KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1930_3
lượt xem 15
download
Giờ đây, người ta lại hướng đến những bức tranh sơn dầu theo kiểu phương Tây. Ðối với sáng tác văn chương, ngày trước người ta quan niệm cái đẹp toát lên từ sự hài hoà cân đối của một bài thơ Ðường luật
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1930_3
- KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1930 Giờ đây, người ta lại hướng đến những bức tranh sơn dầu theo kiểu phương Tây. Ðối với sáng tác văn chương, ngày trước người ta quan niệm cái đẹp toát lên từ sự hài hoà cân đối của một bài thơ Ðường luật, từ sự hoàn chỉnh của phép đối, của cách gieo vần... Giờ đây, những yếu tố đó đang chịu sự lấn át dần bởi chất phóng khoáng , tự do vừa tìm thấy được từ văn học phương Tây. Theo quan niệm ngày xưa, ý thức thẩm mĩ được biểu hiện qua lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của con người, đồng thời cách ứng xử của người Việt cũng thể hiện ý thức thẩm mĩ.Tạo được sự hài hoà trong cuộc sống về đạo lí ở lĩnh vực gia đình, họ tộc, cộng đồng làng xã cũng là một góc thẩm mĩ không nhỏ. Ðến giai đọan này những quan niệm ấy vẫn được duy trì. Hơn nữa, vào những năm này, đối với con người, thiên nhiên vẫn còn là một nét thẩm mĩ lớn. Sự sống không thể thiếu thiên nhiên, sự sống dựa vào thiên nhiên , thiên nhiên làm đẹp sự sống. Thiên nhiên vẫn còn tạo nên nguồn cảm hứng sáng tác của văn thi sĩ. Nói
- chung, nó vẫn còn gắn bó với con người như trước . Nhìn chung , ý thức thẩm mĩ của người Việt Nam ở giai đoạn 1900 - 1930 có những thay đổi. Sự thay đổi đó do hoàn cảnh chính trị, xã hội chi phối. Chúng ta phải thấy một điều : Nó cũng đang đứng trước sự gạn lọc, biến đổi. Và, chính cái chất vững bền đã giúp nó vượt qua mọi thử thách để giữ lấy những gì thuộc về truyền thống của dân tộc Việt Nam , không bị mất gốc , lai căng bởi ảnh hưởng tư tưởng văn hoá nước ngoài. II.- Tình trạng phân hóa trong văn học giai đoạn 1900 - 1930 : 1. Lực lượng sáng tác Trong thời kỳ trung đại, nền văn học của ta có sự hiện diện của cả hai lực lượng sáng tác: Lực lượng nhà nho và lực lượng nông dân. Mỗi bên có công chúng, đề tài, đời sống, phương thức truyền đạt riêng, lý tưởng thẩm mĩ và các thể loại thường dùng cũng khác nhau. Lực lượng sáng tác của văn học viết thời trung đại chủ yếu là nhà nho, những trí thức phong kiến. Nhà nho thời phong kiến có một địa vị đặc biệt trong xã hội. Họ chỉ đeo đuổi việc học chữ Hán. Họ rất am hiểu lời dạy của thánh hiền, thông suốt các tín điều của nho giáo. Kiến thức của nhà nho không vượt khỏi phạm vi sách vở của thánh hiền. Lẽ tất nhiên họ cũng am hiểu tường tận các chủ trương của Lão - Trang, thấm nhuần
- tư tưởng Phật giáo. Có thể nói rằng việc học hành của nhà nho theo tinh thần tam giáo đồng nguyên. Nhà nho là những người thích "hành đạo". Họ bước vào đời với hòai bão "phải có danh gì với núi sông". Họ học thật chăm chỉ để thi đỗ đạt, mong tìm chút danh phận rồi từ đó đem sức lực cống hiến cho đời (dĩ nhiên đó là những nhà nho chân chính) nhưng khi xã hội phong kiến suy vi, nhà nho lại bất bình chán nản. Lúc ấy họ tâm đắc với giáo điều của Lão - Trang. Họ thường tìm đến cuộc sống ẩn dật. Nhưng họ cũng khó có thể quên đời được, lại ray rức, trằn trọc, lương tâm bị dằn xé như trường hợp của Nguyễn Khuyến: "Cờ đương giở cuộc không còn nước Bạc chửa thâu canh đã chạy làng " (Tự trào) Có thể thấy một điều đặc biệt ở nhà nho là họ thường hay băn khoăn về vấn đề xuất xử và ở vào những giai đoạn xã hội phong kiến suy vong thì lối sống ẩn dật là lối sống phổ biến của những nhà nho có khí tiết. Thời kỳ ẩn dật cũng là thời kỳ nhà nho sáng tác nhiều nhất. Ðầu thế kỷ XX, giai đoạn lịch sử đầy biến động, có sự chi phối mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, của văn học phương Tây, lực lượng
- nhà nho không tách rời sự phân hóa: * Có những nhà nho vì yêu nước thương dân, không cam tâm làm nô lệ đã tiếp tục đứng lên chống Pháp (Phan Bội Châu, Ngô Ðức Kế, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng...) họ được tiếp nhận và phát triển luồng tư tưởng cách mạng từ châu Âu đưa đến. Họ vừa họat động chính trị vừa sáng tác văn chương. Buổi đầu khi phong trào cách mạng lên cao, các nhà nho có nhu cầu đưa những vấn đề mới của xã hội vào văn học nên họ sáng tác say sưa. Bằng những cách tân nghệ thuật họ nhiệt tình thể hiện những vấn đề mới của xã hội, cuộc sống và con người. Tác phẩm của họ thường phong phú về số lượng, đa dạng về đề tài và có những tác động mạnh mẽ đối với xã hội, làm "dậy sóng" phong trào yêu nước lúc bấy giờ. Ý thức hệ phong kiến không còn chi phối tư tưởng của họ một cách nặng nề như trước nữa. Họ không còn muốn nói đến đạo lý thánh hiền và cũng chẳng hề gò câu đẽo chữ để tạo sự bóng bẩy cho bài thơ, bài văn. Họ chỉ hướng đến một mục đích duy nhất : giải phóng đất nước, xây dựng quốc gia hùng cường. Ðến giai đoạn thoái trào của phong trào cách mạng, sau nhiều lần thất bại, công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước theo con đường cách mạng dân chủ tư sản không thành công, nhà nho cảm thấy buồn chán, bi quan. Họ lại trở về với bản chất của nhà nho trước kia: sống hướng nội, thích bộc bạch tâm sự, hoài cổ, hay làm thơ thuật hoài. Văn chương của họ lúc
- này trở về với đặc điểm văn chương ở thế kỷ trước. Nói chung, lực lượng nhà nho tiến bộ này tuy đã được tắm gội trong các phong trào cách mạng tư sản, được hít thở không khí hiện đại từ các sách tân thư, tân văn nhưng cái cốt cách nhà nho của họ không thể nào biến dạng được. Lực lượng nhà nho nêu trên khá đông đảo, thơ văn của họ như một dòng chảy không ngừng, dù đã lạc hậu lỗi thời nhưng vẫn tiếp tục duy trì cho đến những năm ở thập niên thứ ba của thế kỷ này. * Bên cạnh những nhà nho cấp tiến ấy, một số nhà nho khác "vẫn tự hào về thơ phú, chữ nghĩa đạo lý thánh hiền, vẫn làm thơ phú" . Nhưng xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đang trên con đường tư sản hóa không dành chỗ cho cuộc sống ẩn dật của nhà nho bất đắc chí cho nên hình tượng người ẩn sĩ cũng mất dần trong văn học. * Vào giai đoạn này có xuất hiện một số trường hợp nhà nho rời nông thôn ra thành phố sinh sống bằng nghề viết văn. Sống ở thành thị, giữa những người dân thành thị dần dần bản thân họ cũng bị thành thị hóa. Họ dùng những thể thức văn học cũ để gởi gắm những cảm xúc cá nhân, những cảnh vật và không khí thành thị. Họ đã khai thác tất cả những kinh nghiệm sáng tác trong văn học dân gian và các truyện nôm của các nhà nho tài tử trước kia. Họ là những người có đóng góp đáng kể cho tiến trình hiện đại hóa văn chương Việt Nam.
- Ðến đầu thế kỉ XX, nhà nho không còn là lực lượng sáng tác chính. Bên cạnh họ đã có xuất hiện một lực lượng sáng tác mới. Ðó là lực lượng trí thức tân học. Ðây là những người vừa mới được đào tạo từ các trường Pháp - Việt. Phần lớn trong số họ bắt đầu từ công việc làm báo, có những nhà cựu học viết bằng chữ Hán. Dần dần, theo con đường dịch thuật, phỏng tác... họ chuyển từ viết báo sang viết truyện ngắn, kịch, nhanh chóng đáp ứng được đòi hỏi của công chúng thành thị. Họ khác với các nhà nho cấp tiến, chú trọng đến văn hóa hơn là chính trị. Nhìn chung, họ là những người mạnh dạn đến với cái mới. Tuy nhiên ở họ không tránh khỏi những dằn dặt, trăn trở khi chọn cho mình một hướng đi để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Họ đến với cái mới vì ước nguyện dung hòa hai nền văn hóa Âu - Á. 2. Quan niệm sáng tác : Quan niệm sáng tác của văn học trung đại là quan niệm của nhà nho, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng nho giáo, đến giai đoạn này người sáng tác không theo duy nhất một quan niệm như trước nữa. - "Văn dĩ tải đạo", "Thi ngôn chí" đó là quan niệm chủ yếu và phổ biến của nhà nho trong thời kỳ trung đại. Quan niệm đó vẫn tồn tại trong giai đoạn 1900 - 1930. Phan Bội Châu, một người có nhiều tư tưởng tiến bộ nhưng vẫn vướng víu với quan niệm cổ hủ này, khi cho rằng sáng tác
- văn chương là để "lập công" "lập chí", "lập ngôn". Tản Ðà, người đã mạnh dạn cách tân phương pháp sáng tác cũ, tiến hành một cuộc cách mạng trong nghệ thuật thơ ca nhưng vẫn có tư tưởng phân biệt loại văn "vị đời" và "văn chơi". - Vào giai đoạn này đã xuất hiện quan niệm sáng tác mới, thể hiện ở nhiều phương diện : + Quan niệm văn học phục vụ chính trị : chính vì ý thức được văn học phục vụ chính trị- sáng tác văn chương nhằm tuyên truyền vận động cứu nước- đã khiến nhà văn phải quan tâm đến đối tượng công chúng là toàn thể nhân dân, trong đó có cả quần chúng lao động. Người sáng tác phải tìm mọi cách để lưu truyền phổ biến tác phẩm của mình. Cho nên văn học không còn tính chất bình kín trong một nhóm người nhỏ hẹp, mà nó đã được công bố rộng rãi bằng nhiều hình thức. Giờ đây người ta tìm cách in ấn và sử dụng in ấn để xuất bản tác phẩm văn học. Khi đã có xuất bản thì văn chương không còn là của riêng ai hay của một giai cấp nào, mà được xem là những giá trị văn hóa của toàn xã hội. + Quan niệm về thể loại cũng khác trước, tiểu thuyết và kịch được công nhận là một thể loại văn học, không còn bị khinh rẻ. Nho sĩ ngày trước chuộng thơ, gởi gắm tâm hồn của mình trong thơ, bộc bạch tâm sự chí khí bằng thơ. Lớp nghệ sĩ mới hôm nay lại say mê văn xuôi, hướng về
- văn xuôi nhiều hơn. Họ nhận thấy văn xuôi có nhiều khả năng phản ánh chân thật, cụ thể đa dạng cuộc sống tư sản hóa đầy những cảnh đời phức tạp, bon chen. Ðối với các nhà nho, vấn đề mô tả hiện thực cuộc sống không phải là điều mà họ quan tâm đến. Ngược lại các tư tưởng của nền văn học mới để hết tâm sức vào vấn đề phản ánh hiện thực. Mặc dù vấn đề phản ánh hiện thực khách quan trong văn học ở giai đoạn này còn bị chi phối bởi quan niệm đạo đức nhưng vẫn thể hiện được sự nâng cao vai trò nhận thức của văn học đối với cuộc sống ở họ so với trước. + Văn học trung đại sùng cổ nhân, trọng quá khứ, nhân vật lý tưởng của nó là những trang tài tử giai nhân hoặc anh hùng cái thế. Nhưng nhân vật của văn học mới là những con người rất bình thường, bao gồm đủ mọi thành phần trong xã hội. Nói chung nhân vật trong văn học mới rất đa dạng, vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của văn học phong kiến. Chính thái độ tư tưởng thẩm mĩ mới của các nhà văn đối với cuộc sống và con người trong giai đoạn này đã dẫn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong giai đoạn sau. + Ðây cũng là một giai đoạn xuất hiện quan niệm mới, xem việc sáng tác văn chương là một nghề kiếm sống, "nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng" (Tản Ðà). Nhìn chung, sự phân hóa trong quan niệm sáng tác "tìm thấy trong toàn
- bộ đời sống của nền văn học mới, trong loại tác giả này và loại tác giả khác, tuy cùng thời nhưng khác nhau về quan điểm tư tưởng - thẩm mĩ, về nguồn gốc xuất thân và học vấn, tài năng, tuy hai bình diện đối lập nhau của một thể thống nhất của một tác giả" và "đó là một quá trình lâu dài, chồng chéo lên nhau, giằng co, tranh chấp giữa cái cũ và cái mới" ("Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời", Trần Ðình Hựu và Lê Trí Dũng, tr 318). 3. Phương pháp sáng tác : Văn chương thời trung đại là sản phẩm của những cá nhân riêng lẽ nhưng vẫn mang một đặc trưng chung, bởi nó được tạo nên bằng một phương pháp sáng tác chung, thể hiện qua một số yếu tố : ngôn ngữ, thể loại, kết cấu, nhân vật... Ðầu thế kỉ XX, người sáng tác không còn tuân thủ theo một hệ thống phương pháp sáng tác duy nhất ấy nữa. Hoàn cảnh khách quan và nhân tố chủ quan đã đẩy người sáng tác đến sự lựa chọn khá gay go và phức tạp: Bám lấy phương pháp sáng tác cũ hay đi tìm phương pháp sáng tác mới. Tình hình đó đã tạo ra tình trạng phân hóa không thể tránh khỏi trong phương pháp sáng tác. + Một số nhà nho đã chọn con đường cách tân nghệ thuật sáng tác của
- nhà nho. Họ vẫn theo phương pháp sáng tác cũ nhưng có những đổi mới đáng kể. + Một số người thuộc lực lượng trí thức tân học thì chọn con đường học theo phương Tây để sáng tác. Họ bắt đầu từ công việc dịch thuật, qua phỏng tác và cuối cùng là sáng tác. Trong lịch sử văn học Việt Nam đây là giai đoạn duy nhất có hiện tượng đan xen hai yếu tố cũ và mới thể hiện trong sáng tác của một tác giả, có khi trong cùng một tác phẩm. Hai yếu tố cũ và mới được kết hợp nhuần nhuyễn và phổ biến trên khắp các thể loại tạo ra những giá trị đặc biệt, không thể xếp vào kho tàng văn học trung đại, mà cũng chưa thể công nhận đó là một tác phẩm của nền văn học hiện đại. 4. Công chúng : Ðối với văn học trung đại, lực lượng sáng tác nhà nho cũng chính là lực lượng công chúng của nền văn học đó. Nhà nho khi sáng tác không hề nghĩ đến công chúng và cũng không cần phải có công chúng. Người thưởng thức văn thi phẩm của họ là chính bản thân họ hay người tri kỷ của họ. Vào đầu thế kỷ XX, lực lượng sáng tác nhà nho vẫn còn, văn thơ của nhà nho vẫn hiện diện trên văn đàn. Công chúng say mê văn chương chữ Hán, chữ Nôm tất nhiên vẫn còn. Mặc dù đã mất hết hào hứng của
- thời kỳ trước, còn chăng chỉ là những hình ảnh của "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo" hay "Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi". Lực lượng công chúng này đang thu hẹp dần. Sự tồn tại của họ chứng minh cái tình nghĩa sâu nặng đối với Hán học của một số người trí thức phong kiến. Ðứng trước những đổi thay của thời cuộc, những con người này không muốn, có thể chưa muốn chạy theo cái mới khi mà trong suy nghĩ của họ vẫn còn quan niệm rằng những thứ đó do giặc ngoại xâm mang đến, những thứ đó là phi đạo đức, là trái với thánh hiền. Giữa lúc văn học của nhà nho và lực lượng công chúng của nền văn học đó đang suy yếu dần thì một lực lượng công chúng mới bắt đầu xuất hiện. Công chúng mới (bao gồm nhiều loại người khác nhau, đang sống trong các đô thị thời đó, có các nhà nho từ nông thôn ra có những người học vấn Tây học và cả những người không học vấn) không thấy hấp dẫn trước món ăn tinh thần của nhà nho. Cuộc sống hiện đại là cuộc sống sôi động, gấp rút. Văn chương của nhà nho không phù hợp với cuộc sống hiện đại. Thế là ở hai địa bàn khác nhau, nông thôn và thành thị có sự hiện hữu của hai loại công chúng khác nhau. Lớp công chúng cũ vẫn trung thành với nền văn chương cũ. Lớp công chúng mới, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, của cuộc sống mới, có nhu cầu thị hiếu mới, đòi hỏi sự đổi mới của văn học;
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM
16 p | 1486 | 122
-
Bài giảng Ngữ văn 10 tuần 2: Khái quát văn học dân gian việt nam
22 p | 571 | 60
-
Giáo án Ngữ văn 11 tuần 9: Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng 8 năm 1945
10 p | 740 | 57
-
Khái quát văn học việt nam từ cách mạng tháng tám 1945 đến hết thế kỉ XX
5 p | 506 | 37
-
Giáo án Ngữ văn 12 tuần 1 bài: Khái quát Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 - 1945 đến hết thế kỷ XX
22 p | 510 | 31
-
Giáo án Ngữ văn 10 tuần 2: Khái quát văn học dân gian việt nam
43 p | 859 | 30
-
Bài giảng Ngữ văn 12 tuần 1 bài: Khái quát Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 - 1945 đến hết thế kỷ XX
36 p | 227 | 28
-
Bài giảng Ngữ văn 12 tuần 1 bài: Khái quát văn học Việt Nam từ CMT 8 năm 1945 đến hết thế kỉ XX
36 p | 209 | 12
-
Bài giảng Ngữ văn 11: Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng 8 năm 1945
27 p | 78 | 10
-
Bài giảng Ngữ văn 10 - Đọc văn: Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
26 p | 46 | 8
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 11 bài: Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 thế kỉ XX
9 p | 14 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 10: Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX - Trường THPT Bình Chánh
18 p | 12 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 11: Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 - Trường THPT Bình Chánh
29 p | 13 | 4
-
Giáo án ngữ văn tuần 1: Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX
30 p | 157 | 4
-
Bài giảng môn Ngữ văn lớp 12: Khái quát văn học Việt Nam từ CMT8-1945 đến hết TK XX
42 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số kỹ thuật dạy học tích cực nhằm tăng hứng thú cho học sinh khi học hệ thống bài Khái quát văn học Việt Nam trong môn Ngữ Văn tại trường trung học phổ thông Nguyễn Trường Tộ - Hưng Nguyên
54 p | 19 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ XX - Trường THPT Bình Chánh
30 p | 10 | 3
-
Giáo án Ngữ văn 12 - Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX
4 p | 80 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn