intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khoá luận tốt nghiệp Đại học: Tây hành nhật ký – tác phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:56

28
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm góp phần tìm hiểu thêm một tác phẩm thuộc thể loại du ký, chỉ ra đặc điểm nội dung, nghệ thuật của tập Tây hành nhật ký. Qua những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Tây hành nhật ký, khẳng định vị trí, vai trò của tập du ký nói riêng và thể tài du ký nói chung trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khoá luận tốt nghiệp Đại học: Tây hành nhật ký – tác phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ

  1. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== TRẦN THỊ NGỌC THANH TÂY HÀNH NHẬT KÝ – TÁC PHẨM DU KÝ CHỮ HÁN CỦA PHẠM PHÚ THỨ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa hoc Th.S LÊ THỊ HẢI YẾN HÀ NỘI - 2017
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Lê Thị Hải Yến – Giảng viên Tổ Văn học Việt Nam; người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận: “Tây hành nhật ký – tác phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ”. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ Văn – Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận này. Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2017. Tác giả khóa luận Trần Thị Ngọc Thanh
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Lê Thị Hải Yến. Kết quả thu được là hoàn toàn trung thực và không trùng với kết quả nghiên cứu của những tác giả khác. Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2017. Tác giả khóa luận Trần Thị Ngọc Thanh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 6 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.............................................................. 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................ 6 6. Bố cục khóa luận ..................................................................................... 7 NỘI DUNG....................................................................................................... 7 Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG............................................................. 7 1.1. Thể tài “du ký” Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX .................................. 7 1.1.1. Vấn đề thuật ngữ “du ký” .............................................................. 8 1.1.2. Phân loại “du ký”........................................................................... 9 1.1.3. Diện mạo “du ký chữ Hán” Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX ....... 12 1.2. Tác giả Phạm Phú Thứ và Tây hành nhật ký................................... 15 1.2.1. Phạm Phú Thứ - Tiến sĩ Việt Nam đầu tiên tới trời Tây ......... 15 1.2.2. Tác phẩm Tây hành nhật ký ........................................................ 21 Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 24 Chƣơng 2. TÂY HÀNH NHẬT KÝ - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TIÊU BIỂU .... 26 2.1. Đặc điểm về nội dung ......................................................................... 26 2.1.1. Tiếp xúc, ghi chép trực tiếp về phương Tây ............................... 26 2.1.2. Khát vọng canh tân đất nước ...................................................... 34 2.2. Đặc điểm nghệ thuật .......................................................................... 37 2.2.1. Điểm nhìn nghệ thuật .................................................................. 37 2.2.2. Hệ thống từ ngữ ........................................................................... 42 2.3. Đánh giá vị trí của Tây hành nhật ký................................................ 45
  5. Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 46 KẾT LUẬN .................................................................................................... 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nửa sau thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn, đặc biệt là thời Tự Đức lâm vào cuộc khủng hoảng về tất cả các mặt. Đứng trước những khó khăn về kinh tế ngày càng gay gắt, sự rối loạn về chính trị và nguy cơ mất nước đang đến gần, những người Việt Nam có tri thức và tâm huyết cứu nước đã mạnh dạn đưa ra những tư tưởng canh tân đất nước trên tất cả các mặt: nội thương, ngoại giao, kinh tế cũng như văn hóa xã hội. Họ là một số quan lại và sĩ phu tiến bộ thức thời – những người đã được tiếp xúc trực tiếp với nền văn minh phương Tây. Trong đó, không thể không nhắc tới Phạm Phú Thứ (1821 – 1882) cùng với Đặng Huy Trứ (1825 – 1874) và Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871) là ba nhà duy tân lớn nhất Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX, tư tưởng canh tân của ông được thể hiện sâu sắc cả trên lý thuyết và hành động thực tế. Về văn chương, Phạm Phú Thứ đã để lại sự nghiệp sáng tác khá phong phú trong đó có tập Tây hành nhật ký được người đọc đặc biệt chú trọng. Có thể nói, Tây hành nhật ký là tác phẩm làm nên tên tuổi của Phạm Phú Thứ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Tập du ký được coi là cuốn nhật ký đầu tiên của người Việt ghi chép một cách tỉ mỉ, cụ thể về đời sống sinh hoạt của người dân phương Tây. Ngoài ra, đặt trong sự so sánh với các tác phẩm cùng thể loại du ký thì Tây hành nhật ký có tầm quan trọng nổi bật, tập du ký hơn hẳn về quy mô và phong phú gấp nhiều lần về nội dung. Trần Nghĩa với bài viết: “Vị trí Giá Viên biệt lục trong văn học trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX” in trong Giá Viên toàn tập của Phạm Phú Thứ đã nhận xét: “Giá Viên biệt lục vẫn đánh dấu bước tiến mới về quy mô phản ánh và đối tượng phản ánh của ký giai đoạn thứ tư – nửa cuối thế kỷ XIX. Nó chứng tỏ ký có khả năng to lớn, phản ánh được những vấn đề quan trọng mà thời đại đặt ra, phản ánh những 1
  7. vấn đề mang tầm vóc quốc tế, vượt qua giới hạn của phương Đông trung đại đến với phương Tây hiện đại và vượt qua giới hạn của sự khác biệt giữa hai hệ thống ngôn ngữ Đông – Tây.” [10, tr.2131]. Thực tế hiện nay tác giả Phạm Phú Thứ được giới phê bình, nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu trên nhiều bình diện tuy nhiên vẫn còn nhiều điều đáng nói. Các sáng tác của Phạm Phú Thứ dung lượng khá lớn, tuy nhiên trong giáo trình văn học trung đại thì cũng chưa giới thiệu nhiều đến những tác phẩm của ông đặc biệt là tập Tây hành nhật ký. Bản thân là một giáo viên tôi luôn mong muốn tìm hiểu sâu sắc các tác giả và các tác phẩm thời xa xưa để có cái nhìn rộng hơn về văn học thời trung đại. Đặc biệt là nhà nho có tư tưởng canh tân tiến bộ Phạm Phú Thứ. Đây là những lý do mà chúng tôi chọn đề tài: Tây hành nhật ký – tác phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ. Nghiên cứu về đề tài này phần nào để thấy được giá trị của tập du ký đồng thời chỉ ra vị trí của tập du ký trong tiến trình du ký Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX cũng như thấy được vị trí của nhà nho cánh tân Phạm Phú Thứ trong dòng chảy văn học dân tộc. 2. Lịch sử nghiên cứu Qua hệ thống tài liệu tham khảo chúng tôi thấy tác phẩm Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ là đề tài khá hấp dẫn, được giới nghiên cứu quan tâm. Bàn về vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu với hai quan điểm khác nhau: Thứ nhất là quan điểm cho rằng Tây hành nhật ký hay, đặc sắc có những công trình nghiên cứu sau: Ngày 29 tháng 5 năm 1994, Hội đồng hương Quảng Nam – Đà Nẵng tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hội khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo Danh nhân Phạm Phú Thứ và in kỷ yếu Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân do Thái Nhân Hòa làm chủ biên. Kỉ yếu đã tập hợp nhiều bài 2
  8. viết về con người, gia đình, công trạng, thơ văn và tập trung phân tích tư tưởng canh tân Phạm Phú Thứ. Thái Nhân Hòa đã giới thiệu tác phẩm văn chương Phạm Phú Thứ. Về Tây hành nhật ký, ông viết: “Tây hành nhật ký là tập Nhật ký đi Tây của Phạm Phú Thứ trong phái bộ triều đình nhà Nguyễn sang Pháp và Tây Ban Nha từ đầu tháng 6 năm 1863 đến cuối tháng 3 – 1864 (để chuộc lại ba tỉnh miền đông Nam Kỳ theo hiệp ước Nhâm Tuất 1862) mang nội dung “tư tưởng canh tân” đã dâng lên vua Tự Đức ngày 31 – 3 – 1864” [4, tr.118]. Năm 1999, Hải Ngọc Thái Nhân Hòa nối tiếp những nghiên cứu về Phạm Phú Thứ với công trình Trúc Đường Phạm Phú Thứ với xu hướng canh tân. Thái Nhân Hòa đánh giá tư tưởng canh tân qua khảo sát các di thảo của cụ Phạm Phú Thứ đồng thời đặt trong mối quan hệ với các nhà nho, trí thức cùng thời có cùng tư tưởng như Phạm Phú Thứ. Đặc biệt, Thái Nhân Hòa cho rằng chuyến đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha đã cho Phạm Phú Thứ cái nhìn mới về xã hội phương Tây: “Tây hành nhật ký không chỉ là công trình khảo sát thực tế mà còn là những đề xuất, gợi ý canh tân đất nước trên các mặt kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật và ngoại giao” [6, tr.56]. Năm 2007, Nguyễn Hữu Sơn có bài Thể tài du ký trên tạp chí Nam Phong đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4 và xuất bản bộ sách Du ký Việt Nam – Nam Phong tạp chí (1917 – 1934). Với hai công trình này, Nguyễn Hữu Sơn đã đưa ra những phân tích, nhận định về thuật ngữ thể tài du ký đồng thời đánh giá tác phẩm Tây hành nhật ký như là một trong những tác phẩm tiêu biểu của du ký văn xuôi trung đại. Năm 2011, trong Hội thảo quốc tế Những lằn ranh văn học tại Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Hữu Sơn có bài viết Thể tài văn xuôi du ký chữ Hán thế kỷ XVIII – XIX và những đường biên thể loại đã đánh giá trong Tây hành nhật ký có: “những giọng văn tả cảnh, tả vật, tả sự khác nhau và đan xen 3
  9. trong đó một số ít đoạn văn hồi ức, kể sử, bình luận ngoại đề”, “cách ghi chép khá đa dạng, phong phú” [22, tr.207]. Năm 2011, có Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Minh Quý Nghệ thuật tự sự trong Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ. Tác giả luận văn đưa ra những nhận định về giọng điệu tự sự, phương thức và ngôn ngữ tự sự của Phạm Phú Thứ trong Tây hành nhật ký. Đây là căn cứ để Phạm Phú Thứ khám phá xã hội, nền văn minh mới bên ngoài nước Việt. Năm 2011, có công trình của Nguyễn Hoàng Thân Phạm Phú Thứ với Giá Viên toàn tập tác giả đã giới thiệu về con người, cuộc đời, sự nghiệp Phạm Phú Thứ, đặt ra và giải quyết vấn đề văn học, đánh giá giá trị học thuật của Giá Viên toàn tập. Ông đã nhắc đến tác phẩm Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ như sau: “ghi chép chi tiết từng hoàn cảnh, sự kiện trên con đường đi sứ theo từng thời điểm tương ứng” [25, tr.119]. Năm 2014, Trần Thị Mỹ Hạnh với luận văn Thể tài du ký trong văn xuôi trung đại Việt Nam (Qua Thượng kinh ký sự, Tây hành kiến văn kỷ lược, Giá viên biệt lục) đã nghiên cứu Giá Viên biệt lục (Tây hành nhật ký) trên khía cạnh thể tài du ký. Đầu tiên, như về những điều trông thấy – nét đặc trưng của thể tài du ký: “Phạm Phú Thứ đã giới thiệu về bức tranh hoành tráng tân kỳ của nền văn minh châu Âu ở các nước phương Tây với những chi tiết sự kiện chọn lọc.” [3, tr.16]. Hay về điểm nhìn nghệ thuật thì: “Còn ở Giá Viên biệt lục, các trang viết được kết tinh bởi tầm nhìn của một nhà văn hóa, óc tư duy của nhà khoa học và xúc cảm của một du khách.” [3, tr.21]. Năm 2014, có công trình nghiên cứu Thể tài du ký văn xuôi chữ Hán thế kỷ XVIII – XIX, luận văn Tiến sĩ Hà Thị Thanh Nga, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viên Khoa học xã hội. Ở đây Tây hành nhật ký được xem xét trên cả khía cạnh nội dung là tập du ký ghi chép toàn bộ cuộc sống sinh hoạt của người dân các nước phương Tây và nghệ thuật của tác phẩm 4
  10. trên phương diện điểm nhìn trần thuật, không gian, thời gian nghệ thuật của tập du ký. Năm 2015, Lê Nguyễn có bài viết Tây hành nhật ký – Tập sử liệu quý của người xưa đăng trên trang http://baodanang.vn. Bài nghiên cứu bàn về những giá trị và đóng góp quan trọng của tập du ký đối với văn học cũng như đối với lịch sử. Tây hành nhật ký là một tài liệu quý vừa là bản tấu của sứ bộ dâng lên nhà vua, vừa là một tập du ký ghi chép thật tỉ mỉ và tinh tế những chuyện mắt thấy tai nghe trong suốt cuộc hành trình của Phạm Phú Thứ. Thứ hai, quan điểm cho rằng Tây hành nhật ký là sự đi xuống của thể loại ký thể hiện trong bài viết của PGS-TS Nguyễn Đăng Na Vị trí Giá Viên biệt lục (Tây hành nhật ký) trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 in trong Phạm Phú Thứ toàn tập (2014). Ở đây, tác giả nhận định: “Nhưng phải thừa nhận rằng, Giá Viên biệt lục không tạo được sự khoái cảm ở người đọc bằng Tây hành kiến văn kỷ lược. Những cảm xúc lạ lẫm hoặc ngạc nhiên đến sung sướng đôi khi là rất ngây thơ trẻ con của Lý Văn Phức theo từng dòng chữ ùa vào lòng người đọc. Người dọc hăm hở, hồi hộp, buồn vui, kinh dị… theo tác giả. Ta khó có thể tìm thấy những cảm xúc kiểu đó khi đọc tác phẩm của nhóm tác giả Phạm Phú Thứ.” [10, tr.2130]. Hay trong bài viết của mình Nguyễn Đăng Na còn nói: “Và vì vậy, các tác giả đã đưa Giá Viên biệt lục quay về với hình thức văn học chức năng. Hình thức (văn học chức năng) sẽ tự mâu thuẫn với nội dung (hiện thực rộng lớn sống động của thế giới phương Tây tư bản). Giá Viên biệt lục báo hiệu sự bế tắc của thể loại ký.” [10, tr.2131]. Tóm lại, những công trình nghiên cứu này mới dừng ở mức độ khái quát một vấn đề nào đó của tập du ký, mà nghiên cứu mang tính chất tổng quát về nội dung và nghệ thuật của Tây hành nhật ký là chưa có. Với thái độ trân trọng và kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, trong 5
  11. khuôn khổ cho phép, khóa luận xin tiếp tục nghiên cứu, mở rộng và bổ sung nhiều ý kiến, quan điểm của bản thân về tập Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ trong tiến trình du ký Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX. 3. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến các mục đích sau: - Góp phần tìm hiểu thêm một tác phẩm thuộc thể loại du ký, chỉ ra đặc điểm nội dung, nghệ thuật của tập Tây hành nhật ký. - Qua những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Tây hành nhật ký, khẳng định vị trí, vai trò của tập du ký nói riêng và thể tài du ký nói chung trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Để thực hiện đề tài, đối tượng nghiên cứu là tập Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi tư liệu: chúng tôi lựa chọn bản dịch Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ (Bản dịch in trong Phạm Phú Thứ toàn tập (2014), Phạm Ngô Minh (chủ biên), NXB Đà Nẵng). Bên cạnh đó, để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện và khách quan trong phân tích, nhận xét, đánh giá, chúng tôi mở rộng biên độ đối tượng và phạm vi nghiên cứu để so sánh, đối chiếu, khảo sát với 3 tập du ký chữ Hán thế kỷ XVIII – XIX đó là: Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác), Hải trình chí lược (Phan Huy Chú) và Tây hành kiến văn kỷ lược (Lý Văn Phức). Phạm vi nội dung: nghiên cứu đặc điểm nội dung, nghệ thuật của Tây hành nhật ký và vị trí của Tây hành nhật ký trong thể tài du ký Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu 6
  12. sau đây: - Phương pháp loại hình - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh, đối chiếu 6. Bố cục khóa luận Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của khóa luận bao gồm hai chương: Chương 1. Giới thuyết chung Chương 2. Tây hành nhật ký – những đặc điểm tiêu biểu NỘI DUNG Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG 1.1. Thể tài “du ký” Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX 7
  13. 1.1.1. Vấn đề thuật ngữ “du ký” “Du ký” hiểu theo cách triết tự: du là đi, ký là viết; du ký là đi và viết, ghi chép những gì mắt thấy tai nghe trên đường đi đến một nơi nào đó. Trong Từ điển Tiếng Việt (Hoàng phê chủ biên) du ký là thể ký “ghi lại những điều người viết chứng kiến trong chuyến đi chơi xa” [16, tr.25]. Thuật ngữ du ký cũng được dựa vào các từ điển chuyên ngành văn học và các nghiên cứu thuộc lí luận văn học. Du ký cũng đã được nhắc đến với tư cách là một thể văn trong sách Các thể văn chữ Hán Việt Nam: “Văn du ký là loại văn được viết ra trong những chuyến đi, vừa để ghi lại hành trình, vừa để bày tỏ cảm xúc về những điều mắt thấy tai nghe. Đặc điểm của văn du ký là chuyên lấy việc mô tả thắng cảnh núi sông, phong vật làm đề tài, cách viết đa dạng, có thể miêu tả, có thể trữ tình, có thể nghị luận, và phải là chính tác giả ghi chép lại chuyến đi của chính mình, miêu tả lại cảm thụ của bản thân trước núi non, phong vật.” [32, tr.113]. Từ điển thuật ngữ văn học xác định: “Du ký là một thể loại văn học thuộc loại hình lý mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân người đi du lịch ngoạn cảnh về những điều mắt thấy, tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục chân tình của xứ sở ít người biết đến” [2, tr.94]. Sách Giáo trình lý luận văn học tập 2: “Tác phẩm và thể loại văn học” cũng có cách định nghĩa với những cách tương đồng: “Có thể hiểu du ký là thể loại ghi chép về vẻ đẹp kì thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời những cảm nhận, suy tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn, du lịch. Du ký phản ánh, truyền đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người du lịch về những điều 8
  14. mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, những nơi mọi người ít có dịp đến, chứng kiến” [23, tr.382]. Thông qua việc tìm hiểu ở trên, chúng tôi chủ trương đưa ra những đặc điểm để nhận dạng du ký như sau: - Du ký là một thể tài của ký, viết bằng văn xuôi, thường có dạng hồi ức và dạng nhật ký, dành cho hoạt động di chuyển giữa các địa điểm có khoảng cách lớn, ra bên ngoài không gian sống thường ngày, trong một khoảng thời gian có độ dài nhất định. - Du ký là những tác phẩm được ra đời từ cuộc hành trình của chính bản thân người viết đến một vùng đất mới. Đó có thể là một chuyến đi mang tính chất cá nhân để thăm thú, ngoạn cảnh, du lịch mang tính tự phát. Đó cũng có thể là chuyến đi công cán, công vụ được tổ chức thành đoàn với mục đích chính trị, xã hội, văn hóa. Người viết bao giờ cũng có ý thức ghi chép lại một cách đầy đủ nhất những đặc điểm về vùng đất, con người nơi mình đi qua. Vì thế, nội dung quan trọng nhất của du ký là người thật, việc thật được trải nghiệm qua chính người viết. Và phải mang lại cho người tiếp nhận những nhận thức, cảm xúc mới mẻ về các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và con người. - Du ký là chi chép sự thật nhưng nó được nhìn qua lăng kính chủ quan của người viết nên mang dấu ấn cá nhân. Người kể chuyện chủ yếu ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”, đôi khi có thể kể chuyện ở ngôi thứ ba. 1.1.2. Phân loại “du ký” Du ký xuất hiện đầu tiên trong văn học Lý – Trần. Du ký là một thể tài của ký nên hình thức tồn tại đương nhiên là văn xuôi, căn cứ vào văn tự mà văn du ký được chia thành văn du ký chữ Hán và văn du ký chữ Nôm. Các tác phẩm văn du ký xuất hiện ở thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV thể hiện qua những bài du ngoạn ngắm cảnh vật như: đi chơi cảnh núi, đi thuyền trên sông và đi viếng thắng tích chùa chiền... Cụ thể hơn nữa, đến thế kỷ XVIII – XIX với tác 9
  15. phẩm Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác đã đưa du ký viết bằng chữ Hán tiến thêm một bước mới: ở đây có sự kết hợp đan xen giữa văn tường thuật và văn du ký, giữa kể và tả, giữa tự truyện và trữ tình, giữa khách quan và chủ quan... tạo nên kiểu văn du ký mẫu mực trong văn học Việt Nam. Mặt khác, ở giai đoạn này đã xuất hiện một số tác phẩm văn du ký viết về các chuyến du công ở nước ngoài như: Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức (1785 – 1849), Hải trình chí lược của Phan Huy Chú (1782 – 1840), Như Tây ký của Ngụy Khắc Đản (1817 – 1873)... Như vậy, du ký văn xuôi chữ Hán đã được hình thành ở giai đoạn này. Đó không chỉ là du ký về những chuyến đi trong nước mà còn là những chuyến viễn du ra ngoài biên giới Việt Nam và Trung Hoa. Bên cạnh du ký viết bằng chữ Hán, đã xuất hiện một số tác phẩm viết bằng chữ Nôm như: Tây phù nhật ký của Tôn Thọ Tường (1825 – 1877), Như Tây ký của Ngụy Khắc Đản, Hương Sơn hành trình của Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905)... Ngoài du ký chữ Hán và du ký chữ Nôm, văn học giai đoạn XVIII – XIX đã xuất hiện du ký bằng chữ Quốc ngữ như: Chư quấc thại hội, Như Tây nhật trình của Trương Minh Ký (1855 – 1900), Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898). Tóm lại, dưới hình thức tự sự, du ký rất đa dạng nhưng phát triển mạnh mẽ nhất là giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX. Tuy nhiên, còn phải kể đến những tác phẩm thuộc thể loại khác có tính chất du ký như: thơ, phú và truyện. Về các tác phẩm thơ có tính chất du ký thì ở giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVII có các tác phẩm: Hành dịch đăng gia sơn (Nhân việc quan lên chơi núi quê nhà), Du Phật Tích sơn ngẫu đề (Đi chơi núi Phật Tích ngẫu nhiên đề thơ), Đăng Thiên Kì lưu đề (Lên núi Thiên Kì đề thơ lưu niệm), Sơn hành (Đi chơi núi) của Phạm Sư Mạnh, Du Phật Tích Sơn đối giang ngẫu tác (Chơi núi Phật Tích Sơn đối diện dòng sông ngẫu nhiên làm thơ), Du Côn Sơn (Chơi núi Côn Sơn), Thanh Hư động 10
  16. ký (Bài ký động Thanh Hư) của Nguyễn Phi Khanh, bài Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính (Đêm trăng dạo bước trên đường thông núi Tiên Du) của Chu Văn An (1292 – 1370), Trình Thiền sư tiêu dao ở Phúc Đường của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291)... Mặt khác, có những bài thơ du ký ra đời trên con đường đi công cán, đi sứ. Những bài thơ này có nội dung liên quan đến yếu tố lịch sử như Vương lang qui (Chàng Vương trở về) của Ngô Chân Lưu (tức Khuông Việt: 933 – 1011), Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống) của Trương Hán Siêu (? – 1354). Bên cạnh đó còn có các tác phẩm thơ đi sứ như: Hiệp Thạch tập của Phạm Sư Mạnh, Giới Hiên thi tập của Nguyễn Trung Ngạn, Kim Lăng ký của Nguyễn Đình Mỹ, Đỗ Cận; Bắc sứ quốc ngữ thi tập của Hoàng Sĩ Khải, hay Mai lĩnh sứ Hoa thi tập của Phùng Khắc Khoan… Còn ở thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX thì có một số tác phẩm thơ có tính chất du ký nổi bật như: Tụng Tây Hồ phú và Ngự đạo hành cung nhật trình (Nguyễn Huy Lượng), Nam trình liên thi tập (Ngô Thì Ức), Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân Hương… Về phú, có nhiều bài mang tính chất du ký xuất hiện những tác phẩm ở thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII như: Dục Thúy Sơn linh Tế tháp ký (Bài ký tháp Linh Tế núi Dục Thúy), Bạch Đằng giang phú (Bài phú sông Bạch Đằng) của Trương Hán Siêu (? – 1354), Vịnh Vân Yên tự phú (Bài phú Vịnh chùa Vân Yên) của Huyền Quang thiền sư (1254 – 1334), Tịch cư ninh thể phú và Đại Đồng phong cảnh phú của Nguyễn Hãng. Mặt khác, đến thế kỷ thứ XVI đã xuất hiện tác phẩm du ký mang yếu tố truyện như: Thường quốc nam chính ký (Thường Quốc Công chinh chiến phương nam) của Nguyễn Quyện (1511 – 1593) viết về cuộc mang quân đi đánh chiếm vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Như vậy, du ký là một thể tài của ký. Tuy nhiên, còn có những thể loại 11
  17. khác mang tính chất của du ký như: thơ, phú, truyện. Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ - tác phẩm du ký chữ Hán Việt Nam tiêu biểu thế kỷ XVIII – XIX. 1.1.3. Diện mạo “du ký chữ Hán” Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX Để thấy được diện mạo du ký chữ Hán Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX chúng tôi đi khảo sát một số tác phẩm du ký tiêu biểu. 1.1.3.1. Thượng kinh ký sự - Lê Hữu Trác Lê Hữu Trác (1720 – 1791) còn có tên khác là Lê Hữu Huân, hiệu Hải Thương Lãn Ông, quê ở huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Khác với con đường hành đạo, lập công danh của đa số các tri thức nho sĩ phong kiến đương thời, Lê Hữu Trác chọn cho mình một hướng đi riêng. Sự lập thân của ông trước hết gắn với nghề làm thuốc chữa bệnh cho nhân dân, đem trí tuệ và nhiệt tâm để soạn bộ sách Y tâm tông lĩnh để lưu lại cho hậu thế. Sự nghiệp của Lê Hữu Trác được tập hợp trong bộ Y tâm tông lĩnh được ông biên soạn trong khoảng 40 năm. Tác phẩm có giá trị y học và văn học đáng kể. Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y lỗi lạc mà còn là một nhà tư tưởng lớn, một nhà thơ, một nhà văn có đóng góp đáng kể trong nền văn học trung đại Việt Nam. Thượng kinh ký sự là tập ký bằng chữ Hán được Lê Hữu Trác hoàn thành vào cuối năm Quý Mão Cảnh Hưng 44 (tức là tháng 11 năm 1783). Đây là thời điểm ông đã hoàn thành chuyến lên kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Cuộc hành trình bắt đầu từ ngày 12 tháng 1 năm 1782 kéo dài gần một năm đi từ vùng núi Hương Sơn, Hà Tĩnh đến kinh thành Thăng Long và ngày 1 tháng 11 năm 1782 Lê Hữu Trác về đến nhà. Tác phẩm Thượng kinh ký sự đã phác họa bức chân dung Lê Hữu Trác, ông đứng trên lập trường của một nhà nho có tầm vóc tư tưởng của một cao 12
  18. nhân, ẩn sĩ. Lê Hữu Trác ghi chép chuyến đi của mình theo thời gian tuyến tính và đánh dấu bằng ngày tháng cụ thể cùng các câu chuyện xảy ra. Trong tác phẩm ông luôn có sự đan xen giữa du ký công vụ và ghi chép theo kiểu tự thuật, hồi ức, nhật ký, ký sự, truyện ký văn học. Cảm hứng Đi – Xem trở thành cảm hứng chủ đạo. Ông đặc biệt quan tâm đến những cảnh, những người gặp trên đường và miêu tả lại, kể lại một cách tỉ mỉ, chi tiết cùng sự suy ngẫm của bản thân mình. Giữa đêm đi thuyền trên sông vắng cảm tác mà làm một bài thơ về nỗi khách tha hương. Đến Thăng Long thì luôn nhớ về cảnh cũ, người xưa. Về cố hương thì vui sướng vì nếp nhà. Tái ngộ cố nhân lại ưu tư về mối duyên không thành và cảm động tấm lòng người tri kỉ,... Bên cạnh đó là những câu chuyện về việc chữa bệnh cho thế tử, về cảnh xa hoa trong phủ chúa cùng nỗi niềm trước thời cuộc. Con đường đi lên kinh đô chữa bệnh cho thế tử không thành nhưng Lê Hữu Trác đã để lại trong lịch sử văn học một thiên du ký đặc sắc, mở đầu cho sự phát triển thể tài du ký trong văn học trung đại Việt Nam. 1.1.3.2. Hải trình chí lược - Phan Huy Chú Phan Huy Chú (1782 – 1840) có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc Húy của nhà Nguyễn mới đổi là Chú, tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong. Ông là một nhà thơ, là thư tịch lớn, nhà bác học Việt Nam. Sự nghiệp của Phan Huy Chú cũng có nhiều thăng trầm. Năm 1821, ông được vua Minh Mạng cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm này ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên soạn và được khen thưởng. Nhiều năm sau đó ông liên tục được giữ nhiều chức quan to nhưng lại gặp khá nhiều trắc trở. Sau đó, ông cáo bệnh xin về ở ẩn và làm nghề dạy học, soạn sách cho đến khi mất. Các tác phẩm chính: Lịch triều hiến chương loại chí, Hoàng Việt dư địa chí, Mai Phong du Tây thành dã lục, Hoa thiều ngâm lục, Hải trình chí lược... 13
  19. Hải trình chí lược được Phan Huy Chú viết trong chuyến đi sứ từ năm 1832 đến khoảng giữa năm sau qua các cửa sông, cảng biển, hải đảo từ Quảng Nam – Vịnh Thái Lan – Giang Lưu Ba (Singapo) – Batawa (Inđônêsia) – kinh đô Huế. Đây cũng là một chuyến đi để hiệu lực. Tác phẩm hoàn thành và viết lời tựa năm 1833. Tác phẩm gồm 43 mục, không ghi theo trình tự thời gian mà viết theo hành trình đi qua các địa danh cả trong nước và nước ngoài. Phan Huy Chú đặc biệt chú ý đến những giá trị nổi bật của nền văn minh phương Tây như: hệ thống quân sự, pháp luật, giao thông, xưởng máy cưa, lịch Pháp, tiền tệ, chữ viết,... Phan Huy Chú đã sáng tác với tư duy của một nhân viên công vụ ghi chép địa lí hành chính, vừa có ý thức điều tra dân tộc học và xã hội học, kinh tế học, văn hóa học, nhân học, phong tục học. Với một người luôn có tư duy khảo cứu cùng tư tưởng tiến bộ thì biểu hiện xã hội phương Tây là những thành tựu lớn, gợi mở ra những định hướng cho sự phát triển của xã hội nước nhà. Đó là điều luôn khiến một nhà nho cấp tiến như ông trăn trở khi nghĩ về trình độ, sức mạnh của quốc gia, dân tộc. 1.1.3.3. Tây hành kiến văn kỷ lược - Lý Văn Phức Lý Văn Phức (1785 – 1849) tự là Lâm Chi, hiệu Khắc Trai và Tố Xuyên, xuất thân trong một gia đình nhà Nho gốc ở thôn Tây Hương, thuộc huyện Long Khê, phủ Chương Thâu, tỉnh Phúc Kiến. Cuộc đời làm quan của Lý Văn Phức lắm thăng trầm với bao lần thăng, biếm song cũng là nơi tạo điều kiện cho ông thực hiện nhiều chuyến viễn nước ngoài, những chuyến đi này ảnh hưởng sâu sắc đến nhãn quan nho gia và tạo nguồn cảm hứng vô tận cho ngòi bút Lý Văn Phức. Sáng tác của Lý Văn Phức phong phú, đa dạng với nhiều loại hình, cả chữ Hán và chữ Nôm, thơ ca lẫn văn xuôi, văn học nghệ thuật cũng như văn học chức năng. Văn tài của ông có những đóng góp đáng kể vào tiến trình phát triển của nền văn hóa, văn học dân tộc. 14
  20. Tây hành kiến văn kỷ lược viết về chuyến đi các nước Đông Nam Á của phái đoàn do vua Minh Mạng cử, trong đó có Lý Văn Phức với tư cách hiệu lực. Chuyến đi khởi hành từ cửa biển Đà Nẵng ngày 18 tháng 1 năm 1830 đến ngày 24 tháng 9 cùng năm thì về đến kinh đô Huế. Tác phẩm ra đời trên cơ sở việc thực hiện chính sách ngoại giao của vua Minh Mạng. Phái đoàn của Lý Văn Phức có nhiệm vụ tìm hiểu tình hình các nước Đông Nam Á dưới sự thống trị của nhà nước tư bản Anh (Hồng Mao). Bởi thế, Lý Văn Phức đã có sự quan sát tỉ mỉ, chi tiết về những điều mắt thấy tai nghe ở một xã hội đã theo mô hình tư bản. Nguyễn Đăng Na đánh giá đây là một tác phẩm ký hết sức độc đáo nó đã mở đầu cho những tác phẩm viết về phương Tây tư bản. Nội dung tác phẩm này được tổ chức theo từng nội dung cụ thể, thể hiện sự khoa học, chặt chẽ. Tác phẩm gồm bài Tựa cùng 14 mục chính văn: Danh hiệu, Nhân vật, Khí tập, Y phục, Ẩm thực, Văn tự, Lễ tục, Quân sự, Thời hậu, Ốc vũ, Xa thừa, Hóa tệ, Chu thuyền, Địa sản, phần cuối là phụ lục. Tây hành kiến văn kỷ lược phản ánh cái nhìn của một nhà nho phương Đông đối với xã hội Tây phương, ông đã vẽ ra một khung cảnh xã hội hoàn toàn mới mẻ, lạ lùng trong nhãn quan của những người phương Đông. Ngay trong từng nội dung, tác giả vừa ghi chép vừa kể chuyện, vừa có sự so sánh, đánh giá trữ tình ngoại đề. 1.2. Tác giả Phạm Phú Thứ và Tây hành nhật ký 1.2.1. Phạm Phú Thứ - Tiến sĩ Việt Nam đầu tiên tới trời Tây 1.2.1.1. Bối cảnh chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX Sang thế kỷ XVIII – XIX tình hình chính trị xã hội có sự thay đổi. Trong nước hình thành nhiều lực lượng ở nhiều địa phương khác nhau. Tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh ở Thăng Long khủng hoảng trầm trọng, không còn khả năng lãnh đạo đất nước và dẫn đến sụp đổ. Nhà Tây Sơn lên ngôi ở Phú Xuân. Sau đó, nhà Nguyễn chiếm được quyền lực đã tạo ra một cục diện chính trị 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2