intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khoa học giao tiếp và hành vi giao tiếp

Chia sẻ: Võ HạChí | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:53

703
lượt xem
231
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong diễn tiến của xã hội các cá nhân có sự tác động qua lại với nhau, mỗi cá nhân qua giao tiếp sẽ học hỏi được những hành vi xã hội thích hợp và hiểu được tác dụng, ý nghĩa của những hành vi đó trong điều kiện xã hội mà họ đang sống. Nói theo quan diểm xã hội học thì đó chính là văn hoá xã hội, là các yếu tố đảm bảo cho sự hợp tác, sự chung sống của các cá nhân trong xã hội....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khoa học giao tiếp và hành vi giao tiếp

  1. Khoa học giao tiếp và hành vi giao tiếp 1
  2. Chương I KHOA HỌC GIAO TIẾP VÀ HÀNH VI GIAO TIẾP I- GIAO TIẾP VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIAO TIẾP A. VAI TRÒ CỦA GIAO TIẾP TRONG XÃ HỘI 1. Giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với quá trình xã h ội hoá c ủa m ỗi cá nhân và c ả với sự phát triển, tiến bộ của xã hội nói chung Trong diễn tiến của xã hội các cá nhân có sự tác động qua lại với nhau, m ỗi cá nhân qua giao tiếp sẽ học hỏi được những hành vi xã hội thích hợp và hiểu đ ược tác d ụng, ý nghĩa c ủa nh ững hành vi đó trong điều kiện xã hội mà họ đang sống. Nói theo quan diểm xã hội học thì đó chính là văn hoá xã h ội, là các y ếu t ố đ ảm b ảo cho s ự h ợp tác, sự chung sống của các cá nhân trong xã hội. - Giao tiếp có tính quần chúng (Mass Communication) hay còn gọi là truyền thông đại chúng (Mass Media) lại càng có vai trò và tác dụng quan tr ọng trong xã h ội hi ện đ ại. Thu ộc ph ạm vi này có báo chí, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, sách báo, áp phích… ; thông qua các phương tiện ấy một lượng thông tin văn hoá khổng lồ được chuyển t ải t ới m ọi ng ười. Siberman (1981) gọi chúng là những truyền bá tập thể, tức là Media. Theo ông, tr ước khi tính đến giai đoạn Media, xã hội loài nguời đã trải qua giai đo ạn văn hoá nói (truy ền mi ệng) và sau đó là giai đoạn văn hoá viết mà đỉnh cao là Kỹ thuật in. K ỹ thuật in vẫn gi ữ vai trò quan trọng giai đoan Media, nhưng dần dần các Kỹ thuật truyền thanh và truyền hình ngày càng có vai trò nổi bật. - Xã hội càng phát triển và càng tiến bộ thì con người càng chuyển sang tr ạng thái m ới c ủa xã hội hoá và cá nhân hoá: một mặt người ta cảm thấy mình ngày càng h ội nh ập, g ắn v ới c ộng đồng, nhân loại: Mọi việc xảy ra trên toàn c ầu như chi ến tranh, xung đ ột s ắc t ộc, ô nhi ễm môi trường, thiên tai, nạn khủng bố…hầu như được tất cả mọi người chứng ki ến và qua các phương tiện truyền thông cảm nhận được sự liên quan… Nhưng mặt khác, cũng lại do các phương ti ện k ỹ thu ật truyền thông (truy ền thanh, truy ền hình, điện thoại di động…) mà chúng ta cảm thấy cuộc sống m ỗi cá nhân ngày càng bi ệt l ập, chia tách hơn trước với xã hội, với cộng đồng. Theo Mold (1986) v ới k ỹ thu ật hi ện đ ại, con người qua “giao tiếp công nghệ” gắn mình với các nguồn văn hoá theo s ự l ựa ch ọn riêng và h ầu như sống ngoài xã hội sinh động. Nhưng đôi khi toàn thế giới có thể đạt tới từng đ ộ cao, các Media có tính qu ần chúng nh ư (báo chí, phát thanh, truyền hình…) đã gây sức ép xã h ội r ất l ớn đến m ỗi cá nhân, th ậm chí có thể xuyên tạc, nhào nặn lại cả các thông tin trước khi cung cấp cho m ọi người. Khi còn có b ất công trong xã hội, các tổ chức độc quyền, lũng đoạn trong xã h ội n ắm các ph ương ti ện này thì các cá nhân sẽ mất tính độc lập, tự chủ trong suy nghĩ và hành đ ộng do ch ịu ảnh h ưởng ấy. Ngày nay nhân loại rất chú ý đến ảnh hưởng c ủa truyền hình, nhất là đ ối v ới s ự phát tri ển trí tuệ và nhân cách của trẻ em. Như vậy là các Media có ảnh hưởng rất lơn đ ến cu ộc s ống cá nhân, v ới s ự phát tri ển c ủa văn hoá giáo dục nói chung. Trong xã hội hi ện đại, chính các Media chuy ển t ải các n ội dung văn hoá và tạo ra cái gọi là “văn hoá quần chúng”, ảnh hưởng tới sự phát triển chung. - Giao tiếp không lời (Noverbal Communication) cũng có tác dụng quan tr ọng. Đó là s ự giao tiếp bằng các cử chỉ, các biểu hiện của cơ thể của con người. Trong quá trình giao ti ếp, s ự vận động của cơ thể có chức năng truyền đạt các n ội dung thông tin, đ ồng th ời bi ểu l ộ các sắc thái xúc cảm, tình cảm của con người từ các phía giao ti ếp v ới nhau. Các dân t ộc bán khai thiên về lối giao tiếp không lời. Trong các công trình nghiên cứu gần đây người ta cũng thấy ở các dân tộc với các nền văn hoá khác nhau cũng đều có những biểu lộ xúc c ảm (yêu thương, giận dữ, buồn bã, sợ hãi…), tuy mức độ và cách biểu hiện có khác nhau (người châu 2
  3. Âu, châu Phi biểu lộ tình cảm sôi nổi; trái lại người châu Á kín đáo, ít biểu lộ tình cảm ở nơi công cộng). Trong công trình nghiên cứu giao tiếp của Birdwhistell, tác gi ả này đã gi ả đ ịnh là nh ững t ư thế, cử chỉ trong giao tiếp không lời là kết quả c ủa sự lựa ch ọn t ự nhiên- nh ưng các c ử ch ỉ này tự nó không có nghĩa gì, mà chúng chỉ trở nên có ý nghĩa khi đặt trong mối tương tác giữa các cá nhân. Trong trường hợp này, văn hoá có vai trò rất quan trọng- bởi vì thông qua văn hoá, người ta lựa chọn từ hàng ngàn cử động của thân thể tạo thành h ệ th ống giao ti ếp (văn hoá) đúng với ý nghĩa của nó. 2. Tầm quan trọng của các kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống con người Trong cuộc sống, xây dựng được mối quan hệ với người khác là m ột nhu c ầu có tính ch ất b ắt buộc của con người. Một người bình thường bao giờ cung mong muốn có quan hệ với người khác, nhất là khi có những nhu cầu riêng tư muốn được đáp ứng, tho ả mãn qua vi ệc t ương giao, ảnh h ưỏng l ẫn nhau. Sự thành công trong sự nghiệp, hạnh phúc gia đình, tình cảm bạn bè- tất c ả đ ều tuỳ thu ộc vào vi ệc xây dựng và duy trì các mối quan hệ giao tiếp với mọi người. Giao tiếp chính là khía cạnh đặc biệt nhất, là tiềm năng thể hi ện niềm hân hoan, s ự vui thích, hứng thú trong sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, tạo cho nhau sự ấm cúng, thúc đẩy m ỗi ng ười t ự hoàn thiện mình trong mối tương giao với người khác. Tình bạn sâu sắc, đằm thắm trong cuộc sống đời thường, tu ổi tr ẻ, quan h ệ tình yêu,…t ạo ra sự hoà nhập với người khác giới- tất cả chính là các nhân tố thúc đ ẩy con ng ười s ống hoà h ợp, g ắn bó với nhau, cùng phấn đấu cho mục đích chung, làm cho cu ộc sống có ý nghĩa và ngày càng đ ậm đà, phong phú hơn. Nói cụ thể hơn, cuộc sống của mỗi chúng ta có ngày càng hoàn chỉnh, phong phú, có ý nghĩa và ta cảm thấy thoả mãn hay không là tuỳ thuộc vào tính chất c ủa các m ối quan h ệ gi ữa ta và ng ười khác; điều đó nói lên rằng trong cuộc sống c ủa m ỗi người, n ếu chúng ta mu ốn có h ạnh phúc cá nhân đích thực thì phải tự khẳng định mình và thông qua các m ối quan h ệ v ới nh ững ng ười khác mà góp phần xây dựng hạnh phúc chung của toàn xã hội. Mối quan hệ giao tiếp giữa người và người, như trên đã nêu là rất thiết yếu đối với hạnh phúc cá nhân ở nhiều khía cạnh khác nhau: tương giao, quan hệ giúp chúng ta tích lu ỹ tri th ức, hi ểu th ấu đáo về “thế thái nhân tình”; giao tiếp, hội nhập giúp ta hiểu rõ mình hơn, hình thành đ ược ph ẩm chất nhân cách theo hướng tích cực và thuần phác, tạo ra sự hài hoà cân đ ối trong cu ộc s ống v ật chất và tinh thần. Không thể hình dung sự phát triển nhân cách của m ỗi người mà không có s ự phát tri ển đ ồng thời các phẩm chất, năng lực của cá nhân với sự phát tri ển c ủa người khác, b ởi vì s ự phát tri ển các mối tương quan này luôn luôn diễn ra song song, phụ thuộc lẫn nhau. Đặc biệt là đối với trẻ em; chúng cần được lớn lên, được nuôi d ưỡng, săn sóc và giáo d ục trong mối quan hệ với gia đình, nhà trường và xã hội- nhất là khi bắt đ ầu r ời gia đình, vào h ọc ở nhà trường,. Ở đây, các mối quan hệ giao tiếp với bạn bè, với m ọi người đ ột ngột đ ược m ở r ộng. Sau này lớn lên khi đi làm, mối giao ti ếp với xã h ội, v ới nh ững đ ồng nghi ệp c ủa chúng ta càng ngày càng mở rộng và phức tạp hơn. Nhìn chung từ gia đình, các b ạn bè cùng trang l ứa, đ ồng nghi ệp, thầy cô giáo mà con người lần lượt thu nhận, thể nghi ệm đ ược các hi ểu bi ết, các k ỹ năng, hình thành được khả năng mới, có thái độ rõ ràng, sâu sắc. Những điều này rất có ý nghĩa đối với sự phát triển nhân cách của bản thân. Cùng với thời gian, và sự tr ưởng thành, s ố l ượng các quan h ệ v ới những người mà chúng ta cần có quan hệ, giao ti ếp ngày càng đông càng ph ức t ạp thêm mãi. Đi ều này cũng có nghĩa là nhờ giao tiếp, và thông qua giao ti ếp mà chúng ta xây d ựng quan h ệ lành m ạnh với mọi người xung quanh. Sự tăng trưởng và phát triển của chúng ta về tri thức, về ý thức xã h ội ở các mức độ nhất định được quyết định bởi tính chất c ủa các mối quan h ệ giao ti ếp v ới m ọi ng ười xung quanh và trên thực tế, bản sắc cá nhân c ủa m ỗi người đ ược hình thành trong quá trình quan h ệ giao tiếp với mọi người. Mỗi khi giao tiếp, tương tác với người khác, chúng ta có d ịp quan sát, ghi 3
  4. nhận các phản ứng, các thái độ phản hồi của họ, nhờ đó mà bi ết cách tự tìm hi ểu, nhìn nh ận, đánh giá mình qua thái độ và cách nhìn nhận của họ đối với bản thân ta m ột cách sinh đ ộng, chân th ực và khách quan: khi được đánh giá cao, ta thiên về sự phấn đấu để xứng đáng nh ư v ậy. Chúng ta s ẽ có dịp học hỏi những điều hay rút ra từ quan hệ giao ti ếp với người khác, t ừ đó t ự tin h ơn, t ự kh ẳng định được mình. Hơn thế nữa khi chúng ta timg hiểu thế giới xung quanh- để có th ể tin t ưởng, phê phán cái gì là ảo tưởng cái gì là chân lý, m ột phần chúng ta cũng h ọc h ỏi, rút ra đ ược t ừ trong các quan hệ giao tiếp mà củng cố nhận thức và cảm nghĩ c ủa chính mình. Th ậm chí c ả khi chiêm ngưỡng một cảnh đẹp, ngâm một bài thơ, thưởng thức m ột áng văn, m ột tác phẩm ngh ệ thu ật, đ ể có thể kiểm chứng cảm nghĩ và kiến thức của mình, chúng ta đ ều c ần phải trao đ ổi “thông tin” v ới người khác và tốt hơn cả là chia sẻ cách hiểu, cách cảm ấy thông qua quan h ệ giao ti ếp v ới m ọi người. Ngay cả sức khoẻ và tâm lý của một người cũng cần được xây dựng trên m ối quan h ệ t ương tác với những người khác. Theo Johnson (1980), khả năng xây dựng và duy trì các m ối quan h ệ h ợp tác và phụ thuộc lẫn nhau với những người khác thường được xen như là sự bi ểu l ộ s ơ kh ởi c ủa sức khoẻ tâm lý. Một ssó người vì một vài ký do nào đó không th ể xác đ ịnh n ổi m ối quan h ệ giao tiếp với mọi người, thường có thái độ lo âu, suy nghĩ, bất lực và cô đơn. Hầu như k ỹ năng giao ti ếp vụng về cũng là sự biểu lộ nguyên nhân của tâm bệnh ở người. Chúng ta, những người bình thường cần phải tham gia vào đ ời sống c ộng đ ồng, và thông qua các quan hệ giao tiếp, giao lưu trong đời sống ấy mà gi ữ lấy tâm h ồn lành m ạnh, t ạo ra s ự bình an trong cuộc sống. Các công trình nghiên cưú về xã hội học y học cho thấy nhi ều bệnh tr ầm tr ọng như bệnh tim mạch, bệnh tâm thần…thường xảy ra nhiều hơn ở những người luôn luôn b ị cô l ập, bị ức chế về tâm lý và có cuộc sống cô đơn không bình th ường. Chính “cu ộc s ống bình th ường” mà chúng ta thường quan niệm đã được tạo ra nhờ mối giao tiếp với người khác và tạo cho chúng ta c ơ hội để đáp ứng lẫn nhau, kăhngr định nhau, trở thành con người có văn hoá, có s ức kho ẻ, có giá tr ị và “bình thường”. Với quan điểm hoà nhập, cởi mở hơn để xem xét mối quan hệ giao ti ếp và tác d ụng c ủa nó, chúng ta khẳng định rằng: sự tiến hoá và sự tồn tại- phát tri ển có ý nghĩa c ủa loài ng ười luôn luôn gắn chặt với khả năng con người đề xuất, tạo lập và phát triển được mối quan hệ giao tiếp ổn định với mọi người. Theo con đường phát triển và tiến hoá, chúng ta được sinh ra, đ ược nuôi d ưỡng và phát tri ển trong mối quan hệ gắn bó với mọi người (trước hết ở gia đình), được giáo d ục b ởi ng ười khác v ề văn hoá- đạo đức, khoa học, ngôn ngữ…, được học và rèn luyện m ột cách sáng t ạo theo khuôn m ẫu các giá trị của xã hội, trong một nền văn hoá đích thực. Nền tảng của mọi nền văn minh và của mọi xã hội được sáng tạo, l ưu truyền, phát tri ển thông qua khả năng loài người hợp tác với nhau, cùng phối hợp hành đ ộng đ ể đạt t ới m ục tiêu chung. Xã hội càng phát triển càng trở nên phức tạp; ảnh hưởng tới đ ời s ống xã h ội c ủa khoa h ọc kỹ thuật càng mạnh mẽ thì vai trò của giao tiếp giữa người và người càng có ý nghĩa sâu s ắc và mang tính nhân văn. Cho dù kinh tế phát triển, khoa học và công ngh ệ đem l ại m ức s ống và l ối s ống cao đến đâu thì con người vẫn phải hợp tác, liên k ết v ới nhau vì l ợi ích, h ạnh phúc chung, chia s ẻ ngọt bùi, trao đổi với nhau về tài nguyên, về sản vật, hàng hoá và cùng nhau làm l ụng m ưu c ầu hạnh phúc cho nhau vì một xã hội văn minh, hiện đại. Cái khó nhất ở đây là chúng ta phụ thuộc vào nhau khá chặt chẽ, cho nên lại c ần trang b ị cho nhau kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết trong giao tiếp hàng ngày. Trong một xã hội tốt đẹp thì phần đông con người và hoạt đ ộng c ủa h ọ d ường nh ư d ựa trên tình thương yêu đùm bọc, mến mộ nhau giữa người và người. Con người có bản chất là con người xã hội. Niềm hạnh phúc và sự hoàn thi ện c ủa m ỗi chúng ta phụ thuộc khá nhiều vào khả năng xây dựng quan hệ tốt đẹp và biết giao tiếp v ới người khác một cách có định hướng, có hiệu quả. Nếu thật sự có tính nhân lo ại, có tính h ướng thi ện ở con người thì các tính đó trước hết phải thể hiện thông qua sự hội nhập vào các n ền văn hoá c ủa nh ững 4
  5. con người, nhờ đó thể hiện được bản sắc, bản lĩnh người của mình, trước h ết xu ất phát t ừ vi ệc giao tiếp và thông qua giao tiếp. Rất nhiều từ ngữ, thể hiện mối tương quan này, phản ánh tính chất của các quan hệ trong giao tiếp như lòng tử tế, lòng nhân từ, đức khoan dung, s ự suy xét, tính d ịu dàng, tình yêu, sự thông cảm, sự quan tâm, sự đáp ứng, sự tế nh ị trong quan h ệ- t ất c ả v ừa là đ ạo đức, vừa mang tính nhân đạo cao. Hướng vào việc xây dựng một xã hội “dân giàu, n ước m ạnh, xã h ội công bằng văn minh”, trước hết chúng ta phải xây dựng được mối quan hệ đoàn kết, gắn bó và h ợp tác v ới nhau coi tr ọng vai trò của giao tiếp. B. CÁC QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ GIAO TIẾP Trước đây, trong một thời gian dài, giao tiếp chỉ được xem như là một phạm trù của triết học duy tâm nghiên cứu về hoạt động giao tiếp giữa người với người, qua đó cái “tôi” đ ược bi ểu l ộ ở người khác. Giao tiếp được nghiên cứu đầy đủ trong Chủ nghĩa hiện sinh c ủa Iaxpecxơ Cáclơ (1883-1969)- đ ại diện cho những người theo chủ nghĩa hiện sinh Đức. Ông là bác sĩ tâm thần, sau chuyển sang nghiên cứu triết học) và theo chủ nghĩa nhân cách Pháp hiện nay. Về lịch sử, thuyết giao tiếp được hình thành để đối lập lại thuyết “khế ước xã h ội” bắt ngu ồn t ừ phong trào khai sáng (trào lưu chính trị xã hội chủ trương thay đổi xã hội hiện tại). Những người theo thuyết giao tiếp như Iaxpecxơ, O.Bonnóp, E.Muniê…nhấn m ạnh r ằng kh ế ước xã hội về cơ bản chỉ “là một sự thoả thuận, một sự hợp đồng trong đó những ng ười tham gia bị hạn chế bởi những lời cam kết từ hai phía; họ chỉ tự giác và hi ểu nhau d ưới ánh sáng c ủa các l ời cam kết này, tức là một cách trừu tượng, không có cá tính” (Từ điển Triết học). Khế ước- theo họ đó là một liên hệ dựa trên sự chia tách thực tế của những con người . Còn giao tiếp thì được xem là một sự lệ thuộc lẫn nhau được thi ết lập m ột cách t ự giác và đ ối l ập l ại khế ước. Biện pháp để xác lập sự giao tiếp là tranh luận và trong quá trình này, người ta th ấy rõ ràng các tiêu chuẩn tư duy được mọi người thừa nhận lại chia tách h ọ ra, còn nh ững đi ều làm h ọ g ắn bó nhau lại là ở chỗ họ khác nhau mỗi người mỗi vẻ. “M ỗi người m ỗi v ẻ” th ật ra là nh ững đi ều s ợ hãi, lo lắng và băn khoăn chủ quan được che đậy công phu, trong đó con người theo cách riêng c ủa mình, rút cuộc lại chỉ thấy mình trên thực tế bị lệ thuộc vào m ột t ập đoàn xã h ội nh ất đ ịnh trong xã hội hiện tại. Do đó tranh luận chẳng qua là để làm rõ tính chất lệ thuộc ấy, và học thuyết về giao tiếp phải tìm ra mối liên hệ có tính biện chứng giữa “con người xã hội” với nhau. Hoạt động giao tiếp thật ra vốn tồn tại trong đời sống xã hội từ khi xã h ội loài người xu ất hiện. Trong các lễ hội, hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá các mi ền c ổ đ ại (La Mã, Hy L ạp, Trung Hoa, Ấn Độ, Đông Nam Á…), các dân tộc đã có những giao lưu văn hoá còn được ghi nhận trong các văn vật, trong các truyền thuyết, trường ca cổ đại (trường ca Iliát Ôđixê; Kinh thi, Tr ường ca Đam San”… Những hình thức giao lưu, giao tiếp về văn hoá, kinh tế…gắn liền với trình độ văn minhvà quá trình phát triển tiến bộ của xã hội loài người. Ngày nay, vận dụng triết học duy vật biện chứng và ch ủ nghĩa duy vật l ịch s ử, chúng ta đi đ ầu nghiên cứu về giao tiếp, tìm ra những yếu tố hợp lý để phát tri ển, ti ếp c ận v ới nhu c ầu phát tri ển và của xã hội hiện nay. Tất nhiên chúng ta vừa gạt bỏ các định ki ến hẹp hòi đ ối v ới vi ệc nghiên c ứu v ề giao ti ếp trước đây nhưng mặt khác, vừa thừa nhận rằng nhiều tác giả ở thế kỷ 18 chủ trương làm thay đ ổi phong tục, tập quán, chính trị…bằng cách phổ biến cái thiện, chính nghĩa và khoa học . Đại diện cho họ là Vônte, Rútxô, Môngtextkiơ, Hécde, Letinh, Silơ, G ớt…Đây là phong trào có ảnh h ưởng l ớn 5
  6. đến các quan điểm xã hội ở Tây Âu hồi đó cho rằng giao ti ếp gi ữa người và người là nhu c ầu n ảy sinh gắn liền với những điều kiện lịch sử phát triển của xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Những yếu tố như thời gian, không gian, các thể chế xã hội, phong tục t ập quán trong m ột xã hội…luôn luôn quy định phạm vi mức độ của các hoạt động giao tiếp. Như vậy, cũng như hoạt động văn hoá, sự giao tiếp c ủa con người luôn luôn mang tính ch ất lựa chọn, kế thừa và phát triển những thành tựu, tinh hoa của các thế hệ đi tr ước truyền l ại và góp phần xây dựng nên nền văn hoá cũng như trình độ văn minh của một dân tộc, một quốc gia. Nghiên cứu về giao tiếp để lĩnh hội hết ý nghĩa, nội dung sâu xa của nó phải gắn liền với việc nghiên cứu về lịch sử văn hoá, về văn hoá học nói chung. II- KHÁI NIỆM GIAO TIẾP VÀ CÁC CÁCH TIẾP CẬN A. KHÁI NIỆM GIAO TIẾP 1. Định nghĩa về giao tiếp (Hải thêm) Trong những lúc thức tỉnh, con người thường xuyên đang giao ti ếp theo những cách khác nhau và trong những môi trường khác nhau, vừa gửi và vừa nhận các thông đi ệp. Ng ười l ớn s ử d ụng 42,1% tổng số thời gian giao tiếp bằng ngôn ngữ của mình cho việc lắng nghe, trong khi đó sử dụng 31,9% thời gian giao tiếp của mình cho việc nói. Chỉ có 15% thời gian giao tiếp của chúng ta dành cho việc đọc và 11% cho việc viết. (Paul Tory Rankin, 1930). Hằng ngày, bạn có thể nói chuyện với các bạn bè của mình, lắng nghe các thành viên trong gia đình, nhân được các thư từ, quan sát và phản ứng với các c ử ch ỉ, đi ệu b ộ và nét m ặt c ủa nh ững người khác, thậm chí tiếp tục các cuộc “trò chuyện” với bản thân mình. Bạn - gi ống nh ư m ọi người- là một con người giao tiếp. Mỗi ngày, tuỳ theo những khả năng c ủa mình chúng ta nói, l ắng nghe, viết, đọc, suy nghĩ và giải thích các thông điệp. Không có nh ững kh ả năng này thì chúng ta s ẽ mất đi nhiều thứ mà loài người đã tạo ra cho chúng ta. Giao tiếp của con người là một quá trình có chủ định hay không chủ định, có ý thức hay không ý thức mà trong đó các cảm xúc và tư tưởng được biểu đạt trong các thông điệp bằng ngôn ng ữ hoặc phi ngôn ngữ. Giao tiếp của con người được diễn ra ở các mức độ: trong con người (intrapersonal), giữa con người với con người (interpersonal) và công cộng (public). Giao tiếp của con người là một quá trình năng động, liên tục, bất thuận nghịch tác đ ộng qua l ại và có tính ch ất ngữ cảnh. (David K.Berlo, 1960). Giao tiếp trong con người xảy ra trong bản thân con người. Nó gồm các ho ạt đ ộng nh ư quá trình suy nghĩ (tư duy), ra quyết định cá nhân và xác đ ịnh khái ni ệm v ề b ản thân. Giao ti ếp gi ữa con người với con người là sự giao tiếp mà từ đó những người tham gia trao đ ổi các c ảm xúc và t ư tưởng với nhau. Các hình thức giao tiếp giữa con người với con người là nói chuyện, ph ỏng v ấn và thảo luận theo nhóm nhỏ. Giao tiếp công cộng có đặc đi ểm là m ột người nói gửi m ột thông đi ệp cho một đám đông thính giả. Giao tiếp công cộng có th ể là tr ực ti ếp nh ư: m ột thông đi ệp m ặt đ ối mặt mà người nói chuyển tới một đám đông thính giả, ho ặc là gián ti ếp như: m ột thông đi ệp nh ận được thông qua một phương tiện truyền thông đại chúng như rađiô hay tivi. Giao tiếp của con người là một quá trình năng động bởi vì nó thường xuyên ở trong trạng thái thay đổi. Vì thái độ, kì vọng, cảm xúc và tình c ảm c ủa các cá nhân đang giao ti ếp thay đ ổi, nên b ản chất của sự giao tiếp của họ cũng thay đổi. Giao tiếp là một quá trình liên tục bởi vì nó không dừng lại. Dù là đang ngủ hay thức dậy, mỗi chúng ta đều đang chế biến các tư tưởng và thông tin qua các giấc mơ, sự suy nghĩ và biểu c ảm c ủa chúng ta. Bộ não của chúng ta còn hoạt động thì chúng ta còn đang giao tiếp. Giao tiếp là một quá trình bất thuận nghịch (không đảo ngược được) . Một thông điệp vừa mới được gởi đi thì nó không thể bị huỷ bỏ. Điều vừa mới được hé mi ệng ra, m ột cái nhìn thoáng qua đầy ý nghĩa vừa mới được ghi nhận, hay một lời nói đầy tức gi ận vừa trót th ốt ra…đ ều không thể xoá bỏ được. Chúng ta có thể xin lỗi hay phủ nhận, nhưng đi ều đó không tr ừ kh ử đ ược nh ững gì đã xảy ra. 6
  7. Giao tiếp là một quá trình tác động qua lại. Chúng ta thường xuyên tiếp xúc với người khác và với bản thân mình. Người khác phản ứng lại những lời nói và hành đ ộng c ủa chúng ta, và m ỗi chúng ta cũng phản ứng lại lời nói và hành động của chính mình. Lần l ượt, chúng ta ph ản ứng v ới những phản ứng đó. Như vậy là, một chu kỳ các hành động và phản ứng trở thành c ơ sở cho sự giao tiếp của chúng ta. Quá trình giao tiếp đầy phức tạp này có tính chất ngữ cảnh, bởi vì một phần kinh nghiệm của cả nhân loại là rất lớn. Sự phức tạp của giao tiếp nói lên rằng , với tư cách là những người giao tiếp, chúng ta phát triển sự nhận thức và các kỹ xảo để hoạt động một cách có hi ệu qu ả theo kinh nghiệm đó. Với tư cách là những người giao tiếp, chúng ta tham gia vào quá trình c ủa loài ng ười c ả trong lĩnh vực nghề nghiệp, lẫn cả trong lĩnh vực cuộc sống cá nhân của mình. 2. Nội dung giao tiếp (Hải thêm) Nội dung giao tiếp: Con người trao đổi những gì với nhau trong quá trình giao ti ếp? Giao ti ếp có mặt trao đổi thông tin, thông điệp. Nội dung của thông tin, thông đi ệp đó t ạo thành n ội dung giao tiếp. Giao tiếp của con người có những nội dung sau: Các tri thức khoa học và đời sống. Chẳng hạn, giáo viên truyền thụ cho sinh viên nh ững ki ến thức chuyên môn; Cha mẹ bồi dưỡng cho trẻ thơ những hiểu biết về đời sống xã hội, tự nhiên… Các kỹ năng, kỹ xảo. Ví dụ, giáo viên dạy nghề truyền thụ cho học viên những k ỹ năng, k ỹ xảo nghề nghiệp cụ thể trong quá trình đào tạo họ. Nội dung giao tiếp cũng có thể là con người: bề ngoài, các đặc điểm tính cách của họ, cung cách hành vi của họ v.v… Chúng ta gặp bạn bè, người thân, chúng ta ph ấn kh ởi, vui m ừng đ ược trông thấy nhau, được ở bên nhau, “được thở hít chung một bầu không khí”. Công việc, nhiệm vụ, sự thực hiện và giải quyết các nhiệm vụ đó của cá nhân, nhóm hay tập thể cũng là một nội dung giao tiếp hàng ngày. Các cán bộ giảng dạy thảo luận về k ế ho ạch gi ảng dạy của năm học chẳng hạn, là một ví dụ về loại nội dung giao tiếp này. Quan hệ và quan hệ qua lại được thực hiện trong giao tiếp cũng là n ội dung đặc bi ệt c ủa giao tiếp, đem lại cho nó một bản sắc độc đáo, quyết định các phương ti ện và cung cách giao ti ếp. Toàn bộ hệ thống giao tiếp của cá nhân phụ thuộc vào chỗ các m ối quan hệ qua l ại đã đ ược hình thành như thế nào. Tất cả những điều kể trên chỉ là những dấu hiệu đặc trưng riêng l ẻ c ủa n ội dung giao ti ếp. Các đề tài giao tiếp cụ thể ở mỗi người thì có nhi ều và đề tài giao ti ếp càng phong phú, đa d ạng thì phạm vi giao tiếp của con người càng lớn, nhân cách của họ càng phong phú, súc tích. 3. Các chức năng của giao tiếp (Hải thêm) Các chức năng của giao tiếp. Trong cuộc sống con người, giao tiếp thực hiện các chức năng quan trọng. Đó là: - Tổ chức hoạt động phối hợp cùng nhau của con người. Con người luôn luôn cần có sự giúp đỡ của người khác. Họ luôn luôn sống, hoạt động bên c ạnh nh ững người khác và cùng v ới những người khác. Ngay từ đầu đã bộc lộ mối liên hệ duy vật giữa con người với nhau. Mối liên hệ này là do những nhu cầu và phương thức sản xuất quyết định. “Từ lúc đ ầu, loài người đã phải đấu tranh với tự nhiên để sông còn, như ch ống thú d ữ, ch ống m ưa n ắng… Muốn thắng lợi thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông người, t ức là c ủa t ập thể, của xã hội. Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không th ể th ắng n ổi t ự nhiên, không sống được” (Hồ Chí Minh). Không có giao tiếp thì con người không th ể trao đ ổi kinh nghiệm, thống nhất mục đích, phương pháp hành động được, do đó hoạt động ph ối h ợp cùng nhau cũng không thể có được. - Làm cho con người nhận thức được lẫn nhau (Xem mục “Tri giác xã hội” ở chương III). - Hình thành và phát triển các mối quan hệ liên nhân cách. Đây là chức năng quan trọng và phức tạp nhất. Dự phân tích chức năng này đòi hỏi ph ải có s ự nghiên c ứu ph ức h ợp không phai chỉ của Tâm lý học, Xã hội học, Đạo đức học, mà c ả Kinh t ế h ọc n ữa. Các quan h ệ đồng chí bạn bè, hay ngược lại, thù địch, căm thù v.v… được hình thành như th ế nào? C ơ 7
  8. chế tâm lý của các hiện tượng đó ra sao? Vai trò c ủa chúng trong s ự phát tri ển c ủa cá nhân như thế nào? - Hai chức năng trên được thực hiện như thế nào phụ thuộc vào nh ững m ối quan h ệ đ ược hình thành giữa những người giao tiếp với nhau. (Xem mục “Quan h ệ liên nhân cách” ở chương III). - Trong hành động giao tiếp trực tiếp thực tế thì tất cả các chức năng k ể trên đ ược th ể hi ện một cách thống nhất. Đồng thời chúng được thể hiện thế này hay th ế kia đ ối v ới m ỗi ng ười tham gia giao tiếp theo những cách khác nhau. Ví dụ, đ ối v ới người này thì hành đ ộng giao tiếp được bộc lộ như là sự truyền tin, đối với người khác lại bộc lộ trong ch ức năng gi ải toả xúc cảm căng thẳng. Các chức năng tổ chức ho ạt động phối h ợp, tri giác lẫn nhau và quan hệ liên nhân cách cũng không giống nhau đối với những người tham gia giao tiếp. - Đến đây chúng ta thấy rõ giao tiếp là một phương thức thể hiện của bản chất người, chính trong giao tiếp và chỉ thông qua giao tiếp bản chất người c ủa chúng ta m ới đ ược th ể hi ện. Được hình thành trong quá trình lao động, giao ti ếp là ti ền đ ề tất yếu, quyết đ ịnh s ự n ảy sinh và phát triển của hình thái hoạt động tâm lý đ ặc tr ưng c ủa con ng ười- ý th ức. Ch ức năng khởi đầu của ý thức con người là chức năng định h ướng trong môi tr ường xung quanh con người, thiết lập mối liên hệ với các sự vật được lôi kéo và phạm vi ho ạt đ ộng c ủa h ọ, với những người khác. Cùng với ý thức, ngỗn ngữ cũng là sản phẩm c ủa giao ti ếp, nó n ảy sinh đ ể đáp ứng nhu c ầu trao đổi thông tin của con người nhằm mục đích thống nhất các nỗ lực của mình và tác động qua lại có hiệu quả nhất. - Giao tiếp là điều kiện tồn tại và là nhu cầu hữu c ơ của con người. Khi m ới ra đ ời, tr ẻ s ơ sinh là một thực thể bất lực. Nếu không được giao tiếp với người lớn, nh ững ng ười nuôi dưỡng, thì đứa trẻ không tồn tại được, càng không thể phát tri ển được. Nhu c ầu giao ti ếp là một trong những nhu cầu xã hôi cơ bản và xuất hiện sớm nhất ở con người. S ự không tho ả mãn nhu cầu này sẽ gây nên ở con người- thuộc bất kì lứa tuổi nào “nh ững trải nghi ệm tiêu cực, những sự lo âu, chờ đợi một cái gì không hay xảy ra m ặc dù không có gì đe do ạ h ọ c ả”. Con người là nhu cầu quan trọng nhất của con người. Con người sẽ m ất mát nhi ều, n ếu h ọ không thể so sánh mình với người khác, không thể trao đổi những ý nghĩ c ủa mình v ới ai, không thể hướng tới một ai được. Căn thù một ai đó còn tốt hơn sống cô đ ộc… S ự th ờ ơ, lãnh đạm, cũng như thái độ dửng dưng có khác nào như chết vây.” (R.Noibert). B. CÁC CÁCH TIẾP CẬN HIỆN TƯỢNG GIAO TIẾP Phần trình bày ở trên đã cho thấy giao ti ếp là m ột quá trình ph ức tạp, nhi ều m ặt, nhi ều m ức độ của sự tác động qua lại về mặt tâm lý- xã hội giữa con người với con người. Trong giao ti ếp có các mặt: trao đổi thông tin, tác động lẫn nhau, nhận th ức, hi ểu bi ết l ẫn nhau. Do đó có nhi ều cách tiếp cận đối với hiện tượng giao tiếp. Trước hết giao tiếp là một vấn đề của Tâm lý học (tâm lý học đại cương, tâm lý học xã hội). Trong quá trình giao tiếp, con người có sự tiếp xúc tâm lý thực sự với nhau, hình thành các mối quan hệ và quan hệ liên nhân cách với nhau. Giao ti ếp là m ột nhu c ầu xã h ội c ơ b ản c ủa con ng ười, là điều kiện của sự tồn tại và phát triển của con người như là m ột nhân cách. M ặt c ơ b ản nh ất c ủa giao tiếp chính là nhu cầu về sự quan tâm, sự thiện chí, sự hi ểu bi ết, c ảm thông, tán đ ồng… nghĩa là nhu cầu về sự tiếp xúc tình cảm với người khác. Tất c ả những v ấn đ ề đó là đ ối t ượng nghiên cứu của Tâm lý học. Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp quan trọng đặc trưng c ủa con ng ười. Trong giao ti ếp con người sử dụng cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ vi ết và c ả ph ương ti ện ti ếp c ận ngôn ng ữ (gi ọng nói- paralanguage). Do vậy giao tiếp cũng được Ngôn ngữ học nghiên cứu, với khía cạnh ngôn ngữ trong giao tiếp của con người. 8
  9. Trao đổi thông tin là một mặt không thể thi ếu được c ủa giao ti ếp. Trong quá trình giao ti ếp, con người gửi và nhận các thông điệp- thông tin với nhau. Các thông tin này đ ược người gửi mã hoá và người nhận giải mã theo một hệ thống ký hi ệu nhất đ ịnh. Vì vây, hi ện t ượng giao ti ếp cũng được xem xét, khảo cứu từ góc độ của lý thuyết thông tin. Giao tiếp của con người diễn ra trong những môi trường văn hoá, trong nh ững n ền văn hoá nhất định. Trong mỗi nền văn hoá đó, con người sử dụng m ột th ứ ti ếng nh ất đ ịnh, m ột h ệ th ống các phương tiện phi ngôn ngữ nhất định để giao tiếp. Gi ữa các n ền văn hoá khác nhau cũng có s ự giao tiếp với nhau. Mặt khác, để phát triển những mối quan hệ giữa con người với con người m ột cách tốt đẹp, để sự giao tiếp của mỗi người có hiệu quả, c ộng đ ồng cũng nh ư m ỗi cá nhân cũng cần phải có một văn hoá giao tiếp nhất định. Như thế, giao ti ếp còn đ ược ti ếp c ận t ừ góc đ ộ Văn hoá học. Xã hội học cũng nghiên cứu hiện tượng giao tiếp ở góc độ dây là m ột hi ện t ượng mang b ản chất xã hội và chức năng xã hội. Cuối cùng, giao tiếp cũng còn là đối tượng nghiên cứu của triết học, vì triết học là một khoa học bao trùm lên các khoa học, nó nghiên cứu các nguyên tắc tư tưởng, nguyên t ắc ph ương pháp luận trong việc nghiên cứu giao tiếp như là một nhân tố của hoạt đ ộng sống c ủa con ng ười và m ột phương thức thể hiện của bản chất người. Tóm lại, giao tiếp không phải là đối tượng nghiên cứu c ủa riêng m ột ngành khoa h ọc nào c ả. Với tính chất nhiều mặt, nhiều mức độ và phức tạp c ủa mình, giao ti ếp là m ột đối tượng khoa học liên ngành: tâm lý học đại cương và tâm lý học xã hội, tâm lý h ọc và xã h ội h ọc, tâm lý h ọc và ngôn ngữ học, tâm lý học và lý thuyết thông tin v.v… III- CẤU TRÚC CỦA HÀNH VI GIAO TIẾP A. MÔ HINH GIAO TIẾP Trong quá trình giao tiếp phức tạp của con người, để có thể nhận dạng đ ược các b ộ phận c ấu thành của nó là vấn đề không đơn giản. Ngoài ra, chúng ta còn phải hiểu cả sự ăn khớp những thành tố đó. Có một cách thông dụng để làm việc đó là xem xét quá trình giao ti ếp thông qua m ột mô hình mà nó có thể minh hoạ được các nhân tố khác nhau có liên quan nhau như thế nào. Bất cứ một mô hình nào cũng phải đơn gi ản, hơn n ữa, giao ti ếp không có s ự b ắt đ ầu và k ết thúc một cách rõ ràng mà một mô hình có thể gợi nên. Tuy vậy, m ặc dù có những gi ới h ạn này, các mô hình vẫn có thể giúp chúng ta thấy được các thành tố c ủa giao ti ếp m ột cách t ổng quan, đ ể có thể phân tích và hiểu được chúng. Mặc dầu có nhiều cách mô tả hành vi giao tiếp, chúng tôi chọn 3 cách đ ể minh ho ạ cho quá trình giao tiếp: mô hình tuyến tính, mô hình tác động qua lại và mô hình giao dịch. 1. Mô hình tuyến tính về giao tiếp Công trình lý thuyết ban đầu về giao tiếp bằng ngôn ngữ đã đ ược m ở ra t ừ các nhà tu t ừ h ọc La Mã và Hi Lạp cổ đại, những người quan tâm đến việc đào tạo các nhà hùng bi ện m ột cách đúng đắn. Vì lý do này, các học thuyết ban đầu về giao tiếp đã nhấn mạnh đ ến vai trò c ủa di ễn gi ả tr ước quần chúng, chúng phản ánh cái có thể được gọi là quan đi ểm một chiều về giao tiếp, cho rằng một người có thể thực hiện những hành động nhất đ ịnh theo m ột trình t ự nh ất đ ịnh trong khi phát biểu và gợi ra những câu trả lời nhất định theo mong mu ốn t ừ phía thính gi ả. Đi ều này có th ể đ ược biểu đạt là mô hình tuyến tính (một chiều) về giao tiếp (xem H.1). Theo mô hình này thì diễn giả mã hoá một thông điệp và gửi nó tới người nghe thông qua một hay nhiều kênh giác quan. Người nghe, sau đó, tiếp nhận và gi ải mã thông đi ệp này. Ví d ụ, sau khi bạn mua một cái máy tính, bạn nghe thông điệp ghi ở trong băng c ủa nhà s ản xu ất. Đĩa này gi ải thích cách nhét đĩa điều hành hệ thống và bật máy tính như thế nào. Khi bạn làm theo hướng dẫn đó và máy tính hoạt động thì quá trình giao tiếp đã thành công. 9
  10. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng mặc dù thường là cần thiết, nhưng việc giao tiếp một chiều có hiệu quả hạn chế. Để minh hoạ điều này, ta hãy xét một ví dụ khác. Hùng (người nói) nói r ằng “Xin hãy đặt quyển sách lên bàn”. MÔI TRƯỜNG GIAO TIẾP Tiếng ồn Người gửi Người nhận giải mã hoá Kênh thông điệp mã thông điệp Tiếng Tiếng ồn ồn Hình 1- Mô hình tuyến tính về giao tiếp (giao tiếp một chiều) (theo Berko, Wolvin) Sau đó anh ta quay lại và ra khỏi phòng. Hoa (người nghe) có m ột giá sách tr ước m ặt, nh ưng không đoán chắc được là cuốn sách nào cần phải đặt lên bàn. Trong ví dụ này, Hùng đang tạo ra một sự thừa nhận khá thông thường . Rất nhiều người cho rằng nếu họ nói (hoặc viết) cái gì đó thì vi ệc gửi thông đi ệp này là toàn bộ sự giao tiếp. Nhưng sự ngộ nhận theo một nguồn này đã “bỏ qua vai trò quan trọng của người nghe trong việc phúc đáp (và do đó tác động) đến người gửi và thông điệp để cung cấp sự ph ản h ồi . Sự phản hồi này có thể cho phép người gửi kiểm tra để biết liệu cái mệnh lệnh có được hi ểu không, cách gi ải quyết có được chấp nhận không, thông điệp có rõ ràng không, kênh có đ ược m ở không” (Roy Berco, Andrew Wolvin and Ray Curtis, 1986). Bất cứ khi nào có thể thì những người giao ti ếp cũng nên c ố gắng giao tác v ới nhau đ ể có th ể phát hiện ra sự giao tiếp của họ thực sự có hiệu quả như thế nào. Ví dụ sự phân tích của Hùng v ề số hiệu của những cuốn sách sẵn có để chọn có lẽ đã d ẫn đ ến kết lu ận r ằng nó c ần ph ải c ụ th ể hơn. Hơn nữa, nó có lẽ đã một câu hỏi như “Bạn có biết tôi mu ốn cu ốn sách nào không?”. Ho ặc anh ta có thể đợi cho đến khi Hoa đặt cuốn sách xuống để thấy rõ li ệu cô ấy đã hi ểu anh ch ưa? Nếu cô ấy không hiểu thì sau đó anh ta có thể sữa lỗi của mình bằng cách nêu c ụ th ể h ơn trong cách hướng dẫn của mình. Khi không thể mở ra mối giao tác để phát hiện như phải có, chẳng hạn đ ối v ới người phát tin trên đài phát thanh hoặc vô tuyến, phóng viên báo chí và tác gi ả các cuốn sách, thì c ần phải l ưu ý đặc biệt đến việc phân tích trước về thính giả để người giao ti ếp/ nguồn có th ể c ố gắng s ử d ụng ngôn ngữ thích hợp nhất, cũng như làm rõ các ví dụ, làm sáng sủa các c ấu trúc đ ể tránh “ti ếng ồn” trong giao tiếp. 2. Mô hình tác động qua lại về giao tiếp Mô hình tuyến tính về giao tiếp không tính đến mọi bi ến thiên, m ọi đổi thay trong qua trình giao tiếp. Dĩ nhiên đây là một mô hình “người nói- người nghe” đ ơn gi ản. Vì nguyên nhân này, m ột số nhà khoa học ban đầu về hành vi, chịu ảnh h ưởng c ủa các nghiên c ứu trong tâm lý h ọc, đã m ở rộng ý niệm về quá trình này thành cái mô tả sự liên h ệ qua l ại l ớn h ơn và ch ứng minh đ ộng l ực, bản chất đang diễn ra của giao tiếp. Mô hình tác động qua lại về giao tiếp được trình bày ở Hình 2. 10
  11. MÔI TRƯỜNG GIAO TIẾP THÍCH ỨNG Tiếng ồn Người gửi Người nhận giải mã hoá Kênh thông điệp mã thông điệp Phản hồi Tiếng Tiếng ồn ồn MÔI TRƯỜNG GIAO TIẾP Hình 2. Mô hình tác động qua lại về giao tiếp (giao tiếp hai chiều) (theo Berko, Wolvin và Wolvin) Trong mô hình này thì nguồn mã hoá thông đi ệp và gửi nó t ới ng ười nh ận thông qua m ột hay nhiều giác quan. Người nhận tiếp nhận và giải mã thông đi ệp này như trong giao ti ếp tuy ến tính, nhưng sau đó có sự khác biệt lớn: người nhận mã hoá phản h ồi (m ột ph ản ứng hay các ph ản ứng) và gửi phản hồi này tới nguồn, vậy là quá trình trở thành hai chiều. Rồi sau đó, nguồn giải mã thông điệp phản hồi căn cứ theo thông điệp gốc đã được gửi và ph ản h ồi đã đ ược nh ận, sau đó ngu ồn mã hoá một thông điệp mới thích ứng với phản hồi nhận được (sự thích ứng). “Hoa nhìn vào ch ồng sách ở trước mặt cô ta và nói: “Quyển nào?” (phản hồi). Hùng tr ả l ời: “Quy ển đ ỏ trên đ ỉnh ch ồng sách” (sự thích ứng). Quan điểm này về giao tiếp đã tính đến những ảnh hưởng của nhi ều phúc đáp của người nhận. Quan điểm này cho rằng một quá trình, trong chừng mực nào đó, là vòng quanh: gửi và nh ận, gửi và nhận và cứ như thế tiếp tục… 3. Mô hình giao dịch về giao tiếp Bây giờ, một số nhà chuyên môn cho rằng việc giao tiếp không thể đơn giản quy rút l ại thành một quá trình “kích thích và phản ứng” như là các mô hình tuyến tính và tác đ ộng qua l ại đ ưa ra. Quan điểm này ủng hộ ý kiến cho rằng giao tiếp là một sự giao dịch mà trong đó nguồn và người nhận đóng những vai trò có thể hoán đổi được cho nhau trong su ốt ho ạt đ ộng giao ti ếp . Như vậy là không dễ dàng xây dựng nên một mô hình thật rõ ràng, dứt khoát của quá trình. Hình 3 minh ho ạ một mô hình giao dịch về giao tiếp. Trong mô hình này, tiêu biểu cho những gì mà chúng ta bi ết cho đ ến gi ờ v ề giao ti ếp là nh ững thay đổi được phát hiện đồng thời trong cả hai người giao ti ếp. Người giao ti ếp A mã hoá m ột thông điệp và gửi nó đi. Người giao ti ếp B, sau đó, mã hoá ph ản h ồi g ửi t ới ng ười giao ti ếp A, người giải mã nó. Nhưng những bước này không phải là độc chi ếm l ẫn nhau vì vi ệc mã hoá và gi ải mã có thể xảy ra đồng thời. Là những người nói, chúng ta có thể gửi m ột thông đi ệp phản h ồi phi ngôn ngữ từ người nghe của chúng ta. Sự mã hoá và gi ải mã này có th ể xảy ra liên ti ếp trong su ốt quá trình giao tiếp. Bởi vì chúng ta có thể gửi và nhận các thông đi ệp m ột lúc, nên mô hình này là đa hướng. Hãy chú ý rằng, một người không được gắn nhãn như là ngu ồn và ng ười kia nh ư là ng ười nhận, thay vào đó cả hai người giao tiếp khoác lấy vai trò c ủa người gửi và người nh ận trong s ự 11
  12. giao dịch (chuyển đổi vai trò). Như vậy, mô hình này gần nh ư đại di ện cho vi ệc giao tiếp đồng thời. Hãy xem quá trình giao tiếp đồng thời trong một mối quan hệ sau đây: MÔI TRƯỜNG GIAO TIẾP Người mã hoá Người mã hoá Thông B A điệp Người giao tiếp Người giao tiếp Người giải mã Người giải mã Tiếng Tiếng ồn ồn MÔI TRƯỜNG GIAO TIẾP 12
  13. Hình 3- Mô hình giao dịch về giao tiếp (giao tiếp đa chiều) (theo Berko, Wolvin) Hùng (nguồn) nói: “Anh yêu em”; Trong khi Hùng (người nhận) thì nhìn Hoa đi khỏi khi anh nói với cô ấy; Trong khi Hoa (nguồn) đi khỏi chỗ Hùng; Trong khi Hoa (người nhận) nghe thấy: “Anh yêu em”; Trong khi Hoa (nguồn) dừng lại, quay đi, cau mày và nói: “Em không chắc anh như vậy”; Trong khi Hoa (người nhận) nhìn Hùng gật đầu và đi lại chỗ cô ta khi cô ta nói; Trong khi Hùng (người nhận) nghe thấy những lời cô ta; Trong khi Hùng (người nhận) gật đầu và đi lại chỗ cô ta khi cô ta nói. * So sánh các mô hình: So sánh 3 mô hình này trong hành động sẽ cho ta hi ểu chúng khác nhau nh ư th ế nào. Hãy b ắt đầu với kịch bản sau: Một người điều hành các quan hệ quần chúng của m ột công ty l ớn trình bày m ột bài phát bi ểu trên vô tuyến từ phòng quay thông tin đại chúng của trụ sở chính, đến các nhân viên marketing ở các văn phòng khác nhau trên khắp cả nước. Đây là một ví dụ của mô hình về giao tiếp tuyến tính. Tiếp đến, người điều hành cũng trình bày giống như vậy tại phòng của ban lãnh đ ạo công ty. Cô ta nói chính xác theo bản thảo mà cô ta đã chuẩn b ị, ch ẳng ph ải m ất công tìm b ất kì m ột ph ản hồi nào. Rõi theo bài phát biểu cô ta liệu có câu hỏi nào không? M ột trong các thành viên c ủa ban lãnh đạo hỏi một câu hỏi mà câu đó được trả lời. Đi ều này ch ứng minh mô hình tác đ ộng qua l ại về giao tiếp. Sau đó nhân viên bán hang bước vào phòng. Người đi ều hành các quan h ệ qu ần chúng bắt đầu nói. Kho cô ấy nói thì một người bán hang h ỏi m ột câu h ỏi. Trong lúc câu h ỏi đang đ ược nêu ra, người nói gật đầu. Cô ấy, sau đó, đồng ý bằng lời với người bán hàng. Trong lúc chuyện này xảy ra, người bán hàng cũng gật đầu, chỉ báo rằng anh ta đã hi ểu đi ều v ừa đ ược gi ải thích và nói: “Tôi đã hiểu”. Đây là một ví dụ về một mô hình giao dịch (hoán chuyển vai trò) của giao tiếp. B. CÁC THÀNH TỐ CỦA HÀNH VI GIAO TIẾP Để hiểu rõ quá trình giao tiếp phức tạp, ta hãy xem xét chi ti ết các thành t ố c ủa hành vi giao tiếp. 1. “Người giao tiếp/ nguồn” và thông điệp Như được minh họa ở Hình 4 (tr.31), quá trình giao tiếp bắt đ ầu khi “b ị kích thích m ột cách có ý thức hay không có ý thức bởi một sự việc, m ột khách thể hay m ột ý t ưởng nào đó. Xu ất hi ện nhu cầu gửi thông điệp đi sau khi đã dùng trí nhớ để tìm ra thứ “ti ếng” (ngôn ngữ hay phi ngôn ng ữ) thích hợp để mã hóa thông điệp. Các nhân tố như sự tri giác, các kỳ v ọng, thái đ ộ và tr ạng thái c ơ thể đều có ảnh hưởng đến việc gửi thông điệp. 13
  14. Quá trình giao tiếp rất phức tạp, bởi vì nó mang tính ch ất kí hi ệu, s ử d ụng m ột th ứ “ngôn ngữ” nào đó để đại diện cho các khách thể và ý tưởng mà chúng ta đang giao ti ếp. Không may, các kí hiệu có thể không được hiểu. Ví dụ, một kĩ sư hàng không phải lựa ch ọn th ứ “ti ếng” c ủa mình một cách cẩn thận để nói cho một ai đó không am hiểu về nguyên tắc của v ận t ốc gió. Các t ừ ng ữ quá chuyên sâu về mặt kỹ thuật có thể làm rối trí người giao ti ếp – người nhận và làm cho h ọ không hiểu được. 14
  15. MÔI TRƯỜNG GIAO TIẾP Người giao tiếp/người Kênh cho Người giao tiếp/nguồn nhận Các kỹ xảo GT, trạng thái Các kỹ xảo GT, trạng thái cơ thể, xúc cảm, kinh Tiếng ồn cơ thể, xúc cảm, kinh nghiệm, thái độ, trí nhớ, nghiệm, thái độ, trí nhớ, thông điệp các kỳ vọng các kỳ vọng và phản hồi Tiếng Tiếng ồn ồn MÔI TRƯỜNG GIAO TIẾP 15
  16. Người giao tiếp/ Nguồn Người giao tiếp/ Người nhận 1. Những cảm nhận do ý tưởng gay 1. Những cảm nhận do kích thích nhu cầu giao tiếp gây nên. hay nhu cầu giao tiếp gây nên. 2. Lựa chọn cách truyền thông thông 2. Tiếp nhận ký hiệu (mã) dưới điệp bằng ký hiệu ngôn ngữ (mã). dạng méo mó. 3. Sử dụng trí nhớ và kinh nghiệm 3. Sử dụng trí nhớ và kinh nghiệm cũ để tìm ra ký hiệu ngôn ngữ nhằm cũ để gắn nghĩa cho ký hiệu (giải truyền thông thông điệp (mã hoá). mã). 4. Lưu giữ thông tin 5. Gửi phản hồi đi. Hình 4- Các thành tố của giao tiếp (theo Berko, Wolvin và Wolvin) 2. Kênh Khi giao tiếp, thông điệp đã mã hóa được chuyển tải qua một kênh hay nhiều kênh. Nếu cuộc giao tiếp diễn ra trực tiếp, mặt đối mặt thì các kênh này có thể làm m ột vài hay tất cả năm giác quan. Điển hình là chúng ta dựa vào hình ảnh thị giác và âm thanh làm các kênh khi nói và l ắng nghe. Tuy nhiên, thay vì sự giao tiếp mặt đối mặt, chúng ta có thể lựa ch ọn đ ể dùng m ột kênh đi ện t ử có dùng âm thanh (như điện thoại chẳng hạn) hay thị giác (vô tuyến truyền hình). Trong m ột số tr ường hợp, chúng ta có thể lựa chọn một cách gửi một thông điệp đến m ột ai đó b ằng ph ương tiên ti ếp xúc thân xác, chẳng hạn như vỗ vai người khác. Trong trường hợp này thì kênh xúc giác đ ược sử dụng. “Người giao tiếp/ nguồn” nên luyện tập càng kỹ càng tốt cách lựa ch ọn kênh cho cu ộc giao tiếp, giống như họ tiến hành việc lựa chọn các ký hiệu đ ể dùng. Đi ều này là c ần thi ết, b ởi vì các kênh khác nhau đòi hỏi những phương pháp phát triển ý tưởng khác nhau. Chẳng hạn, việc chọn các kênh điện tử đã làm thay đổi bản chất của sự giao tiếp chính trị. Các ứng cử viên t ổng th ống ở các nước đã từng phải đi kinh lý khắp đất n ước để đọc bài diễn văn trong các chi ến d ịch v ận đ ộng tranh cử, nhưng ngày nay, thông qua việc sử dụng vô tuyến truyền hình, h ọ có th ể đ ến v ới m ột s ố lượng dân chúng rộng lớn hơn mà không cần phải đi đâu c ả. Vậy là kênh đi ện t ử đã đ ược thay th ế cho kênh “mặt đối mặt”! 3. “Người giao tiếp/ người nhận” và thông điệp Không tính đến kênh được dùng, thông điệp cần phải đ ược gi ải mã tr ước khi giao ti ếp (có thể) được hoàn thành. Người giao tiếp/ người nhận, trên cơ sở tiếp nhận các tín hiệu ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, x ử lý chúng thông qua trí nhớ để các tín hiệu được phiên dịch sang hệ ti ếng nói c ủa người nh ận. Thông điệp đã được giải mã này sẽ không giống hệt với thông điệp đã được người giao ti ếp/ người mã hóa, vì hệ thống ký hiệu của mỗi người được tạo nên bởi một tập hợp duy nhất các c ảm nh ận. Ví dụ, một người nội trợ sẽ có một cách hiểu về câu “thêm mắm muối theo khẩu vị” nghĩa là gì. Nhưng lời chỉ dẫn này có thể giải mã m ột cách khác nhau ở nh ững ng ười nh ận khác nhau. M ột người quản trị ngân hàng vốn thích làm đầu bếp cho các cuộc lien hoan cu ối tuần ngoài tr ời có th ể muốn thêm một chút mắm muối thôi, còn để cho khách cho thêm gia v ị. M ặt khác, m ột ng ười nào đó có kinh nghiệm nấu nướng hơn lại có thể giải mã thông đi ệp này là “thêm nhi ều m ắm mu ối vào!” 4. Phản hồi Ngay sau khi hiểu được nội dung thông điệp đã nhận được, “người giao ti ếp/ ng ười nh ận” đã có thể trả lời. Sự trả lời này – được gọi là phản hồi – có th ể là một phản ứng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ (hoặc cả hai) đối với thông điệp . Cần quan sát sự phản hồi một cách cẩn thận, bởi vì nó sẽ chỉ cho ta thấy “người giao tiếp/ người nhận” hiểu (ví dụ, gật đ ầu) hay không hi ểu (ví d ụ, nhún 16
  17. vai và nói “tôi không hiểu”), khuyến khích “người giao tiếp/ nguồn” tiếp tục, ho ặc không tán thành (ví dụ, đẩy lùi và nói “không thể được”!). Hành động trả lời, mà qua đó “người giao ti ếp/ ng ười nhận” gửi phản hồi đến “người giao tiếp/ nguồn”, thực sự làm thay đ ổi vai trò c ủa ng ười nh ận sang vai trò của người gửi (nguồn). 5. Tiếng ồn Thông điệp không chỉ ảnh hưởng bởi sự giải thích của mỗi một người giao tiếp, mà còn bởi vì cả tiếng ồn nữa. Tiếng ồn là bất kỳ một trở ngại bên trong hoặc bên ngoài nào trong quá trình giao tiếp. Tiếng ồn có thể do các nhân tố của môi trường, sự suy yếu c ủa c ơ th ể, nh ững v ấn đ ề v ề ng ữ nghĩa, sự tối nghĩa, những vấn đề về cú pháp, sự lộn xộn trong cách xếp đặt, ti ếng ồn xã h ội và những vấn đề tâm lý gây nên. 6. Môi trường giao tiếp Giao tiếp không thể xảy ra trong chân không; nó luôn luôn tồn tại trong m ột ngữ cảnh nào đó, một môi trường nào đó. Nơi mà chúng ta hiện diện và người cùng hi ện di ện với chúng ta đ ều có ảnh hưởng đến sự giao tiếp của chúng ta. Những nhân tố như kích th ước c ủa căn bu ồng, màu s ắc của tường, sự trang trí, kiểu và cách xếp đặt các đồ gỗ, ki ểu chiếu sáng và căn bu ồng có đông đúc hay không… đều có thể ảnh hưởng đến việc chúng ta cảm xúc ra sao, đến cách giao tiếp kiểu giao tiếp mà chúng ta tham gia vào. Chẳng hạn như xếp đặt một lượng lớn người trong m ột khu v ực làm việc nhỏ hẹp (như trường hợp thường xảy ra với nhóm những người đánh máy ch ữ trong m ột c ơ sở thương mại lớn) có thể dẫn đến sự giao tiếp căng thẳng thiếu tự tin. Chúng ta cũng có phản ứng đối với các nhân tố như nhiệt độ, mùi vị, âm thanh. C – CÁC QUAN HỆ TRONG HÀNH VI GIAO TIẾP Quan hệ là vị thế, địa vị của nhân cách với tất cả những gì ở xung quanh nó, kể cả v ới chính bản thân mình. Bằng cách này hay cách khác, con người ta đ ều có quan h ệ, thái đ ộ đ ối v ới các s ự vật, sự kiện của đời sống xã hội, với những người khác. Họ thích một cái gì đó, không thích một cái gì đó; một sự kiện này làm cho họ xao xuyến, một sự kiện khác lại bị họ thờ ơ; tình cảm, h ứng thú, chú ý – đó là những quá trình tâm lý bi ểu thị quan hệ của con người, (khi quan h ệ đ ược ch ủ th ể ý thức thì trở thành thái độ của chủ thể) và biểu thị địa vị của nó. Trong quá trình giao tiếp tồn tại cả mối quan hệ qua lại giữa những người giao tiếp. Quan hệ qua lại là địa vị tương hỗ của một nhân cách này với nhân cách khác, v ới c ộng đ ồng. Nếu trong quan hệ không bắt buộc phải có “liên hệ ngược” phản h ồi đ ối v ới con ng ười thì trong quan hệ qua lại luôn luôn có mối quan hệ ngược. Quan hệ qua lại ở hai bên giao tiếp không phải lúc nào cũng có cùng một mô thức (cùng một sắc thái). A có th ể có quan h ệ (thái đ ộ) t ốt đ ối v ới B, nhưng B có thể không phải như vậy đối với A. Giao tiếp là sự liên hệ của con người với nhau có th ể nhìn th ấy đ ược, quan sát đ ược t ừ bên ngoài. Còn quan hệ và quan hệ qua lại là những mặt của giao ti ếp. Chúng có th ể hi ển nhiên, công khai, nhưng cũng có thể ẩn giấu, ngấm ngầm, không được thể hi ện ra. Quan h ệ qua l ại đ ược hi ện thực hóa trong giao tiếp và thông qua giao ti ếp. Đ ồng th ời quan hệ qua l ại đ ể lại d ấu ấn lên giao tiếp, tạo nên nội dung độc đáo của giao tiếp. Khác với trong hoạt động với đồ vật (hoạt động với đối t ượng) m ối quan h ệ qua l ại trong giao tiếp là mối quan hệ qua lại giữa chủ thể với chủ thể (xem mục “Tri giác xã hội”). Ta có thể thấy được tính chất phức tạp đặc trưng của mối quan hệ qua lại gi ữa ch ủ th ể v ới chủ th ể qua ví dụ sau: A và B giao tiếp với nhau; giữa chúng hình thành m ối quan hệ giao ti ếp A – B và thông tin ngược về phản ứng của B đối với A, tức là B – A. Ngoài ra, ở A và B đ ều có bi ểu t ượng v ề b ản thân mình – A’ và B’, cũng như biểu tượng về nhau: biểu tượng c ủa A v ề B – B’’, và bi ểu t ượng của B về A – A’’. Sự tác động qua lại trong quá trình giao ti ếp đ ược th ực hi ện nh ư sau: A v ới t ư 17
  18. cách là A’ gửi thông điệp cho B như là B’’. B v ới t ư cách là B’ ph ản ứng l ại A nh ư là A’’. Rõ ràng, giao tiếp sẽ thành công tối đa khi có sự đứt đoạn tối thiểu trong các đường A – A’ – A’’ và B – B’ – B’’ Như trên đã nói, quá trình giao tiếp của con người ch ịu ảnh h ưởng rõ r ệt c ủa hoàn c ảnh xã hội. Tùy thuộc vào hoàn cảnh xã hội mà mỗi người có một vai trò nhất định. Vai trò là chức năng, là hình mẫu hành vi chuẩn mực được xã hội tán đồng, đang đ ược ch ờ đ ợi ở mỗi người trong địa vị hiện có của họ. Nói cách khác, vai trò là sự ấn đ ịnh m ột v ị trí nh ất đ ịnh mà mỗi cá nhân chiếm được trong hệ thống các quan hệ xã hội. Vai trò của anh sinh viên là học tập, rèn luyện để trở thành người phục vụ xã hội có chuyên môn. Một người có th ể đảm trách nhi ều vai trò khác nhau: người chồng, người cha, người con, người giám đốc, người đảng viên v.v. Vai trò đ ảm nhận tạo nên địa vị mà người đó có trong xã hội mà họ đang sống. Chúng ta nhận biết được một người là sinh viên qua trang ph ục, áo qu ần, cách ăn m ặc và sinh hoạt cũng như các vật sở hữu của người ấy. Những thứ đó là ký hiệu của vai trò, địa vị. Muốn giao tiếp tốt thì phải biết các vai trò, địa vị c ủa mình và c ủa ng ười giao ti ếp c ủa mình và phải mã hóa những thông điệp cùng với những điều này trong trí óc của mình. Chương II NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC GIAO TIẾP I – NỘI DUNG GIAO TIẾP ĐƯỢC BIỂU LỘ NHƯ THẾ NÀO A. NGHĨA VÀ TRUYỀN ĐẠT NGHĨA TRONG GIAO TIẾP 1. Trong cuộc sống đời thường, ai cũng khao khát được người khác quan tâm chú ý đ ến b ản thân mình. Sự quan tâm chú ý, sự đùm bọc, thương yêu, sự chăm sóc, s ự l ắng nghe, s ự khoan dung, động viên vỗ về của mọi người xung quanh… đều rất có ý nghĩa và có giá tr ị tích c ực giúp m ỗi chúng ta thành con người lành mạnh, làm n ảy nở trong tâm h ồn chúng ta nh ững giá tr ị cao quý, những tình cảm lớn… Từ buổi sơ sinh cho đến thuở màn chiều xế bóng, mối tương quan giữa người và người v ừa là nhu cầu, vừa là điều kiện có ý nghĩa và tác dụng to lớn để biến chúng ta thành người v ới t ất c ả giá tr ị nhân văn cao cả của nó; có thể xem đó là nội dung sự biểu lộ đích thực của giao ti ếp. Vậy nội dung giao tiếp, trước hết là sự biểu lộ một nhu cầu trong quan hệ giữa chúng ta v ới m ọi ng ười – đó là một đòi hỏi bắt buộc, nghĩa là có tính tất yếu. Chúng ta khao khat ước mong có d ược quan h ệ bình thường, tốt đẹp với mọi người và qua đó, những nhu cầu riêng t ư c ủa chúng s ẽ đ ược đáp ứng, th ỏa mãn, nhờ những ảnh hưởng qua lại trong các quan h ệ đa dạng, ph ức t ạp này. S ự thành công trong nghề nghiệp, hạnh phúc trong gia đình, tình bạn chung th ủy, h ạnh phúc riêng t ư…, t ất c ả đ ều tùy thuộc ở các mức độ nhất định trong việc duy trì được các quan hệ lành m ạnh, t ốt đẹp v ới m ọi người. Qua ti ếp xúc, giao lưu với người khác, chúng ta tự khẳng định được mình qua sự quan tâm săn sóc lẫn nhau và nh ững niềm hân hoan, sự vui thích, niềm hứng khởi trong cuộc sống chúng ta c ảm nhận th ấy không khí ấm cúng, cảm thấy mình được hoàn thiện dần, hòa hợp được với m ọi người, nhằm cùng nhau đ ạt tới mục đích của cuộc sống. Nói cách khác, cuộc sống c ủa chúng ta có ngày càng hoàn thi ện hay không là tùy thuộc khá nhiều vào phẩm chất của các mối quan h ệ tương giao mà chúng ta t ạo l ập nên đối với mọi người quanh ta. 2. Giao tiếp là con đường giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc trong cuộc sống 18
  19. Các mối quan hệ giao tiếp giữa chúng ta và mọi người là rất c ần thiết và có ý nghĩa sâu xa đ ối với hạnh phúc của mỗi cá nhân, với rất nhiều khía cạnh khác nhau: - Tạo nên điều kiện và cơ hội cho sự tăng trưởng và phát tri ển về tri thức và hi ểu bi ết xã h ội nói chung. Qua giao lưu, tiếp xúc với nhiều người với những cá tính khác nhau, chúng ta có th ể hình - thành cá tính của mình một cách độc lập và có sắc thái riêng. Giữ được thăng bằng, duy trì được sức khỏe và bình an về mặt tâm lý. - Toàn bộ quá trình phát triển của con người diễn ra song song v ới vi ệc các quan h ệ xã h ội ngày càng được mở rộng, trong đó chúng ta vừa chịu sự tác động ảnh hưởng, v ừa ph ụ thu ộc l ại v ừa có ảnh hưởng, tác động ngược trở lại với mọi người. Đặc biệt là đ ối v ới tr ẻ em, th ế gi ới xung quanh đột ngột mở rộng khi các em tự chính thức đến trường học. Còn đ ối v ới tu ổi thanh niên, khi các em tham gia vào các hoạt động thực tế và nghề nghi ệp, trở thành thành viên gắn bó v ới cộng đồng thì các quan hệ tương quan này càng được mở rộng hơn và h ọ luôn luôn v ừa phải duy trì, củng cố lại vừa phải phát triển các mối quan hệ m ới v ới m ọi người xung quanh. Càng tăng thêm các mối giao tiếp, các quan hệ này càng được m ở rộng và di ễn bi ến r ất linh ho ạt. Dù sao thì ở các mức độ khác nhau, muốn duy trì và phát tri ển chất lượng c ủa cu ộc s ống, chúng ta phải hợp tác với mọi người từ trong gia đình cho đến bạn bè, trang l ứa, đ ồng nghi ệp, qua đó chúng ta thâu tóm luôn tri thức, kinh nghiệm và các kỹ năng giao lưu tiếp xúc với mọi người. Vậy là sự phát triển, tăng trưởng của chúng ta về tri thức và con người xã h ội – tất cả đều được quyết định bởi tính chất và bản chất của các m ối quan h ệ, giao l ưu v ới nh ững ng ười khác (Johnson – 1979). - Bản sắc riêng của cá nhân mỗi người sẽ dần dần được định hình và c ủng c ố từ các m ối quan hệ giao tiếp này. Khi giao tiếp, qua quan hệ với người khác, qua quan sát, ghi nh ận các phản ứng, sự phản hồi của họ, ta hiểu đời, hiểu mình hơn nhờ thái độ và cách nhìn nhận đánh giá từ bên ngoài. Từ thái độ, phản ứng của người khác, ta sẽ hình dung rõ nét v ề chính mình v ề các m ặt trí tu ệ, nhân phẩm và vai trò của bản thân. Tất cả giúp ta tin ở những hệ thống giá trị mà ta noi theo, những nguyên mẫu mà ta mong muốn đạt tới, nhất là đối với những ai ta than ph ục, kính n ể - nghĩa là trong quan hệ với mọi người, chúng ta “sắm vai trò” xã hội của mình, “học” được nhiều điều bổ ích, tự phát hiện tư cách “con người” của mình. Từ đó, chúng ta cố gắng tìm hiểu thế giới cuộc sống quanh ta, xác định cái “th ực” cái “h ư”, cái thiện cái ác – nghĩa là biết cách cũng c ố, nâng cao, hoàn thi ện trình đ ộ nh ận th ức và c ảm nghĩ của mình trong sự bề bộn, phức tạp của cuộc sống. Tất nhiên nh ờ h ọc h ỏi trong thiên nhiên, trong xã hội, mọi điều hay dở, đúng sai, tốt đẹp hoặc ngược lại – chúng ta ki ểm ch ứng qua ý kiến, thái độ của người khác – đó là cơ sở khách quan, thuận lợi để “nâng” mình lên m ột cách vững chắc, đáng tin cậy. Nhiều nhà tâm lý học, sinh lý học còn chứng minh r ằng sức khỏe và trạng thái tinh thần của mỗi người cũng phụ thuộc khá nhiều vào mối quan hệ bình th ường, t ốt đẹp v ới m ọi ng ười. Nhiều cứ liệu về tâm bệnh học cho thấy, một số người, vì những lý do nào đó, do không xác lập nổi các mối quan hệ giao tiếp bình thường với m ọi người, th ường sa vào tình tr ạng kh ủng hoảng tinh thần, lo âu, trầm cảm, cảm thấy lẻ loi, cô đơn trong cuộc sống đời th ường. “Dường như kỹ năng giao tiếp vụng về là một trong những nguyên nhân ch ủ y ếu c ủa tâm b ệnh” (Johnson 1980). 19
  20. Nhìn rộng ra xã hội, một trong những giá trị nhân văn đòi hỏi con người ph ải và c ần đ ược s ống hài hòa trong các quan hệ thân mật nhân ái chính là cơ sở của cuộc sống cộng đ ồng b ền vững. Vậy là mỗi cá nhân cần được khẳng định là con người chân chính thông qua giao ti ếp v ới ng ười khác, mà sự khẳng định này bao hàm cả sự đáp ứng của người khác, bằng nhiều cách để chúng ta tự khẳng định giá trị, nhân cách của mình ; ngược lại điều đó cũng hàm ý đó là môtis tương tác hai chiều: chúng ta cần cho mọi người và ngược l ại, m ọi ng ười cũng đòi h ỏi s ự khẳng định, thừa nhận từ phía chúng ta. B. GIAO TIẾP TRONG MỘT XÃ HỘI PHÁT TRIỂN Sự phát triển và tiến nộ của xã hội loài người gắn liền với khả năng t ạo l ập, phát tri ển và ổn định các mối giao tiếp với những người khác. Theo logic c ủa cuộc sống, nh ờ t ương giao v ới m ọi người, chúng ta được giáo dục và phát triển về ngôn ngữ, các k ỹ năng xử s ự trong đ ời s ống và tuân thủ một cách sáng tạo các khuôn mẫu thích hợp với sự mong đợi của xã h ội, phù h ợp v ới n ền văn hoá chung. 1. Nền tảng của nền văn minh của mọi xã h ội chính là kh ả năng nhân lo ại s ống h ợp tác và hoà hợp với nhau, cùng nhau hoạt động, mưu cầu lợi ích chung, h ướng t ới đ ạt các m ục tiêu chung Xã hội phát triển, ngày càng trở nên phức tạp; khoa học và kỹ thuật ngày càng phát tri ển thì nhu cầu xây dựng các mối tương quan xã hội và giao tiếp càng trở nên cấp bách (c ả ở d ạng tr ực tiếp lẫn gián tiếp qua các phương tiện kỹ thuật), vì vậy ý nghĩa nhân văn cũng đ ược nâng cao lên và trở nên sâu sắc thêm. Thiếu sự giao lưu, giao tiếp, thiếu sự phối hợp ăn ý, đồng b ộ chúng ta s ẽ không th ể th ực hi ện được các mục tiêu cần thiết. Nhân loại trong thực tế giành khá nhi ều công s ức, th ời gian cho vi ệc này mà với tư cách cá nhân riêng lẻ chúng ta không thể hoàn thiện. Trong mọi quan hệ, mọi hoạt động, để đạt lợi ích chung, chúng ta c ần ph ải chia s ẻ v ới nhau về mọi phương diện, mọi vấn đề, trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau c ả v ề tri th ức và tài nguyên và cùng nhau làm việc. Tim ra cách sống hoà hợp, cùng suy nghĩ, cùng ho ạt đ ộng v ới nh ững cam k ết thích hợp, chúng ta sẽ có chung tiếng nói, có cùng cách ứng x ử đ ể t ạo ra c ơ h ội ho ạt đ ộng vì l ợi ích chung, cùng nhau góp công, góp sức, tài nguyên và thời gian, tài chính… đ ể cùng t ạo nên s ức m ạnh và cuộc sống hạnh phúc, hài hoà. Điều đó khẳng định rằng xã hội càng phát tri ển v ới ph ương th ức ho ạt đ ộng càng đa d ạng, phức tạp hơn nhưng tất cả các thành viên trong xã hội chúng ta v ẫn tuỳ thu ộc trong t ương tác chung giưũa người và người ngày càng chặt chẽ. Do đó vi ệc trang b ị ki ến th ức, k ỹ năng và thái đ ộ đúng cho mỗi người về giao tiếp nhằm duy trì và tăng cường hi ệu qu ả trong quan h ệ gi ữa ng ười v ới người chắc chắn không hề giảm ý nghĩa, tác dụng của nó. Có thể rút ra nhận xét khái quát rằng mọi xã hội dù phát triển và hoạt động phức tạp đến đâu vẫn phải dựa trên h ệ th ống h ợp tác r ộng l ớn các mối quan hệ giữa người và người được duy trì nhờ sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân. Một xã hội công bằng, văn minh, về thực chất, dựa trên sự gắn bó gi ữa người v ới ng ười, d ựa trên sự thông cảm, thương mến, gắn bó giữa các thành viên. Con người- với tư cách là con người xã hội, trong đó m ọi n ỗi ni ềm h ạnh phúc, s ự t ự hoàn thiện luôn luôn phụ thuộc vào khả năng thực tế có thể xây dựng quan h ệ t ốt đẹp và hi ệu qu ả v ới người khác. Sự khao khát tình thương yêu, sự c ảm thông trong m ọi quan h ệ trong m ột xã h ội phát triển cao (về khoa học- kỹ thuật và công nghệ, chứng tỏ tính quy luật c ủa v ấn đ ề này. Đi ều làm cho chúng ta càng mang giá trị nhân bản h ơn chính là nhu c ầu và s ự tho ả mãn nhu c ầu quan h ệ và tác động lẫn nhau giữa người và người. Nếu các quan hệ này ngày càng th ể hi ện, ph ản ảnh các “tính người” như lòng nhân hậu, thái độ dịu dàng, tình yêu trong sáng, s ự nh ạy c ảm v ới h ạnh phúc 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2