intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

46
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua quá trình nghiên cứu, phân tích những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ, khóa luận đưa ra ý nghĩa của việc nghiên cứu những tư tưởng này đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

  1. TRƢỜNGTRƢỜNG ĐẠIPHẠM ĐẠI HỌC SƢ HỌC HÀ SƢ NỘI PHẠM2 HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ---------- ---------- ----------  ---------- TRẦN ĐỨC KHÓA TRẦN ĐỨC KHÓA NHỮNG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƢỜNG TỘ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHỮNG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƢỜNG TỘ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG CUÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Triết học KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Triết học TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2019
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ----------  ---------- TRẦN ĐỨC KHÓA NHỮNG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƢỜNG TỘ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Triết học Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ GIANG HÀ NỘI - 2019
  3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ. Trước tiên cho phép em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Nguyễn Thị Giang - người đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, quý thầy cô khoa Giáo dục Chính trị đã tạo mọi điều kiện cho em hoàn thành đề tài nghiên cứu. Đồng thời, cho em gửi lời cảm ơn đến các cô, các chú tại các cơ quan đã giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm tài liệu, khảo sát thực tế. Sau cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ em trong quá trình làm khóa luận. Em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét của quý thầy, cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Trần Đức Khóa
  4. LỜI CAM ĐOAN Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Triết học với đề tài “Những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay”. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm! Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Sinh viên Trần Đức Khóa
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 NỘI DUNG ....................................................................................................... 6 Chương 1. SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ .................................................................................................... 6 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX .................... 6 1.2. Cuộc đời của Nguyễn Trường Tộ ......................................................... 12 1.3. Những tiền đề lý luận góp phần hình thành tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ ....................................................................................... 17 Chương 2. NHỮNG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ .................................................................................................. 21 2.1. Tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ về kinh tế .......................... 21 2.2. Tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ về chính trị - xã hội .......... 27 2.3. Tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ về văn hóa - giáo dục ....... 31 2.4. Tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ về quốc phòng an ninh - ngoại giao ...................................................................................................... 33 Chương 3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH........................................ 37 CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI .............. 37 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................. 37 3.1. Thành tựu và hạn chế trong công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay ......... 37 3.2. Vận dụng tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay .............................................................. 46 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 67
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Để tồn tại và phát triển, dân tộc ta đã trải qua quá trình lao động lâu dài, quá trình dựng nước và giữ nước. Lịch sử từng chứng kiến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với bao biến cố thăng trầm, nhưng truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam vẫn luôn tỏa sáng. Truyền thống đó không chỉ được thể hiện ở những cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ chống ngoại xâm, mà còn thể hiện ở những tư tưởng duy tân đất nước tạo ra thực lực từ bên trong để chống giặc. Không chỉ đến bây giờ, mà nhìn về quá khứ, vấn đề cải cách, đổi mới đất nước cũng đã từng được đặt ra vào một số thời kỳ, trên những phạm vi mức độ khác nhau, nhiều khi mới dừng lại ở từng mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa… nhưng cũng có khi đã khá toàn diện, có hệ thống, có những đề nghị cải cách nhằm ổn định tình hình trong nước, tạo đà cho đất nước phát triển, nhưng cũng có những đề nghị cải cách xuất phát từ nhu cầu của công cuộc chống ngoại xâm. Tất cả những tư tưởng cải cách, canh tân đất nước xuất hiện trong hoàn cảnh khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau và kết quả thành bại không giống nhau, nhưng đã khẳng định trong lịch sử Việt Nam đã từng tồn tại những xu hướng cải cách, canh tân đất nước mỗi khi yêu cầu khách quan của đất nước đặt ra. Nhìn lại lịch sử Việt Nam vào thời kỳ nửa sau thế kỷ XIX, từ khi vua Gia Long lên ngôi (1802) đến trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các vua triều Nguyễn đã thực hiện những chính sách sai lầm về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục… làm cho nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng về mọi mặt. Trong tình hình đó, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Để có thể bảo vệ độc lập dân tộc đòi hỏi phải có đường lối đúng đắn vừa đánh thắng Pháp, vừa đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Tình hình đó đã tác động mạnh đến tầng lớp trí thức dẫn đến quá trình chuyển biến về tư tưởng theo những xu hướng khác nhau. Trí thức Việt Nam lúc này không còn là một tầng lớp thuần nhất như ở thế kỷ trước, mà phân hóa thành phái chủ hòa, phái chủ chiến, phái thủ cựu, phái duy tân. Trong đó có một số trí thức trước những biến cố như sét nổ bên tai đã thật sự bừng tỉnh. Họ đã mạnh dạn bước qua nghi lễ phong kiến để lên tiếng đưa ra các ý kiến của mình 1
  7. nhằm thực hiện duy tân, cải cách đưa đất nước phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, kết hợp canh tân đất nước với bảo vệ độc lập dân tộc. Trong các đề xướng canh tân đất nước ở nữa sau thế kỷ XIX, Nguyễn Trường Tộ được coi là người có tư tưởng vượt trội bởi tính toàn diện và khả thi, bởi tầm ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài của các bản điều trần, đặc biệt là quan điểm về sự kết hợp giữa canh tân đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Nguyễn Trường Tộ không chỉ là một nhà cải cách nổi tiếng, một người Công giáo yêu nước tha thiết, mà còn là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam trong thế kỷ XIX. Mặc dù bị hạn chế bởi thế giới quan duy tâm tôn giáo, nhưng Nguyễn Trường Tộ đã có những tư tưởng triết học đặc sắc về nhân sinh, xã hội… Bên cạnh đó, Ông còn đưa ra không ít những kiến nghị trong nhiều lĩnh vực, từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội, quốc phòng, ngoại giao… Công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra cho chúng ta yêu cầu cần kế thừa, phát huy và phát triển những kinh nghiệm của quá khứ để lại phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Việc tìm hiểu quan điểm, tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và giá trị của những tư tưởng đó không chỉ giúp chúng ta có đánh giá khách quan, chính xác về Nguyễn Trường Tộ, về trào lưu canh tân nửa sau thế kỷ XIX, mà còn giúp ích cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ cũng như những tư tưởng cải cách của ông. Tuy mỗi người, mỗi ngành khoa học nghiên cứu, khai thác ở những khía cạnh khác nhau nhưng tất cả đều đạt được những kết quả đáng kể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về con người có nhiều tài, nhiều tư tưởng, hoài bão lớn mà không gặp thời như Nguyễn Trường Tộ. Năm 1961, nhà xuất bản Giáo dục đã giới thiệu với bạn đọc tác phẩm: “Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX” của Đặng Huy Vận và 2
  8. Chương Thâu. Với công trình này các tác giả đã làm toát lên một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học khi vận dụng xem xét các khía cạnh khác nhau trong tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ. Các tác giả không chỉ đánh giá về tầm vĩ mô, tính nhạy bén, vượt trước thời đại… của nhà tư tưởng canh tân này, mà còn đưa ra những kiến giải về sự ngây thơ trong nhận định bản chất của thực dân Pháp, sự bảo thủ về chính trị và một số điểm phi thực tế trong đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Hai tác giả không né tránh mà nêu thẳng vấn đề, trong điều kiện lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX, nước nhà bị xâm lăng, đã xuất hiện hai xu hướng cứu nước: chống Pháp và duy tân, Nguyễn Trường Tộ theo xu hướng duy tân đất nước nhưng vẫn muốn trung quân, ông đã chủ trương hòa với Pháp, chỉ có điều chủ trương hòa của ông không hề có quyền lợi gắn với thực dân Pháp. Tác phẩm đã cho tôi cái nhìn khá rõ nét về trí tuệ của Nguyễn Trường Tộ cũng như những giá trị và những điểm hạn chế trong tư tưởng cải cách đất nước của ông. Tiếp theo phải kể đến cuốn sách “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo” (2002), Nxb TP. Hồ Chí Minh của tác giả Trương Bá Cần biên soạn. Cuốn sách đã góp phần hình thành một “chân dung” Nguyễn Trường Tộ tương đối trọn vẹn. Tác giả Trương Bá Cần đã tập hợp được tương đối đầy đủ những “ di thảo”, những “ tư liệu thành văn” của Nguyễn Trường Tộ. Toàn tập “di thảo” này cũng chính là toàn bộ cuộc đời và tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ được lưu giữ lại cho chúng ta và cho con cháu mai sau. Cuốn sách đã cung cấp cho tôi sự hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trường Tộ. Bên cạnh đó, cuốn sách đã giúp tôi nghiên cứu, học tập về những tư tưởng cải cách đất nước của Nguyễn Trường Tộ trên lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo dục, quốc phòng - an ninh và ngoại giao. Cuốn sách “Nguyễn Trường Tộ - Thời thế và tư duy cách tân” (2001), Nxb Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh là công trình nghiên cứu của Hoàng Thanh Đạm, có thể giúp chúng ta giải đáp một số nhận thức về tầm cao trí tuệ, tinh thần yêu nước của nhà tư tưởng canh tân lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ cũng như một số điều bất cập và hạn chế lịch sử của ông. Những cải cách của ông đã không được triều đình nhà Nguyễn chấp nhận. Tác phẩm cũng đã chỉ ra sự nhận thức không đúng của nhà 3
  9. Nguyễn về những giá trị cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Đặc biệt, cuốn sách giúp tôi học tập về những giá trị trong những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ về kinh tế, chính trị, văn hóa - giáo dục, quốc phòng ngoại giao. Qua đó giúp tôi nghiên cứu và vận dụng những giá trị trong tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Và còn nhiều công trình khác viết về Nguyễn Trường Tộ như: “Nguyễn Trường Tộ với triều đình Tự Đức” (2013), Nxb Trẻ của tác giả Nguyễn Đình Đầu; “Nguyễn Trường Tộ - Nhà Cải Cách Lớn Của Việt Nam Thế Kỷ XIX” (2014), Nxb Văn Hóa Thông Tin của tác giả Chương Thâu cũng đã trình bày cơ bản về con người và những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ. Những tác phẩm này đã giúp tôi hiểu rõ hơn về cuộc đời cũng như những tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ. Những tác phẩm trên đây chủ yếu đề cập về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu tư tưởng cải cách đất nước của Nguyễn Trường Tộ gắn với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua quá trình nghiên cứu, phân tích những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ, khóa luận đưa ra ý nghĩa của việc nghiên cứu những tư tưởng này đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu bối cảnh lịch sử Việt Nam ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và cuộc đời của Nguyễn Trường Tộ. Phân tích những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ ở Việt Nam. Chỉ ra ý nghĩa của việc nghiên cứu những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 4
  10. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ và công cuộc đổi mới ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ trên các lĩnh vực: kinh tế; chính trị - ngoại giao; văn hóa - giáo dục; quốc phòng an ninh. Nghiên cứu công cuộc đổi ở Việt Nam mới từ năm 1986 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu đặt ra trong đề tài, khi nghiên cứu, trình bày khóa luận tôi dựa trên cơ sở thế giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chúng tôi vận dụng những nguyên lý của triết học Mác - Lênin như tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội… làm cơ sở cho những lập luận của mình. Trong đó có sử dụng phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc và đường lối của Đảng ta để luận giải những vấn đề đặt ra trong đề tài. Phương pháp tiếp cận đề tài là cách tiếp cận lịch sử từ góc độ triết học. Trong quá trình nghiên cứu, tùy từng vấn đề cụ thể, tôi sử dụng các phương pháp: lịch sử, logic, phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn dịch, so sánh đối chiếu… 6. Đóng góp khoa học của khóa luận Khóa luận đã hệ thống hóa, khái quát hóa những tư tưởng cải cách đất nước của Nguyễn Trường Tộ trên lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa, giáo dục và quốc phòng ngoại giao. Khóa luận đã chỉ ra sự vận dụng tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề lịch sử tư tưởng Việt Nam, vấn đề tư tưởng cải cách đất nước của Nguyễn Trường Tộ và về công cuộc đổi mới ở Việt Nam. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài các phần: Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được chia làm 3 chương và 9 tiết. 5
  11. NỘI DUNG Chƣơng 1. SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH CỦA NGUYỄN TRƢỜNG TỘ 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX 1.1.1. Về kinh tế Trong nông nghiệp: Diện tích canh tác đã tăng một cách đáng kể, tuy vậy vẫn không bù lại được số ruộng bị bỏ hoang do thiên tai, mất mùa, nhiều nông dân đã phải đi lưu tán. Sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính độc canh, đại đa số bộ phận diện tích đất canh tác đều trồng lúa. Do kỹ thuật lạc hậu nên năng suất không cao (khoảng 9 tạ/ha). Đến cuối những năm cuối thế kỷ XIX, tư bản Pháp tăng cường cướp đoạt ruộng đất của nông dân: “Năm 1888, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cho bọn địa chủ thực dân được quyền lập các đồn điền mà chúng gọi là đất vô chủ” [4; tr.284]. Tiếp đến năm 1897, triều đình Huế lại ký điều ước nhượng cho Pháp quyền khai khẩn đất hoang. Ngày 1/5/1900, thực dân Pháp ra nghị định phủ nhận quyền sở hữu ruộng đất của vua Nguyễn. Từ đây thực dân Pháp tha hồ tước đoạt ruộng đất của nhân dân ta. “Năm 1900, diện tích của các đồn điền người Âu là 322.000ha, trong đó ở Nam Kỳ là 78.000 ha” [4; tr.287]. Phương thức kinh doanh trong các đồn điền của Pháp chủ yếu vẫn là phát canh thu tô, thực dân Pháp ít quan tâm đến kỹ thuật khiến cho đất đai ngày càng nghèo nàn, sức lao động trở nên kiệt quệ. Trong thủ công nghiệp: Đến giữa thế kỷ XIX, thủ công nghiệp Việt Nam đã khá phát triển. Một số nghề có xu hướng tách khỏi nông nghiệp hình thành ra các làng nghề hay phố nghề: Nghề gốm ở Bát Tràng, Thổ Hà; nghề dệt ở Vạn Phúc, La Khê (Hà Đông)… Đến khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam thì thủ công nghiệp Việt Nam bắt đầu chịu sự tác động và chi phối của chiến tranh như nghề đóng tàu thuyền, làm vũ khí…Bên cạnh các xưởng thủ công do nhà nước quản lý, một số xưởng thủ công dân gian đã mọc lên ở nhiều nơi. Nhìn chung vào cuối thế kỷ XIX, nền sản xuất thủ công nghiệp nước ta bắt 6
  12. đầu có những thay đổi, hoặc do nhu cầu chiến tranh, hoặc do nhu cầu của công cuộc đô hộ bóc lột của tư bản Pháp. Các hoạt động thủ công vẫn còn gắn chặt với nông nghiệp, tồn tại với tư cách là nghề phụ gia đình. Trong công nghiệp: Trong khi kìm hãm nông nghiệp trong vòng lạc hậu, thực dân Pháp đầu tư vào một số ngành kinh tế để khẳng định vị trí của tư bản Pháp ở Đông Dương. Trước hết là đầu tư những ngành khai mỏ: thiếc, kẽm, sắt, thủy ngân…đặc biệt là than. Trong lĩnh vực khai thác mỏ, mỏ than đặc biệt chú ý, tổng sản lượng khai thác than năm 1892 là 95.000 tấn, đến năm 1900 là 201.000 tấn. Thực dân Pháp chú trọng xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp, vừa thỏa mãn nhu cầu thị trường Đông Dương và kiếm được nhiều lợi nhuận, vừa có khả năng cạnh tranh ở thị trường Viễn Đông. Phương thức kinh doanh chủ yếu là tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt, sử dụng đến mức tối đa sức lao động thủ công kết hợp với cơ giới, kết hợp bóc lột tư bản với phong kiến, nhờ đó mà lợi nhuận thu được không ngừng tăng lên. Một nền công nghiệp đã xuất hiện ở nước ta nhưng đó chỉ là một nền công nghiệp phiến diện, què quặt, không có công nghiệp nặng, thể hiện rõ tính chất thuộc địa. Trong thương nghiệp: Trong lĩnh vực thương nghiệp, Việt Nam là thị trường độc chiếm của tư bản Pháp: “Hàng hóa Pháp nhập vào Việt Nam chỉ phải đóng thuế 2,5% trong khi hàng hóa các nước khác phải đóng thuế 5% giá trị” [4; tr.287]. Ngoài ra thực dân Pháp còn ra sức chèn ép thương nhân Việt Nam, dung dưỡng cho thương nhân Hoa Kiều làm đại lý cung ứng hàng xuất khẩu, buôn bán và tiêu thụ hàng hóa Pháp. Ngày 11/1/1892, Pháp ra một đạo luật mới, quy định hàng hóa Pháp hoàn toàn được miễn thuế còn hàng hóa nước khác phải đóng từ 25% đến 120% giá trị khi nhập khẩu vào Việt Nam. Chính sách độc quyền thương mại của thực dân Pháp làm bần cùng hóa nhân dân lao động và bóp chết các ngành tiểu thủ công nghiệp Việt Nam. Toàn bộ chính sách đầu tư, khai thác bóc lột của thực dân Pháp ở Đông Dương là một chính sách hẹp hòi, ích kỷ, thiển cận nhằm trói buộc nền kinh tế nước ta phụ thuộc vào nền kinh tế Pháp. Đây là chính sách cướp bóc của thực dân Pháp bằng 7
  13. phương pháp bóc lột tư bản chủ nghĩa kết hợp với hình thức bóc lột dã man thời trung cổ. Tình hình kinh tế suy đốn như vậy, cho nên nền tài chính của nhà nước cũng bị khốn quẫn. Ngay từ khi Tự Đức lên ngôi, Trương Quốc Dụng đã tâu: “Tài lực của nhân dân không bằng 5,6 phần 10 năm trước”[6; tr.57]. Năm 1860 Nguyễn Tri Phương than: “Quân và dân của đã hết sức yếu”[6; tr.57]. Dưới triều Nguyễn, thời Gia Long, Minh Mạng, nhà nước còn đúc được tiền, nhưng đến thời Tự Đức nhà nước không đúc được tiền nữa nên tiền đồng, tiền kẽm rất ít, phải nhờ thương nhân Trung Hoa đúc một hạng tiền lấy niên hiệu Tự Đức vừa mỏng vừa xấu, gọi là tiền sếnh, nhân dân không ai chịu tiêu. Đời sống của nhân dân lại càng điêu linh, cực khổ. Trong lúc đó, nhà Nguyễn vẫn tăng cường bóc lột nhân dân để thỏa mãn cuộc sống xa hoa, phung phí của chúng và nộp chiến phí cho giặc. Chúng tìm mọi cách để bóc lột nhân dân và kiếm tiền như đánh thuế rượu, bỏ lệ cấm thuốc phiện để đánh thuế... Bộ máy quan liêu đã thối nát lại càng trở nên đồi bại. Chúng chỉ biết tham ô vơ vét và bóc lột nhân dân. Cuộc sống của người dân đã khổ cực lại càng thêm cực khổ. 1.1.2. Về chính trị - xã hội Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Để phục vụ cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng nhà nước thống nhất, chặt chẽ, đồng thời thực hiện thủ đoạn “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”. Ngày 17/10/1887, Tổng thống Pháp kí sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương gồm các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Campuchia, đến ngày 19/4/1899, tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên Bang Đông 8
  14. Dương. Đứng đầu Liên bang Đông Dương là viên toàn quyền người Pháp, đại diện cho chính phủ Pháp trực tiếp cai trị Đông Dương về mọi mặt. Dưới hội đồng tối cao Đông Dương, có các cơ quan Trung ương về quân sự, dân sự, pháp lý, thanh tra, cảnh sát, tài chính…đặc trách các công việc giúp toàn quyền điều hành bộ máy thống trị và khai thác bóc lột. Việc củng cố chính quyền Liên bang gắn với việc củng cố chính quyền các xứ. Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ đạo hành động của chúng. Nước Việt Nam chia làm ba xứ với ba chế độ khác nhau. Nam kỳ là xứ thuộc địa gồm 20 tỉnh do thực dân trực tiếp cai trị về mọi mặt. Trung Kỳ là xứ bảo hộ chia làm 14 tỉnh do một viên quan khâm xứ Pháp đứng đầu, triều đình Huế vẫn được duy trì với tên gọi “chính phủ Nam triều”. Nhưng mọi quyền hành đều ở Tòa Khâm sứ do viên Khâm sứ Pháp đứng đầu. Ngoài ra còn có hội đồng bảo hộ gồm một hay hai đại diện của phòng Thương mại hay Canh nông, hai đại diện của Viện Cơ mật. Bắc Kỳ là xứ “nửa bảo hộ” do một viên thống sứ người Pháp đứng đầu. Bên cạnh Phủ Thống sứ có Hội đồng bảo hộ và hai Phòng Thương mại và Canh nông ở hai thành phố lớn Hà Nội và Hải Phòng. Bắc Kỳ có 26 tỉnh, 35 đại lí, 4 đạo quan binh và hai thành phố. Hệ thống chính quyền ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ từ cấp tỉnh trở xuống về đại thể giống nhau. Đứng đầu mỗi tỉnh là một viên Công sứ người Pháp. Bên cạnh tòa Công sứ, hệ thống tổ chức quan lại cũ vẫn được duy trì. Tất cả các quan “Nam triều” này chỉ đóng vai trò thừa hành những quyết định của Tòa Công sứ Pháp. Mỗi tỉnh chia làm nhiều phủ, huyện bao gồm các tổng, xã, làng, đạo, châu đối với các tỉnh miền núi là các tổng, làng, bản. Song song với việc tăng cường và củng cố bộ máy hành chính, thực dân Pháp còn tăng cường bộ máy quân sự, cảnh sát, tòa án, nhà tù nhằm nhanh chóng hoàn thành triệt để công cuộc bình định, để “phòng thủ Đông Dương”, “ mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là các nước lân cận với Đông Dương” và phục vụ cho công cuộc khai thác, bóc lột. Đi đôi với bộ máy quân sự, cảnh sát đó là hệ thống pháp luật khắc nghiệt với chế độ riêng cho từng xứ cùng hệ thống tòa án, nhà tù dầy đặc khắp Việt Nam. Từ huyện, phủ, châu trở lên đều có nhà tù và trại giam. Ngoài ra thực dân Pháp còn 9
  15. thực hiện nhiều thủ đoạn chia rẽ dân tộc và tôn giáo. Bộ máy chính quyền của thực dân Pháp được thiết lập trên cơ sở của sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với giai cấp phong kiến phản động do thực dân Pháp chi phối nhằm thực hiện chính sách khai thác, bóc lột vô cùng tàn bạo của chúng Về xã hội, nhà Nguyễn dùng luật pháp hà khắc, quân đội, nho giáo phản động làm công cụ kìm kẹp nhân dân về mọi mặt, cho nên mâu thuẫn xã hội vốn đã có mâu thuẫn nay càng trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra và kéo dài. Vì đời sống cơ cực, tô thuế, sưu dịch nặng nề và bởi các chính sách đối nội đối ngoại không phù hợp của triều Nguyễn nên các cuộc khởi nghĩa liên tục nổ ra, khó có thể dập tắt. Để đối phó với phong trào nổi dậy của nhân dân, triều đình đã thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa một cách tàn bạo. Khiến cho lòng dân than oán, chia lìa, khối đoàn kết dân tộc bị rạn nứt. 1.1.3. Về văn hóa - giáo dục Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, đầu độc về văn hóa là một trong những biện pháp cai trị của bọn thực dân. Mục đích của nền giáo dục thuộc địa là góp phần duy trì ách thống trị vĩnh viễn của bọn thực dân Pháp. Vì vậy tùy theo yêu cầu về chính trị và kinh tế của từng thời kỳ, thực dân Pháp đề ra những chủ trương cụ thể. Để thực hiện mục đích trên, thực dân Pháp lợi dụng nền giáo dục Nho học với chế độ khoa cử lỗi thời. Các trường học chữ Pháp bắt đầu được mở, chữ Hán dần mất địa vị độc tôn. Đặc biệt, năm 1896, Pháp cho thành lập trường Quốc học Huế đặt dưới quyền kiểm soát của Khâm sứ Trung Kỳ. Trường thu nhận con em quan lại cao cấp người Việt Nam vào học nhằm đào tạo đội ngũ tay sai trung thành với chế độ thuộc địa. Báo chí là một công cụ tuyên truyền đắc lực cho sự thống trị của thực dân Pháp. Việc xuất bản sách, báo, tranh ảnh cũng được chú ý. Sách được xuất bản thành 4 ngôn ngữ: Hán, Nôm, Pháp, Quốc Ngữ. Hoạt động xuất bản đã đánh dấu một bước phát triển mới, chuyển từ xuất bản sách phần lớn là chữ Hán và chữ Nôm sang phần lớn chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp: “Sự xuất hiện và phổ biến chữ Quốc ngữ 10
  16. đã trở thành cỗ xe nhẹ nhàng chở những luồng tư tưởng mới để sau đó trở thành vũ khí đấu tranh của dân tộc Việt Nam chống thực dân và phong kiến”[4; tr.289]. Tình hình sinh hoạt văn hóa có ít nhiều biến đổi và phát triển, chủ yếu ở các đô thị. Ở nông thôn văn hóa làng vẫn tồn tại trong chính sách “bần cùng hóa” và “ngu dân hóa”. Những thói hư tật xấu của xã hội được thực dân Pháp dung dưỡng. Các tệ nạn xã hội vẫn còn tồn tại và ngày càng trầm trọng hơn: Cờ bạc, rượu chè…cùng với đó là những hủ tục ma chay, cưới xin, nạn bói toán, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề. Nhân dân bị thất học hơn 90%. 1.1.4. Về quân sự quốc phòng Là một quốc gia phong kiến được xếp vào hàng tương đối mạnh ở khu vực Đông Nam Á, Nhà Nguyễn đã chú ý tới việc xây dựng và phát triển lực lượng quân đội, bao gồm bộ binh, kị binh, tượng binh và pháo binh. Thời Thiệu Trị và Tự Đức việc binh vẫn được chú ý. Song một khi lòng dân đã li tán, xa rời, chống lại triều đình thì dùng có lực lượng đông nhưng chưa mạnh. Triều Nguyễn tài chính suy kiệt, kỹ thuật lạc hậu, đến giữa thế kỉ XIX mà vẫn huấn luyện theo kiểu trận đồ bát quái, ngũ hành, long thao, hồ lược... Vũ khí chủ yếu là gươm giáo, súng điểu thương, súng lớn đúc bằng đồng được bố trí ở thành quách độ chuẩn xác không cao, ít cơ động. Binh lính thì bị ngược đãi, vũ trang kém, lương bổng, quân tư trang thiếu thốn. Trong lúc binh lực suy tàn, tài chính kiệt quệ, lòng dân oán trách thì triều đình hết sức bảo thủ, không chịu duy tân cho nên không đủ khả năng đương đầu với thực dân Pháp. Năm 1859, khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, Nguyễn Tri Phương đã nói: “quân và dân đã hết, sức đã yếu”. Cuối thế kỷ XIX nước ta lâm vào tính trạng khủng hoảng về mọi mặt: kinh tế ngày càng kiệt quệ, chính trị - quân sự bất ổn, xã hội phân hóa sâu sắc, văn hóa - giáo dục thấp kém. Thêm vào đó là sự nhòm ngó, mở rộng xâm lược của tư bản Pháp. Hoàn cảnh đó đặt ra yêu cầu đối với triều đình nhà Nguyễn: Một là, tiến hành cải cách mở cửa, trấn hưng đất nước, chuẩn bị mọi lực lượng, kế hoạch tác chiến, đường lối kháng chiến để tiến hành kháng chiến chống xâm lược. Hai là, bắt tay với Pháp trở thành tay sai, thuộc địa của tư bản phương tây. Trước yêu cầu đó, Nguyễn 11
  17. Trường Tộ cùng với một số sĩ phu yêu nước đã đề nghị triều đình Tự Đức canh tân đất nước. Theo ông, đất nước đang trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt như vậy thì phải tiến hành cải cách trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, ngoại giao. 1.2. Cuộc đời của Nguyễn Trƣờng Tộ 1.2.1. Nguyễn Trường Tộ khi chưa hình thành tư tưởng cải cách Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1830, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia tô. Thân sinh ra Nguyễn Trường Tộ là một thầy thuốc Bắc có tiếng và có những mối quan hệ mật thiết với nho sĩ trong vùng. Ông thông minh, học giỏi, nên được truyền tụng là "Trạng Tộ". Nguyễn Trường Tộ còn học thông tứ thư ngũ kinh của Nho giáo. Ngôi làng Bùi Chu phía Đông giáp với nhánh sông xuôi về thị xã Vinh, là nơi buôn bán sầm uất. Phía Tây là những dãy núi chứa nhiều quặng sắt đang được khai thác. Dân làng lấy quặng để nấu sắt hoàn toàn thủ công và theo lệ hằng năm phải nộp cho nhà nước 80 cân sắt nấu thành phẩm. Một trục lộ chính (sau này trở thành quốc lộ) đi qua ngôi làng tạo nên sự khởi sắc, giao lưu giữa giới nho sĩ, dân chúng tụ họp, buôn bán, trao đổi hàng hóa. Hoàn cảnh xuất thân từ gia đình và quê hương đã ít nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng Nguyễn Trường Tộ sau này. Thiếu thời, Nguyễn Trường Tộ được thân sinh truyền đạt những kiến thức căn bản Nho giáo. Tiếc thay, khi Nguyễn Trường Tộ vừa mới lớn thì thân sinh qua đời. Gia cảnh trở nên khó khăn. Vì thiếu một chỗ tựa, chính thân mẫu đành gửi con sang thụ giáo ông Tú Kép vốn là nơi quen biết gia đình. Nhận thấy Nguyễn Trường Tộ thông minh, có khả năng tiến xa hơn, nên cụ Tú Kép gửi cậu Tộ sang học với một ông Cống sinh giỏi hơn tên là Hựu ở xã Kim Khê. Một lần nữa, thầy Hựu phải khâm phục cậu học trò bẩm tính thông minh lại đại tài đại chí này. Thầy Hựu dẫn trò Tộ lên huyện - phủ để ra mắt và xin làm môn sinh dưới mái trường Địa Linh. Tư chất và tài học của cậu học trò Tộ đã làm mọi người thán phục. Lúc đó cậu đã bước sang tuổi thanh niên. Mọi người nghĩ rằng, sau khi thụ huấn với thầy Địa Linh xong, Nguyễn Trường Tộ sẽ lều chõng lỉnh kỉnh đến trường thi để toại chí bao năm đèn sách. 12
  18. Nhưng không, Nguyễn Trường Tộ mang trong lòng một hoài bão khác. Phải đến sau năm 1868 từ khi giã biệt thầy Địa Linh, nhìn bằng hữu đến trường thi, Nguyễn Trường Tộ mới bộc lộ cái hoài bão đó: “Từ mười lăm năm nay, tôi đã biết rõ tất phải có mối lo như ngày nay nên tôi đã ra sức tìm tòi học hỏi trí khôn của mọi người…”[2; tr.135] và: “Vậy học là gì? Học là học cái chưa biết để mà biết, biết để mà làm. Mà làm việc gì? Và làm ở đâu? Làm tức là làm công việc thực tế trong nước hiện nay và để lại việc hữu dụng đó cho đời sau nữa”[20; tr.102]. Tân nho sinh Nguyễn Trường Tộ mang hoài bão trở về nhà chờ đợi sẽ có ngày ý nguyện mình thực hiện. Tại đây, Nguyễn Trường Tộ được Giám mục Gauthier (tên Việt Nam Ngô Gia Hậu) mời vào dạy chữ Hán cho Chủng viện xã Đoài. Nhận thấy Nguyễn Trường Tộ trí khôn lanh lợi, lại có những tư chất cầu tiến, Giám mục Gauthier quyết định dạy tiếng Pháp và một số môn khoa học phổ thông cho Nguyễn Trường Tộ. Đây là cơ hội để Nguyễn Trường Tộ tiếp xúc với kiến thức từ văn minh phương Tây ngoài kiến thức Nho giáo sở trường của mình. Một thế giới nhận thức khác mở ra trong tư duy Nguyễn Trường Tộ khác hẳn cách nghĩ của Khổng học. Giám mục Gauthier cảm phục cách làm việc, nghiên cứu của người học trò này. Năm 1858, một số biến cố quan trọng xảy ra. Liên quân Pháp và Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của trung tướng Rigault De Genouilly tấn công và chiếm cảng Tuorane (Đà Nẵng). Tự Đức và triều đình phản ứng lại bằng cách bách hại người công giáo rất khốc liệt. Cường độ cuộc bách hại này cao hơn so với thời hai vua Minh Mạng (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847). Họ cho rằng Thiên Chúa giáo là nguy cơ phá vỡ truyền thống Khổng giáo của dân tộc và tiếp tay với thực dân Pháp để xâm lược Việt Nam. Ngoài những hình thức truy bắt, tù đày, trảm quyết, Tự Đức cùng triều đình còn áp dụng chính sách “Phân - Tháp” đối với người Công Giáo. Sự kiện này càng kích động thêm giới nho sĩ. Họ kích động nhân dân nổi dậy chống đối người có đạo Công Giáo. Về phía mình, người Công Giáo bị dồn vào chân tường, nhiều người đã chấp nhận cái chết như biện pháp để giải quyết hai vấn đề trọng yếu của đời họ: vừa trung thành với niềm tin vừa không mang tiếng là “phản quốc”. Trước tình hình nguy kịch toàn diện đó, sự tồn tại là điều thiết yếu 13
  19. nhất, chủng viện xã Đoài giải tán, Nguyễn Trường Tộ theo giám mục Gauthier sang Pháp để tránh cơn bách hại dữ dội này. 1.2.2. Nguyễn Trường Tộ từ khi hình tư tưởng cải cách Trong thời gian ở Pháp (1858 - 1861), Nguyễn Trường Tộ tận dụng tối đa những điều kiện khả dĩ để nâng cao việc học của mình, mong rằng sau này làm được cái gì đó cho dân tộc. Với tầm nhìn xa, cộng thêm lòng yêu nước chân thành Nguyễn Trường Tộ không oán trách Tự Đức cũng như giới nho sĩ đồng liêu của mình trước cơn bách hại đang xảy ra ở quê nhà. Trong lòng Nguyễn Trường Tộ vẫn mang một hoài bão về quê hương khi đặt đất nước mình trong vị thế đối sách với các nước mình đã đi qua, nhất là nước Pháp: “Hồi chiếu dẫu không nương ánh sáng, Hướng dương xin vẫn nếp hoa quỳ”[20; tr.29]. Chuyến đi này tạo cho Nguyễn Trường Tộ cơ hội tiếp xúc trực tiếp với thế giới Tây phương. Một quá trình nghiên cứu thực tế kết hợp với những kiến thức đã diễn ra trong thời gian này tạo cho Nguyễn Trường Tộ có một cái nhìn mở rộng, thức thời. Ông quyết định nghiên cứu tường tận để hiểu đâu là sức mạnh, tiến bộ của người phương Tây. Về cách làm việc của Ông, lĩnh vực nào Ông cũng để ý đến, trên là thiên văn cao xa, dưới là địa lý sâu sắc, giữa là nhân sự phiền phức; cho đến luật lịch, binh thư, bách nghệ, cách trí, thuật số đều nghiên cứu đến nơi cả. Không những Ông học trong sách vở, trên ghế giảng đường, trong thư viện, như sinh viên ngày nay, mà Ông còn tìm thực tế bằng cách vào các nhà máy, xưởng thợ nghiên cứu, quan sát, kiểm chứng giữa lý thuyết và thực tiễn, tìm ra cái kỹ xảo của người Châu Âu. Ông còn mô tả cách tổ chức trong xưởng, sản phẩm được chế tạo, hình dạng, kích thước, giá cả, ứng dụng của sản phẩm trong thực tế. Nguyễn Trường Tộ tự đưa ra các phương châm cho cuộc đời, hành động của mình, sống bất trung với nước tức là bất trung với mình. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ về nước với hoài bão lớn là đem sự học của mình để giúp canh tân đất nước, tự cường tránh được tai họa mất nước. Lúc này Pháp đã chiếm Gia Định. Sự có mặt của Nguyễn Trường Tộ làm người Pháp hy vọng. Họ mời Ông giữ chức vụ phiên dịch trong dinh, nhưng Ông từ chối. Triều 14
  20. đình Huế đi từ thất bại này đến thất bại khác khi đụng độ với lực lượng thực dân Pháp. Tháng 2 năm 1861, đại đồn Kỳ Hòa, nơi kiên cố tập trung hỏa lực mạnh nhất ở miền Nam của triều đình Huế thất thủ. Thực trạng đó làm Nguyễn Trường Tộ suy nghĩ nhiều. Giữa tình hình rối ren đó, triều đình Huế lại không thống nhất trong hành động, chia làm hai phe: bên chủ chiến và bên chủ hòa. Tự Đức không đủ sáng suốt để quyết đoán. Bên chủ hòa thắng thế với chủ trương: “bãi việc binh đao cho dân nghỉ ngơi, liệu thời nuôi sức”. Triều đình đi đến giải pháp hòa, chủ trương này đã đưa Nguyễn Trường Tộ đến quyết định nhận làm thông dịch cho Pháp, để mong đóng góp phần lợi thế cho nước nhà qua cuộc hòa đàm bất lợi này. Đây là nỗi khổ tâm của Nguyễn Trường Tộ khi phải làm một công việc bất đắc chí đó. Khi Phan Thanh Giản thay mặt Triều đình vào thương thuyết với thực dân Pháp ở Nam Kỳ, Nguyễn Trường Tộ tìm cách gặp vị đại thần này. Bài thơ của Ông gửi Phan Thanh Giản bộc lộ nỗi lòng một con người luôn muốn phục hưng đất nước: “Dệt mướn thôn Tây há bởi nghèo, Nhà riêng khuôn khổ đã quen theo. Xóm Đông cung gấm như cần hỏi, Cặn kẽ kim vàng vẽ lối theo”[20; tr.30] Nhận thấy thực dân Pháp ngày càng thể hiện rõ ý đồ xâm lăng, Nguyễn Trường Tộ xin thôi chức thông dịch cho Pháp: Từ giai đoạn này Nguyễn Trường Tộ giành hết thời gian, năng lực vào việc soạn thảo những kế hoạch để làm cho dân giàu, nước mạnh. Mục đích cầm bút của Ông là nhằm thiết kế nên những cách thức khả dĩ đưa nước nhà thoát khỏi ngoại xâm bằng nội lực, khôn khéo của chính nhân dân mình. Trong vòng mười năm (1861 - 1871) Nguyễn Trường Tộ liên tục gởi lên Tự Đức và viện cơ mật hơn 58 bản Điều trần. Đó là kết quả bao năm trời bôn ba hải ngoại, miệt mài nghiên cứu học hỏi vì một ngày mai tươi sáng cho nước nhà. “Mấy chục năm nay tôi bôn tẩu trong thiên hạ, thu thập những tình thế biến thiên xưa nay, đem những điều đã đọc trong sách nghiệm ra việc đời. Dù trao 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2