intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ nông nghiệp trong ca dao Nam bộ

Chia sẻ: Tiêu Sở Hà | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

23
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ nông nghiệp trong ca dao Nam bộ được thực hiện với mục tiêu nhằm khám phá được nét độc đáo của ca dao Nam bộ cũng như thấy được giá trị của ca dao nói chung và ca dao Nam bộ nói riêng. Nam bộ có hệ thống sông ngòi chằng chịt, điều kiện tự nhiên có những đặc thù, theo đó những đồ dùng, dụng cụ của Nam bộ không hoàn toàn giống với Bắc bộ, do vậy những từ chỉ đồ dùng, dụng cụ trong gia đình cũng khác biệt. Tất cả đã đi vào ca dao Nam bộ. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ nông nghiệp trong ca dao Nam bộ

  1. TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC TỪ CHỈ ĐỒ DÙNG TRONG GIA ĐÌNH VÀ CÔNG CỤ NÔNG NGHIỆP TRONG CA DAO NAM BỘ LÊ THỊ YẾN NHI Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
  2. TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC TỪ CHỈ ĐỒ DÙNG TRONG GIA ĐÌNH VÀ CÔNG CỤ NÔNG NGHIỆP TRONG CA DAO NAM BỘ Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ THU THỦY LÊ THỊ YẾN NHI Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
  3. LỜI CẢM TẠ Tôi xin chân thành bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Thủy, trường Đại học Cần Thơ, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và cô Vũ Thúy Kiều đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ cũng như tạo điều kiện của các thầy cô Khoa Khoa học cơ bản, Thư viện Trường Đại học Võ Trường Toản, Thư viện Thành phố Cần Thơ, Trung tâm học liệu Đại học Cần Thơ để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn hoàn thành luận văn. Chân thành cảm ơn. Tác giả luận văn LÊ THỊ YẾN NHI
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Sinh viên thực hiện LÊ THỊ YẾN NHI
  5. MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 1 3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 4 4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................5 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ, CA DAO VÀ CA DAO NAM BỘ ...................................................................................................................... 6 1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN . ............................................................................................. 6 1.1.1 Từ tiếng việt . ................................................................................................ 6 1.1.1.1 Khái niệm từ . ....................................................................................... 6 1.1.1.2 Đặc điểm ngữ âm .................................................................................. 7 1.1.1.3 Đặc điểm ngữ pháp ............................................................................... 7 1.1.2 Đặc điểm của từ .......................................................................................... 8 1.1.2.1 Đặc điểm cấu tạo từ . ............................................................................ 8 1.1.2.2 Các kiểu từ xét về mặt cấu tạo ............................................................. 8 1.1.3 Ý nghĩa của từ ............................................................................................ 15 1.1.3.1 Ý nghĩa biểu vật, biểu niệm và biểu thái của từ ................................. 16 1.1.3.2 Hiện tượng nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ ............................ 17 1.2 CA DAO NAM BỘ ........................................................................................... 20 1.2.1 Khái niệm ca dao và ca dao Nam bộ ......................................................... 20 1.2.1.1 Ca dao ................................................................................................. 20 1.2.1.2 Ca dao Nam Bộ ................................................................................. 21 1.2.2 Đặc điểm .................................................................................................... 21 1.2.2.1 Nội dung .... ........................................................................................ 21 1.2.2.2 Hình thức ...... ..................................................................................... 22 1.2.2.3 Phân loại .... ........................................................................................ 24 i
  6. CHƯƠNG 2 TỪ CHỈ CÔNG CỤ NÔNG NGHIỆP VÀ ĐỒ DÙNG TRONG GIA TRONG CA DAO NAM BỘ. 2.1. Thống kê . ......................................................................................................... 30 2.1.1 Từ chỉ công cụ nông nghiệp .................................................................. 30 2.1.2 Từ chỉ đồ dùng trong gia đình ............................................................... 30 2.2. Khảo sát giá trị ngữ nghĩa ................................................................................ 31 2.2.1. Những từ chỉ công cụ nông nghiệp .......................................................... 32 2.2.1.1 Những từ chỉ dụng cụ đánh bắt ........ ................................................. 32 2.2.1.2 Những từ chỉ công cụ nông nghiệp .................................................... 36 2.2.2. Những từ chỉ đồ dùng trong gia đình ....................................................... 37 2.2.2.1 Đồ dùng sử dụng cho việc nghỉ ngơi .. ............................................... 37 2.2.2.2. Những từ chỉ đồ dùng sử dụng cho việc ăn uống .............................. 42 2.2.2.3. Những từ chỉ đồ dùng sử dụng cho việc chứa đựng ......................... 45 2.2.2.4 Những từ chỉ các loại đồ dùng khác.................................................... 46 2.3. Nhận xét ........................................................................................................... 50 PHẦN KẾT LUẬN . ..................................................................................... 52 Tài liệu tham khảo.....................................................................................................53 ii
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ca dao là loại văn học truyền miệng, tồn tại từ rất lâu đời có sức ảnh hưởng lớn đối với đời sống tinh thần của người Việt. Ca dao là những lời ru của mẹ, những bài vè của trẻ nhỏ. Ca dao cũng đã đi vào những lời thơ một cách tự nhiên như trong thơ của Hồ xuân Hương. Ca dao Bắc bộ có câu: “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân” thì trong thơ của bà lại có câu “quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi”. Mỗi vùng miền khác nhau ca dao có những nét riêng, tất cả đã góp phần hình thành nên nền văn hóa chung của dân tộc. Được sinh ra và lớn lên ở vùng đất Nam bộ, tôi rất đổi tự hào về những gì thuộc về miền đất sông nước này và trong đó có ca dao Nam bộ. Ca dao Nam bộ phản ánh những nét văn hóa cũng như lịch sử của vùng đất này, nó chứa đựng tình cảm của con người nơi đây thông qua những hình ảnh gần gũi và rất đỗi bình dị. Mỗi hình ảnh được gợi lên trong ca dao luôn gắn với những tình cảm chân thành, mộc mạc thể hiện tình người, tình yêu thiên nhiên và sự gắn kết giữa con người với thiên nhiên. Những hình ảnh đi vào trong ca dao Nam bộ là những hình ảnh được lấy từ trong chính cuộc sống của nhân dân, đó là những con vật, những đồ vật trong cuộc sống sinh hoạt và lao động như: chiếc xuồng, mái chèo, chiếc ghe, chiếc chiếu… những hình ảnh này đã gắn bó với bao thế hệ con người nên nó đi vào ca dao một cách nhẹ nhàng mà tinh tế. Về ca dao Nam bộ đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu, nhưng đề tài “Từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ trong nông nghiệp” thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Việc nghiên cứu đề tài này là cơ hội để tôi cũng cố và mở rộng thêm kiến thức về ca dao và ngôn ngữ. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu. Sau đây là các công trình tiêu biểu: Công trình nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan trong Tục ngữ ca dao dân ca việt nam công trình này nghiên cứu tục ngữ và ca dao dân ca Việt Nam nói chung. Ở đây Ca dao được đề cập đến ở phương diện nội dung, hình thức. Trong đó nêu ra một số nội dung cơ bản của ca dao như: tình cảm, tinh thần lao động sản xuất, tinh thần nhân 1
  8. đạo, và chia ca dao ra làm các chủ đề chính: ca dao trong mối quan hệ thiên nhiên và trong mối quan hệ xã hội. Về hình thức nghệ thuật ca dao nổi bật ở cách sử dụng hình ảnh liên tưởng và biểu trưng, trong đó hình ảnh đáng chú ý là con cò và con bống. Những đặc điểm trên được nghiên cứu trên nền văn hóa chung của dân tộc. Theo một trình tự nhất định bước đầu đã nêu ra những đặc điểm của ca dao, phản ánh được nền văn hóa trong ca dao. Công trình nghiên cứu của Hoàng Tiến Tựu trong Bình giảng ca dao chủ yếu tập trung vào việc bình giảng là chính. Ông đã đưa ra những điểm quan trọng của việc bình giảng trong văn học nói chung và ca dao nói riêng qua đó khẳng định vai trò của việc bình giảng. Công trình còn chỉ ra những nét chung và riêng của ca dao và những yếu tố quan trọng trong việc bình giảng như: từ, lời, ý,... làm nổi bật nét đặc thù của ca dao. Trong phạm vi ca dao Nam bộ không thể không kể đến công trình nghiên cứu Ca dao dân ca Nam bộ của Bảo Định Giang, đây có thể coi như một công trình tiên phong cho mảng ca dao Nam bộ. Công trình này tác giả khai thác ca dao Nam bộ dựa trên lịch sử, địa lí, qua đó nêu lên tính cách con người Nam bộ. Về lịch sử có thể nói đây là vùng đất mới được khai thác muộn hơn so với khác vùng khác của đất nước kéo theo đó là sự hình thành về văn hóa, đời sống, và sự ra đời của ca dao cũng muộn “có thể nói ca dao - dân ca trữ tình Nam bộ là bộ phận sáng tác rất trẻ của dân tộc. Sự hình thành và phát triển của vùng đất này gắn liền với lịch sử khai khẩn vùng đất Nam bộ của người Việt.” [4, tr.34] Về địa lí đây là khu vực có nhiều hệ thống sông ngòi do đó hình thành nên nền văn hóa sông nước và có lượng sản vật vô cùng dồi dào và phong phú như: cá, tôm,… nhưng do còn hoang vu nên cũng nhiều nguy hiểm như: sấu, cọp,... điều này góp phần chi phối ca dao và tính cách con người Nam bộ. Nội dung ca dao Nam bộ ngoài những đặc điểm chung còn có sự khác biệt nổi bật là quan điểm về tình yêu và cách bày tỏ tình cảm của con người Nam bộ, qua đó làm nổi bật tính cách của họ. Tất cả đều là những con người có tính thẳng thắng, chất phác, phóng khoáng và tinh thần hiệp nghĩa. Ca dao Nam bộ còn là biểu hiện của sắc thái địa phương, mà trước hết rõ nhất là về mặt ngôn từ bởi đây là phương tiện để thể hiện những nét văn hóa của vùng đất 2
  9. mới này. Nhìn chung công trình nghiên cứu này đã nêu lên được một bức tranh khái quát về vùng đất và con người Nam bộ. Trong phạm vi này còn có công trình nghiên cứu Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu long do Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ biên soạn, công trình này nêu một số mẫu chuyện về những địa danh của Nam bộ như: Cao Lãnh, Rạch Giá,… Những loại đặc sản như: bưởi, thơm, bánh tét, bánh rau râm,… Và sưu tầm những bài ca dao thuộc khu vực Đồng bằng sông cửu long. Nghiên cứu cụ thể hơn về ca dao và văn hóa Nam bộ có công trình nghiên cứu Cảm nhận ca dao Nam bộ của Trần Văn Nam. Công trình này tiến hành nghiên cứu văn hóa của vùng đất mới. Bên cạnh đó chỉ ra những hình ảnh đặc trưng trong ca dao Nam bộ như hình ảnh người vợ khổ cực, hình ảnh Bần và Mù u, hay địa danh nổi tiếng của vùng đất này như Cần Thơ. Và đề cập đến biểu trưng văn hóa trong ca dao Nam bộ, đưa ra những đặc tính cơ bản của biểu trưng. Trong cơ sở để hình thành biểu trưng, tác giả cho rằng những hình ảnh từ thế giới tự nhiên và thế giới vật thể nhân tạo khi đi vào ca dao với số lần nhất định thông qua biện pháp ẩn dụ tu từ đã trở thành biểu trưng trong ca dao. Từ đó nêu lên nhận định về quá trình biểu trưng hóa nghệ thuật là quá trình “ liên tưởng so sánh giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt.” [6, tr.178] Công trình này nêu lên được vấn đề đáng quan tâm là vấn đề biểu trưng trong ca dao, cơ sở hình thành, cũng như những điểm cơ bản của tính biểu trưng. Công trình Biểu trưng trong ca dao Nam bộ của Trần văn Nam nghiên cứu về biểu trưng trong ca dao Nam bộ, đưa ra những ý kiến về biểu trưng và biểu trưng trong ca dao Nam bộ. Phân loại biểu trưng theo đặc điểm của ngôn ngữ tượng trưng. Biểu trưng được chia làm hai nhóm: biểu trưng có tính chất phổ biến và biểu trưng có tính chất ngẫu nhiên. Trong xu hướng lựa chọn cái biểu đạt trong ca dao Nam bộ biểu trưng có tính chất phổ biến chiếm ưu thế hơn. Cơ sở hình thành biểu trưng do ấn tượng riêng của người dân Nam bộ về thế giới bên ngoài, và đặc thù của các đối tượng biểu trưng. Từ đó chỉ ra mối quan hệ giữa tính biểu trưng và văn hóa của Nam bộ. Vấn đề ngôn ngữ học tri nhận đây là một bộ phận của ngôn ngữ học ra đời khoảng 20 đến 30 năm trở lại đây. Có các công trình sau: 3
  10. Công trình Ngôn ngữ học tri nhận. Từ điển của Trần Văn Cơ. Ở đây đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ học tri nhân, trọng tâm là cách con người nhìn nhận thế giới mà trong đó ngôn ngữ chỉ là phương tiện chứ không phải là trung tâm. Tư tưởng chính của ngôn ngữ học tri nhận là khẳng định nguyên tắc “Dĩ nhân vi trung” tức là con người là trung tâm của tất cả các hiện tượng văn hóa và ngôn ngữ. Đưa ra những yếu tố của tri nhận như Ý niệm là yếu tố cơ bản và là đơn vị nhỏ nhất của tri nhận, còn ẩn dụ tri nhận là cơ sở để cấu thành các ý niệm. Công trình nghiên cứu này đã nêu ra những đơn vị cơ bản, những yếu tố đặc trưng cũng như tư tưởng chủ đạo của ngôn ngữ học tri nhận. Tiếp theo là Một số vấn đề ngôn ngữ học và tiếng Việt của Lý Toàn Thắng nghiên cứu những vấn đề ngôn ngữ. Trong đây ngôn ngữ học tri nhận cũng được đề cập đến ở phương diện ngữ pháp. Áp dụng các nguyên tắc ngữ pháp của tri nhận để nghiên cứu tiếng Việt, cách thức tri nhận thế giới của người Việt. Đề cập đến một nội dung quan trọng trong tri nhận chiếu xạ trong các ẩn dụ về tình cảm, đây là yếu tố cơ bản để tạo nên ý niệm của tri nhận. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm khám phá được nét độc đáo của ca dao Nam bộ cũng như thấy được giá trị của ca dao nói chung và ca dao Nam bộ nói riêng. Nam bộ có hệ thống sông ngòi chằng chịt, điều kiện tự nhiên có những đặc thù, theo đó những đồ dùng, dụng cụ của Nam bộ không hoàn toàn giống với Bắc bộ, do vậy những từ chỉ đồ dùng, dụng cụ trong gia đình cũng khác biệt. Tất cả đã đi vào ca dao Nam bộ. Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, người nghiên cứu có cơ hội hệ thống hóa trường từ vựng chỉ đồ dùng - dụng cụ ở Nam bộ, đồng thời nghiên cứu giá trị ngữ nghĩa của chúng trong ca dao, cũng như hiểu được nhận thức của người Nam bộ về thế giới đồ vật trong ca dao. Nghiên cứu đề tài sẽ giúp tôi mở rộng hiểu biết về Văn học dân gian Nam bộ, từ vựng địa phương Nam bộ. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Thực hiện đề tài này thì người nghiên cứu sẽ tiến hành làm việc với ca dao Nam bộ cần nắm rõ các đặc điểm cơ bản của ca dao nói chung và ca dao Nam bộ nói riêng, cần biết những nét về văn hóa, lịch sử, địa lí, con người của vùng đất này. Cụ 4
  11. thể sẽ tiến hành nghiên cứu những câu ca dao có chứa từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ trong nông nghiệp. Đây là những đồ dùng - dụng cụ mà người dân Nam bộ sử dụng phổ biến. Luận văn tiến hành khảo sát và chắc lọc chủ yếu dựa vào nguồn tài liệu chính là: quyển Ca dao dân ca Nam bộ của Bảo Định Giang và Văn học dân gian đồng bằng sông cửu long của Trường đại học Cần Thơ 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để tìm hiểu đề tài này người thực hiện phải sử dụng nhiều phương pháp, đầu tiên sử dụng phương pháp thống kê nhặt ra toàn bộ từ chỉ đồ dùng - dụng cụ trong gia đình và nông nghiệp trong ca dao, sau đó sử dụng phương pháp phân loại để phân loại và đi sâu vào nghiên cứu. Khi đã phân tích từ ngữ thuộc nhóm này trong ca dao chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh để so sánh và đối chiếu làm rõ vấn đề. Cuối cùng dùng phương pháp tổng hợp để tổng hợp lại những kết quả đạt được, từ đó đưa ra những nhận định đánh giá, cuối cùng. 5
  12. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ, CA DAO VÀ CA DAO NAM BỘ 1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1.1 Từ tiếng việt 1.1.1.1 Khái niệm từ Câu hỏi “Từ là gì” đã được đặt ra từ rất lâu và nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, họ đã đưa ra rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này và có nhiều tranh luận nhưng chưa có sự thống nhất do đó đến nay vẫn chưa có câu trả lời nào thỏa đáng được vấn đề trên. Chỉ theo Nguyễn Thiện Giáp hiện nay có khoảng 300 khái niệm về từ nhưng để có được một khái niệm đầy đủ, chính xác và có được sự thống nhất thật không phải chuyện dễ. Sau đây là một số khái niệm về từ của các nhà nghiên cứu: Đầu tiên có thể kể đến khái niệm về từ trong Từ vựng ngữ nghĩa học của Đỗ Hữu Châu ông cho rằng “từ của tiếng việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [1, tr.13]. Đỗ Hữu Châu đã dựa vào một số đặc điểm của từ để nêu lên khái niệm này. Còn trong 777 Khái niệm ngôn ngữ học của Nguyễn Thiện giáp đưa ra khái niệm một cách ngắn gọn nhưng khái quát hơn, theo ông từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ. Nó độc lập về ý nghĩa lẫn hình thức. Cũng dựa vào những đặc điểm của từ nói chung nhưng trong Ngôn ngữ học đại cương của Mai Thị Kiều Phượng đã nêu lên khái niêm về từ trong đó từ là đơn vị có tổng thể hữu cơ, có tính toàn khối chuyên biểu thị thực tế khách quan, bao gồm các đặc trưng về ngữ âm, các thuộc tính về ngữ nghĩa, ngữ pháp, có thể tồn tại tách rời nhau và được tái hiện trong các lời nói khác nhau; từ là đơn vị lớn nhất trong hệ thống ngôn ngữ chứa đựng trong lòng nó những đơn vị các cấp độ dưới nó; là đơn vị có sẵn, cố định, bắt buột (có tính chất xã hội); là đơn vị nhỏ nhất trong ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức, tạo nên các đơn vị cú pháp: cụm từ và câu. Còn trong Giáo trình từ vựng học của Đỗ Việt Hùng cho rằng từ là một đơn vị có tính chất tín hiệu. Nó tồn tại hiển nhiên trong ngôn ngữ ở trạng thái tĩnh và là đơn vị nhỏ nhất để tạo câu khi 6
  13. ngôn ngữ hành chức cũng dựa vào cơ sở chung đó trong Nhập môn ngôn ngữ học có sự tham gia nghiên cứu của Đỗ Việt Hùng cũng có khái niệm tương tự. Có thể thấy rằng do dựa trên cùng một cơ sở nên các khái niệm có những điểm chung nhất định do đó ta có thể hiểu từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ có nghĩa nó mang tính sẵn có, cố định, bắt buột, nhỏ nhất và trực tiếp tạo câu. 1.1.1.2 Đặc điểm ngữ âm Trong từ tiếng Việt đặc điểm ngữ âm và đặc điểm ngữ pháp được xem như hai đặc điểm cơ bản. Đối với đặc điểm ngữ âm Đỗ Hữu Châu đưa ra sự so sánh và cho rằng so với ngôn ngữ của các nước Ấn - Âu thì hình thức âm thanh của tiếng Việt có phần cố định và bất biến ở hầu như mọi vị trí, quan hệ và chức năng trong câu. Theo ông thì đây là một đặc điểm thuận lợi để nhận diện từ. Trên cơ sở đó từ tiếng Việt có những mối quan hệ giữa các đặc tính như tính cố định bất biến có quan hệ mật thiết với tính độc lập của từ tiếng Việt đối với câu và với văn cảnh, cho nên hình thức ngữ âm và cái mà từ biểu thị có mối quan hệ với nhau. Từ đó ông đưa ra lí giải về mối quan hệ này cụ thể là từ tượng thanh điều kiện để cho một từ có thể gợi tả mô phỏng các sự vật hiện tượng phải dựa trên cơ sở là thể chất và vật chất của từ phải trùng với thể chất và vật chất của sự vật hiện tượng. Nói tóm lại có thể hiểu từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm hoặc ngữ nghĩa, nhưng không có biến thể hình thái học. Trong các ngôn ngữ Ấn – Âu, từ có biến thể về mặt hình thái. Nhưng trong tiếng Việt không có biến thể hình thái học như từ: đi, học, nói… bất biến trong mọi quan hệ ngữ pháp và chức năng ngữ pháp trong câu. 1.1.1.3 Đặc điểm ngữ pháp Đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt theo Đỗ Hữu Châu có thể dựa vào định nghĩa của từ mà suy ra được đặc điểm ngữ pháp của từ, và ông cho rằng các từ khác nhau luôn có đặc điểm ngữ pháp khác nhau nhưng bên cạnh đó chúng cũng có tính chất chung, tính chất chung nhất của các đặc điểm ngữ pháp là tính đồng loạt bởi vì có những từ có cùng từ loại với nhau, ông cũng chỉ ra rằng do đặc tính cố định và bất biến nên bản thân hình thức ngữ âm của tiếng Việt không chứa những dấu hiệu chỉ rõ những đặc điểm ngữ pháp của chúng. Nếu như ở các tiếng Nga, Pháp, có thể cho biết chúng thuộc từ loại nào thì tiếng Việt lại không có. Các đặc điểm ngữ pháp của từ không biểu hiện trong chính bản thân của từ mà biểu hiện chủ yếu ở ngoài từ; trong mối quan hệ tương quan của nó với các từ khác trong câu. Mối quan hệ tương 7
  14. quan đó thể hiện qua: “khả năng kết hợp giữa từ đang được xét với những từ nhân chứng” (có thể là loại từ hay phó từ) [1, tr.18]. Cụ thể có đặc điểm ngữ pháp của từ với ý nghĩa của từ có quan hệ gắn bó với nhau khi mà cơ sở của các đặc điểm ngữ pháp là ý nghĩa còn đặc điểm ngữ pháp đóng vai trò là cái khuôn hình thức để định hình một ý nghĩa. Từ đó nhận định ngữ pháp là cơ sở khách quan để tiến hành xác định các ý nghĩa khác nhau của một hình thức ngữ âm. Từ những tính chất của đặc điểm ngữ pháp, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt là tổng thể những đặc điểm ngữ kết hợp với nhau, khả năng làm thành phần câu và khả năng chi phối nhau giữa các cụm từ trong tổng thể đó ứng với một ý nghĩa nào đó của từ” [1, tr.20]. Nói tóm lại đặc điểm ngữ pháp của từ tiếng Việt có một số điểm sau: nghĩa ngữ pháp của từ không được biểu hiện trong nội bộ từ, mà được biểu hiện trong quan hệ giữa các từ trong câu, không như các ngôn ngữ biến hình khác. Trong tiếng Việt từ không có những hình thức giúp xác định nghĩa ngữ pháp mà phải dựa vào loại từ hay phó từ nói chung. 1.1.2 Đặc điểm của từ 1.1.2.1 Đặc điểm cấu tạo từ Về cơ bản từ được tạo nên từ các phương thức khác nhau nhưng đều dựa trên một yếu tố chung làm cơ sở. Theo Đỗ Hữu Châu, các yếu tố cấu tạo nên từ là những hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất, đó chính là hình vị. Điều này cũng được Đỗ Việt Hùng khẳng định, ông cho rằng: hình vị là do âm vị tạo nên và là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa thực hiện chức năng cấu tạo từ và biến dạng thức của từ. Do đó có thể thấy hình vị vừa là yếu tố vừa là đơn vị cấu tạo từ. Các phương thức cấu tạo từ là cách để biến các hình vị thành các từ có nghĩa mỗi phương thức ứng với một kiểu từ loại. Nhìn chung có ba phương thức cấu tạo từ cơ bản đó là: từ hóa hình vị, ghép hình vị và láy hình vị; ba phương thức này tương ứng với ba kiểu từ loại: Từ đơn, Từ láy, Từ ghép. 1.1.2.2 Các kiểu từ xét về mặt cấu tạo a. Từ đơn Trong Từ vựng ngữ nghĩa của Đỗ Hữu Châu đã đưa ra những đặc điểm cơ bản của từ đơn. Trước hết về mặt khái niệm: “từ đơn là những từ một hình vị về mặt ngữ nghĩa chúng không lập thành hệ thống có kiểu ngữ nghĩa chung chúng ta lĩnh hội 8
  15. và ghi nhớ từng từ một riêng rẽ” [1, tr.33]. Phần lớn từ đơn thuần Việt hay đã Việt hóa là những từ đơn có một âm tiết và dù số lượng từ đơn này không nhiều song chúng lại mang những đặc trưng ngữ pháp chủ yếu của từ tiếng Việt nói chung, chúng là cơ sở để tạo những từ khác. Bên cạnh đó cũng có một số từ đơn đa âm tiết thường là những từ thuần Việt như: bù nhìn, bồ các… hay là những từ vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu như: apatit, axit, cà phê… cũng dựa trên cơ sở đó, Đỗ Việt Hùng cho rằng từ đơn là những từ được tạo ra chủ yếu theo phương thức từ hóa hình vị, do đó cấu tạo của nó chỉ có một hình vị. Nói tóm lại, có thể hiểu khái niệm từ đơn là những từ được cấu tạo bởi một tiếng độc lập ví dụ như: nhà, xe, tập… và có một số đặc điểm chung: - Xét về mặt nguồn gốc: từ đơn có nguồn gốc từ lâu và một số từ có nguồn gốc thuần Việt, một số lại được vay mượn từ những ngôn ngữ nước ngoài như tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh, Nga… - Về mặt ý nghĩa: từ đơn biểu thị những khái niệm cơ bản trong sinh hoạt đời sống hằng ngày của người Việt, các hiện tượng thiên nhiên, các quan hệ gia đình, xã hội, các số đếm… - Xét về số lượng: tuy không nhiều bằng từ ghép và từ láy nhưng là những từ cơ bản, giữ vai trò quan trọng nhất trong việc biểu thị các khái niệm có liên quan đến đời sống và là cơ sở để tạo từ mới cho tiếng Việt. b.Từ láy Phương thức cấu tạo của từ lái tồn tại hai ý kiến: - Từ láy được hình thành do lặp lại tiếng gốc có nghĩa. - Từ láy được hình thành bằng cách ghép các tiếng dựa trên quan hệ ngữ âm. Trong Từ vựng ngữ nghĩa học, Đỗ Hữu Châu cho rằng trên cơ sở chung từ láy cũng được tạo nên từ phương thức láy. Còn đối với từ láy mà hai âm tiết đều có nghĩa và có thể dùng độc lập được xếp vào từ ghép. Theo Đỗ Hữu Châu, từ láy có thể được chia thành từng kiểu khác nhau theo trình tự từ lớn đến nhỏ. Tiêu chí phân loại chủ yếu dựa vào số lần mà phương thức láy tác động vào từ, trên cơ sở đó nếu như phương thức láy tác động vào một hình vị gốc một âm tiết sẽ cho ta các từ láy đôi và cứ như thế phương thức láy có thể tác động lần thứ hai vào một từ láy đôi để cho ta các từ láy bốn âm tiết . 9
  16. Khi xét từ láy đôi ở cấp độ nhỏ hơn thì lại chia ra: láy toàn bộ và láy bộ phận. Để nhận biết từ láy toàn phần và từ láy bộ phận thì dựa vào bộ phận được giữ lại trong âm tiết của hình vị cơ sở nếu: - Toàn bộ âm tiết được giữ nguyên thì ta có từ láy toàn bộ. - Bộ phân âm tiết được giữ lại thì ta có từ láy bộ phận. Trong Từ láy bộ phận lại có từ láy âm và láy vần. Còn nếu xét ở góc độ khác trật tự trước sau của hình vị cơ sở với các mối quan hệ khác thì lại có thêm kiểu láy tận cùng. Đỗ Hữu Châu cũng nêu lên một số chú ý về các từ láy và ý nghĩa của các từ láy ở những phương diện chung. Còn trong giáo trình Từ Vựng Tiếng Việt của Đỗ Việt Hùng, dựa vào sự giống nhau giữa hình vị gốc và hình vị láy chia từ láy thành từ láy toàn phần và từ láy bộ phận. Để có thể dung nạp cả hai bộ phận (từ láy chân chính và từ ghép có dạng láy mất nghĩa) vào từ láy, ngày nay đứng trên quan điểm đồng đại có thể nói từ láy là những từ gồm nhiều tiếng, các tiếng được ghép lại dựa trên quan hệ ngữ âm có tác dụng tạo nghĩa. Từ láy có một số đặc điểm sau: - Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, biểu hiện ở một trong số các dạng sau: + Hoặc giống nhau ở phần phụ âm đầu. Ví du: vắng vẻ, vui vẻ,.. + Hoặc giống nhau ở phần vần. Ví dụ: lò xo.co ro, lúng túng,… + Hoặc giống nhau ở cả phần phụ âm đầu lẫn phần vần. Ví dụ: xanh xanh, hao hao,... + Riêng thanh điệu, từ láy đôi thường tuân theo quy tắc biến thanh : cao thường là thanh bằng, sắc, hỏi; thấp thường là thanh huyền, thanh nặng, thanh ngã. Trong từ láy phải có ít nhất một yếu tố không độc lập, nghĩa không còn đủ rõ .Do đó từ láy trong tiếng Việt xảy ra hai trường hợp: Từ láy có một yếu tố độc lập, và một yếu tố không độc lập. Ví dụ: vắng vẻ, sạch sẽ,… Từ láy có cả hai yếu tố đều không độc lập. Ví dụ: bâng khuân, lác đác,.. + Từ một số đặc điểm trên ta có thể phân loại từ láy thành: từ láy đôi, từ láy ba và láy tư. - Ở từ láy đôi được tạo thành gồm hai tiếng và có có các dạng sau: 10
  17. + Từ láy bộ phận: từ giống nhau ở phần vần hoặc phụ âm đầu. Các từ giống nhau ở phụ âm đầu gọi là từ láy âm (ví dụ: sạch sẽ,vẻ vang,..), tương tự các từ giống nhau ở phần vần thì gọi là láy vần (ví dụ: bâng khuân, lúng túng) + Từ láy hoàn toàn Ngoại trừ các từ láy bộ phận còn lại là các từ láy hoàn toàn. Có các dạng sau: Giống cả phần vần phụ âm đầu và thanh điệu. Ví dụ: đùng đùng, lù đù, vàng vàng,… Giống nhau phần vần, phụ âm đầu khác thanh điệu. Ví dụ: đu đủ, cỏn con, đo đỏ,… Giống nhau phụ âm đầu và âm chính, khác nhau ở thanh điệu và phụ âm cuối do sự chi phối của quy luật dị hóa. Ví dụ: đèm đẹp, bàn bạc, sành sạch,.. - Từ láy ba và láy tư: + Từ láy ba: chủ yếu dựa trên cơ chế láy hoàn toàn, ở từ láy ba có các kiểu phối thanh thường gặp là: Tiếng thứ hai mang thanh bằng ( thường xuất hiện thanh bằng hơn thanh trắc). Ví dụ: dửng dừng dưng, cỏn còn con,… Tiếng thứ nhất và tiếng thứ ba đối lặp nhau về đường nét / trắc hoặc cao / thấp. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sàn sạt, xốp xồm xộp,.. + Từ láy tư: Phần lớn từ láy dựa trên cơ sở từ láy đôi, một số ít có phần gốc là từ ghép. * So với từ láy ba từ láy tư khá đa dạng về kiểu cấu tạo : + Láy bộ phận kết hợp với vần - a, - à hay - ơ. Ví dụ: ấm ớ thành: ấm a ấm ớ, hì hục thành: hì hà hì hục, sớn sát thành: sớn sơ sớn sát + Láy toàn bộ kết hợp với biến thanh Ví dụ: bồi hồi thành bổi hổi bồi hồi. + Láy bộ phận kết hợp với tách, xen Ví dụ: thơ thẩn thành lơ thơ lẩn thẩn + Láy toàn bộ kết hợp với tách xen. Ví dụ: hăm hở thành hăm hăm hở hở 11
  18. Từ những đặc điểm chung ta rút ra được một số ý nghĩa của từ láy (chủ yếu là từ láy đôi) - Từ láy phỏng thanh là từ láy mà các tiếng không độc lập các tiếng được hình thành dựa vào sự mô phỏng âm thanh của sự vật hiện tượng trong thục tế ví dụ: gâu gâu, đùng đùng,.. - Từ láy sắc thái hóa là những từ trong đó có một yếu tố độc lập và một yếu tố không độc lập. Yếu tố độc lập chi phối nghĩa của toàn bộ từ láy, yếu tố còn lại có tác dụng bổ sung một sắc thái nghĩa nào đó khiến cho từ láy khác với tiếng độc lập khi nó đứng một mình và khác với từ láy có cùng yếu tố độc lập đó. Ví dụ so sánh bối rối với rối ren,… - Từ láy âm cách điệu: là từ láy không chứa bộ phận còn đủ rõ nghĩa từ vựng, hoặc vẫn có thể chứng minh nghĩa của một bộ phận nào đó nhưng nó không còn làm tác dụng cơ sở nghĩa của toàn từ nữa. Ví dụ: bâng khuân, linh tinh,.. Ngoại trừ các trường hợp trên, còn lại là các từ ngẫu hợp. Đây là trường hợp mà giữa các tiếng không có quan hệ ngữ âm hay ngữ nghĩa. Ví dụ: cổ hủ, mè nheo, ba láp,… c Từ ghép Đối với từ ghép thì trong Từ Vựng Ngữ Nghĩa Đỗ Hữu Châu cho rằng: từ ghép được sản sinh do sự kết hợp hai hoặc một số hình vị (hay đơn vị cấu tạo) tách biệt riêng lẻ, độc lập, đối với nhau. Ông chia từ ghép thành những loại nhỏ. - Dựa vào hình vị chia thành hai loại lớn: từ ghép thực và từ ghép hư. Đối với từ ghép hư được hình thành theo phức ghép do hai hình vị hư kết hợp với nhau mà có đó là những từ cụ thể như: bởi vì, tại sao, do vì, do nên,..và giữa các hình vị này khó xác định quan hệ chính phụ hay đẳng lập, về mặt ngữ nghĩa các từ ghép hư thường thu hẹp phạm vi sử dụng của các hình vị. Đối với từ ghép thực lại được chia ra làm: + Từ ghép phân nghĩa + Từ ghép hộp nghĩa + Từ ghép biệt lập + Từ phức Hán Việt Về mặt khái niệm từ ghép phân nghĩa cũng dựa trên cơ sở chung của từ ghép là được tao thành từ hai hình vị theo quan hệ chính phụ. Trong đó có một hình vị chỉ 12
  19. loại lớn và một hình vị còn lại phân hóa hình vị loại lớn đó thành những loại nhỏ hơn cùng loại nhưng độc lập với nhau, và độc lập với loại lớn. - Trong từ ghép phân nghĩa lại được chia ra: + Từ ghép phân nghĩa một chiều. + Từ ghép phân nghĩa hai chiều. - Từ ghép hợp nghĩa là từ ghép do hai hình vị tạo nên trong đó không có hình vị chỉ loại lớn và hình vị phân nghĩa, biểu thị những nghĩa rộng hơn so với từng hình vị độc lập. Trong từ ghép hợp nghĩa lại chia thành những loại nhỏ: từ ghép hợp nghĩa tổng loại, từ ghép hợp nghĩa chỉ loại, từ ghép hợp nghĩa bao gộp, từ ghép hợp nghĩa không phi cá thể - Từ ghép biệt lập là những từ cũng được hình thành trên quan hệ cú pháp chính phụ hay đẳng lập, song tính hệ thống của chúng không có. Mỗi từ là một trường hợp riêng lẻ, không có những hình vị chỉ loại lớn chung với các từ khác, không phải là một loại nhỏ trong một loại lớn. Những đặc trưng ngữ nghĩa của mỗi từ không lặp lại ở các từ khác. Chúng là những sự kiện biệt lập. - Từ phức Hán Việt là những từ do các hình vị gốc Hán tạo nên, trong đó có ít nhất là một hình vị không độc lập. * Về cơ bản từ ghép là những từ có hai hoặc trên hai tiếng được ghép lại với nhau dựa trên quan hệ ý nghĩa. Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố có thể phân từ ghép làm hai loại: từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ - Từ ghép đẳng lập: từ ghép đẳng lập có những đặc trưng chung: + Xét về quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng + Xét về quan hệ ý nghĩa giữa các thành tố: hoặc các thành tố đồng nghĩa nhau trong đó: có thể có một yếu tố là thuần Việt, có thể cả hai yếu tố đều là Hán Việt, có thể cả hai yếu tố đều là thuần Việt, có thể một yếu tố vốn là toàn dân và một yếu tố vốn là từ địa phương. Hoặc các thành tố gần nghĩa nhau hoặc các thành tố trái nghĩa. + Xét về mặt nội dung: từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm vi sự vật mang ý nghĩa phi cá thể hay tổng hợp. Tuy có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp, nhưng không đưa đến hệ quả là ý nghĩa từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá trị ngang nhau trong mọi trường hợp. Những trường hợp một trong hai thành tố phải mờ nghĩa xảy ra phổ biến trong từ ghép đẳng lập. 13
  20. Trong từ ghép đẳng lập lại được phân làm ba loại nhỏ đó là từ ghép gộp nghĩa, hợp nghĩa, từ ghép đơn nghĩa. Trong đó từ ghép đẳng lập gộp nghĩa bao gồm những từ ghép mà nghĩa của thành tố cùng nhau gộp lại để biểu thị ý nghĩa khái quát chung, trong ý nghĩa chung đó có ý nghĩa riêng của từng thành tố. Ví dụ: quần áo được kết hợp từ quần và áo từ nét nghĩa riêng tạo nên nét nghĩa chung. Từ ghép đẳng lập hợp nghĩa là từ ghép mà nghĩa của cả từ không phải chỉ là phép cộng đơn thuần giữa các thành tố, mà là sự tổng hợp nghĩa của các thành tố kèm theo sự trừu tượng dựa trên cơ sở ẩn dụ hay hoán dụ. Do đó nghĩa của cả từ mới hơn so với nghĩa của từng thành tố. Ví dụ: từ đất nước không phải chỉ đất nói chung hay đất và nước mà là chỉ lãnh thổ của một quốc gia. Từ ghép đẳng lập đơn nghĩa là từ ghép mà nghĩa khái quát chung của cả từ tương ứng với ý nghĩa của một thành tố có mặt trong từ. Ví dụ: núi non, thay đổi, tìm kiếm,.. Bên cạnh đó trật tự các từ ghép đẳng lập cũng được chú ý. Khi nói về từ ghép đẳng lập người ta thường bàn đến khả năng hoán vị giữa các thành tố. Nhưng khả năng xảy ra không phổ biến với toàn bộ từ ghép đẳng lập và vô điều kiện trong mọi trường hợp và có một số điểm chung sau: + Hoán vị xảy ra với một số từ ghép gộp nghĩa trường hợp không có yếu tố Hán - Việt Ví dụ: quần áo - áo quần, rủi may - may rủi,… + Khả năng hoán vị ít xảy ra giữa các thành tố trong từ ghép đơn nghĩa. Nhất là đối với trường hợp từ ghép có yếu tố mờ nghĩa, mất nghĩa. + Khả năng hoán vị bị sự khống chế của một số yêu cầu: không đươc phép làm thay đổi ý nghĩa của từ ghép ban đầu, không được ngược lại tập quán cổ truyền của dân tộc, không tạo nên những trật tự khó đọc. - Từ ghép chính phụ: là từ ghép có một yếu tố chính và một yếu tố phụ về mặt ngữ pháp và có một số đặc điểm sau: + Cấu tạo có xu hướng nêu lên các sự vật mang ý nghĩa cụ thể. Trong từ ghép này yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự vật, đặc trưng hoặc hoạt động lớn, yếu tố phụ thường được dùng để cụ thể hóa sự vật hoạt động hoặc đặc trưng đó. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2