Khái quát về các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
lượt xem 3
download
Đến với nội dung tài liệu "Khái quát về các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp" để nắm bắt được các biện pháp tháo gỡ khó khăn đối với doanh nghiệp, các biện pháp tháo gỡ khó khăn đối với ngân hàng nhà nước, các biện pháp tháo gỡ khó khăn đối với nhà nước,... Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khái quát về các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
- Khai quat chung vê cac giai phap thao g ́ ́ ̀ ́ ̉ ́ ́ ỡ kho khăn cho cac doanh nghiêp ́ ́ ̣ 1. Đôi v ́ ơi doanh nghiêp ́ ̣ Thứ nhất, tiếp tục thực hiện mạnh mẽ quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp, trong đó tập trung nguồn lực nhiều hơn cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Thứ 2, tập trung nâng cao năng lực tiếp cận và mở rộng thị trường bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, trong đó đặc biệt chú ý tới các thị trường mới, giàu tiềm năng. Xây dựng và thiệt lập hệ thống kênh phân phối hiệu quả. Thứ 3, xây dựng, rà soát và có cơ chế giám sát chặt chẽ hệ thống các định mức chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, cắt giảm các chi phí không cần thiết, tạo tiền đề cho việc hạ giá thành sản phẩm; Thứ 4, tăng cường tính liên kết trong kinh doanh. Trước bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, việc các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có cùng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh sẽ là một hướng đi hiệu quả để các doanh nghiệp có thể hỗ trợ, bổ sung nguồn lực cùng vượt qua khó khăn, giảm chi phí kinh doanh. Bên cạnh đó, việc tham gia vào chuỗi cung ứng sẽ góp phần nâng cao định mực tín nhiệm của doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn vay Thứ 5, tập trung vào năng lực cốt lõi là chiến lược quan trọng nhất để doanh nghiệp có thể tạo “mũi nhọn tấn công” vào các thị trường mới và giữ vững vị trí của mình trên thị trường hiện tại. Với sự tập trung vào năng lực cốt lõi này, các nhà doanh nghiệp mới có thể hiểu sâu được đối thủ cạnh tranh, mới có thể liên tục tự đổi mới mình và đổi mới sản phẩm/dịch vụ của mình, đáp ứng nhu cầu thay đổi của khách hàng. Thứ 6, xây dựng thương hiệu, tăng cường công tác xúc tiến phát triển thị trường trên cơ sở các kế hoạch kinh doanh và kế hoạch marketing bài bản luôn là điều cần thiết trong bối cảnh thị trường biến động hàng ngày. Theo đó, việc nắm bắt thông tin thị trường, thị hiếu của khách hàng thường xuyên phải được coi là nhu cầu tự thân của doanh nghiệp. Thứ 7, thiết lập các kênh phân phối hiệu quả là cách thức để giúp các doanh nghiệp tiếp cận thị trường một cách nhanh chóng, giảm bớt các khâu trung gian, ứng dụng công nghệ thông tin trong tiếp thị, bán hàng. Đối với DNNVV, thực hiện phương thức kinh doanh “độc quyền kinh tiêu” - cũng là một cách thức để các doanh nghiệp nhanh chóng học hỏi, làm chủ được các chiêu thức kinh doanh và làm chủ được thị trường nhanh chóng. Cuối cùng, theo nhóm nghiên cứu,các doanh nghiệp cần phải nâng cao ý thức tham gia vào các hiệp hội doanh nghiệp, xây dựng thị trường nội địa, cùng nhau kiểm soát thị trường, ngăn chặn các hành vi bán phá giá, sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ các doanh nghiệp thành viên trước sự tấn công của hàng ngoại nhập và các vụ kiện bán phá giá. Đổi mới công nghệ
- 2. Đối với ngân hàng nhà nước Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; sử dụng chủ động, linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán hợp lý để thực hiện kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra; Tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất phù hợp với mức giảm của lạm phát; có biện pháp hỗ trợ, đơn giản hóa thủ tục cho vay và tăng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Gia hạn thời hạn cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ của tổ ch ức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với doanh nghiệp xuất khẩu đến hết ngày 31/12/2013; Đẩy nhanh tiến độ và bảo đảm hiệu quả trong tái cấu trúc ngân hàng thương mại,kiên quyết xử lý các ngân hàng yếu kém, hoạt động kém hiệu quả bằng các biện pháp phù hợp nhưng phải đảm bảo đúng pháp luật, ổn định hệ thống và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân gử tiền và sử dụng dịch vụ ngân hàng; Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước dành một lượng vốn hợp lý (tối thiểu khoảng 3% tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại nhà nước) để cho các đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang vay để thuê, thuê mua nhà ở xã hội và thuê, mua nhà ở thương mại có diện tích nhỏ hơn 70m2, giá bán dưới 15 triệu đồng/m2 với lãi suất thấp, kỳ hạn trả nợ phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng và cho vay đối với các doanh nghiệp xây dựng nhà ở xã hội, doanh nghiệp chuyển đổi công năng của dự án đầu tư sang dự án nhà ở xã hội với lãi suất hợp lý và kỳ hạn trả nợ phù hợp với kỳ hạn của nguồn vốn và khả năng trả nợ của khách hàng. Trong quý I năm 2013 phối hợp với Bộ Xây dựng ban hành, hướng dẫn quy chế cho vay các đối tượng trên để đảm bảo sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích các khoản tín dụng này. Dành từ 20 40 nghìn tỷ đồng thông qua tái cấp vốn với lãi suất hợp lý và thời hạn tối đa 10 năm tùy theo đối tượng sử dụng vốn vay để hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại nhà nước để phục vụ cho vay đối với các đối tượng trên. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng rà soát, đẩy nhanh tiến độ phê duyệt cấp tín dụng đối với các dự án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn cao, đồng thời chủ động xử lý, trình các cơ quan có thẩm quyền quyết định việc cấp tín dụng vượt giới hạn cho phép đối với các dự án trọng điểm quốc gia, các dự án phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Về vấn đề giải quyết nợ xấu, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương rà soát, đánh giá lại nợ xấu; tiến hành phân loại các khoản nợ xấu theo loại hình doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, đối tượng vay vốn và theo các loại tài sản bảo đảm, nợ xấu trong bất động sản, nợ xây dựng cơ bản… và đánh giá thực trạng tài sản bảo đảm, nguồn gốc pháp lý, giá trị thị trường, khả năng thanh khoản của các tài sản này để có các giải pháp xử lý phù hợp với từng loại hình nợ xấu. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định an toàn hoạt động tín dụng nhằm kiểm soát, hạn chế rủi ro cho các tổ chức tín dụng; tăng cường công tác thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng trong việc thực hiện các quy định về tín dụng, an toàn hoạt động và phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro.
- Ngân hàng Nhà nước Chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động triển khai các giải pháp tự xử lý nợ xấu như đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý, thu nợ; tiếp tục cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh, bán nợ xấu cho các công ty quản lý tài sản, mua bán nợ; kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt động để tích cực trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; đồng thời triển khai các giải pháp hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp thu ý kiến tham gia của các thành viên Chính phủ để hoàn thiện Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng và Đề án thành lập Công ty quản lý tài sản Việt Nam, thừa ủy quyền Ban Cán sự Đảng Chính phủ báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến. Trên cơ sở ý kiến của Bộ Chính trị, NHNN hoàn chỉnh và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 3. Đối với nhà nước Từ tình hình của DN nêu trên, ông Nguyễn Ngọc Bảo cho biết, trong năm 2015 sẽ có một số yếu tố tác động lớn đến tình hình hoạt động của DN. Theo đó, năm 2015 là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần XI và theo thông lệ cuối nhiệm kì sẽ có nhiều yếu tố về công tác chuẩn bị cho đại hội khóa tới có thể tác động tới việc triển khai các chính sách phát triển kinh tế. Đây cũng là năm thứ 2 tiếp tục hoàn thiện công tác xây dựng thể chế liên quan đến tổ chức bộ máy quyền con người, cải cách tư pháp, quản lí kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo tinh thần Hiến pháp 2013. Năm 2015 cũng là thời điểm quan trọng để nước ta đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với các Hiệp định thương mại tự do đã và sắp được kí kết sẽ cho phép dịch chuyển lao động, dịch vụ, đầu tư và hàng hóa giữa các nước diễn ra một cách tự do hơn và là cơ hội để DN Việt Nam mở rộng thị trường XK, thúc đẩy đầu tư... Từ tình hình của DN trong năm 2014 và dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô năm 2015, ông Bảo cho rằng vấn đề quan trọng mà các cơ chế, chính sách cần hướng đến là phải tập trung tháo gỡ khó khăn, sản xuất, kinh doanh cho DN và người dân vì đây là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội. Ngoài ra để tháo gỡ khó khăn cho DN, Quốc hội cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở pháp lí đầy đủ, tạo sự thay đổi đột phá mạnh mẽ về thể chế quản lí nhà nước, quản lí kinh tế nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định để thu hút nguồn lực đầu tư phục hồi sản xuất, kinh doanh, tạo động lực mới cho sự phát triển của nền kinh tế. Sớm hoàn thiện hệ thống dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), dự án Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Quản lí, sử dụng vốn tài sản nhà nước, đầu tư, sản xuất, kinh doanh tại DN, dự án Luật Nhà ở (sửa đổi), dự án Luật Kinh doanh bất động sản. Cũng liên quan đến cơ chế, chính sách đối với DN trong năm 2015, bà Phạm Thị Thu Hằng, Tổng Thư kí VCCI cho rằng, Quốc hội và Chính phủ cần tháo gỡ một cách căn bản khó khăn cho DN, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để phát triển DN tư nhân. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho DN tham gia thị trường và rút khỏi thị trường một cách thuận lợi. Ngoài ra, cần ban hành Luật DN nhỏ và vừa để giải quyết các vấn về quy mô của DN tạo điều kiện cho DN nhỏ và vừa có thể cạnh tranh với DN lớn. Còn đối với các DN, theo khuyến nghị của bà Đoàn Thị Quyên, Viện Nghiên cứu phát triển DN (VCCI), các DN cần tiếp tục thực hiện tái cấu trúc mạnh mẽ vì đây là biện pháp cần thiết và hiệu quả để năng cao năng lực của DN. Bên cạnh đó, cần có chiến lược kinh doanh tầm trung và dài hạn; cần xây dựng, rà soát cơ chế giảm sát chặt chẽ hệ thống chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro quản trị DN, Đặc biệt, cần thường xuyên cập nhật và theo dõi cơ chế chính sách để vận dụng kịp thời trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
- Theo điều tra của VCCI, có 4% doanh nghiệp trong 800 doanh nghiệp được điều tra đã ngừng hoạt động và giải thể. Trong đó, có 50% phải rơi vào tình trạng này là do không có thị trường, chứ không phải do thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Vì vậy, bà Phạm Thị Thu Hằng đề xuất, phải có thiết chế riêng biệt để vực dậy nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nhất là đưa ra các sản phẩm phù hợp từ những tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư. Doanh nghiệp cũng cần tự xây dựng kế hoạch kinh doanh, góp phần tăng sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cũng cho rằng, các cấp chính quyền, ngành chức năng cần quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tích cực cải cách thủ tục hành chính; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư; nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, cung cấp nhân lực cho doanh nghiệp; bảo đảm an toàn, an ninh cho doanh nghiệp, tạo ra môi trường thông thoáng để các doanh nghiệp hoạt động. Tán thành với quan điểm này, đại diện Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh cho biết, tỉnh Bắc Ninh đã triển khai chủ trương kết nối ngân hàng và doanh nghiệp của Ngân hàng Nhà nước bằng việc ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện. Các sở ngành trên địa bàn tỉnh cũng công khai thủ tục hành chính, tạo thuận lợi về cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo lao động. UBND tỉnh, các sở, ngành thường xuyên trao đổi, đồng hành với doanh nghiệp để khắc phục những khó khăn. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là nhiệm vụ chung từ địa phương đến Trung ương, không phải trách nhiệm của riêng một cơ quan cụ thể. Và nếu có Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương có thể dành nguồn lực mạnh mẽ hơn và triển khai các hoạt động quyết liệt hơn hỗ trợ DNVVN. GIẢI PHÁP VỀ VỐN CHO DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Nguyên nhân các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiếp cận được nguồn vốn là do: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hạn chế về năng lực tài chính. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì tỷ trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn dưới 5 tỷ đồng vẫn chiếm đa số. Và hầu hết các ngân hàng đều chưa mạnh dạn cho các doanh nghiệp nhỏ vay nếu không có tài sản đảm bảo. Các doanh nghiệp vừa vả nhỏ vẫn chưa thiết lập được chiến lược thuyết phục được các nhà tài trợ, chưa xây dựng được mục tiêu chiến lượng kinh doanh dài hạn. Di đó, doanh nghiệp không thuyết phục được ngân hàng cho vay. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa vả nhỏ chưa phản ánh đầy đủ kết quả
- sản xuất kinh doanh. Hệ quả là việc phân tích, đánh giá tình hình tài chính của DNVVN không đủ độ tin cậy, ảnh hưởng đến quyết định xem xét cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp. Về giải pháp cho việc biến tiềm năng khách hàng rất lớn của các DNVVN đối với nguồn vốn trên thị trường tài chính nói chung và thị trường tín dụng ngân hàng nói riêng, có 2 nhóm giải pháp, gồm phát huy các chính sách đã có và đề xuất các chính sách, cơ chế từ ý tưởng mới. Một là, giải quyết tình trạng thiếu vốn cho doanh nghiệp. Trong khi doanh nghiệp thiếu vốn thì các ngân hàng kinh doanh và ngay cả Quỹ hỗ trợ phát triển không giải ngân được do những thủ tục quy định giá chặt chẽ của Nhà nước, làm cho các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh gặp nhiều khó khăn khi vay vốn hoặc khi doanh nghiệp có nhu cầu được bảo lãnh vay vốn. Vì vậy cần có những quy định thông thoáng hơn để có sự bình đẳng trong chính sách vay vốn. Ba là, không nên phân biệt thuế giữa các thành phần kinh tế, chỉ nên phân biệt giữa các vùng và lĩnh vực hoạt động. Ngoài ra, nhà nước cần tăng thêm hỗ trợ đào tạo đối với các DNNVV, cung cấp và tạo điều kiện cho họ tiếp cận được các nguồn thông tin, mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn… khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực có đóng góp tích cực cho xã hội, các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu cao. Bốn là, các tỉnh, thành nên có các chính sách hỗ trợ riêng đối với các DNNVV đầu tư vào những vùng khó khăn và nông thôn, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hình thành những cụm, khu công nghiệp nhỏ để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, giảm tình trạng lao động từ nông thôn ra thành thị, từng bước rút ngắn sự chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn. Năm là, lãnh đạo địa phương và các ngành nên tổ chức các cuộc gặp mặt với các doanh nghiệp thường xuyên hơn để kịp thời giải quyết các vướng mắc và có chính sách hợp lý về các vấn đề cụ thể như chính sách thuế, thủ tục hải quan, tín dụng ngân hàng…. Các cấp chính quyền địa phương, các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, tổ chức các đợt tham quan học hỏi kinh nghiệm mô hình doanh nghiệp làm ăn giỏi, điển hình cho các chủ doanh nghiệp khác, các hộ nông dân, người buôn bán nhỏ có tiềm năng. Vì vậy, bà Phạm Thị Thu Hằng đề xuất, phải có thiết chế riêng biệt để vực dậy nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nhất là đưa ra các sản phẩm phù hợp từ những tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư. Doanh nghiệp cũng cần tự xây dựng kế hoạch kinh doanh, góp phần tăng sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cũng cho rằng, các cấp chính quyền, ngành chức năng cần quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tích cực cải cách thủ tục hành chính; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư; nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, cung cấp nhân lực cho doanh nghiệp; bảo đảm an toàn, an ninh cho doanh nghiệp, tạo ra môi trường thông thoáng để các doanh nghiệp hoạt động. Tán thành với quan điểm này, đại diện Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh cho biết, tỉnh Bắc Ninh đã triển khai chủ trương kết nối ngân hàng và doanh nghiệp của Ngân hàng Nhà nước bằng việc ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện. Các sở ngành trên địa bàn tỉnh cũng công khai thủ tục hành chính, tạo thuận lợi về cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo lao động. UBND tỉnh, các sở, ngành thường xuyên trao đổi, đồng hành với doanh nghiệp để khắc phục những khó khăn.
- Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là nhiệm vụ chung từ địa phương đến Trung ương, không phải trách nhiệm của riêng một cơ quan cụ thể. Và nếu có Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương có thể dành nguồn lực mạnh mẽ hơn và triển khai các hoạt động quyết liệt hơn hỗ trợ DNVVN. a/ Về phát huy các chính sách và cơ chế đã có Hiện nay, đối với các DNVVN thuộc khu vực nông thôn (sản xuất chế biến, tiêu thụ nông sản và phát triển công nghiệp, xây dựng nông thôn...) đã có cơ chế tiếp cận vốn NHTM theo Nghị Định 41/2010/NĐCP. Theo đó: NHNN là cơ quan đầu mối phối hợp với các Bộ, các chính quyền địa phương và các Hội Nông dân, Phụ nữ, Cựu chiến binh, Thanh niên... đồng trách nhiệm tổ chức các hình thức tư vấn và tổ chức tạo thuận lợi cho các đối tượng được tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng và phía các ngân hàng được hưởng những chính sách ưu đãi về mức dự trữ bắt buộc, mức tái cấp vốn, tái chiết khấu cho những TCTD nào có tỷ trọng dư nợ lớn cho các đối tượng của Nghị định và nhất là các đối tượng có dự án khả thi về phát triển nông nghiệp, nông thôn...; Về môi trường cạnh tranh, hàng ngàn Công ty, DNNN đã đồng loạt được điều chỉnh thống nhất bởi Luật Doanh nghiệp chung có hiệu lực từ ngày 01/7/2010. Đây là một sự kiện pháp lý đánh dấu việc hội nhập thị trường của các Công ty Nhà nước và cũng sẽ là cơ hội cho môi trường thị trường ngày càng đồng chất hơn, lành mạnh và minh bạch hơn, các DNVVN có thể phát huy lợi thế về vị thế mới này trong việc tiếp cận vốn và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường... Ngoài ra, về cơ chế, nhiều NHTM lớn đã tự thành lập và/hoặc liên kết với các Công ty bảo hiểm tín dụng cho mình, theo đó khách hàng vay vốn tiêu dùng hay sản xuất được ưu tiên mua sản phẩm bảo hiểm giá rẻ hơn thị trường bảo hiểm truyền thống để được hưởng quyền lợi bảo hiểm trả nợ thay khi khách hàng bị rủi ro ở những mức cụ thể nào đó theo hợp đồng sản phẩm, làm cho cả ba bên: Ngân hàng, khách hàng và đơn vị Bảo hiểm đều có lợi trong việc người vay nói chung và các DNVVN nói riêng được tiếp cận vốn ngân hàng một cách “có bảo hiểm” – Công ty bảo hiểm độc lập của TCTD sẽ “thừa kế hóa” trách nhiệm trả nợ thay cho người thừa kế đương nhiên khi chủ nợ không thể hoàn nợ (do phá sản, tai nạn lớn, bệnh
- hiểm nghèo mất khả năng lao động và/hoặc biến mất theo nhiều nghĩa..., )... Tuy nhiên, các giải pháp về chính sách, về cơ chế dịch vụ bảo hiểm và/hoặc bảo lãnh v.v hiện hành mới chỉ là những điều kiện hỗ trợ và/hoặc những phương án tình thế sau cùng hay là những giải pháp để bổ sung niềm tin cho việc cung ứng tín dụng của TCTD cho bên vay nói chung và cho DNVVN nói riêng. Để giải bài tóan vốn cho DNVVN cần phải bổ sung các giải pháp mạnh và thiết thực hơn. b/ Nhóm giải pháp về ý tưởng làm nền cho chính sách, cơ chế mới Cần phải có hành lang pháp lý để “đỡ đầu” cho việc ra đời các giải pháp mang tính chiến lược, tính cụ thể, sát thực tế và dễ xác định trách nhiệm hơn, đó là: TCTD phải có quyền pháp định về việc được biết “tư cách” hay đúng ra là quyền được biết “năng lực” trả nợ của DNNVV thông qua các kênh thông tin được kiểm duyệt một cách chính qui, có tính bản chất của hoạt động tín dụng. Theo đó, các thông tin này càng ngày càng phải cấu thành một cách bắt buộc và đầy đủ vào “tư cách” đã được xác thực của các DNVVN. Đó là các kênh: i. Thông tin tín dụng khách hàng: gồm năng lực tài chính, độ tin cậy của phương án trả nợ, lý lịch tiếp cận tín dụng, năng lực Ban điều hành của DNVVN, tiềm năng thị trường đầu ra của DNVVN. Việt Nam đã có Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN đang quản lý một kho thông tin tín dụng khách hàng từ trách nhiệm báo cáo của TCTD và từ nguồn DN đệ trình để tham gia xếp hạng tín dụng, được lưu trữ qua nhiều năm. Gần đây Nghị định số 10/2010/NĐCP về hoạt động thông tin tín dụng đã ra đời, trong đó cho phép thành lập các Công ty cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng ngoài công lập, cũng sẽ là một kênh tham khảo quan trọng để bổ sung cho quyết định phương án cho vay đối với DNVVN của TCTD; ii. Kênh giao dịch bảo đảm thông qua các hình thức chứng thực của cơ quan có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm trước Pháp luật về việc chứng thực, chứng nhận tính đúng pháp lý của các tài sản đảm bảo khoản vay của các DNVVN; iii. Kênh kiểm toán nội bộ và nhất là kiểm toán độc lập cũng là kênh mới phát triển, nhưng vô cùng cần thiết, không chỉ cho TCTD thẩm định tính đúng đắn của các báo cáo tài chính DN, mà báo cáo tài chính có dấu xác nhận đã qua kiểm toán
- cũng rất cần cho tất cả các cơ quan thu thập và cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng; iv. Phải xác lập cơ chế “số hóa” đối với mọi DNVVN. Theo đó, trên cơ sở những văn bản pháp lý đã có và sẽ có, những cơ quan cung ứng thông tin tín dụng đã và sẽ hiện hữu; các Công ty kiểm toán độc lập đã và sẽ hình thành..., cần có văn bản pháp lý bắt buộc đối với các DNVVN đã có cũng như sẽ ra đời trong tương lai phải bổ sung và/hoặc buộc phải khai vào tờ “khai sinh” của mình các thông tin liên quan đến: số và/hoặc mã số đăng ký cung cấp thông tin về tài chính và hoạt động với đơn vị dịch vụ thông tin tín dụng chuyên nghiệp nào; số và/hoặc chứng nhận đăng ký chọn đơn vị kiểm toán độc lập nào làm cơ quan kiểm toán độc lập cho mình; Văn phòng Luật Sư nào bảo vệ quyền lợi cho mình...ngoài những thủ tục đăng ký mã số thuế, mã, nhãn mác, logo hàng hóa v.v tất cả những thông tin trên phải gắn với số hiệu của giấy phép kinh doanh gốc của DNVVN không thay đổi trong suốt đời hoạt động của DNVVN (dù DNVVN đó thay tên, thay địa điểm...trừ khi công bố phá sản hay sáp nhập vào đơn vị khác). Tính đích danh và minh bạch ban đầu kèm theo “tần suất” theo qui định các thông tin được cập nhật cụ thể tùy theo loại thông tin mang tính bắt buộc chung sẽ tháo dỡ được các rào cản về thủ tục hành chính, thời gian thẩm định... của ngân hàng đối với việc tiếp cận vốn của các DNVVN. v. Ngoài ra, hơn lúc nào hết, vai trò của các Hội nghề nghiệp phải được pháp luật cho bổ sung chức năng theo hướng không chỉ là diễn đàn tạo ra đồng thuận về thị trường, giá cả đầu vào, đầu ra, phản biện chính sách, tư vấn, tạo các Hội nghị, Hội thảo và “hô hào” chung chung như đã từng làm lâu nay...mà còn cần bổ sung vươn tới các vai trò làm đầu mối “đỡ đầu” để tổ chức hình thành các Định chế Quĩ đầu tư (QĐT) và/hoặc Công ty tài chính (CTyTC) trên cơ sở cổ phần đóng góp của các DNVVN thành viên để tạo ra các Pháp nhân đủ tư cách đăng ký và phát hành chứng chỉ Quĩ hay trái phiếu Công ty để hút vốn đầu tư khi có phương án khả thi trên TTCK, hoặc gọi vốn đầu tư vào chứng khoán của QĐT/CtyTC đối với các NHTM để tạo vốn trực tiếp cho cụm DNVVN là cổ đông của Quĩ hay của CtyTC theo qui
- chế. Nghĩa là QĐT/CtyTC của từng nhóm các DNVVN có quan hệ vốn và thị trường gần gũi nhau, hiểu biết rất rõ lẫn nhau, có các thông tin minh bạch về cơ quan kiểm toán, cơ quan thuế, cơ sở dịch vụ thông tin tín dụng cấp tin rõ ràng v.v sẽ cũng tạo ra những hàng hóa cả sơ cấp để tạo vốn kinh doanh cho các DNVVN “của mình”, cả thứ cấp để “xã hội hóa” qua các cuộc chạy tiếp sức của các nhà kinh doanh trên TTCK mà nếu “tự một mình” DNVVN đơn độc sẽ không thể làm được. Đây cũng là ý tưởng khắc phục những rủi ro từng xẩy ra tại Mỹ khi các ngân hàng đầu tư “chứng khoán hóa” nợ của các Công ty rất xa lạ với mình thì với ý tưởng về mô hình này, chúng ta có thể làm ngược lại: “chứng khoán hóa vốn” của chính các QĐT/CtyTC trước khi trở thành “nợ” của các DNVVN thành viên đã được QĐT/CtyTC của các DNVVN “sàng lọc” tư cách thành viên một cách chặt chẽ và hiểu biết trên cơ sở “buôn có bạn, bán có phường” và đồng thuận cộng đồng trách nhiệm bảo vệ Định chế tài chính là “QĐT/CtyTC” của chính mình. Tóm lại, những khó khăn của các bên cung ứng vốn trong quá trình thẩm định, xét duyệt cho các DNVVN vay vốn sẽ dần được tháo gỡ, nếu trước hết các cấp có thẩm quyền, các nhà quản lý, các nhà khoa học và đặc biệt là vai trò chủ thể của chính các đối tượng cũng như Hội nghề nghiệp cùng đồng thuận tháo gỡ những khó khăn về tư cách tiếp cận vốn trên TTTC nói chung và vốn tín dụng ngân hàng nói riêng cho các DNVVN. Đó là việc đồng thời khai thác triệt để những chính sách tốt còn hiệu lực và phát triển các chính sách đỡ đầu cho những cơ chế tiếp cận vốn mới, có hiệu quả đích thực cho đông đảo DNVVN nước ta.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình luật biển quốc tế - Chương I TỔNG QUAN VỀ LUẬT BIỂN VÀ CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982
14 p | 1069 | 263
-
Bài giảng Khái quát chung về Luật So sánh - TS. Bùi Nguyên Khánh
30 p | 255 | 41
-
Trình tự thủ tục tố tụng cạnh tranh
19 p | 288 | 26
-
Bài giảng Pháp luật kinh doanh quốc tế - Chương 5: Một số hợp đồng phổ biến trong đầu tư quốc tế
27 p | 163 | 11
-
Bài giảng Kinh tế học vĩ mô - Chương 1: Khái quát kinh tế vĩ mô
32 p | 308 | 10
-
Bài giảng Luật Tài chính: Bài 4 - ThS. Nguyễn Thị Hồng Nhung
17 p | 76 | 9
-
Bài giảng Pháp Luật Việt Nam đại cương: Bài 5 - Th.S Vũ Thị Bích Hường
13 p | 101 | 7
-
Thực trạng sử dụng các biện pháp phi thuế quan trong hoạt động thương mại quốc tế và hàm ý chính sách cho Việt Nam
15 p | 47 | 7
-
Bài giảng Pháp luật đại cương: Chương 4 - Hệ thống pháp luật (cấu trúc của hệ thống pháp luật)
30 p | 14 | 6
-
Bài giảng Luật kinh tế: Chương 6 - ThS. Bùi Huy Tùng
171 p | 73 | 6
-
Bài giảng Kinh tế học vĩ mô: Chương 1 - TS. Phan Thế Công
12 p | 85 | 6
-
Bài giảng Kinh tế học vĩ mô 1 - Chương 1: Khái quát kinh tế học vĩ mô
15 p | 43 | 5
-
Bài giảng Tư pháp quốc tế: Bài 2 - PGS.TS. Lê Thị Nam Giang
39 p | 31 | 5
-
Quy định pháp luật Việt Nam về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp cầm cố tài sản
7 p | 16 | 5
-
Bàn thêm về tính trái pháp luật quốc tế trong chính sách pháp luật biển của Trung Quốc – nhìn từ góc độ các nguyên tắc cơ bản và Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc
12 p | 50 | 4
-
Vai trò chính sách, pháp luật các quốc gia trong hoạt động khai thác, sử dụng Biển Đông
15 p | 46 | 3
-
Một số quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm điều kiện kinh doanh trong trường hợp thay đổi pháp luật đối với hoạt động đầu tư
8 p | 54 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn