò mật từ ống gan phụ.<br />
Lọai D: Rách thành bên ống mật chủ (OMC),<br />
Lọai E:<br />
- E1: tổn thương đường mật, đọan ống gan<br />
chung còn lại > 2cm.<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
- E2: tổn thương đường mật, đọan ống gan<br />
chung còn lại < 2cm.<br />
<br />
Tổn thương đường mật phát hiện trong<br />
khi mổ<br />
<br />
- E3: tổn thương chỗ hợp lưu 2 ống gan (P)<br />
và (T).<br />
<br />
Chúng tôi có 6 trường hợp tổ thương<br />
đường mật được phát hiện trong khi mổ, tỉ lệ<br />
29%, với 4 trường hợp phẫu thuật nội soi, 2<br />
trường hợp phẫu thuật mở. Theo tường trình<br />
phẫu thuật, 5 trường hợp viêm túi mật cấp,<br />
vách dày phù nề, cổ dính OMC, 1 trường hợp<br />
áp xe túi mật, vách dày xơ chai. Có 3/6 trường<br />
hợp có sỏi kẹt cổ túi mật.<br />
<br />
- E4: tổn thương trên chỗ hợp lưu 2 ống gan.<br />
- E5: lọai E và có tổn thương ống gan phụ.<br />
Thu thập các dữ kiện về lâm sàng và cận lâm<br />
sàng, diễn tiến hậu phẫu, tái khám, đánh giá kết<br />
quả dựa vào các triệu chứng như đau hạ sườn<br />
(P), sốt nhiễm trùng, vàng da, dò mật tái phát,<br />
hẹp đường mật tái phát.<br />
<br />
Đánh giá kết quả<br />
Kết quả xấu khi có biểu hiện dò mật kéo dài,<br />
hẹp đường mật, hẹp miệng nối đường mật –<br />
hổng tràng, nhiễm trùng đường mật tái diễn.<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
- Các bệnh nhân bị bệnh lý đường mật do<br />
ung thư.<br />
- Các trường hợp hẹp đường mật nguyên<br />
phát.<br />
Các trường hợp thương tổn đường mật do<br />
phẫu thuật nhưng được điều trị bằng phương<br />
pháp khác như nong đường mật xuyên gan qua<br />
da, qua nội soi, đặt stent.<br />
Phân tích số liệu<br />
Số liệu xử lý bằng các phép thống kê đối với<br />
cở mẫu nhỏ.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Trong 4 năm từ 01/2003 đến 12/2006 chúng<br />
tôi có 21 trường hợp tổn thương đường mật do<br />
phẫu thuật với 7 bệnh nhân nam và 14 bệnh<br />
nhân nữ. Tuổi trung bình 52 (từ 25 đến 84 tuổi).<br />
Trong đó, 14 trường hợp cắt túi mật nội soi, 6 cắt<br />
túi mật mở, 1 trường hợp cắt túi mật và mở<br />
OMC lấy sỏi nội soi.<br />
Trong năm 2006, bệnh viện chúng tôi phẫu<br />
thuật 1892 trường hợp cắt túi mật, gồm 1584<br />
trường hợp mổ nội soi, 274 mổ mở, và 34 nội soi<br />
chuyển hở. Có 3 trường hợp tổn thương đường<br />
mật tại bệnh viện, 2 trường hợp khác từ nơi khác<br />
chuyển đến, vì vậy tỉ lệ tổn thương đường mật là<br />
0,16% trong năm 2006.<br />
<br />
Chuyên đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
<br />
Thương tổn được ghi nhận<br />
- Rách OMC (D): 4 trường hợp, trong đó 2<br />
trường hợp rách nhỏ được may bằng nội soi.<br />
- Rách lớn OMC (D): 2 trường hợp, cả 2<br />
trường hợp này đều được chuyển mơ,û may lại<br />
OMC dẫn lưu Kehr xa chỗ may OMC.<br />
- Đứt OMC, đọan ống gan còn lại < 2cm (E2):<br />
1 trường hợp, xử trí bằng khâu nối ống gan<br />
chung-hổng tràng Roux en Y.<br />
- Đứt cả 2 ống gan (E4): 1 trường hợp, xử trí<br />
bằng phẫu thuật Kasai.<br />
<br />
Tổn thương phát hiện sớm trong thời<br />
gian hậu phẫu<br />
Chúng tôi có 5 trường hợp tổn thương<br />
đường mật phát hiện sớm trong thời gian hậu<br />
phẫu, tỉ lệ 24%, với 4 trường hợp mổ nội soi và1<br />
trường hợp mổ mở. Thời gian xuất hiện triệu<br />
chứng trung bình 10,4 ngày (từ 7 đến 15 ngày).<br />
<br />
Biểu hiện lâm sàng<br />
Tụ dịch mật và dẫn lưu ra mật 1 trường hợp,<br />
viêm phúc mạc mật 4 trường hợp.<br />
Các triệu chứng bao gồm: đau hạ sườn (P),<br />
vàng da, sốt, chướng bụng, tăng bạch cầu, tăng<br />
bilirubine, tăng men gan. Siêu âm 100% trường<br />
hợp có tụ dịch dưới gan hoặc dịch ổ bụng. Có 2<br />
trường hợp bệnh nhân đã xuất viện, nhập viện<br />
lại mổ cấp cứu vì viêm phúc mạc. Các trường<br />
hợp không mổ cấp cứu đều được thực hiện<br />
ERCP. Tuy nhiên, 1 trường hợp không tìm được<br />
OMC, 2 trường hợp tổn thương nặng, không xử<br />
trí được bằng nội soi.<br />
<br />
3<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Theo tường trình phẫu thuật, có 3 trường<br />
hợp túi mật vách mỏng, 1 trường hợp viêm cấp,<br />
1 trường hợp viêm mãn.<br />
Khi mổ lại chúng tôi ghi nhận<br />
- Rách đường mật (D): 2 trường hợp, với 1<br />
trường hợp rách OMC và 1 trường hợp rách ống<br />
gan. Các bệnh nhân này nhập viện lại sau khi<br />
mổ cắt túi mật nội soi 7 ngày và 10 ngày. Cả 2<br />
trường hợp đều có biểu hiện lâm sàng viêm<br />
phúc mạc. Đặc biệt, có 1 trường hợp được ghi<br />
nhận có hoại tử chỗ vết rách có lẽ do đốt. Xử trí<br />
phẫu thuật 2 trường hợp này là may chỗ rách và<br />
dẫn lưu Kehr.<br />
- Đứt OMC: 1 trường hợp. Xử trí phẫu thuật<br />
là khâu nối OMC tận-tận và dẫn lưu Kehr.<br />
- Đứt OMC: 1 trường hợp E1, 1 trường hợp<br />
E2. Xử trí phẫu thuật làkhâu nối ống gan chunghổng tràng Roux en Y.<br />
<br />
Tổn thương phát hiện muộn sau mổ<br />
(hẹp đường mật)<br />
Chúng tôi có 10 trường hợp hẹp đường mật,<br />
tỉ lệ 47%, với 7 trường hợp mổ nội soi và 3<br />
trường hợp mổ mở. Trong đó có 6 trường hợp (5<br />
mổ nội soi, 1 mổ mở) từ nơi khác chuyển đến.<br />
Có 2 trường hợp đã mổ lại tại bệnh viện đầu tiên<br />
để xử lý tổn thương đường mật, nhưng không<br />
thành công.<br />
Thời gian từ lúc mổ đến khi vào BVBD trung<br />
bình 32 tháng (1 tháng đến 96 tháng).<br />
Triệu chứng bao gồm: 100% vàng da, 80%<br />
ngứa, 60% đau hạ sườn (P), 30% sốt, 20% xơ gan.<br />
Các xét nghiệm sinh hóa: 40% bạch cầu ><br />
10.000/ mm3, 100% tăng bilirubine > 10 mg% (2,7<br />
mg% đến 33mg%), 100% tăng SGOT trung bình<br />
90UI/l, 90% tăng SGPT trung bình 66UI/l.<br />
<br />
Về chẩn đoán hình ảnh<br />
- Siêu âm: 100% có dãn đường mật trong<br />
gan, 2 trường hợp có xơ gan lách to, 1 trường<br />
hợp có báng bụng.<br />
- ERCP: có 6 trường hợp được thực hiện<br />
ERCP. Tuy nhiên, thất bại 2 trường hợp, 4<br />
<br />
Chuyên<br />
đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
4<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
trường hợp còn lại có hình ảnh tắc rốn gan,<br />
thuốc không lên được đường mật trong gan.<br />
- PTC: 6 trường hợp được thực hiện có hình<br />
ảnh tắc hoàn toàn ống gan chung.<br />
- MRCP: chỉ 3 trường hợp được thực hiện kỹ<br />
thuật này, có hình ảnh tắc ống gan chung.<br />
Khi mổ lại chúng tôi ghi nhận:<br />
- Hẹp 1 đoạn ngắn OMC: 1 trường hợp,<br />
trường hợp này được tạo hình nối lại OMC, dẫn<br />
lưu Kehr.<br />
- Hẹp ống gan chung (E2): 7 trường hợp. Xử<br />
trí phẫu thuật làkhâu nối ống gan chung-hổng<br />
tràng Roux en Y.<br />
- Hẹp chỗ hợp lưu 2 ống gan (E3): 1 trường<br />
hợp. Xử trí phẫu thuật là khâu nối 2 ống ganhổng tràng Roux en Y.<br />
Hẹp cao trên chỗ hợp lưu 2 ống gan (E4): 1<br />
trường hợp. Xử trí bằng phẫu thuật Kasai.<br />
Thời gian mổ 21 trường hợp:<br />
- Khâu chỗ rách, khâu nối OMC: trung bình<br />
98 phút (70-120 phút)<br />
- Nối ống gan chung hổng-tràng: trung bình<br />
160 phút (100-220 phút).<br />
- Nối 2 ống gan-hổng tràng: 100 phút.<br />
- Phẫu thuật Kasai: trung bình 330 phút (240<br />
và 420 phút).<br />
Thời gian hậu phẫu trung bình sau mổ 10,6<br />
ngày (7- 17 ngày).<br />
Biến chứng: nhiễm trùng vết mổ 2 trường<br />
hợp, tỉ lệ 9,5%; dò mật ống dẫn lưu 5 trường<br />
hợp, tỉ lệ 24%. Các trường hợp dò mật này đều<br />
tự hết trong thời gian hậu phẫu.<br />
Không có biến chứng cần mổ lại.<br />
Không có tử vong.<br />
Theo dõi 1 tháng sau mổ tốt 100%.<br />
Theo dõi lâu dài đến 04/2007 được 10 trường<br />
hợp.<br />
Theo dõi được 5 trường hợp tổn thương<br />
đường mật đơn giản, xử trí bằng khâu hoặc nối<br />
đường mật. Thời gian theo dõi từ 6-32 tháng,<br />
trung bình là 17,3 tháng, kết quả tốt.<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Theo dõi được 5 trường hợp tổn thương<br />
đường mật nặng, xử trí bằng khâu nối mật-ruột<br />
và phẫu thuật Kasai. Thời gian theo dõi từ 23-46<br />
tháng, trung bình 36,6 tháng. Có 2 trường hợp<br />
thỉnh thoảng có đau ít hạ sườn (P), khó tiêu ít,<br />
Rách<br />
ĐM (D)<br />
<br />
Đứt<br />
OMC<br />
<br />
Trong khi mổ<br />
<br />
4<br />
<br />
Hậu phẫu<br />
<br />
2<br />
<br />
1<br />
<br />
6<br />
<br />
1<br />
<br />
E1<br />
<br />
E2<br />
<br />
1<br />
<br />
1<br />
<br />
sốt nhẹ. Chúng tôi có thực hiện siêu âm được 2<br />
bệnh nhân với kết quả tốt. Trong số 5 bệnh nhân<br />
này, 4 bệnh nhân nhận định kết quả phẫu thuật<br />
là tốt, hài lòng với cuộc mổ; 1 bệnh nhân cho<br />
rằng kết quả phẫu thuật là trung bình.<br />
E3<br />
<br />
1<br />
<br />
Muộn sau mổ<br />
Tổng số<br />
<br />
Hẹp<br />
ngắn<br />
<br />
1<br />
1<br />
<br />
1<br />
<br />
Xử trí<br />
NS<br />
<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
1<br />
<br />
1<br />
<br />
9<br />
<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
Carl Langebuch là người đầu tiên thực hiện<br />
cắt túi mật năm 1882. Trong thời kỳ này, tổn<br />
thương đường mật không được nhắc đến, có thể<br />
do số trường hợp cắt túi mật quá ít. Cho đến<br />
năm 1905, Mayo báo cáo 2 trường hợp hẹp<br />
đường mật sau phẫu thuật cắt túi mật, được<br />
điều trị bằng cách nối OMC tá tràng. Sau đo,ù số<br />
trường hợp tổn thương đường mật tăng lên<br />
nhanh chóng, vì phẫu thuật cắt túi mật càng<br />
ngày càng trở nên là một phẫu thuật phổ biến<br />
trên thế giới. Tổn thương đường mật có thể do<br />
nhiều loại phẫu thuật khác như cắt dạ dày, cắt<br />
gan, chấn thương gan, điều trị can thiệp ung thư<br />
gan… nhưng cắt túi mật là nguyên nhân thường<br />
gặp nhất. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 20<br />
trường hợp do cắt túi mật nội soi hoặc mở, 1<br />
trường hợp cắt túi mật và mở ống mật chủ nội<br />
soi, không có nguyên nhân nào khác. Phát hiện<br />
và xử trí tổn thương đường mật là 1 thách thức<br />
cho mọi phẫu thuật viên ngoại tổng quát. Mọi<br />
phẫu thuật viên đều biết rõ những yếu tố nguy<br />
cơ, nhưng tổn thương đường mật vẫn xảy ra,<br />
ngay cả khi được thực hiện bỡi những phẫu<br />
thuật viên kinh nghiệm nhất. Tỉ lệ tổn thương<br />
đường mật theo nhiều nghiên cứu thay đổi từ<br />
0,13- 0,9%(6,8,13). Tỉ lệ của chúng tôi trong năm<br />
2006 là 0,16%, đây là 1 tỉ lệ thấp so với các<br />
nghiên cứu nước ngoài.<br />
Đa số tác giả cho rằng tỉ lệ tổn thương đường<br />
mật tăng từ 0,1-0,2% lên 0,4-0,7% giữa giai đoạn<br />
cắt túi mật hở và nội soi. Trong 21 trường hợp,<br />
<br />
Chuyên đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
<br />
E4<br />
<br />
7<br />
<br />
BÀNLUẬN<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Xử trí mổ mở<br />
Khâu nối OMC<br />
<br />
Nối mật- ruột<br />
<br />
2<br />
<br />
2<br />
<br />
3<br />
<br />
2<br />
<br />
1<br />
2<br />
<br />
6<br />
<br />
13<br />
<br />
chúng tôi có 6 trường hợp mổ hở và 14 trường<br />
hợp mổ nội soi. Do số trường hợp còn ít nên<br />
chưa có giá trị thống kê.<br />
<br />
Tổn thương đường mật phát hiện trong<br />
khi mổ<br />
Tỉ lệ này không nhiều từ 20-39% (4,17,20).<br />
Chúng tôi có 6/15 trường hợp phát hiện trong<br />
khi mổ, tỉ lệ 40%. Theo mô tả tường trình phẫu<br />
thuật: 1 trường hợp áp xe túi mật, vách dày xơ<br />
chai. 5 trường hợp còn lại viêm cấp, vách dày<br />
phù nề, cổ dính OMC, 3 trong 5 trường hợp này<br />
có sỏi kẹt cổ túi mật. Đây chính là những yếu tố<br />
nguy cơ được nhiều tác giả đề cập. Strasberg (21)<br />
cho rằng viêm mãn, sẹo dính, chảy máu làm mờ<br />
phẫu trường, và bất thường giãi phẫu cũng là<br />
những mối nguy hiểm gây tổn thương đường<br />
mật. Trong lô nghiên cứu của chúng tôi, không<br />
ghi nhận những bất thường về giãi phẫu.<br />
Để giảm tỉ lệ tổn thương đường mật và phát<br />
hiện ngay trong khi mổ, Debru(6) đề nghị chụp<br />
đường mật thường qui trong khi mổ. Tác giả có<br />
90,7% của 3145 trường hợp cắt túi mật nội soi, có<br />
chụp đường mật trong khi mổ, phát hiện được 4<br />
trường hợp tổn thương đường mật trong khi<br />
mổ, 1 trường hợp sau mổ. Tỉ lệ tổn thương<br />
đường mật là 0,16% với 80% phát hiện đươcï<br />
trong khi mổ. Debru cho rằng chụp đường mật<br />
trong khi mổ giúp hạ thấp tỉ lệ và giảm mức độ<br />
trầm trọng tổn thương đường mật, đồng thời<br />
tăng tỉ lệ phát hiện được trong khi mổ.<br />
Ngược lại, rất nhiều tác giả không đồng ý<br />
chụp đường mật thường qui trong khi<br />
<br />
5<br />
<br />