TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***************
VŨ THỊ HƢƠNG
ĐẶC ĐIỂM HÁT RU NGƢỜI VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC LAN
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo, TS. Nguyễn Thị
Ngọc Lan cùng các thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam – Khoa Ngữ văn –
Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2 đã hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận này.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Sinh viên
Vũ Thị Hƣơng
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp Đặc điểm hát ru người Việt là kết quả nghiên cứu
của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Kết quả đạt đƣợc trong khóa luận là trung thực, rõ ràng và chƣa từng
đƣợc công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào.
Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Sinh viên
Vũ Thị Hƣơng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu....................................................................4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................5
6. Cấu trúc của khóa luận .....................................................................................5
NỘI DUNG............................................................................................................6
CHƢƠNG 1. GIỚI THUYẾT VỀ HÁT RU .......................................................6
1.1. Khái niệm và phân loại hát ru .......................................................................6
1.1.1. Khái niệm hát ru .........................................................................................6
1.1.2. Phân loại hát ru ...........................................................................................7
1.2. Chức năng và diễn xƣớng của hát ru ..........................................................13
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG HÁT RU ............................................16
2.1. Hát ru chứa đựng kiến thức về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội ........16
2.1.1. Kiến thức về thế giới tự nhiên..................................................................16
2.1.2. Kiến thức về đời sống xã hội ..................................................................20
2.2. Hát ru hàm chứa tình cảm âu yếm, chở che của ngƣời lớn đối với trẻ .....24
2.2.1. Tình cảm của mẹ đối với trẻ ....................................................................24
2.2.2. Tình cảm của chị đối với trẻ ....................................................................30
2.3. Hát ru là lời giãi bày tâm trạng của ngƣời mẹ............................................34
2.4. Hát ru phản ánh hiện thực đời sống của ngƣời nông dân xƣa...................39
2.4.1. Đời sống sinh hoạt ....................................................................................39
2.4.2. Đời sống tình cảm .....................................................................................41
CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT HÁT RU ......................................45
3.1. Ngôn ngữ ......................................................................................................45
3.1.1. Ngôn ngữ trong sáng, giản dị ...................................................................45
3.1.2. Ngôn ngữ có tính nhịp điệu ......................................................................46
3.2. Thể thơ ..........................................................................................................48
3.2.1. Lục bát .......................................................................................................48
3.2.2. Thể hỗn hợp ..............................................................................................49
3.3. Các thủ pháp nghệ thuật trong biểu hiện và miêu tả..................................50
3.3.1. Phép lặp .....................................................................................................50
3.3.2. Nhân hóa ...................................................................................................50
3.3.3. So sánh ......................................................................................................52
3.3.4. Ẩn dụ .........................................................................................................53
KẾT LUẬN .........................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hát ru là một trong những “biệt loại” bài ca trữ tình dân gian ra đời
sớm, đƣợc truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở
thành di sản văn hóa tinh thần của nhân loại nói chung và của ngƣời Việt
Nam nói riêng. Không phải ngẫu nhiên, hát ru đƣợc xem là “những bài ca hay
nhất thế gian” và “trên đời này có loại bài ca nào, có cuộc hát nào mà mối
quan hệ giữa ngƣời hát với ngƣời nghe lại gần gũi, ấm áp, thiêng liêng nhƣ ở
hát ru…”[7;339]. Hát ru còn là phƣơng tiện hữu hiệu để diễn tả tâm hồn, tình
cảm con ngƣời, góp phần hình thành bản lĩnh và tính cách con ngƣời. Đến với
những câu hát ru, chúng ta thả hồn theo những giai điệu nhẹ nhàng của bà,
của mẹ… gác lại những lo toan của cuộc sống, trở về với vùng kí ƣớc tuổi thơ
bình dị. Đằng sau những câu hát ấy là kho kiến thức khổng lồ, làm hành trang
tri thức cho các em bƣớc vào đời, là tình cảm âu yếm chở che, là lời giãi bày
thấm đẫm tình mẫu tử, là hiện thực đời sống của ngƣời bình dân Việt Nam…
Có thể thấy, hát ru với những biểu hiện về đề tài, chủ đề, chức năng,
phƣơng thức diễn xƣớng… từ lâu đã trở thành đối tƣợng khám phá của các
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cũng trong quá trình khảo sát và thu thập tƣ liệu,
chúng tôi nhận thấy, việc tìm hiểu hát ru với những dấu hiệu nổi bật ở hai
phƣơng diện nội dung và nghệ thuật vẫn chƣa thực sự có tính hệ thống. Vì
thế, với mong muốn nhận diện đƣợc những đặc điểm của biệt loại bài ca đặc
sắc này, chúng tôi lựa chọn Đặc điểm hát ru người Việt làm đề tài nghiên cứu
của khóa luận tốt nghiệp đại học.
Mặt khác, nghiên cứu về hát ru ngƣời Việt giúp bản thân ngƣời viết –
một sinh viên năm cuối ngành Sƣ phạm Ngữ văn hiểu cặn kẽ hơn những giá
1
trị văn hóa lâu đời của cha ông để lại. Đồng thời, góp phần bồi dƣỡng tâm hồn
và ý thức giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc cho thế hệ trẻ, đặc
biệt là các em học sinh trong nhà trƣờng phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Hát ru là biệt loại bài ca xuất hiện sớm trong đời sống sinh hoạt của con
ngƣời. Trên Tạp chí Tao Đàn (số 8/1939) tác giả Lâm Tuyền Khách đã viết:
“Nếu câu thơ đầu tiên của nhân loại là một lời cầu nguyện gửi trƣớc đấng
Thần Minh thì câu hát đầu tiên của nhân loại có lẽ là lời hát ru con, ru em đã
thốt ra ở cái miệng tƣơi xinh của một ngƣời mẹ, một ngƣời chị bồng bế con
em” [Dẫn theo 5;2].
Hát ru với các phƣơng diện nghiên cứu cụ thể đã đƣợc khai thác ở các
mức độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình, bài viết nhƣ sau:
Năm 1987, trong cuốn Mẹ hát ru con tác giả Nguyễn Hữu Thu đã nhận
định: “Toàn bộ hệ thống những bài hát ru, những câu hát, trò chơi của trẻ thơ,
đặc biệt âm điệu hát ru con, chính là sản phẩm của truyền thống văn hóa gia
đình bắt nguồn từ tấm lòng mẹ con. Tiếng hát ru là một hình thức âm nhạc và
thơ ca ra đời cùng với ngƣời con, không những chỉ thích hợp với giấc ngủ
tuổi thơ mà còn mang ý nghĩa giáo dục đạo đức, thẩm mỹ sâu sắc, cần đƣợc
đem lại cho con cháu chúng ta ngay từ lúc còn bế ngửa trên tay” [9;15]. Ý
kiến của nhà nghiên cứu đã bƣớc đầu chỉ ra vai trò và chức năng của hát ru
trong đời sống sinh hoạt của con ngƣời.
Năm 1994, tác giả Phạm Phúc Minh trong cuốn Tìm hiểu dân ca Việt
Nam cho rằng: “Hát ru còn gọi là hát ru con hoặc ru em là một lối hát theo tập
quán truyền thống và rất phổ biến ở các vùng, các dân tộc ở trên khắp mọi
miền đất nƣớc. Tuy mỗi miền, mỗi dân tộc đều có điệu hát ru đƣợc gọi bằng
các tên gọi khác nhau và âm nhạc cũng mang màu sắc riêng, nhƣng có những
điểm chung nhƣ: giai điệu êm dịu, du dƣơng, trìu mến; tiết tấu đều đặn, nhịp
2
nhàng; lời ca giàu hình tƣợng, dào dạt tình thƣơng yêu tha thiết đối với em
thơ, tất cả những yếu tố đó đã nhƣ đôi cánh nhẹ nhàng đƣa em bé vào giấc
ngủ yên lành”[6;1996]. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã
nhấn mạnh đến phƣơng thức diễn xƣớng của hát ru đồng thời chỉ ra những nét
tƣơng đồng cũng nhƣ đặc thù của hát ru ở mỗi vùng miền, mỗi dân tộc.
Năm 1997, trong Bình luận văn học, Niên giám số 1, Bùi Mạnh Nhị có
bài viết Những bài ca hay nhất thế gian. Theo đó,“Hát ru có chức năng đặc
biệt. Chức năng này chi phối những đặc điểm khác của nó”. Đề cao vai trò
của hát ru, tác giả cho rằng: “Ai lớn lên mà không đƣợc nghe hát ru thì ngƣời
ấy không đủ hoàn thiện. Văn minh hiện đại ngày càng trang bị cho con ngƣời
đủ thứ. Catset, đĩa hát, băng hình là hay và tiện lợi đấy, nhƣng dù hiện đại đến
đâu cũng không thể thay thế đƣợc sữa âm thanh, sữa tâm hồn tự nhiên của hát
ru”. [7;342].
Năm 1998, trong cuốn Những thế giới nghệ thuật ca dao Phạm Thu
Yến khi nói về hát ru đã phân tích: “Hát ru là minh chứng rất rõ cho chức
năng thực hành, sinh hoạt của văn học dân gian. Nó tồn tại trong cuộc sống
với tƣ cách là một thứ nghệ thuật thực dụng. Hát ru không chỉ chú ý đến chất
lƣợng thẩm mỹ mà chú ý trƣớc hết đến mục đích ru cho bé ngủ. Ru cho bé
ngủ mà bé mãi không ngủ, còn khóc thét lên thì nói làm gì. Hát ru là làm sao
cho bé thôi khóc, cho bé ngủ ngon để bà, để mẹ, để chị còn ra đồng cấy gặt,
để làm trăm việc không tên trong nhà hay đƣợc nghỉ ngơi sau một ngày làm
việc vất vả.”[15;166]. Ở đây tác giả đã có những phân tích khá cụ thể về chức
năng và đặc điểm diễn xƣớng của hát ru.
Năm 2006, cuốn Hành trang gia đình trẻ tập hợp một số bài viết tham
dự hội thảo “Giao lƣu tiếng hát ru - hành trang gia đình trẻ” với thành phần là
các tác giả đang làm việc thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣ ca sĩ, cán bộ
nghiên cứu, quản lí văn hóa, bác sĩ, cô giáo và các nhà chuyên môn nhƣ: nhạc
3
sĩ Phạm Tuyên, TS Lê Văn Toàn. Các bài viết đem đến cái nhìn tổng quan từ
nhiều góc độ về vai trò, giá trị của hát ru trong xã hội, thực trạng hát ru hiện
nay, biện pháp bảo tồn hát ru...
Năm 2014, Bùi Thị Minh Lan trong luận văn thạc sĩ Hát ru trong đời
sống văn hóa dân gian của đồng bào Tày, Thái, Mường ở miền núi phía Bắc,
đã nhận xét: “Trong đời sống văn hóa dân gian, hát ru là một bộ phận sinh
hoạt tinh thần có mối quan hệ mật thiết với các yếu tố cấu thành đời sống văn
hóa xã hội. Hát ru đƣợc định hình từ mốc đầu tiên của đời ngƣời” [5;27]. Đây
là công trình nghiên cứu khá cặn kẽ về hát ru trong đời sống văn hóa dân gian
của một số dân tộc miền núi phía Bắc. Những phát hiện của tác giả đã giúp
chúng tôi có cơ sở để so sánh với hát ru ngƣời Việt.
Ngoài ra, hát ru còn đƣợc giới thiệu trong một số giáo trình văn học dân
gian, hoặc bài viết trên các tạp chí, các trang báo điện tử... Nhìn chung, hát ru
mặc dù đã nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà nghiên cứu song vẫn còn nhiều
vấn đề có thể khai thác cụ thể và hệ thống hơn nữa.
Từ những gợi ý có tính chất tiền đề của ngƣời đi trƣớc, chúng tôi triển
khai đề tài với mong muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình vào việc tìm
hiểu và khẳng định những giá trị to lớn của hát ru.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Khai thác một cách có hệ thống tƣ liệu về hát ru ngƣời Việt, từ đó chỉ
ra những biểu hiện độc đáo nhất của hát ru ngƣời Việt trên cả hai phƣơng
diện: nội dung và nghệ thuật. Nâng cao khả năng tƣ duy và tiếp cận các
phƣơng pháp nghiên cứu khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng
dạy sau khi tốt nghiệp.
- Nhận diện và phân tích các đặc điểm nổi bật của hát ru – một trong
những biệt loại bài trữ tình dân gian, gắn với môi trƣờng sinh hoạt gia đình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Hát ru ngƣời Việt với các đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Tƣ liệu
Phạm vi nghiên cứu tƣ liệu của khóa luận giới hạn ở hát ru ngƣời Việt.
Hát ru gồm cả hai yếu tố: ngôn từ và âm nhạc song trong khóa luận, chúng tôi
chỉ tìm hiểu hát ru trên phƣơng diện ngôn từ.
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi đã thống kê và lựa chọn 200
bài hát ru ngƣời Việt làm đối tƣợng khảo sát, phục vụ cho mục đích nghiên
cứu. Trong đó, lời ru của bà: 22 bài (11%), lời ru của mẹ: 113 bài (56,5%), lời
ru của chị: 57 bài (28,5 %), lời ru của bố: 8 bài (4%). Trên cơ sở đó, chúng tôi
chủ yếu phân tích lời ru của mẹ và của chị.
4.2.2. Nội dung
Hát ru ngƣời Việt chứa đựng những giá trị to lớn trên nhiều phƣơng
diện. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật nhất về
nội dung và nghệ thuật của hát ru.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này ngƣời viết đã sử dụng một số phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
- Tiếp cận hệ thống
- Phân tích, bình giảng
- So sánh, đối chiếu
- Tổng hợp
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa luận
đƣợc triển khai thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Giới thuyết về hát ru
Chƣơng 2: Đặc điểm nội dung hát ru
5
Chƣơng 3: Đặc điểm nghệ thuật hát ru
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. GIỚI THUYẾT VỀ HÁT RU
1.1. Khái niệm và phân loại hát ru
1.1.1. Khái niệm hát ru
Trong các sáng tác dân gian, ca dao là một hình thức nghệ thuật độc
đáo, phản ánh chân thực và sống động về đời sống tâm hồn của con ngƣời.
Trong những bài ca trữ tình dân gian, có một biệt loại bài ca thuộc đề tài sinh
hoạt gia đình gắn với đời sống mỗi con ngƣời, mỗi gia đình, mỗi dân tộc, đó
là những bài hát ru. Có lẽ tuổi thơ của ai cũng đều gắn với khúc hát ru của bà,
của mẹ... Chắc hẳn chẳng ai còn xa lạ gì với lời ru “Cái cò bay lả bay la” của
khúc hát ru đồng bằng Bắc bộ, “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ” của những miệt
vƣờn xanh mƣớt phƣơng Nam... Bài nào cũng thiết tha, chan chứa tình yêu
thƣơng vô bờ bến của mẹ dành cho con. Vậy hát ru là gì?
Hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh khái niệm hát ru.
Tác giả Võ Quang Nhơn trong Lịch sử văn học Việt Nam - văn học dân gian
các dân tộc ít người Việt Nam cho rằng: “Hát ru là một bộ phận dân ca sinh
hoạt liên quan đến thế giới của trẻ con”[8;271]. Tác giả Vũ Anh Tuấn trong
Giáo trình văn học dân gian đƣa ra định nghĩa: “Hát ru là một biệt loại của ca
dao, gắn bó chặt chẽ với đời sống của mỗi con ngƣời, mỗi gia đình, mỗi dân
tộc” [12;199]. Bùi Thị Minh Lan trong Hát ru trong đời sống văn hóa các dân
tộc Tày, Mường, Thái ở miền núi phía Bắc cho rằng: “Hát ru là một loại hình
nghệ thuật dân gian đặc sắc, thuộc bộ phận dân ca sinh hoạt liên quan đến thế
giới của trẻ thơ, là những lời hát dân ca dùng để ru trẻ nhỏ và truyền cho trẻ
những cung bậc tình cảm từ ngƣời lớn.” [5;9]. Trong Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia cũng có định nghĩa: Hát ru là những bài hát nhẹ nhàng đơn giản
giúp trẻ con ngủ. Phần lớn các câu trong bài hát ru con lấy từ ca dao, đồng
6
dao, hay trích từ các loại thơ hoặc hò dân gian đƣợc truyền miệng từ bà xuống
mẹ, thế hệ trƣớc sang thế hệ sau. Do đó, những bài hát này rất đa dạng, mang
tính chất địa phƣơng, gần nhƣ mỗi gia đình có một cách hát riêng biệt.[20].
Chúng tôi cũng có cùng quan điểm với ý kiến này.
1.1.2. Phân loại hát ru
Dựa vào đề tài hát ru, có thể chia hát ru thành 2 loại: Những bài hát ru
đích thực và những bài hát ru tùy hứng.
a, Những bài hát ru đích thực
Loại bài ca này thƣờng bắt đầu bằng các mô típ: “Cái ngủ mày ngủ”;
“Con ơi con ngủ cho ngoan”;... do ngƣời lớn sáng tác, với mục đích ru trẻ.
Với cha mẹ thì giấc ngủ an lành của con nhƣ chính niềm hạnh phúc
đƣợc nuôi dƣỡng từng ngày và những lời hát ru da diết thấm đƣợm tình quê
hƣơng, thấm đƣợm tình mẫu tử thiêng liêng luôn đƣợc chuyển tải bằng những
lời ca vỗ về cho giấc ngủ con trẻ. Trong hát ru thƣờng chỉ chú ý đến lời (ca
từ) còn giai điệu (nhạc lý) thì mỗi bà mẹ có một giọng trữ tình riêng nhƣng
vẫn gây ấn tƣợng sâu sắc trong suốt cả cuộc đời ngƣời con. Và lời hát ru của
ngƣời mẹ sẽ rất quan trọng để góp phần nuôi dƣỡng tâm hồn con trẻ cùng tình
mẫu tử ngay từ khi còn bé. Ngƣời ru nêu lên lí do vì sao bé cần ngủ ngoan,
ngủ sâu:
Ru em em ngủ cho ngoan
Để mẹ đi chặt cây chuối trên nƣơng xa
Em ngủ đừng khóc nữa
Ngoài đồng xa cha đang đi kiếm măng non
Nín đi hỡi em ơi
Nơi xa mẹ nhặt đƣợc nhiều ngọn rau non
Đừng khóc nữa hỡi em ơi [24]
Bé ngủ ngoan, ngủ sâu thì cha mẹ mới làm đƣợc việc: chặt cây chuối,
7
kiếm măng non, nhặt rau. Công việc ba mẹ làm xuất phát từ tình yêu thƣơng
con, muốn con đƣợc hƣởng đầy đủ sự ấm no, hạnh phúc. Nghe con khóc mà
lòng cha mẹ xót xa, những giai điệu : “đừng khóc nữa”, “nín đi hỡi em” vang
lên để đƣa bé vào giấc ngủ. Lời ru ngọt ngào tha thiết, tuy đơn giản mà ấm áp
tình yêu thƣơng.
Mẹ còn dỗ bé ngủ say với lí do hết sức bình dị:
Ru em cho théc cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ,
Mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim [21]
Ăn trầu là một nét đẹp văn hóa của ngƣời Việt. Đối với ngƣời Việt xƣa
thì “miếng trầu là đầu câu chuyện” đƣa mọi ngƣời đến gần với nhau hơn. Lời
ru của mẹ còn nhƣ một lời giới thiệu về địa danh và sản vật, sản phẩm thủ
công của địa phƣơng. Đó nhƣ những kiến thức đầu đời mà trẻ nhận đƣợc từ
lời ru của mẹ.
Ngoài ra mẹ ru bé ngủ vì nhiều mục đích khác nhau: “Để mẹ đi cấy
đồng sâu”, “Để mẹ đi chăm cây lúa trên nƣơng”, “Để mẹ xúc nốt bồ than cho
đầy”... Nhƣng dù vì mục đích gì thì cũng đều bắt nguồn từ tình yêu thƣơng
con, mẹ cố gắng làm tất cả điều đó để bé có đƣợc cuộc sống đầy đủ, sung túc
hơn. Yêu bé, bé ngủ ngoan để mẹ yên tâm làm việc. Nhƣ vậy, mẹ đã hạnh
phúc lắm rồi.
Sau khi đề cập tới mục đích ru bé ngủ, mẹ hứa với bé là nếu ngủ ngoan,
khi ngủ dậy sẽ đƣợc ăn ngon:
À ơi
8
Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp, cháo kê, thịt gà
Buồn ăn bánh đúc, bánh đa
Củ từ, khoai nƣớng cùng là cháo kê [24]
Cơm nếp, cháo kê, thịt gà, củ từ, khoai nƣớng là những món ăn phổ
biến của vùng nông thôn. Tất cả đều là “cây nhà lá vƣờn” chứa đầy đủ chất
dinh dƣỡng để bé lớn khôn và phát triển. Điệp từ “buồn” nhắc lại 4 lần nhấn
mạnh đến món ăn mà bé đƣợc thƣởng thức sau khi mẹ đi làm về.
Hay:
Cái ngủ mày ngủ cho ngoan
Để mẹ đi cấy đồng xa trƣa về
Bắt đƣợc con cá rô, trê
Thòng cổ mang về cho cái ngủ ăn [17]
Em ngủ ngoan, ngủ say không quấy khóc để mẹ “đi cấy”. Hình ảnh
“con cá rô, trê” - những thứ quen thuộc trong bữa ăn hàng ngày của ngƣời dân
lao động thôn quê. Trên những con mƣơng dẫn nƣớc vào ruộng có biết bao
nhiêu cá, cua. Sau khi cấy xong hoặc nghỉ trƣa, mẹ dành ít thời gian bắt cá,
lúc ấy đã có bữa ăn dinh dƣỡng cho cả nhà và cho bé “thòng cổ mang về cho
cái ngủ ăn”.
Còn nhiều món ăn ngon mà bé sẽ đƣợc thƣởng thức sau giấc ngủ: “con
dê đã mùi thì để em ăn”, “con thèm cá mát canh khoai”, “con thèm xơ mít,
thèm tai quả hồng”... Bởi bé đƣợc mẹ dành cho tất cả tình yêu thƣơng, chở
che, đùm bọc. Đặc biệt, bé còn đƣợc lớn lên, chơi đùa cùng bạn bè, ê a những
câu hát đồng dao quen thuộc. Hạnh phúc lắm khi câu đầu tiên bé bi bô gọi
tiếng “mẹ”.
b, Những bài hát ru tùy hứng
Những bài hát ru này tùy vào “lƣng vốn” thơ ca của bà, của mẹ mà “bẻ”
9
theo điệu hát ru, có thể là ca dao, là trích đoạn truyện Kiều của Nguyễn Du,
hay bài ca đẫm nƣớc mắt Lỡ bước sang ngang, Cô lái đò của nhà thơ Nguyễn
Bính...
Bà, mẹ, chị đã lấy những bài ca dao để ru bé ngủ. Những bài ca dao
thuộc nhiều chủ đề khác nhau, trở thành nguồn “chất liệu” dồi dào cho bà, cho
mẹ dựa vào đó cất lên lời hát ru trẻ. Chẳng hạn, một bài ca dao tỏ tình:
Hôm qua tát nƣớc đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em đƣợc thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đƣờng tà
Vợ anh chƣa có, mẹ già chƣa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mƣợn cô ấy về khâu cho cùng
Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến lúc lấy chồng anh lại giúp cho
Giúp cho một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rƣợu tăm
Giúp cho đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi chằm em đeo [24]
Lời tỏ tình nhƣng vô cùng kín đáo, mƣợn chiếc áo, chàng trai nói
những lời thổ lộ tình cảm của mình và mong muốn có thể kết duyên cùng cô
gái. Chàng trai đã viện cớ rằng áo bị sứt chỉ, mẹ già chƣa thể khâu mà anh ta
cũng chƣa có vợ nên chiếc áo đã bị rách trong tình trạng nhƣ vậy rất lâu rồi.
Và nếu cô gái chịu khâu áo giúp mình thì chàng trai sẽ dốc lòng báo đáp công
lao ấy, lúc cô gái lấy chồng anh ta sẽ giúp cho một thúng xôi vò, một con lợn
béo, vò rƣợu tăm, chiếu để cho cô gái nằm. Ta có thể nhận thấy đây là những
10
lễ vật rất có giá trị cho ngày cƣới của cô gái. Những vật này cũng là lễ vật mà
chàng trai sẽ mang đến hỏi cƣới cô gái, nếu nhƣ cô gái thuận lòng kết duyên
cùng anh ta. Hai câu thơ cuối “Giúp cho quan tám tiền cheo/ Quan năm tiền
cƣới lại đèo buồng cau” chính xác là những lễ vật dành cho đám hỏi.
Hay ngƣời lớn còn ru bé ngủ bằng câu chuyện về mối tình lỡ dở:
Trèo lên cây bƣởi hái hoa
Bƣớc xuống vƣờn cà, hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở hoa xanh biếc
Em đi lấy chồng, anh tiếc lắm thay
Ba đồng một miếng trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Nhƣ chim vào lồng, nhƣ cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng, biết thuở nào ra…[17]
Chỉ hai câu ca dao đầu tiên mộc mạc mà gợi lên cả một trời thƣơng
nhớ, sắc trắng tinh khôi, hƣơng thơm ngan ngát của hoa bƣởi ƣớp trong làn
tóc. Nhƣng những hình ảnh ấy đều chỉ là ẩn dụ tƣợng trƣng cho những kỉ
niệm đẹp đã qua. Chàng trai thất tình hồi tƣởng lại cảnh cũ ngƣời xƣa, để rồi
chỉ biết thốt lên một câu nghẹn ngào chua xót: Em có chồng rồi, anh tiếc lắm
thay! Lời trách móc dịu dàng và âu yếm của cô gái: Sao anh chẳng hỏi những
ngày còn không? Nếu không thật lòng yêu thì cô gái không thể có những lời
chân thành nhƣ vậy. Đó cũng là điều an ủi duy nhất đối với chàng trai lúc này.
Câu Ba đồng một mớ trầu cay giản dị, tự nhiên nhƣng bao hàm nhiều ý
nghĩa. Ba đồng (số ít) đối lập với một mớ (số nhiều). Trầu càng rẻ thì cái giá phải
trả cho tình duyên lỡ làng càng đắt, sự tiếc nuối càng tăng. Do vậy mà chàng trai lại
càng xót xa, ân hận! Cô gái trách chàng trai vì sao anh không hỏi cô làm vợ đúng
11
lúc, để đến nỗi giờ đây cả hai phải lâm vào cảnh day dứt, khổ tâm.
Duyên tình chúng mình dang dở, lỗi ấy tại ai? Tại ai đi nữa thì bây giờ
cũng đã muộn màng: Bấy giờ em đã có chồng/ Như chim vào lổng như cá cắn
câu. Chim vào lồng, cá cắn câu là những thành ngữ quen thuộc hỏi về hoàn
cảnh bị ràng buộc, mất tự do của ngƣời con gái đã có chồng. Dù muốn hay
không thì cũng đành lòng vậy, cầm lòng vậy! Câu ca dao có âm điệu trầm
buồn, thổn thức, giống nhƣ tiếng thở dài chua xót cho duyên phận lỡ làng.
Những lời hát ru nhƣ vậy, không đơn thuần chỉ là lời ru trẻ mà ở đó còn
chất chứa biết bao tình cảm, nỗi niềm của những ngƣời hát.
Nhiều ông nội, ông ngoại lại lẩy Kiều hoặc tập Kiều khi ru cháu, vừa
dạy dỗ vừa tỏ bày tâm sự :
À ơi ới… à ạ ơi…
Còn non còn nƣớc còn dài
Nắng mƣa thui thủi quê ngƣời một thân
Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa…
À à ơi… ới à à ơi…
Xót thay chiếc lá bơ vơ
Kiếp trần biết rũ bao giờ cho xong!
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm mây lồng trƣớc sau
Bốn phƣơng mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà
À à ơi…
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Con tằm đến thác cũng còn vƣơng tơ
12
Ru hời ru hỡi là ru…[19]
Âm điệu “ru hời” “à à ơi” cùng với sự ôm ấp, vỗ về nhẹ nhàng để đƣa
trẻ nhanh vào thế giới của “những giấc mơ êm ái”.
Còn biết bao bài ca dao khác cũng đƣợc bà, mẹ, chị dùng để ru bé ngủ.
Lời ru ấy đã thấm đẫm tuổi thơ con những tình cảm thiêng liêng: tình cảm gia
đình, tình yêu thƣơng giữa con ngƣời với nhau... Khúc hát ru đầu đời là hành
trang để con vững bƣớc vào ngƣỡng cửa cuộc đời.
1.2. Chức năng và diễn xƣớng của hát ru
Theo Phạm Thu Yến, hát ru là minh chứng rất rõ cho chức năng thực
hành - sinh hoạt của văn học dân gian. Nó tồn tại trong cuộc sống với tƣ cách
của một thứ nghệ thuật ích dụng. Hát ru không chỉ chú ý đến chất lƣợng thẩm
mỹ mà chú ý trƣớc hết đến mục đích ru cho bé ngủ. Ru cho bé ngủ mà bé mãi
không ngủ còn khóc thét lên thì nói làm gì. Hát ru là làm sao cho bé thôi
khóc, cho bé ngủ ngon để bà, để mẹ, để chị còn ra đồng cấy gặt, để làm trăm
việc không tên trong nhà hay dƣợc nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả.
Đối với trẻ thơ, hát ru là một trong những yếu tố hình thành nên bản sắc
văn hoá dân tộc, là nguồn sữa nuôi dƣỡng thế giới tinh thần, là nhịp cầu nối
tâm thức trẻ với mọi bài học về cuộc sống xã hội bởi vì nó có sức hấp dẫn, lôi
cuốn mạnh mẽ nhất đối với các em nhằm phát triển tình cảm, đạo đức, tình
đoàn kết, mở rộng nhận thức, tình yêu thiên nhiên, yêu quê hƣơng đất nƣớc,
qua đó góp phần giáo dục trẻ về truyền thống văn hoá của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.
Trong quá trình sƣu tầm và nghiên cứu về hát ru có thể mỗi tác giả với
cách tiếp cận từ những góc độ khác nhau, theo những cách nhìn nhận khác
nhau đã định nghĩa hát ru theo những cách riêng của mình. Nhƣng tất cả các
nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng hát ru là những sáng tác dành cho trẻ em,
có chức năng ru trẻ, đƣa trẻ vào giấc ngủ ngon. Đây cũng chính là đặc trƣng
13
diễn xƣớng nổi bật của hát ru.
Văn học dân gian là nghệ thuật đa yếu tố - nghệ thuật diễn xƣớng. Loại
nghệ thuật này nảy sinh từ nhu cầu giao tiếp trực tiếp và đƣợc sử dụng nhƣ
một phƣơng tiện đặc sắc của hành động giao tiếp ấy. Các tác phẩm văn học
dân gian thƣờng bộc lộ tình cảm trong các hình thức đối thoại của con ngƣời:
nam - nữ; ngƣời dân - cộng đồng làng xóm; mẹ - con... và hát ru là một trong
những hình thức diễn xƣớng đặc biệt. Diễn xƣớng hát ru không cồng kềnh,
quy mô nhƣ một số hình thức diễn xƣớng văn nghệ dân gian khác nhƣ dân ca
nghi lễ, hát đối đáp nam nữ hội hè dình đám, mà nó đơn giản ấm áp, thấm
đẫm tình yêu thƣơng giữa các thành viên trong gia đình. Ở đây chỉ có mẹ và
con, chị và em, bà và cháu... không phải là đối đáp mà là một nhân vật trữ
tình (ngƣời hát) có đối tƣợng trực tiếp để trao gửi tâm tình. Hát ru thể hiện
đậm đà khả năng giao đãi tình cảm của con ngƣời, mang tính thực hành và
tính thẩm mỹ cao. Trẻ em thích đƣợc ru bởi trƣớc hết nó đƣợc hƣởng sự giao
cảm trực tiếp, tình yêu thƣơng thuần khiết trong vòng tay âu yếm, tin cậy của
bà, của mẹ. Vòng tay êm ái, vành nôi đu đƣa và lời ca dịu dàng... còn gì thanh
bình hơn thế để đứa trẻ thiu thiu đi vào giấc ngủ.
Giấc ngủ của bé thật ấm áp và hạnh phúc khi có lời ru bên nôi hay bên
võng của những ngƣời thân yêu:
Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng
Tính tình tang, là tang tính tình
Duyên tình rằng, ấy duyên tình ơi
Rằng có nhớ, nhớ hay chăng
Rằng có biết, biết hay chăng [23]
Đó là hình ảnh con cò bay trên những cánh đồng rộng lớn, thẳng cánh
cò bay. Hình ảnh ấy gắn với biết bao kỉ niệm tuổi thơ của mỗi ngƣời khi sinh
14
ra và lớn lên trên những miền đồng bằng lúa nƣớc ấy. Chẳng còn lạ lẫm gì
hình ảnh cánh cò trắng phau đang vỗ từng phách nhịp nhàng trên nền trời
xanh. Nó nhƣ làm cho cuộc sống và không khí chốn làng quê vốn dĩ thanh
bình nay lại càng thanh bình hơn. Tính nhạc “tính tình tang, là tang tính tình”
giúp bé dễ đi vào giấc ngủ.
Nhƣ vậy, bé là đối tƣợng để ngƣời lớn gửi gắm, bộc lộ trực tiếp tình
cảm của mình. Trƣớc khi đứa trẻ hiểu đƣợc ý tứ lời ca, nó đã đƣợc sống trong
không khí dịu dàng với những nét nhạc đồng quê êm ái. Còn tâm tình, ý tứ
của bài ca là tiếng lòng của ngƣời lớn. Hát ru là lời ngƣời lớn hát với chính
mình, hát về gia đình, hát về quê hƣơng và những ngƣời thân yêu nhƣng
nhiều nhất là đứa con bé nhỏ yêu thƣơng của mình.
Tiểu kết:
Giới thuyết về hát ru ngƣời Việt, có thể thấy đƣợc những nhìn nhận và
đánh giá cụ thể về vấn đề khái niệm và phân loại hát ru. Dù là hát ru đích thực
hay hát ru tùy hứng thì cũng đều bộc lộ rõ vai trò của nó trong đời sống sinh
hoạt của ngƣời bình dân xƣa. Hát ru tồn tại trong thực tế nhƣ một loại nghệ
thuật mang tính ứng dụng trực tiếp, gắn liền với mục đích ru trẻ. Đây là đặc
15
điểm diễn xƣớng vô cùng đặc biệt của hát ru.
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG HÁT RU
Hát ru phản ánh sinh hoạt xã hội, hoạt động lao động sản xuất, thế giới
hiện thực, tình cảm yêu thƣơng của con ngƣời, có tính chất trao truyền thế hệ.
Đó là những bài ca bình dị, hồn nhiên dễ hát, dễ nhớ mang âm hƣởng trữ tình
êm dịu, đằm thắm, ấm áp tình ngƣời thể hiện qua mẹ ru con, chị ru em.
2.1. Hát ru chứa đựng kiến thức về thế giới tự nhiên và đời sống xã
hội
2.1.1. Kiến thức về thế giới tự nhiên
Thế giới nghệ thuật trong những lời hát ru thật đa dạng, thân thuộc bật
lên từ cuộc sống hàng ngày vừa để dỗ dành, vừa dạy cho trẻ những bài học
nhận biết về đặc điểm thế giới đồ vật, sự vật, hiện tƣợng đơn giản trong cuộc
sống:
Buồn vì một nỗi tháng Giêng
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài
Buồn vì một nỗi tháng Hai
Đêm ngắn ngày dài thua thiệt ngƣời ta
Buồn vì một nỗi tháng Ba
Mƣa dầu nắng lửa ngƣời ta lừ đừ
Buồn vì một nỗi tháng Tƣ
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn vì một nỗi tháng Năm
Chƣa đặt mình nằm gà đã gáy kêu [19]
Bài ca dao trên chỉ ra dặc điểm của các tháng trong năm: tháng hai đêm
ngắn ngày dài; tháng ba mƣa nhiều nắng gắt, tháng năm ngày dài đêm ngắn...
Kiến thức về các tháng trong năm là rất cần thiết, ngay từ những năm tháng
16
đầu tiên của cuộc đời bé đã đƣợc tiếp xúc với những kiến thức sơ khai này.
Đối với trẻ những kiến thức mà bé cảm nhận đƣợc qua lời ru rất có ích cho sự
phát triển của trẻ sau này.
Qua lời ru, phong cảnh núi non, thác ghềnh đƣợc hiện lên thật sống
động:
Nƣớc sông Thao biết bao giờ cạn
Núi Ba Vì biết vạn nào cây [12;210]
Hình ảnh “bao giờ cạn”, “vạn nào cây” cho thấy nguồn nƣớc dồi dào
của dòng sông Thao, cây cối xanh tốt của núi Ba Vì. Tất cả đã tạo nên bức
tranh với thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ.
Hay đó còn là những cảnh êm ả, thơ mộng của những cánh đồng, dòng
sông, con đƣờng... ở các vùng miền trên đất nƣớc đƣợc hiện lên sinh động,
hữu tình:
Đƣờng vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nƣớc biếc nhƣ tranh họa đồ [12;210]
“Non xanh nƣớc biếc” ấy lại đƣợc so sánh “nhƣ tranh họa đồ” khơi gợi
lòng ngƣời niềm tự hào về giang sơn gấm vóc, về quê hƣơng đất nƣớc tƣơi
đẹp, mến yêu.
Hồ Tây – một địa danh của Hà Nội ngàn năm văn hiến, cũng đƣợc
ngòi bút tài hoa của ngƣời xƣa vẽ thành bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ:
Gió đƣa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xƣơng
Mịt mù khói toả ngàn sƣơng
Nhịp chày Yên Thái mặt gƣơng Tây Hồ [17]
Bài ca dao là bức tranh toàn cảnh Hồ Tây vào một buổi sáng tinh mơ.
Mở đầu là nét chấm phá đơn sơ nhƣng sinh động: Gió đưa cành trúc la đà.
Làn gió nhẹ sớm mai làm đung đƣa cành trúc trĩu nặng sƣơng đêm, tạo nên
17
cái dáng mềm mại, nên thơ. Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào
nhau: Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga,
tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang
vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên. Tiếng gà gáy gợi lên cuộc sống
quen thuộc nơi thôn dã. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời… làm tăng thêm vẻ
tĩnh lặng của đất trời lúc đêm tàn, ngày rạng. Những ai đã đến Hồ Tây khi
màn sƣơng dày đặc còn bao phủ mặt hồ thì mới thấy đƣợc cái hay, cái đẹp của
câu: Mịt mù khói toả ngàn sương và mới thực sự sống trong tâm trạng lâng
lâng thoát tục trƣớc vẻ đẹp thần tiên ấy. Nếu ở ba câu thơ trên mới thấp
thoáng hơi hƣớng cuộc sống thì đến câu thứ tƣ, hình ảnh cuộc sống lao động
đã hiện ra khá rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của dân làng Yên Thái.
Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống cần lao. Hình ảnh mặt
gương Tây Hồ làm bừng sáng cả bài ca dao. Mặt trời lên xua tan sƣơng mù,
tỏa ánh nắng xuống mặt nƣớc, Hồ Tây trở thành một mặt gƣơng khổng lồ
sáng long lanh, vô cùng đẹp đẽ!
Trên khắp đất nƣớc Việt Nam ta, ở đâu cũng có những cảnh đẹp làm
xao xuyến hồn ngƣời. Những cảnh đẹp ấy đi vào lời ru một cách nhẹ nhàng,
tha thiết: Xứ Lạng với Đồng Đăng có phô Kì Lừa, Có nàng Tô Thị có chùa
Tam Thanh. Hà Nội với ba sáu phố phƣờng, Hồ Tây, Hồ Gƣơm, gò Đống Đa,
chùa Một Cột... Xứ Huế với vẻ đẹp uy nghiêm, trầm mặc của cung điện, đền
đài, lăng tẩm, của sông Hƣơng với núi Ngự Bình. Những đêm trăng sáng,
tiếng hò ngân dài trên sông nƣớc Hƣơng Giang: Đò từ Đông Ba đò qua đập
đá/ Đò về Vĩ Dạ thẳng ngã ba sần/ Lờ đờ bóng ngả trăng chênh/ Tiếng hò xa
vọng nặng tình nước non. Ngƣời dân Nam Bộ tự hào với mảnh đất trù phú,
màu mỡ bốn mùa hoa thơm trái ngọt, lúa chín vàng đồng: Cần Thơ gạo trắng
18
nước trong/ Ai đi đến đó chẳng mong ngày về.
Trong hát ru còn có cả một thế giới đặc biệt dành riêng cho trẻ. Đó
chính là thế giới cỏ cây hoa lá và đặc biệt là thế giới những con vật gần gũi,
đáng yêu, đó là thế giới mà trẻ thích nhất:
Cái cò, cái vạc, cái nông
Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổi ngờ cho tôi [21]
Hay:
Cái cò đi đón cơn mƣa
Tối tăm mù mịt ai đƣa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ cò về thăm anh [16]
Rồi:
Cái bống là cái bống bang
Khéo sảy, khéo sàng cho mẹ nấu cơm
Mẹ bống đi chợ đƣờng trơn
Bống ra gánh đỡ chạy cơn mƣa ròng [23]
Đó còn là hình ảnh:
Ầu ơ…
Ví dầu cá bống đánh đu
Tôm càng hát bội, cá thu cầm chầu.
Ầu ơ…
Ví dầu ví dẩu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng. [23]
Lời ru đƣa trẻ vào thế giới của những con vật đáng yêu: con cò, con cá,
cái bống, con tôm, con trâu... Ở cái thế giới thần tiên này, con vật cũng có
19
những việc làm giống nhƣ con ngƣời: Con cò đi bắt tôm, bắt tép, con cò đi
đón cơn mƣa, còn cái bống thổi cơm, nấu nƣớc, đi chợ... Những thế giới này
đƣợc tả và kể rất đỗi thân thƣơng, hấp dẫn với trẻ.
Những câu hát ru nhƣ làm cho trẻ không chỉ đƣợc biết đến thế giới của
những con vật nhỏ bé, đáng yêu mà còn nhận ra những thanh điệu giàu nhạc
tính của tiếng Việt, rồi để sau này trẻ biết nghe, biết nói, biết sử dụng tiếng
mẹ đẻ một cách thành thạo. Mặc dù trẻ chƣa thể hiểu đƣợc hết nội dung của
những câu hát ru, nhƣng rồi dần dần, lời ru cứ thầm dần vào tâm hồn trẻ, hình
thành trong trẻ phong cách ngôn ngữ dân tộc, bản sắc độc đáo của tâm hồn
Việt Nam. Một chân trời kiến thức với thế giới tự nhiên đƣợc mở ra thông qua
lời ru. Những tri thức ấy sẽ theo sát các em, nâng bƣớc các em bƣớc vào đời
với tình yêu của bà, của mẹ...
2.1.2. Kiến thức về đời sống xã hội
Không chỉ cung cấp những kiến thức về tự nhiên, hát ru còn là kho kiến
thức về đời sống xã hội. Những lời ru của ngƣời lớn mở ra chân trời về hiện
thực cuộc sống của ngƣời nông dân:
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa. [17]
Câu ca dao trên mở ra hiện thực xã hội phong kiến. Đó là chế độ cha
truyền con nối trong các vƣơng triều phong kiến, vua là thiên tử (con trời ) khi
vua về già thì làm Thái thƣợng hoàng còn hoàng tử con vua sẽ đƣợc lập ngôi,
nếu vua mất mà hoàng tử còn quá trẻ thì mẫu hậu có thể buông rèm nhiếp
chính, mọi vấn đề của triều chính đều hỏi ý thiên tử (hỏi ý cậu bé con của vua
và hoàng hậu).
Hình ảnh “con sãi ở chùa” đại diện cho tầng lớp ngƣời nông dân thấp
20
cổ bé họng trong xã hội. Những ngƣời nghèo khổ không đƣợc ăn sung mặc
sƣớng, không hề đƣợc biết đến cuộc sống thƣợng lƣu. Vị trí và công việc của
họ cũng tầm thƣờng nhƣ hoàn cảnh xuất thân “quét lá đa” - những công việc
tầm thƣờng. Và điều đặc biệt là tình thế ấy hoàn toàn thay đổi khi “dân nổi
can qua”: Bao giờ dân nổi can qua /Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Trong xã hội vẫn còn tồn tại những hoàn cảnh trái ngƣợc nhau:
Ngƣời thì mớ bảy, mớ ba
Ngƣời thì áo rách nhƣ là áo tơi [2;249]
So sánh hai hoàn cảnh trái ngƣợc nhau giữa kẻ giàu - ngƣời nghèo để
cho thấy xã hội lúc bấy giờ. Những hình ảnh ẩn dụ có ý nghĩa biể u trƣng cao
khiến bài ca dao ngoài nghĩa cụ thể còn có ý nghĩa phản ánh sự phẫn nộ của
nhân dân lao động. Hình ảnh “mớ bảy, mớ ba” tức là áo trong áo ngoài, cái
đơn cái kép đủ thứ; thƣờng dùng để tả vẻ giàu sang trong sự ăn mặc. Ngƣợc
lại, hình ảnh “áo tơi” nghĩa là thiếu thốn, rách rƣới trong ăn mặc. Nhƣ vậy,
bài ca dao cho thấy sự chênh lệch quá lớn giữa các tầng lớp trong xã hội.
Ngƣời giàu không hề có sự chia sẻ cho ngƣời nghèo. Họ ăn mặc sang trọng,
đẹp đẽ mặc kệ những kiếp ngƣời bất hạnh xung quanh.
Có khi là câu hát hài hƣớc về sự đói nghèo:
Bực mình chẳng dám nói ra
Muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời [9;49]
Phong tục cƣới xin lạc hậu của thôn xã xƣa cũng đƣợc phản ánh theo
một lối riêng:
Cái Bống là cái Bống bè
Chửa cheo chửa cƣới đã về làm dâu
Muốn lấy thì cƣới con trâu
Đừng cƣới con lợn nàng dâu không về [9;49]
Nền kinh tế nƣớc ta là gốc nông nghiệp nên chăn nuôi là không thể
21
thiếu, vì vậy mà kinh nghiệm trong chăn nuôi còn đƣợc đi vào lời ru êm ái:
Nuôi gà phải chọn giống gà
Gà ri bé giống nhƣng mà đẻ mau.
Gà nâu chân thấp chắc mình
Đẻ nhiều, trứng lớn, con vừa khéo nuôi.
Chả nên nuôi giống pha mùi
Đẻ không đƣợc mấy, con nuôi vụng về.[18]
Đây là kinh nghiệm mà ngƣời chăn nuôi cần phải có để có đƣợc giống
gà tốt, ăn ngon, cho trứng nhiều. Các loại gà nên nuôi: gà ri mắn đẻ; gà nâu
trứng lớn, đẻ nhiều. Trứng là loại thực phẩm giàu dinh dƣỡng thƣờng có trong
bữa ăn gia đình ngƣời Việt. Ngoài ra, trứng rất tốt đối với sự phát triển của
trẻ. Trở về với kinh nghiệm chọn gà, không nên nuôi gà pha mùi vì đẻ không
được mấy, con nuôi vụng về.
Ru con bên nôi, các bà, các mẹ cất lên những tiếng hát ru cho bé ngủ.
Ẩn trong lời ca tiếng hát ấy là trang bị cho các em kiến thức về nữ công gia
chánh:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi củ riềng
Con trâu cƣời ngả cƣời nghiêng
Tôi không ăn giềng mua tỏi cho tôi [18]
Lời hát ru cho trẻ ngủ nhƣng chứa dựng trong đó là cách nấu những
món ăn quý hiếm của ngƣời xƣa. Đó là cách sử dụng những gia vị cần thiết ở
từng món ăn, đặc trƣng tạo nên chất lƣợng ở từng món: thịt gà phải có lá
chanh, thịt lợn phải có hành, thịt trâu với tỏi... Những kinh nghiệm ấy đƣợc
đúc kết trong lời hát ru, để rồi đi vào tiềm thức của trẻ một cách êm ái, nhẹ
22
nhàng.
Tiếng hát ru còn là tiếng hát than thở về cuộc sống vất vả, lam lũ, quẩn
quanh không lối thoát của ngƣời lớn:
Gánh cực mà đổ lên non
Còng lƣng mà chạy cực còn chạy theo [2;248]
Nỗi cực khổ, thiếu thốn trong đời sống vật chất cứ bám riết dai dẳng
suốt cuộc đời của ngƣời nông dân: “cực còn chạy theo”.
Hay đó là lời than vì bị áp bức nặng nề kêu trời mà trời chẳng thấu:
Ếch kêu dƣới vũng tre ngâm
Ếch kêu mặc ếch, tre dầm mặc tre [2;248]
Bên cạnh lời than, lời hát ru còn thể hiện thái độ phản ứng có phần
quyết liệt đối với giai cấp thế lực, những hạng ngƣời “máu mặt” trong xã hội
phong kiến:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cƣớp đêm là giặc, cƣớp ngày là quan [12;207]
Bộ máy cai trị trong xã hội phong kiến từ địa chủ, phú ông, vua chúa
đều là những kẻ áp bức bóc lột dân đen. Họ không yêu thƣơng dân chúng mà
ngƣợc lại sống sung sƣớng, xa hoa trên mồ hôi, xƣơng máu của dân. Chúng
“cƣớp” của dân bằng nhiều thủ đoạn: tăng thuế, đƣa ra nhiều luật hà khắc...
mục đích chung là lấy tiền của dân. Một xã hội mục nát hiện lên chân thực và
sinh động qua lời ru. Cũng chính điều ấy phần nào sẽ trở thành một phần kí
ức khi các em lớn lên.
Đặc biệt, lời hát ru còn mang tính chất giải trí, hƣớng vào những hành
động, việc làm trái với lẽ tự nhiên trong xã hội:
Con cá mày ở trong ao
Tao tát nƣớc vào mày sống đƣợc chăng [12;208]
Hay trong bài ca dao sau:
23
Đố ai ngồi võng không đƣa
Ru con không hát, đò đƣa không chèo
Đố ai đốt cháy ao bèo
Để anh gánh đá Đông Triều về ngâm
Bao giờ cho đá nảy mầm
Sung kia nảy nụ cho hành ra hoa
Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dƣới nƣớc thì ta lấy mình [21]
Ngoài ra, còn rất nhiều những bài ca dao nói ngƣợc đƣợc dùng trong
hát ru. Những hiện tƣợng ngƣợc với logic thông thƣờng tạo nên cách nhìn,
cách nói ngộ nghĩnh, ấn tƣợng, đúng nhƣ nhận xét rất tinh tế của nhà nghiên
cứu Hoàng Tiến Tựu “nói về cái ngƣợc để hiểu thêm về cái thuận”[12;208].
nói nhƣ vậy có nghĩa là những lời nói ngƣợc ấy không chỉ cho chúng ta sự ấn
tƣợng mà còn hiểu sâu sắc hơn về xã hội.
Từ lúc còn nằm ngủ trên nôi, trong vòng tay ấm áp của ngƣời lớn, trẻ
đã có đƣợc những cảm nhận riêng về cuộc sống xung quanh thông qua lời hát
ru. Đó là những chân trời kiến thức gần gũi, thân thuộc với cuộc sống của dân
tộc Việt. Nó là nguồn sức mạnh phi thƣờng nâng con đến chân trời mơ ƣớc.
2.2. Hát ru hàm chứa tình cảm âu yếm, chở che của ngƣời hát đối
với trẻ
Những năm tháng đầu đời của trẻ cứ êm đềm trôi theo lời hát ru của
ngƣời hát. Những lời hát ấy vừa đƣa trẻ vào giấc ngủ, vừa chuyển tải đƣợc
tình cảm âu yếm, chở che của ngƣời lớn đối với trẻ. Nhƣ chúng tôi đã giới
thuyết, lời ru của mẹ, của chị chiếm tỉ lệ lớn nhất trong kết quả khảo sát. Vì
vậy, ở đây, chúng tôi đi vào xem xét nội dung này qua các biểu hiện chính.
2.2.1. Tình cảm của mẹ đối với trẻ
Theo nhóm tác giả giáo trình Văn học dân gian: “Hát ru là thứ sữa mẹ
24
ngọt ngào nuôi dƣỡng tâm hồn con ngƣời từ thuở bé thơ, là nơi lƣu giữ tinh
hoa văn hóa truyền thống cội nguồn của dân tộc.”[12;200]. Trẻ rất thích nghe
tiếng hát của mẹ và rất tự nhiên, ngƣời mẹ đã trở thành ngƣời nghệ sĩ đầu tiên
đem âm nhạc, nuôi dƣỡng tâm hồn cho con.
Mẹ nuôi dƣỡng tinh thần của con giống nhƣ dòng sữa ngọt ngào vậy:
Con đói mẹ cho bú
Con lú (ngu dại) mẹ ru hời [9;15]
Ru hời là truyền thống văn hóa, văn minh mẹ. Đó là tinh hoa văn hóa
Việt Nam. Tình yêu thƣơng, lo lắng của mẹ đƣợc gửi gắm qua lời ru, tiếng hát
cất lên bên nôi, bên võng đƣa con ngủ.
Niềm hạnh phúc lớn lao nhất của mỗi ngƣời mẹ là khi con cất tiếng
khóc chào đời. Mẹ luôn là ngƣời dõi theo từng bƣớc chân con đi. Từ lúc lọt
lòng, mẹ luôn ở bên chăm sóc, vỗ về, lo cho con từng bữa ăn, giấc ngủ, đến
khi lớn khôn mẹ lại là nguồn động lực nâng con dậy sau mỗi lần vấp ngã.
Ngƣời phụ nữ nào đã từng trải qua cuộc đời làm mẹ mới hiểu đƣợc sự vất vả
khi con đau ốm, có những đêm mẹ phải thức trắng:
Gió mùa thu... Mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm
Hỡi chàng... chàng ơi!
Hỡi ngƣời... ngƣời ơi!
Em nhớ tới chàng... Em nhhớ tới chàng
Hãy nín! nín đi con!
Hãy ngủ! ngủ đi con!
Con hời… con hỡi…
Con hỡi… con hời… hỡi con!…[24]
Tình yêu thƣơng mẹ dành cho con là bao la trời bể. Mẹ thức cùng con,
lời hát ru đƣa con vào giấc ngủ yên bình. Sự hi sinh của mẹ trải dài theo thời
25
gian “năm canh”. Mẹ làm sao có thể chợp mắt khi con thơ còn khóc. Điều
mong muốn nhất của mẹ lúc này đã cất lên thành tiếng hát “hãy nín! nín đi
con”; “hãy ngủ! ngủ đi con”. Mẹ âu yếm, vỗ về ru bé ngủ trong vòng tay ấm
áp.
Niềm hạnh phúc nhƣ vỡ òa khi mẹ nghe con thơ nói những tiếng đầu
tiên:
Có vàng vàng chẳng hay phô
Có con hay nói trầm trồ mẹ nghe [2;241]
Đối với mẹ, đứa con là hiện thân của những gì quý giá và tha thiết nhất
không gì có thể thay thế đƣợc. Vì thế niềm vui sƣớng, hạnh phúc của mẹ là
khi thấy con chập chững bƣớc đi những bƣớc đầu tiên và bi bô gọi mẹ.
Tiếng hát của mẹ trong buổi trƣa hè là tất cả nỗi lòng của mẹ:
Trƣa hè bên chiếc võng đƣa
Mẹ ru con ngủ, mẹ ru con ngủ
Giữa trƣa nắng vàng
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày [24]
Mẹ dành tất cả tình yêu thƣơng cho con thơ. Sau buổi sáng làm việc vất
vả, buổi trƣa là thời gian để nghỉ ngơi nhƣng vì con thơ mẹ không thể chợp
mắt. Mẹ đã thức để ngắm nhìn con chìm vào giấc ngủ cùng tiếng ru hời. Mặc
dù không có từ so sánh nào nhƣng trong tiếng hát của mẹ ta thấy đƣợc phép
so sánh giữa “chim trời” và “nuôi con”. Ai có thể đếm đƣợc lông chim trời
cũng nhƣ không thể kể cụ thể đƣợc tháng ngày nuôi con. Từng ngày đƣợc
nhìn thấy con thơ khôn lớn trong vòng tay mẹ là điều mẹ cảm thấy tuyệt vời
nhất. Vậy nên, thời gian đối với mẹ không đóng vai trò gì cả. Mẹ hi sinh,
mang đến những điều tốt đẹp nhất cho con mà không hề “kể công”. Lòng mẹ
26
ấm áp biết bao!
Con là nguồn hi vọng lớn lao của mẹ, có con là mẹ phải thêm những lo
toan vất vả, thiệt thòi, song mẹ luôn tự hào và vui vẻ chấp nhận sự vất vả ấy:
Có con đi chẳng kịp ngƣời
Mắc cho con bú, mắc cƣời với con [2;242]
Với mẹ lúc này, con chính là thiên thần xua tan đi mệt mỏi, cay đắng
của cuộc đời mẹ. Con là niềm an ủi để mẹ luôn cố gắng, vƣợt qua cuộc sống
khó khăn thực tại.
Sự âu yếm, chở che của mẹ cũng đƣợc thể hiện rõ trong lời ru:
Bên ƣớt mẹ nằm, bên ráo con lăn
Con ăn con ngủ thì mẹ đỡ băn khoăn
Khi con trở trời hơi gió, mẹ chẳng an tâm chút nào [24]
Mẹ sẵn sàng chịu khổ “bên ƣớt mẹ nằm” để con đƣợc an bình “bên ráo
con lăn”. Sự hi sinh của mẹ chẳng ngôn từ nào có thể kể hết. Mỗi khi con trái
gió trở trời, lòng mẹ ngập tràn âu lo. Bé đã lớn lên cùng với những lo lắng của
mẹ nhƣ vậy đấy!
Mẹ còn quên đi bản thân, hi sinh tất thảy cho chồng cho con.
Cái cò là cái cò ca
Bắt về làm thịt lấy ra ba phần
Miếng nạc thời để phần chồng
Miếng xƣơng mẹ gặm, miếng lòng phần con [24]
Bài ca giúp ta hiểu sâu sắc về tấm lòng của mẹ. “Miếng xƣơng” là
phần cứng và khó ăn nhất mẹ giành về phần mình. Còn miếng ngon, mẹ để
phần cho chồng, cho con. Cả một đời tần tảo nuôi con, thế nhƣng chƣa lúc
nào mẹ nghĩ cho mình nhiều hơn. Con là điều đầu tiên mẹ nghĩ đến. Tình yêu
27
thƣơng ấy báo đáp sao cho vừa.
Tình yêu thƣơng vô bờ của mẹ dành cho con thấm đẫm trong những bài
hát ru ngƣời Việt. Nội dung ấy, ta cũng có thể bắt gặp trong hát ru của đồng
bào dân tộc thiểu số. Đây là lời hát ru của ngƣời mẹ dân tộc Mƣờng:
Bồng bồng con nín con ơi
Dƣới sông cá lội, ở trên trời chim bay
Ƣớc gì mẹ có mƣời tay
Tay kia bắt cá, còn tay này bắn chim
Một tay chuốt chỉ luồn kim
Một tay đi làm ruộng, một tay tìm hái rau
Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một tay cầu cúng ma
Một tay khung cửi guồng xa
Một tay lo bếp nƣớc, lo cửa nhà nắng mƣa
Một tay đi củi muối dƣa
Còn tay để van lạy, để bẩm thƣa, đỡ đòn
Tay nào để giữ lấy con
Tay nào lau nƣớc mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay
Bồng bồng con ngủ cho say
Dƣới sông cá vẫn lội, chim vẫn bay trên trời [16]
Ngƣời mẹ tần tảo, lam lũ, hết lòng vì con, qua lời hát ru hiện lên với
một điều ƣớc thánh thiện: “Ước gì mẹ có mười tay”, điều ƣớc mới kỳ lạ làm
sao? Nhƣng khi đƣợc nghe hết lời ru con này ta mới thấm thía sự có lý của
điều ƣớc. Cuộc sống khốn khó, bao vất vả nhọc nhằn vây bọc, để chăm chút
gia đình, nuôi dạy đƣợc đứa con khôn lớn, ngƣời mẹ phải lo toan bao công
việc, từ “bắt cá”, “bắn chim”, “làm ruộng”, “tìm hái rau”, “ôm ấp con
đau”, “vay gạo”, “cầu cúng ma” đến: “khung cửi guồng xa”, “bếp
28
nước”, “lo cửa nhà nắng mưa”, “đi củi, muối dưa”, thậm chí để: “van lạy,
để bẩm thưa, đỡ đòn” trƣớc những thế lực áp bức. Mẹ ƣớc có “mười
tay” với một niềm mong mỏi duy nhất là làm thế nào bảo vệ và nuôi con
khôn lớn nên ngƣời.
“Ước gì mẹ có mười tay” nhƣng thực ra mỗi ngƣời mẹ chỉ có hai tay,
vậy mà mẹ đã làm tất cả mọi việc cho con, vì con. Đó là đôi bàn tay đảm đang
khéo léo, đó là đôi bàn tay tần tảo chai sần… nhờ có nghị lực vô song của trái
tim yêu thƣơng nên mẹ có một sức mạnh phi thƣờng để vƣợt lên tất cả. Nếu
điều ƣớc mẹ có nhiều tay trở thành sự thật, mẹ vẫn thấy: “Tay nào lau nước
mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay”, mẹ nuốt những dòng nƣớc mắt khổ đau, tủi hờn
vào lòng, dành cho con tất cả những điều tốt đẹp, lòng vị tha và sự hy sinh ấy
thật là cao cả. Đó cũng là phẩm chất cao quí của những ngƣời mẹ trên thế
gian này.
Hay ta còn bắt gặp hình ảnh của ngƣời mẹ Thái, với sự hi sinh thầm
lặng:
Chập tối thay hai tã
Gà gáy đã phơi đầy hai sào
Đêm khuya thắp nến sáng cùng sao
Sƣơng dâng đầy trời thức cùng mẹ [1;278]
Biết bao con ngƣời đã lớn lên từ nỗi nhọc nhằn của mẹ. Những giọt mồ
hôi, nƣớc mắt của mẹ giấu vào trong lòng dành cho nụ cƣời và tình yêu
thƣơng. Lời hát ru thể hiện đƣợc sự tần tảo, thức khuya dậy sớm của mẹ.
Nhƣng hơn hết, lời ru ấy làm ấm lòng mẹ mỗi khi con yên giấc.
Có thể nói dù ở bất cứ dân tộc nào, lời ru bình dị mà sâu lắng của mẹ
mãi là khúc ca ngân mãi trong lòng những đứa con suốt cuộc đời, tiếp thêm
niềm tin và sức mạnh, là điểm tựa vững chắc cho con. Câu danh ngôn bất
hủ: “Tuyệt tác của tạo hóa là trái tim người mẹ” bắt nguồn từ tình yêu vô bờ
29
bến, sự hy sinh không cùng của ngƣời mẹ nhƣ thế này chăng?
Ngay từ thửa nằm nôi, con đã cảm nhận đƣợc tình yêu thƣơng vô bờ
của mẹ qua lời hát. Con đƣợc sinh ra và nuôi dƣỡng trƣởng thành là nhờ công
ơn cha mẹ. Bằng lời ca giản dị, giai điệu nhẹ nhàng đã dƣa trẻ vào giấc ngủ,
gieo vào lòng trẻ sự biết ơn mẹ - ngƣời yêu thƣơng, che chở cho con. Đó là
những gì êm ái nhất mà lời ru của mẹ mang lại cho con trong giai đoạn đầu
tiên của cuộc đời.
2.2.2. Tình cảm của chị đối với trẻ
Chị, em là ngƣời sống cùng nhau dƣới một mái nhà. Họ cùng chung
huyết thống, cùng yêu thƣơng, đùm bọc lẫn nhau.
Những lúc mẹ vắng nhà, chị hát ru em để mẹ yên tâm đi làm:
Em ngoan em ngủ cho ngoan
Để chị đi bắt bƣớm vàng em chơi
Bƣớm vàng buộc chỉ đỏ tƣơi
Bằng đôi yếm lụa em thời thích không?
Cớ sao em chẳng bằng lòng
Bây giờ chị bế, chị bồng, chị ru
Bồng bồng bổng tít võng đƣa
Chị em mình ngủ non trƣa mẹ về
Mẹ về nắng tỏa đồng quê
Bánh đa vừng mật mẹ chia chúng mình
Rồi ra bày cỗ linh đình
Em nào em út chị dành phần cho
Em nào em bé chị cho ăn nhiều [17]
Để cho bé ngủ chị có thể “bắt bƣớm”, “bế, bồng, ru” thật đáng yêu biết
chừng nào. Em ngủ để chị cũng đƣợc ngủ đến “non trƣa”. Chị hứa với bé nếu
ngủ ngoan thì khi mẹ về sẽ chia quà cho bé phần hơn.
30
Hay:
Ru em em ngủ cho lâu
Để mẹ đi cấy đồng sâu chƣa về [9;45]
Ta còn bắt gặp những tiếng hát ru em ngủ của những ngƣời chị trong
hát ru dân tộc thiểu số: Chị gái Tày ru em ngủ say để mẹ đi bắt cá: Em ơi ngủ/
Ngủ cho sâu/ Ngủ chờ mẹ/ mẹ ra đồng bắt cá [13;381]. Cô chị ấy cũng dùng
lời ca ngọt ngào để em nín khóc: Nín đi em cưng ơi/Đừng khóc nữa em nhé
[13;359], Bé yêu ơi/ Ngủ đi em/ Đắp mền ấm chăn êm/Ngủ đi em/ Ngủ đi em
[13;360].
Có thể thấy, hình ảnh cô chị đảm đang, khéo léo hiện lên qua lời ru
mang dáng dấp của ngƣời lớn nhƣng cũng thật hồn nhiên. Ngƣời chị nào cũng
muốn em ngủ say, ngủ sâu. Giai điệu lời ru đều đều ngọt ngào, tha thiết.
Chị trẻ con nên còn giọng con trẻ:
Con mèo mà trèo cây cau
À ơi ới à mèo… à ơi
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đƣờng xa
Mua mắm mua muối để giỗ cha chú mèo
Ơi mèo là mèo… à ơi…[19]
Mèo và chuột là những con vật rất gần gũi với con ngƣời. Mèo và chuột
nhƣ là một cặp phạm trù tƣơng phản. Chúng tồn tại vì có nhau. Sự keo sơn
gắn bó này dựa vào quy luật của sự sinh tồn. Mèo cần chuột để làm thức ăn.
Con ngƣời cần mèo để chuyên trị kẻ đục khoét và trộm cắp lƣơng thực là con
chuột. Sự "hỏi thăm chú chuột" của mèo là tiếng gầm gừ và động tác cào cấu
hù dọa để làm lộ mặt đối phƣơng. Tiếc thay, kẻ mạnh lần này đã bị thất bại
trong kế hoạch săn mồi. Chúng ta hãy hình dung vẻ mặt ngơ ngác, tiếc nuối
và hụt hẫng của con mèo sau khi vất vả trèo cao nhƣng không tìm thấy mục
31
tiêu. Sự vắng mặt của chuột cũng là vì kế sinh nhai mà thôi: Chú chuột đi chợ
đàng xa/ Mua mắm, mua muối... Nhƣng xét cho cùng thì chuột cũng sẽ bị vồ
dƣới nanh vuốt của mèo. Bởi từ xa xƣa nó luôn là con vật để "giỗ cha con
mèo". Có thể hiểu đây nhƣ là lời đùa cợt hay là sự cảm thông chia sẻ với con
"mèo cƣng" đã bỏ nhiều công sức ra để săn mồi nhƣng tạm thời thất bại. Lời
ru của chị giống nhƣ việc kể lại cho em nghe về câu chuyện giữa mèo và
chuột một cách hồn nhiên, đáng yêu.
Và lời ru của chị thắm thiết tình cảm huyết thống:
Chị ngã thì em phải nâng
Đừng thấy chị ngã mà em bƣng miệng cƣời
Khôn ngoan đối đáp ngƣời ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
À ơi à ơi ời à ơi…[19]
Tình cảm chị em là thứ tình cảm thiêng liêng trong gia đình. Vì vậy mà
khi chị “ngã” thì em phải “nâng”, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau những lúc khó
khăn, hoạn nạn. Cùng chung dòng máu, cùng mẹ cùng cha nên “chớ hoài đá
nhau”. Chị vỗ về, ru em bằng giọng nhẹ nhàng, êm ái “À ơi à ơi ời à ơi...”.
Lời ru của chị cũng là đạo lí làm ngƣời mà muốn em khi lớn lên phải biết và
thấm thía.
Con chị dại, có khi chẳng biết dỗ em, đành ngỏ lời năn nỉ vỗ về thƣơng
yêu:
Ru em, em hãy nín đi
Kẻo mà mẹ đánh em thì em đau
Em đau chị cũng buồn rầu
Bé mồm bé miệng kêu đâu bây giờ…[19]
Những lúc ru em, em không ngủ mà còn khóc, chị không còn cách nào
khác ngoài việc năn nỉ em “hãy nín đi”. Vì em cứ khóc mãi nhƣ vậy thì chị đã
32
không làm tròn nhiệm vụ ru em ngủ. Chị đã lấy ra hành động “mẹ đánh em”
nếu em không nín để vỗ về bé. Và thể hiện tình cảm của mình với em: “em
đau chị cũng buồn rầu”. Chị yêu thƣơng em không kém gì mẹ thƣơng con:
buồn cùng với nỗi buồn của em, cùng cƣời với em khi vui. Tình cảm ấy đáng
trân trọng biết chừng nào!
Chị mƣợn lời ru em để tỉ tê với mẹ:
Mẹ ơi chớ đánh con đau
Để con đi bắt ốc hái rau mẹ nhờ…[19]
Đó là giọng Bắc. Còn trong Nam, cô chị cũng cùng tâm trạng:
Ầu ơ… ơ ầu ạ ơ…
Má ơi đừng oánh con goài
Để con đi câu cá nấu canh xài má ăn [19]
Hai lời ru có nét tƣơng đồng nhau. Ru em mà chị muốn mẹ thấu “chớ
đánh”, “đừng oánh” để con đi “bắt ốc”, “câu cá”. Tuổi thơ ai mà không phạm
sai lầm, đôi lần bị mẹ đánh đòn. Có thể, con đã phạm sai lầm nào đó và muốn
mẹ tha thứ. Lời hát ru có thể là lời của chị nói với mẹ hay cũng có thể là chị
thay lời em để nói với mẹ là em sẽ ngoan, khi lớn lên sẽ chăm chỉ làm để mẹ
vui lòng.
Ru em, chị hát những câu hát đầy yêu thƣơng:
Bồng bồng mà nấu canh tôm
Ăn vào mát ruột đến hôm lại bồng
Hay:
Bồng bồng mà nấu canh khoai
Ăn vào mát ruột đến mai lại bồng
Em ngủ ngoan để chị làm việc: nấu canh tôm, canh khoai... những món
ăn bình dị quê nhà. Em cứ ngoan nhƣ vậy thì đến “hôm”, “mai” chị lại bồng
em.
33
Chị cũng có khi lên tiếng ngỏ lời khuyên dạy:
Ạ ơi ời… ạ à ạ ơi…
Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi
Con ngƣời ta có khác gì
Học hành dốt nát ngu si hƣ đời
À ơi ới… à ạ ơi… Ru hời ru hỡi là ru…[19]
Trong lời ru ấy chính là lời dạy dỗ của chị với em ngay khi còn thơ bé.
“Ngọc” là thứ quý giá trong tất cả các thứ trang sức, nhƣng nếu không đƣợc
mài, giũa thì cũng trở nên vô dụng. Cũng giống nhƣ con ngƣời nếu không
chăm chỉ học hành thì sẽ “hƣ đời”. Chị muốn em sau này lớn lên sẽ trở thành
ngƣời có ích cho xã hội.
Những lời hát ru của mẹ, của chị thể hiện tình cảm âu yếm, chở che của
ngƣời lớn đối với trẻ em. Hát ru thể hiện tâm hồn chân thành, đằm thắm ân
tình của những ngƣời phụ nữ yêu con, yêu em. Mẹ và chị dành những lời ca,
tiếng hát ngọt ngào, đằm thắm để em đi vào thế giới của những giấc mơ hồng.
2.3. Hát ru là lời giãi bày tâm trạng của ngƣời mẹ
Trong công trình Tuyển tập Lan Khai (2010) có đề cập tới ý kiến của
nhà nghiên cứu Lâm Tuyền Khách nói về hát ru nhƣ sau: “Câu hát nhân loại
bắt đầu từ lời ru, thơ và lời ru bắt nguồn từ tình cảm do cái dây thân ái gia
đình và nhất là tình thâm mẫu tử mà phát sinh”[10;55]. Nhƣ vậy hát ru có thể
đƣợc coi là tiếng ca đầu đời cho mỗi con ngƣời, đó là kí ức thiêng liêng cao
cả. Mỗi khi lời ru cất lên, trẻ đều cảm nhận đƣợc tình yêu tha thiết của mẹ.
Trong bất kì làn điệu hát ru con, tình mẫu tử luôn là nội dung chính đƣợc diễn
tả bằng nhiều hình ảnh sinh động, ý nghĩa. Trong lời hát ru ấy là sự giãy bày
tâm trạng của mẹ.
Hát ru là lời than thở về đời sống cơ cực của những kiếp ngƣời thấp cổ
34
bé họng, chịu nhiều bất công, cuộc sống của họ quẩn quanh, bế tắc:
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cộc leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cộc leo vào leo ra [17]
Con kiến là con vật nhỏ bé trong thế giới loài vật. Từ hình ảnh: leo ra
leo vào, leo vào leo ra đã tái hiện lên tất cả cuộc sống nghèo khổ, cơ cực của
ngƣời nông dân dƣới xã hội phong kiến. Hay đó chính là thân phận của mẹ -
ngƣời đã chịu nhiều vất vả để nuôi con thơ nên ngƣời
Bên cạnh đó hình ảnh “con cò” cũng là một hình ảnh ẩn dụ - con vật
quen thuộc trên cánh đồng lúa trở thành biểu tƣợng cho kiếp ngƣời lam lũ,
nhỏ bé trong xã hội:
À ơi
Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
À ơi
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
À ơi
Có xáo thì xáo nƣớc trong
Đừng xáo nƣớc đục đau lòng cò con [22]
Lời ca diễn tả đƣợc sự khó khăn, vất vả mà mẹ phải chịu đựng trong
cuộc sống mƣu sinh. Cả cuộc đời mẹ chỉ biết cần mẫn làm việc và lặng lẽ hi
sinh cho con. Qua hình ảnh “con cò” là bóng dáng tần tảo của mẹ, mẹ đã vì
con mà không quản ngại đêm tối làm việc để con no đủ, sung túc. Thế nhƣng,
cuộc sống mƣu sinh ấy sao mà nhiều khó khăn, hiểm nguy. Đối diện với cái
chết cò mẹ không hề lo sợ. Điều mà cò mẹ lo lắng nhất là chết nhƣ thế nào để
35
con không phải tủi hổ vì mình. Cả niềm lo lắng và sự hi sinh cuối cùng ấy
ngƣời mẹ cũng dành cho con. Sinh con trong cảnh nghèo “đổi bát mồ hôi lấy
bát cơm” thì tình yêu thƣơng và sự hi sinh ấy càng không gì đo đƣợc. Kiếp
ngƣời nhỏ bé vẫn bị coi nhƣ một miếng mồi hấp dẫn, chỉ cần có dịp đã trở
thành nạn nhân của những kẻ quyền thế - giai cấp thống trị. Bài hát ru chính
là nỗi lòng của mẹ nói riêng và của ngƣời lao động nói chung.
Mẹ giáo dục con truyền thống hiếu học, đạo đức văn hóa của gia đình
qua lời hát ru. Mẹ luôn ao ƣớc, mong mỏi:
Con ơi muốn nên thân ngƣời
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách, ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối đƣợc nghiệp nhà
Trƣớc là đẹp mặt sau là ấm thân [17]
Lời ru của mẹ chất chứa bao bài học, đạo lí làm ngƣời. Vậy nên muốn
nên thân người thì con phải nghe lời mẹ cha. Mẹ muốn con của mình khi lớn
lên sẽ giỏi việc nƣớc, thạo việc nhà. Con gái phải đảm đang, khéo léo: dệt vải,
thêu thùa. Còn con trai phải học hành thành tài để nối được nghiệp nhà. Đó là
ƣớc mơ của mẹ, mẹ muốn các con hiểu đƣợc ngay khi còn thơ bé qua lời ru.
Có hạnh phúc nào hơn khi con cái là niềm tự hào vô cùng to lớn của cha mẹ.
Biết bao đứa con lớn lên trong nỗi nhọc nhằn, vất vả của mẹ. Xuất phát
từ tình mẫu tử, giai điệu hát ru đƣa con vào giấc ngủ yên bình:
Công cha nhƣ núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
36
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con [24]
Mặc dù biết rằng con chƣa thể hiểu mình nói gì nhƣng lời ru là lời mẹ
muốn nhắn gửi đến con thân yêu. Lòng hiếu thảo, tôn kính đối với cha mẹ là
một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Nó mang theo ý nghĩa nhân bản sâu
sắc từ đó khái quát lại trong một chữ “hiếu”. Mẹ cha đã dành cả cuộc đời để
nuôi dạy con nên ngƣời, công lao ấy to lớn lắm, làm sao có thể kể xiết! Có gì
cao hơn núi? Có gì nhiều hơn nƣớc? Vậy mà công cha đƣợc ví với núi Thái
Sơn, nghĩa mẹ ví với nƣớc trong nguồn. Chỉ từng ấy thôi là đủ để ta hiểu tấm
lòng cha mẹ. Chính vì điều đó mà không có lí gì con cái lại đối xử tệ bạc với
chính cha mẹ của mình.
Hoặc những câu hát ru nựng dỗ chứa đựng ý thức lao động:
Kút ka kút kit
Làm ít ăn nhiều
Nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất cƣa
Lấy gì mà kéo [9;15]
Mẹ luôn muốn con mình trƣởng thành để tự nuôi lấy mình và lo cho
tƣơng lai sau này, chứ không phải là đứa “làm ít ăn nhiều”. Mẹ tin tƣởng và
đặt nềm tin ấy vào con - tình yêu bé bỏng của mẹ.
Tình thƣơng của mẹ dành cho con cũng chính là tình thƣơng đồng loại:
Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng
Ngƣời trong một nƣớc phải thƣơng nhau cùng [19]
Hay:
Bầu ơi thƣơng lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhƣng chung một giàn [19]
Con ngƣời trong cuộc sống thƣờng nhật, luôn có ý thức đoàn kết, giúp
37
đỡ nhau vƣợt qua khó khăn, trắc trở trong cuộc đời. Lời mẹ ru con cũng là
điều mẹ luôn mong muốn con có đƣợc - đó chính là tình yêu thƣơng đồng
loại. Tình yêu thƣơng là yếu tố cần thiết để ngƣời gần ngƣời hơn.
Ngoài những khao khát, mong muốn con trở thành ngƣời có ích trong
tƣơng lai, ngƣời mẹ quên rằng mình đang trò chuyện với đứa trẻ. Lúc này, mẹ
đối thoại với chính mình với những cảnh ngộ buồn đau mà đời ngƣời hứng
trải:
Con ơi đừng khóc mẹ sầu
Cha con bạc nghĩa theo hầu thì thôi [12;200]
Lời ca chứa chất sự buồn tủi, hờn giận của ngƣời mẹ nhƣng vẫn thể
hiện rõ tấm lòng vị tha, bao dung, cam chịu: “cha con bạc nghĩa theo hầu thì
thôi”. Ngƣời chồng phụ nghĩa đi theo vợ bé mà mẹ nhủ rằng “thì thôi”. Thì
thôi là làm sao? Chia tay hay cam chịu? Với ngƣời phụ nữ xƣa chắc là cam
chịu. Đau xót lắm mẹ mới cất lời than thở với bé thơ, mong rằng thƣơng mẹ
con đừng khóc nữa: “đừng khóc mẹ sầu”. Lời ru con cũng chính là lời mẹ trải
lòng mình ra với con thơ, tuy con không hiểu nhƣng lòng mẹ có thể vơi đi
phần nào nỗi buồn.
Đó là tâm trạng của ngƣời mẹ khi lấy chồng xa quê:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có đò [12;196]
Hay:
Chiều chiều ra đứng bên dòng sông
Trông dòng sông, thấy ai tang tình khuấy nƣớc
Đẩy đƣa đẩy đƣa con đò
Thƣơng ơi thƣơng con đò, con đò sang sông
Mênh mang nƣớc trôi xuôi dòng [17]
Quan niệm “xuất giá tòng phu” khiến bao ngƣời phụ nữ lấy chồng xa
38
quê phải ngậm ngùi cay đắng khi nhớ nhà, nhớ mẹ. Hai chữ “chiều chiều” gợi
lên khoảng thời gian buồn nhất, trống trải nhất cho ngƣời con xa xứ mỗi khi
nhớ về quê mẹ. Và cũng chính lời ru đã diễn tả sâu sắc nỗi cô đơn, nỗi buồn
trong sâu thẳm tâm hồn ngƣời phụ nữ.
Lời ru của mẹ bao giờ cũng ngọt ngào êm ái, thân thƣơng, trìu mến.
Nghe tiếng hát ru, trẻ thơ cảm nhận đƣợc sự yêu thƣơng, nâng niu của mẹ
dành cho mình. Lời ru của mẹ còn là tri thức sơ khai góp phần định hình tính
cách, tâm hồn trẻ thơ. Trong muôn vàn tín hiệu của tình yêu thƣơng thì lời ru
của mẹ có ý nghĩa sâu sắc và để lại những ấn tƣợng khó phai mờ nhất.
2.4. Hát ru phản ánh hiện thực đời sống của ngƣời nông dân xƣa
2.4.1. Đời sống sinh hoạt
Đời sống sinh hoạt của ngƣời nông dân xƣa gắn bó với những công
việc của nhà nông: chăn nuôi, đồng áng,... Lời hát đầu tiên mẹ ru con thấp
thoáng đằng sau đó là hình ảnh ngƣời phụ nữ biết lo, biết làm:
Một năm chia mƣời hai kì
Thiếp ngồi thiếp tính khó gì chả ra
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tƣ đi gặt tháng năm trở về...[2;237]
Đó là tổng kết lịch làm ăn của nhà nông. Ngƣời phụ nữ hiện lên đảm
đang, tần tảo với tất cả các công việc: nuôi tằm, bán vải, đi gặt... Công việc ấy
theo một guồng quay nhất định mà ngƣời phụ nữ đã lên kế hoạch sẵn cho năm
nay và cả những năm sau đó.
Mỗi lời ru còn giúp bé nhận biết một nghề nghiệp nào đó trong xã hội:
Biết nhau từ thuở buôn thừng
Trăm chắp nghìn nối, xin đừng quên nhau [2;237]
39
Nghề buôn cũng đƣợc thể hiện trong bài hát ru:
Ví dầu ví dẩu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô rừng
Vô rừng bứt một sợi mây
Đem về thắt võng cho nàng đi buôn
Đi buôn không lỗ thì lời
Mua ba lạng thịt để dành cho em ăn [24]
Nghề buôn là một công việc không hề dễ dàng, dễ gặp phải rủi ro. Việc
lỗ hay lời là điều hết sức bình thƣờng trong kinh doanh. Cho dù gặp phải khó
khăn đi chăng nữa thì ngƣời lớn vẫn sẽ dành điều tốt đẹp nhất cho bé: Mua ba
lạng thịt để dành cho em ăn. Bé sẽ đƣợc sống trong vòng tay yêu thƣơng, bao
bọc của ngƣời lớn để phát triển một cách hoàn thiện nhất.
Ngoài ra còn có rất nhiều nghề khác đƣợc đƣa vào lời ru: nghề mộc,
nghề rèn, nghề nông... Mỗi nghề đều thể hiện tình cảm của ngƣời làm nghề
khá đặc sắc và mang rõ dấu ấn nghề nghiệp trong đó.
Bức tranh sinh hoạt gia đình cũng đƣợc miêu tả sinh động mà vô cùng
bình dị trong lời hát ru:
Lấy anh thì sƣớng hơn vua
Anh đi xúc giậm đƣợc cua kềnh càng
Đem về nấu nấu rang rang
Chồng chan vợ húp lại càng hơn vua [2;237]
Rồi hình ảnh “cái bống” – bé gái nông thôn cần cù, chăm chỉ đã trở
thành biểu tƣợng quen thuộc của lời hát ru:
Cái bống là cái bống bang
Khéo sẩy, khéo sàng cho mẹ nấu cơm.
Mẹ bống đi chợ đƣờng trơn,
Bống ra gánh đỡ chạy cơn mƣa ròng [23]
40
- Cái bống là cái bống bang,
Thổi cơm nấu nƣớc cả làng cùng ăn [23]
Hình ảnh cái bống trong sinh hoạt đời thƣờng khiến chúng ta hình dung
rõ nét hơn về cuộc sống bình dị, dân dã nơi thôn quê. Đó là những bé gái
chăm chỉ, cần cù, đảm đang: khéo sảy, khéo sàng, thổi cơm nấu nƣớc... Tuy
còn rất nhỏ nhƣng bống đã làm một mình để giúp đỡ mẹ việc nhà, không chỉ
là giúp đỡ mà bống còn làm rất khéo, rất giỏi.
Đời sống sinh hoạt cũng đƣợc phản ánh trong hát ru của đồng bào dân
tộc thiểu số. Đối với môi trƣờng lao động trên nƣơng rẫy, ngƣời phụ nữ trong
hát ru của dân tộc Thái cũng vừa phải mƣu sinh kiếm sống, vừa phải chăm
con:
À ơi, ngủ đi con, ngủ đi chớ
Ngủ cho mẹ đi chân nƣơng núi đá
Ngủ cho mẹ đi ruộng cạnh bản
Mẹ đi nƣơng lấy trứng về nuôi con
Mẹ đi ruộng lấy cá về con ăn
Mẹ đi lấy quả sổ về cho con [13;361]
Công việc đi nƣơng, đi ruộng của ngƣời mẹ diễn ra quanh năm. Khi
thƣơng nghiệp chƣa phát triển thì ngoài việc cấy, cày, ngƣời Thái còn tìm
nguồn sống bằng việc đánh bắt và hái lƣợm. Họ tận dụng những thứ có sẵn
trong tự nhiên để làm thức ăn.
Những lời hát ru là sự phản chiếu sinh động đời sống thực tế của ngƣời
nông dân xƣa. Tiếng ru làm dịu tâm hồn trẻ thơ nhờ giai điệu ngọt ngào.
Đồng thời khắc sâu trong tâm hồn con tình yêu lao động.
2.4.2. Đời sống tình cảm
Ngƣời lớn dùng lời ru để bày tỏ tâm tƣ, thái độ của mình trƣớc những
gì đang diễn ra xung quanh. Vì vậy mà trong những lời hát ru ấy chứa đựng
41
tình cảm chân thực nhất của ngƣời nông dân xƣa.
Nền nông nghiệp lúa nƣớc không thể thiếu hình ảnh những con trâu, bò
trên cánh đồng quê hƣơng trong mùa vụ. Lời hát của mẹ, chị, bà chập chờn
trong giấc ngủ của con là tinh thần lạc quan của ngƣời nông dân khi trò
chuyện, tâm sự với con vật gắn bó với nhà nông:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn. [17]
Trong bài ca trên có tình cảm ân cần, thân thiện và cả sự biết ơn của
ngƣời thợ cày đối với con vật “một nắng hai sƣơng”. Trong những bài ca lao
động, ta thấy ngƣời lao động vất vả, cực nhọc vô cùng, nhƣng chƣa bao giờ
hết hi vọng ở một tƣơng lai tốt đẹp. Chính lao động đã đem lại cho họ một
tâm hồn lành mạnh và thiết thực ấy.
Hay:
Trên đồng cạn dƣới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Hình ảnh “đồng cạn”, “đồng sâu” đã cho ta thấy sự khó nhọc trong
công việc làm ăn của ngƣời nông dân xƣa. Khó khăn là thế, vất vả là thế
nhƣng đâu thể làm khó đƣợc những ngƣời nông dân chân lấm tay bùn họ cùng
nhau lao động “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Họ dốc hết sức mình vào
công việc. Cả vợ cả chồng và còn có sự xuất hiện của con trâu nữa, tất cả đều
ra sức làm việc để hoàn thành công việc một cách sớm nhất. Bằng sự đối ý
tƣơng đồng: chồng - vợ - con trâu cũng nhƣ cày - cấy - bừa thể hiện đƣợc sự
42
gắn bó giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Họ biết phân bổ công
việc cho nhau. Hai vợ chồng cùng nhau cấy còn con trâu thì bừa cho mảnh
ruộng đƣợc đẹp hơn để dễ bề cấy hái hơn.
Lời ru cũng là tiếng lòng của ngƣời lớn giáo dục con phải biết quý
trọng mồ hôi, công sức của ngƣời tạo ra hạt lúa, gạo giống nhƣ lời dạy dỗ của
ông cha ta “Dạy con từ thuở còn thơ”:
Cày đồng đang buổi ban trƣa
Mồ hôi thánh thót nhƣ mƣa ruộng cày
Ai ơi bƣng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần [17]
Trong những công việc của nhà nông thì cày ruộng là công việc nặng
nhọc nhất. Sáng tinh mơ, ngƣời nông dân đã vác cày, dắt trâu ra đồng. Cái
cảnh con trâu đi trƣớc, cái cày đi sau quá quen thuộc ở nông thôn. Ngƣời
nông dân cặm cụi cày từng luống đất. Mồ hôi thấm ƣớt lƣng áo bạc màu. Lúc
thời vụ gấp gáp, họ phải cày quên trƣa, quên tối để kịp làm đất gieo mạ, cấy
lúa. Ngƣời xƣa khéo chọn thời điểm tiêu biểu: Cày đồng đang buổi ban trƣa,
cho ta hình dung ra một cách cụ thể và rõ ràng về nỗi vất vả của ngƣời nông
dân. Nhƣng chỉ có thế thì chƣa đủ. Phải cụ thể hóa nó ra bằng hình ảnh so
sánh: Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Câu ca dao trên gợi nhớ đến câu:
Bát mồ hôi đổi lấy bát cơm. Trong không gian tĩnh lặng của buổi trƣa hè,
dƣờng nhƣ ta nghe rõ tiếng từng giọt mồ hôi rơi thánh thót. Muôn ngàn giọt
đổ xuống nhƣ mƣa ruộng cày. Đây là cách nói cƣờng điệu nhƣng ẩn chứa
đằng sau mỗi câu, mỗi chữ là nỗi xót xa, thƣơng cảm vô cùng sâu sắc của
những ngƣời cùng cảnh ngộ. Tại sao lại nhắc nhở đúng vào lúc bƣng bát cơm
đầy. Đây là chủ ý của ngƣời xƣa, bởi lúc bƣng chén cơm thơm dẻo, mấy ai
nghĩ đến nỗi cực nhọc của ngƣời làm ra nó? Vì vậy nhắc nhở vào lúc này là
nên, là đúng. Có đƣợc bát cơm đầy phải đổi bằng bao bát mồ hôi, có khi cả
43
nƣớc mắt. Nào chống hạn, chống úng, nào tai trời ách đất… Từ lúc cày đồng
đến lúc gánh lúa về sân, biết bao lo âu, cực khổ. Tất cả những cái đó dồn vào
trong một câu với hai vế đối rất chỉnh: Dẻo thơm một hạt/đắng cay muôn
phần. Một lần nữa, nỗi vất vả của ngƣời nông dân đƣợc nhắc lại và khắc sâu
trong tâm khảm mọi ngƣời. Tuy cuộc sống của họ còn nhiều vất vả nhƣng họ
vẫn luôn vui vẻ, lạc quan trƣớc cuộc đời. Dù có thiếu thốn về vật chất thế
nhƣng đời sống tinh thần họ luôn giàu có, đẹp đẽ. Họ vẫn giữ nguyên cái chất
của nhà nông: gần gũi, gắn bó, biết ơn với những ngƣời tạo ra hạt lúa hạt gạo,
những con vật vất vả cùng ngƣời thợ cày trên cánh đồng.
Lời ru còn giáo dục con trẻ tinh thần đoàn kết, tƣơng thân, tƣơng ái:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao [19]
“Một cây” không thể làm nên “non”, cũng giống nhƣ con ngƣời, một
ngƣời không thể giải quyết đƣợc khó khăn nhƣng nếu có sự đồng lòng của
nhiều ngƣời thì công việc trở nên đơn giản hơn nhiều.
Tiểu kết:
Khảo sát đặc điểm hát ru ngƣời Việt trên phƣơng diện nội dung, có thể
thấy: Hát ru là tiếng hát yêu thƣơng, thắm thiết của ngƣời lớn dành cho trẻ
thơ. Hát ru có sức mạnh vô hình gắn kết tình mẫu tử thiêng liêng, gắn kết mối
quan hệ huyết thống trong gia đình, cho ta cảm nhận sâu sắc tình yêu thƣơng
bao la, vô bờ bến của ngƣời mẹ - ngƣời suốt đời tần tảo nuôi con và mong con
khôn lớn. Bên cạnh đó, hát ru còn chứa đựng những bài học nhân nghĩa đầu
đời, những kiến thức đầu tiên về đời sống, xã hội… Những biểu hiện đó đã
làm nên giá trị và sức sống lâu bền của hát ru trong đời sống sinh hoạt của
44
ngƣời Việt.
CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT HÁT RU
Bên cạnh những biểu hiện đặc sắc về nội dung, hát ru còn đạt những
giá trị nhất định về nghệ thuật. Trong phạm vi chƣơng 3 của khóa luận, chúng
tôi khảo sát một số đặc điểm nổi bật trên phƣơng diện nghệ thuật của hát ru.
3.1. Ngôn ngữ
3.1.1. Ngôn ngữ trong sáng, giản dị
Trở về tuổi thơ là về với những lời ru nhẹ nhàng, tha thiết của mẹ, chị.
Chính vì thế, ngôn ngữ trong lời ru là thứ ngôn ngữ dễ hiểu, trong sáng. Đặc
điểm nổi bật của ngôn ngữ hát ru là không quá dài, từ ngữ dễ hiểu, dễ nhớ kết
hợp sử dụng nhiều hình ảnh. Đây là thứ ngôn ngữ đồng quê. Ta dễ dàng bắt
gặp trong lời hát ru những hình ảnh quen thuộc:
Yêu nhau chả lấy đƣợc nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già
Bao giờ sum họp một nhà
Con lợn lại béo, cau già lại non.
Những hình ảnh con lợn, buồng cau là hình ảnh thân thuộc, gần gũi với
đời sống của con ngƣời, nó đi vào lời ru giản dị, tự nhiên, chân thực. Và hình
ảnh ấy có lẽ không thể phai mờ trong tiềm thức trẻ thơ.
Không chỉ giản dị, trong sáng, ngôn ngữ hát ru còn là thứ ngôn ngữ
mang trong mình nét riêng. Đó là ngôn ngữ vui tƣơi, ngộ nghĩnh:
Con bò đậu đỉnh cây tre
Con chim chích chòe kéo cày khƣ khƣ
Hòn đá ninh mật cho nhừ
Khoai lang củ từ đi bắc cầu ao
Trời làm cho trận mƣa rào
45
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô [2;236]
Cách nói ngƣợc này, vừa tạo ra không khí vui nhộn, vừa thể hiện đƣợc
sự hài hƣớc hóm hỉnh của ngƣời lớn khi ru trẻ. Để hiểu đƣợc những sự vật
này thì phải hiểu ngƣợc lại.
Với ngôn ngữ mộc mạc, hát ru đã thể hiện tình yêu tha thiết với trẻ thơ.
Không cần ngôn từ hoa mĩ mà lời ru vẫn đƣa trẻ vào giấc ngủ êm đềm.
3.1.2. Ngôn ngữ có tính nhịp điệu
Theo nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian Bùi Trọng Hiền: “Giai điệu hát
ru không rộng mở, khoáng đạt, lên bổng xuống trầm nhƣ các thể dân ca khác
mà có kết cấu nhịp điệu vừa tầm, thậm chí là hơi hẹp để ai cũng có thể hát
đƣợc. Giọng ru đều đều, đôi chỗ ngắt nghỉ dài hơi, tạo ra trạng thái du dƣơng,
êm êm rót vào tai đứa trẻ”. [4]
Âm điệu hát ru đƣợc tạo ra bằng chuỗi hƣ từ : Bồng bồng, à á à ơi, à á à
ơi, hỡi con ơi... Những hƣ từ này tạo ra mạch hát êm ả, chậm rãi để kéo trẻ
vào trạng thái mơ hồ. Hát ru mang nhiều sắc thái tình cảm, nhiều khi trẻ ngủ
rồi mà ngƣời lớn vẫn hát để giãi bày, sẻ chia:
Ạ ơi ời… à ơi…
Con chim bay lƣng trời còn có tông có tổ
Con cá lội giữa dòng nƣớc vẫn có lỗ có hang
Ngƣời trên đời có tổ quốc giang san
Tinh thần ý chí phải nhịp nhàng với non sông
Uống nƣớc ta phải nhớ nguồn
Thấy non sông rộng nhớ ơn cao dày [19]
Qua lời mẹ ru, trẻ vỡ lòng tình yêu quê hƣơng. Giai điệu của bài hát ru :
Ạ ơi ời… à ơi… không thể lẫn với bất kì thể loại âm nhạc nào. Nó chậm rãi,
ngân vang, nối dài theo dòng cảm xúc của ngƣời hát.
Xƣa kia, ca dao có câu: Đố ai nằm võng không đưa/Ru con không hát
46
anh chừa nguyệt hoa. Nhƣ vậy, ru con là phải hát. Khi ôm đứa trẻ vào lòng và
ngƣời lớn cất lên tiếng hát ru, thì mục đích mà ngƣời hát hƣớng tới là ru trẻ
ngủ. Cùng với lời hát, nhịp điệu cũng là yếu tố quan trọng dễ dàng đƣa trẻ vào
giấc ngủ. Nhịp điệu của lời hát ru là nhịp điệu của động tác ru trẻ trên tay, với
công thức mở đầu quen thuộc:
- Ầu ơ… (à ơi)…
- Ru hơi, ru hỡi, ru hời…
- Ru ru riếng, ru rà rà…
Chính yếu tố nhịp điệu này đã chi phối tới “cấu trúc hình tƣợng của lời
ru với những mẩu chuyện, những hình ảnh vừa thực vừa ảo, chập chờn chắp
nối, đứt đoạn và miên man” [11;92].
Ta thử hình dung, lời hát ru sau qua lời của một ngƣời bà ru cháu:
À ơi
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chƣa về
Bắt đƣợc con cá rô,trê
Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn
Cái ngủ ăn không hết để dành đến tết mùng ba
Mèo già ăn trộm
Mèo ốm phải đòn
Mèo con phải vạ
Con quạ đứt đuôi…
Thì chính nhịp điệu đều đều, đôi khi rời rạc, đứt đoạn (vì bản thân
ngƣời hát có lúc chìm vào giấc ngủ), giống nhƣ một thứ “ma lực” đã dẫn trẻ
47
chìm vào giấc ngủ say nồng.
3.2. Thể thơ
Theo nhóm tác giả Từ điển thuật ngữ văn học: Một thể câu thơ cách luật mà các thể thức đƣợc tập trung thể hiện trong một khổ gồm hai dòng với số tiếng cố định: dòng sáu tiếng (câu lục) và dòng tám tiếng (câu bát). [3;190]
3.2.1. Lục bát
Thể lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc ta, cách hiệp vần thông
thƣờng: tiếng cuối câu lục gieo vần xuống tiếng thứ sáu câu bát, tiếng cuối
câu bát gieo vần xuống tiếng cuối câu lục tiếp:
Ru con, con ngủ cho rồi
Mẹ ra chỗ vắng mẹ ngồi mẹ than
Miệng ru mắt nhỏ hai hàng
Nuôi con càng lớn mẹ càng lo thêm…
Trong bài hát ru trên ta dễ dàng nhận thấy gieo vần giữa các tiếng: Rồi -
ngồi; hàng - càng. Đây là cách gieo vần thông thƣờng trong thể lục bát, tạo
nên tính chất nhịp nhàng cho lời ca.
Bên cạnh đó một số bài đƣợc làm theo thể lục bát biến thể:
Ạ à ơi… ơi à ạ ơi…
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ nhƣ đờn đứt dây
Đờn đứt dây còn xoay còn nối
Cha mẹ mất rồi con phải mồ côi
Mồ côi khổ lắm con ơi
Đói cơm không ai giúp, lỡ lời chẳng ai bênh![19]
Đây là thể lục bát biến thể, câu cuối kéo dài 10 tiếng, vƣợt ra khỏi
khuôn khổ thƣờng thấy của thể lục bát, có tác dụng nhấn mạnh hoàn cảnh tới
hoàn cảnh đáng thƣơng của đứa trẻ mồ côi. Lời hát ru mang âm hƣởng buồn
48
thƣơng, da diết.
Chính những điều bất thƣờng trong thể lục bát đã tạo nên sự hấp dẫn,
độc đáo của tứ thơ.
3.2.2. Thể hỗn hợp
Thể hỗn hợp là thể thơ kết hợp các thể khác nhau trong một bài để diễn
tả cảm xúc của ngƣời hát:
À ơ… Con chim nho nhỏ
Cái lƣng nó đỏ
Cái mỏ nó vàng
Nó kêu ngƣời ở trong làng
Đừng tham lãnh lụa phụ phàng vải bô [19]
Hay:
- Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng
Sao cho xứng đáng
Giống nòi nhà ta
Ghi vai gánh vác sơn hà
Sao cho tỏ mặt
Sao cho tỏ mặt mới là trƣợng phu [24]
- Hãy nín đi con
Hãy ngủ đi con
Con hỡi con hời... Con hỡi con hời
Con hỡi con hời... Con hỡi con [24]
Những bài hát ru trên có sự kết hợp thể thơ bốn chữ, sáu chữ, tám chữ,
lục bát. Sự kết hợp này không theo một quy luật nào mà đích chủ yếu của nó
là diễn tả đƣợc hết tâm trạng của ngƣời ru. Việc sử dụng thể hỗn hợp cho ta
thấy tính ngẫu hứng của ngƣời xƣa khi sáng tạo, đồng thời đây chính là cái
49
riêng, độc đáo của khúc hát ru.
3.3. Các thủ pháp nghệ thuật trong biểu hiện và miêu tả
3.3.1. Phép lặp
Phép lặp đƣợc sử dụng trong lời hát ru để nhấn mạnh đến một trạng
thái cảm xúc hoặc khắc sâu vào tâm thức trẻ một kiến thức bổ ích nào đó. Ví
dụ nhƣ trong lời hát ru thể hiện nỗi nhớ của ngƣời con gái:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nƣớc mắt đầm đầm nhƣ mƣa
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ bay giờ nhớ ai [17]
Từ “nhớ” đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần nhƣng không gây cảm giác
nhàm chán mà xoáy sâu vào tâm trạng nhớ nhung da diết. Tận dụng khoảng
thời gian vỗ về bé vào giấc ngủ để ngƣời lớn trải lòng mình ra, những nỗi
niềm không biết chia sẻ cùng ai.
Trong một bài hát ru khác, phép lặp cũng đƣợc sử dụng:
Ba bà đi bán lợn con
Bán đi chẳng đƣợc lon ton chạy về
Ba bà đi bán lợn sề
Bán đi chẳng đƣợc chạy về lon ton [17]
Mức độ lặp đƣợc thể hiện rất rõ qua lời ru, lặp từ: ba, đi, lợn, lon ton,
chạy... lặp cấu trúc: Ba bà đi bán lợn..., bán đi chẳng được... đã thể hiện
đƣợc sự vui tƣơi, ngộ nghĩnh. Lời hát ru giúp trẻ cảm nhận đƣợc tình yêu
thƣơng mà cha, mẹ dành cho mình để bé ăn no, ngủ kĩ, lớn nhanh.
3.3.2. Nhân hóa
“Nhân hóa là lấy những từ ngữ biểu đạt thuộc tính, dấu hiệu, cảm xúc,
suy nghĩ, hành động của con ngƣời gán cho thế giới vật thể khiến cho những
vật vô tri, vô giác trở nên có hồn, sinh động”[12;226] Biện pháp nghệ thuật
50
nhân hóa giúp cho thế giới tự nhiên trở nên gần gũi với con ngƣời. Qua đó nó
làm cho lời ru của mẹ, của chị trở nên bay bổng, hấp dẫn đƣa trẻ đến với thế
giới diệu kì, an nhiên.
Ngƣời lớn đã nhân cách hóa những vật vô tri, vô giác làm cho nó có
tâm hồn, tình cảm:
Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi [17]
Hay:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta [17]
Những đối tƣợng: khế, trâu không phải là ngƣời nhƣng lại đƣợc con
ngƣời trò chuyện, tâm sự nhƣ với ngƣời. Các từ: ơi, bảo là những từ vốn đƣợc
dùng trong cuộc trò chuyện giữa ngƣời với ngƣời. Vậy mà tác giả dân gian đã
vận dụng vào trong bài hát ru đã thể hiện đƣợc sự gần gũi gắn bó giữa thế giới
tự nhiên với con ngƣời. Loài vật, sự vật cũng biết lắng nghe, chia sẻ mọi tâm
sự với ngƣời. Chính vì điều ấy, lời ru trở nên sinh động, hấp dẫn trong sự tiếp
nhận của trẻ em.
Thế giới loài vật còn hiện lên giống nhƣ những sinh thể có hành động
không khác gì con ngƣời:
Con cò chết rũ trên cây
Bồ cu mở lịch xem ngày làm ma
Cà cuống uống rƣợu la đà
Bao nhiêu cóc nhái nhảy ra chia phần
Chào mào thì đánh trống quân
Chim chích mặc quần vác mõ đi rao
Con quạ tha lá lợp nhà
51
Con cu chẻ lạt con gà dựng phên [19]
Hình ảnh những con vật: con cò, bồ cu. cà cuống, chào mào... nhƣ đƣợc
thổi hồn vào đó. Thế giới loài vật không khác gì con ngƣời, khi con cò chết
thì các con vật khác mỗi ngƣời một việc để chuẩn bị cho đám ma: xem ngày,
lợp nhà, chẻ lạt, dựng phên... Tuy nhiên, hình ảnh những con vật ấy cũng
chính là một xã hội nông thôn xƣa thu nhỏ với những hủ tục lạc hậu: xem
ngày giờ để đi chôn cất, ăn uống linh đình... Bài hát ru có sức tố cáo mạnh mẽ
xã hội không có tình ngƣời, châm biếm hủ tục ma chay, đám ma mà không có
đến một tiếng khóc, ngƣợc lại trở thành đám hội, đám rƣớc.
Nghệ thuật nhân hóa đƣợc dùng trong những lời hát ru làm cho câu hát
có sức lay động lòng ngƣời, và thế giới của trẻ cũng trở nên sống động hơn
bao giờ hết.
3.3.3. So sánh
“So sánh trực tiếp là một biện pháp nghệ thuật trong đó việc biểu đạt
bằng ngôn ngữ hình tƣợng đƣợc thực hiện trên cơ sở đối chiếu và tìm ra
những dấu hiệu tƣơng đồng nhằm làm nổi bật thuộc tính, đặc điểm của sự vật,
hiện tƣợng này qua thuộc tính, đặc điểm của sự vật khác”[12;222]. So sánh
giúp ta có nhận thức sâu sắc hơn về đặc điểm của sự vật, hiện tƣợng. Nhờ có
so sánh mà mọi trạng thái tình cảm của con ngƣời đƣợc diễn đạt dễ hiểu:
Còn cha còn mẹ thì hơn
Không cha không mẹ nhƣ đờn đứt dây
Đờn đứt dây còn xoay còn nối
Cha mẹ mất rồi con chịu mồ côi [24]
Dây đàn là yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên bản nhạc, khi đứt dây
thì giá trị cây đàn không còn. Nó đƣợc so sánh với không cha không mẹ diễn
tả nỗi đau của đứa trẻ thiếu vắng tình yêu thƣơng của cha mẹ. Đàn đứt dây
52
vẫn còn có thể khôi phục lại, nhƣng cha mẹ mất thì con mãi mãi mồ côi. Cách
so sánh này đã giúp ta thấu đƣợc cảm xúc nghẹn lòng của trẻ thơ sống cuộc
đời mồ côi.
Biện pháp so sánh còn diễn tả hết công lao trời biển của cha mẹ:
Còn cha gót đỏ nhƣ son
Đến khi cha mất gót con đen sì [24]
Hay:
À ơi
Công cha nhƣ núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra..
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
À ơi…[24]
Tình yêu thƣơng cha dành cho con đó là thứ tình cảm máu mủ thiêng
liêng. Cả cuộc đời cha đã nâng niu, bao bọc cho con “gót đỏ nhƣ son”. Con
đƣợc hƣởng trọn sự chăm sóc chu đáo của ba để lớn khôn. Thế nhƣng khi cha
mất, con trở nên mồ côi, thiếu tình yêu thƣơng và chở che “gót con đen sì”.
Cha mẹ không chỉ có công sinh thành mà còn có công dƣỡng dục vì vậy mà
công cha nghĩa mẹ không gì có thể đền đáp nổi. Hình ảnh so sánh: công cha
với núi Thái Sơn, nghĩa mẹ với nƣớc trong nguồn đủ để diễn tả sâu sắc công
cha, nghĩa mẹ vô cùng to lớn. Vì vậy phận làm con phải báo đáp, chăm sóc
mẹ cha khi về già. Những bài học đạo lí làm ngƣời đã trở thành những lời ru
để trẻ cảm nhận đƣợc ngay khi còn nhỏ. Điều này rất phù hợp với quan niệm
của dân gian: Dạy con từ thuở còn thơ.
3.3.4. Ẩn dụ
“Ẩn dụ thực chất là sự so sánh ngầm dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện
tƣợng tƣơng tự... Ở đây, đối tƣợng so sánh ẩn đi, chỉ còn một vế là cái đƣợc
53
dùng để so sánh. Ẩn dụ chỉ tồn tại một vế so sánh nên không dùng các từ chỉ
quan hệ” [12;224]. Ẩn dụ là cách để tạo ra nghĩa mới, đem đến lối tƣ duy mới
về đối tƣợng. Ta bắt gặp trong lời ru hình ảnh ẩn dụ: đó là hình ảnh con cò
bay trên những cánh đồng rộng lớn, thẳng cánh cò bay. Cánh cò không chỉ
biểu tƣợng cho sự bình yên mà còn là biểu tƣợng cho hình ảnh ngƣời nông
dân nghèo khổ, thấp cổ bé hỏng nhƣng thật thà chất phác. Có thể nói nó biểu
tƣợng cho phẩm chất của nhân dân ta:
Cái cò, cái vạc, cái nông
Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi [22]
Những ngƣời nông dân hiền lành chất phác khi bị hỏi tội, hiểu nhầm thì
thẳng thắn chỉ ra đối tƣợng đã đổ thừa cho mình cũng nhƣ thể hiện sự ngay
thẳng không làm việc xấu của mình. Ngƣời nông dân tuy nghèo nhƣng trong
sạch.
Không những thế hình ảnh con cò còn là ngƣời vợ tần tảo, khổ cực để
kiếm sống nuôi chồng:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non [17]
Đó là số phận ngƣời phụ nữ cam chịu nhọc nhằn khi phải làm những
công việc để nuôi chính cái ngƣời đƣợc coi là trụ cột gia đình, thật đau lòng.
Nó còn là hình ảnh của những cậu bé, cô bé đi đón cơn mƣa. Những con cò
con ấy dẫu có đi tít tận chân trời nhƣng điểm dừng chân cuối cùng vẫn là quê
hƣơng nơi có gia đình, anh em, bố mẹ mình đang chờ mình ở đó:
Con cò đi đón cơn mƣa
Tối tăm mù mịt ai đƣa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
54
Thăm cha thăm mẹ cò về thăm anh [19]
Hình ảnh con cò đã đi sâu vào tiềm thức của trẻ thơ. Đó là biểu tƣợng
cho sự thanh bình. Từng đàn cò trắng sải cánh bay trên cánh đồng quê hƣơng
đã hòa vào lời ru để đƣa bé vào giấc ngủ êm ái.
Tiểu kết:
Mang trong mình những đặc điểm nghệ thuật của thơ ca dân gian nói
chung, hát ru vẫn tạo đƣợc cho bản thân nó những dấu ấn đặc sắc về ngôn
ngữ, thể thơ và các thủ pháp trong biểu hiện và miêu tả. Tất cả đã tạo nên
một “thế giới đặc biệt” mà ở đó, trẻ em cảm nhận đƣợc một cách sâu sắc
nhất, rõ ràng nhất tình yêu thƣơng của ngƣời lớn dành cho nó, trong bất kì
55
hoàn cảnh nào.
KẾT LUẬN
Tác giả Hải Phƣơng trong cuốn Hát ru ba miền có câu:
Lời ru từ mẹ sang con
Từ con sang cháu mãi còn chơi vơi [14;bìa sách]
Hát ru hòa cùng dòng sữa ngọt ngào nuôi dƣỡng trẻ lớn lên cả về thể
xác lẫn tâm hồn, là tài sản tinh thần vô giá, là sợi dây kết nối các thế hệ từ đời
này qua đời khác: từ mẹ sang con, con sang cháu. Thế nên, hát ru có sức sống
lâu bền cùng thời gian. Khi lọt lòng mẹ, chúng ta đã cảm nhận đƣợc tình yêu
thƣơng bao la của bà, của mẹ, chị. Lớn lên rồi, những lời hát ru ấy còn in sâu
vào tâm trí chúng ta, để rồi đến một lúc nào đó nó lại đƣợc chính chúng ta hát
lên để ru con, ru em.
Ai trong chúng ta cũng đƣợc trải qua một tuổi thơ đẹp đẽ, êm đềm với
lời ru ngọt ngào của mẹ, chị. Hát ru có tác dụng “thôi miên” cả ngƣời hát và
ngƣời nghe hát. Hát ru bồi dƣỡng vốn kiến thức về ca dao, dân ca trữ tình
trong nhận thức của trẻ. Trẻ con đƣợc nghe hát ru thƣờng xuyên, từ đó những
âm thanh, nhịp điệu, hình ảnh thấm vào lòng từ khi còn nhỏ, lớn lên sẽ có một
tâm hồn giàu cảm xúc, mỗi khi nhớ mẹ, nhớ quê hƣơng là nhớ đến tiếng ru “à
ơi” sâu lắng.
Thông qua việc khảo sát tƣ liệu hát ru ngƣời Việt, chúng tôi đã đi vào
tìm hiểu các nội dung nổi bật của hát ru. Hát ru, không chỉ là bức tranh sinh
động, nhiều màu sắc về thực tại, mà còn chứa đựng cả một kho kiến thức
phong phú về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội. Những kiến thức ấy là kiến
thức sơ đẳng, kiến thức đầu đời mà ngƣời lớn gián tiếp trang bị cho trẻ.
Những khúc hát ru còn chứa đựng biết bao tình cảm âu yếm, chở che của
ngƣời lớn, để trẻ cảm nhận đƣợc sâu sắc tình yêu thƣơng vô bờ của ông bà,
56
cha mẹ...
Bên cạnh giá trị nội dung, những khúc hát ru còn thể hiện tài năng của
nghệ sĩ dân gian trong việc thể hiện những giá trị nghệ thuật độc đáo. Những
biểu hiện trên các phƣơng diện: ngôn ngữ, thể thơ, các thủ pháp nhƣ nhân
hóa, so sánh, ẩn dụ đã góp phần làm nên một thế giới nghệ thuật vô cùng đặc
trƣng và hấp dẫn của hát ru.
Hiện nay, hát ru dân gian đang dần bị mai một. Cuộc sống ngày càng
bận rộn, cùng với sự xuất hiện của các phƣơng tiện giải trí hiện đại, các bà mẹ
ít khi cất lên lời hát ru con. Đó thực sự là điều thiệt thòi cho trẻ. Tuy nhiên với
những lợi ích của hát ru: giúp bé ngủ ngon và sâu, liên kết tình thân trong gia
đình, giúp bé cảm thấy an toàn, rèn luyện kĩ năng lắng nghe thì mỗi ngƣời mẹ
nên dành thời gian hát ru trẻ ngủ. Điều đó sẽ hình thành một thói quen tốt,
góp phần giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu bƣớc đầu của đề tài sẽ góp thêm một
57
tiếng nói khẳng định sức sống mãnh liệt của biệt loại thơ ca dân gian này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lƣơng Thị Đại, Lò Xuân Hinh (2010), Tục lệ sinh đẻ của người phụ nữ
Thái, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Bích Hà, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Sƣ phạm.
3. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2011), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục Việt Nam.
4. Bùi Trọng Hiền (2010), Hát ru con, nguồn
http://www.spnttw.edu.vn/Pages/ArticleDetail.aspx?siteid=1&sitepageid=1
39&articleid=472, ngày 24/7/2010.
5. Bùi Thị Minh Lan (2014), Hát ru trong đời sống văn hóa dân gian của
đồng bào Tày, Thái, Mường ở miền núi phía Bắc, Luận văn thạc sĩ, Đại học
Sƣ phạm Hà Nội.
6. Phạm Phúc Minh (1994), Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Âm Nhạc.
7. Bùi Mạnh Nhị (1999), Những bài ca hay nhất thế gian, Bình luận văn học,
Niên giám số 1/1997 (in lại trong Văn học dân gian những công trình
nghiên cứu), Nxb Giáo dục.
8. Võ Quang Nhơn (1983), Lịch sử văn học Việt Nam - Văn học dân gian các
dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
9. Nguyễn Hữu Thu (1987), Mẹ hát ru con, Nxb Phụ nữ.
10. Trần Mạnh Tiến (Sƣu tầm, tuyển chọn, giới thiệu) (2010), Tuyển tập Lan
Khai, Nxb Văn học.
11. Đỗ Bình Trị - Đặng Thanh Lê – Nguyễn Quang Vinh (1996) Môn văn và
tiếng Việt, tập III, Nxb Giáo dục.
12. Vũ Anh Tuấn (chủ biên), Phạm Thu Yến, Nguyễn Việt Hùng, Phạm Đặng
Xuân Hƣơng (2012), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Giáo dục Việt
Nam.
13. Đặng Nghiêm Vạn (2002), Tổng hợp văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam, Nxb Đà Nẵng.
14. Lệ Vân (2006), Hát ru ba miền, Nxb Phụ nữ.
15. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục.
16. Bài ca dao đặc sắc về tình mẹ,
http://xuantoan.vnweblogs.com/a48333/bai-ca-dao-muoi-tay.html, ngày
23/1/2008.
17. Các bài hát ru con ngủ hay nhất, http://mecuti.vn/cac-bai-tho-hat-ru-con-
ngu-hay-nhat-duoc-tong-hop-giup-cac-me-co-the-de-dang-nang-niu-giac-
ngu-cho-be-yeu-cua-minh.html.
18. Con gà trong ca dao, http://www.maxreading.com/sach-hay/kho-tang-
luc-bat-dan-gian/con-ga-trong-ca-dao-27720.html.
19. Điệu ru ca dao,
http://cadaotucngu.com/tieuluan/cadaodongdao/nhidongtrongcadao.htm.
20. Hát ru, nguồn https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A1t_ru
21. Hát ru con đơn giản nhưng hiệu quả, nguồn http://mebetin.com/hat-ru-
con/, ngày 15/4/2014.
22. Những bài hát ru con,
http://www.phununet.com/WikiPhununet/ChiTietWiki.aspx?StoreID=1130
23. Những câu hát ru trong dân gian , http://www.maxreading.com/sach-
hay/kho-tang-luc-bat-dan-gian/nhung-cau-hat-ru-trong-dan-gian-
38329.html
24.Tuyển tập những bài hát ru hay nhất mọi thời đại,
http://www.maxreading.com/sach-hay/kho-tang-luc-bat-dan-gian/nhung-
cau-hat-ru-trong-dan-gian-38329.html.