intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Bức tranh nông thôn trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường

Chia sẻ: Tiêu Sở Hà | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

32
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Bức tranh nông thôn trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường được thực hiện với mục tiêu nhằm nghiên cứu các vấn đề thuộc về nông thôn được trình bày trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, chúng tôi sẽ cố gắng phác hoạ những tồn tại và nảy sinh trong bức tranh văn hoá làng quê Việt Nam trong thời kì đổi mới. Quan tâm đến vấn đề con người cũng như quan tâm đến việc phát hiện những chuyển biến trong lối sống, tâm lí, tình cảm của người nông dân trước sự thay đổi của xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Bức tranh nông thôn trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường

  1. TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC BỨC TRANH NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG NGÔ VĂN ỬNG EM Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
  2. TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC BỨC TRANH NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ MỸ NHUNG NGÔ VĂN ỬNG EM Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
  3. LỜI CẢM TẠ  Luận văn này được hoàn thành ngoài sự nỗ lực cố gắng của riêng bản thân tôi, tôi còn được sự giúp đỡ của nhiều người. Đặc biệt là cô Nguyễn Thị Mỹ Nhung, tôi xin chân thành cảm ơn đến cô đã giúp đỡ, hướng dẫn tận tình cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi có thể hoàn thành tốt bài khóa luận của mình. Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn đến Khoa Khoa học Cơ bản của Trường Đại học Võ Trường Toản đã tạo điều kiện cho tôi làm bài khóa luận này, cùng đội ngũ thư viện của trường và thư viện Thành phố Cần Thơ đã cung cấp nhiều tài liệu cần thiết, thích hợp để tôi có thể dễ dàng hơn trong việc học tập và nghiên cứu trong bài khóa luận của mình. Bên cạnh đó, tôi gửi lời cảm ơn đến các bạn trong lớp Đại học Ngữ Văn – K2 về sự giúp đỡ và động viên nhiệt tình từ phía các bạn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn và tỏ lòng tri ân sâu sắc đến tất cả mọi người và gia đình tôi, những người đã luôn luôn giúp đỡ, chia sẻ mọi khó khăn và luôn động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Sinh viên thực hiện (Ký và ghi rõ họ tên) Ngô Văn Ửng Em i
  4. LỜI CAM ĐOAN  Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Sinh viên thực hiện (Ký và ghi rõ họ tên) Ngô Văn Ửng Em ii
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề.....................................................................................2 3. Mục đích của việc nghiên cứu............................................................3 4. Phạm vi nghiên cứu............................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................4 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và yêu cầu đổi mới văn học từ sau năm 1975 đến nay.................................................................5 1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội...........................................................5 1.1.1.1. Thời kì từ 1975 đến 1985................................................7 1.1.1.2. Thời kì từ 1986 đến nay...................................................8 1.1.2. Yêu cầu đổi mới văn học..........................................................9 1.1.3. Sự vận động của tiểu thuyết thời kì đổi mới............................13 1.2. Tác giả và tác phẩm.........................................................................20 1.2.1. Tác giả......................................................................................20 1.2.2. Tác phẩm..................................................................................21 CHƯƠNG 2: BỨC TRANH NÔNG THÔN TRONG TIỂU THUYẾT MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA 2.1. Bức tranh nông thôn đa dạng với nhiều phong tục tập quán...........22 2.1.1. Bức tranh nông thôn với cuộc sống đời thường và những tín ngưỡng dân gian...................................................22 2.1.2. Bức tranh nông thôn với phong tục tang ma............................28 2.1.3. Bức tranh nông thôn với những cuộc họp đa dạng..................30 2.2. Bi kịch nơi làng quê........................................................................32 2.2.1. Bi kịch gia đình, dòng tộc........................................................32 2.2.2. Bi kịch cải cách ruộng đất........................................................43 2.3. Số phận con người nơi làng quê......................................................48 2.3.1. Thân phận con người dưới đáy xã hội......................................48 2.3.2. Thân phận của người phụ nữ....................................................50 iii
  6. CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN BỨC TRANH NÔNG THÔN TRONG MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA 3.1. Tình huống bi kịch.........................................................................52 3.2. Không gian và thời gian.................................................................54 3.2.1. Không gian..............................................................................54 3.2.2. Thời gian.................................................................................57 3.3. Yếu tố kì ảo....................................................................................59 KẾT LUẬN..........................................................................................67 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................70 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Năm 1986 là dấu mốc quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và đời sống văn học nghệ thuật nói riêng. Đây là thời điểm ghi nhận sự đổi mới tư duy trên các lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật. Trong bầu không khí cởi mở dân chủ của đời sống văn học đã tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo, đến sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người của các thế hệ nhà văn Việt Nam. Từ lớp nhà văn tiền chiến như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Tô Hoài… đến những cây bút hậu chiến như Bảo Ninh, Tạ Duy Anh… Trong đó, Nguyễn Khắc Trường được xem là một trong những cây bút nổi bậc. Tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma ra đời năm 1990 đã mang lại cho nhà văn một tiếng vang lớn trên văn đàn với lối viết độc đáo theo khuynh hướng nhận thức lại. Bên cạnh đó, tác giả đã kế thừa, làm phong phú và khai thác sâu hơn giá trị văn học truyền thống và tiếp thu các yếu tố kỳ ảo, trào lộng, bi kịch trong kho tàng văn học quá khứ của dân tộc. Không chỉ có thế, Mảnh đất lắm người nhiều ma cũng đã tiếp thu tinh hoa văn học thế giới tạo nên tính đa thanh, đa giọng điệu cùng sự đa dạng, độc đáo trong nghệ thuật trần thuật và cấu trúc tác phẩm. Khi tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết thời kì đổi mới, người ta chủ yếu xoáy sâu vào các nội dung như: vấn đề chiến tranh, vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề số phận con người trong thời kì mới, sự thay đổi trong những quan niệm về giá trị con người... nhưng lại ít người chú ý đến khía cạnh nội dung phản ánh hiện thực nông thôn. Ở mỗi một giai đoạn lịch sử, hiện thực nông thôn lại đặt ra những vấn đề mang tính thời đại và đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần được giải quyết. Các nhà văn luôn tìm ra hướng tiếp cận hiện thực nông thôn, phản ánh đời sống, tâm tư, nguyện vọng của người nông dân. Là một trong những nhà văn tiêu biểu cho mảng đề tài nông thôn thời kì đổi mới, Nguyễn Khắc Trường có rất nhiều kinh nghiệm và hiểu biết rất sâu sắc về nông thôn – nông dân, ông đã khắc họa được những nhân vật có diện mạo rõ ràng, đậm nét, có chiều sâu trong từng nhân cách. Từ những giá trị của tác phẩm và những đóng góp của tác giả cho dòng tiểu thuyết hiện đại của nước nhà, cho nên chúng tôi quyết định chọn đề tài “Bức tranh 1
  8. nông thôn trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường”. Chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu đề tài này sẽ phần nào đó đóng góp một cách nhìn khách quan và tương đối toàn diện hơn cho bức tranh xã hội nông thôn Việt Nam trong thời kì đổi mới. 2. Lịch sử vấn đề Đề tài chủ yếu tập trung khảo sát tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, là một trong những tiểu thuyết đã đoạt giải chính thức của Hội nhà văn nên đã thu hút được sự quan tâm, chú ý trong giới nghiên cứu phê bình và các tạp chí văn học. Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, Hà Minh Đức cho rằng: “Nguyễn Khắc Trường đã viết về nông thôn với cách nhìn chân thực, chủ động làm bộc lộ được qua những trang viết một nông thôn có nhiều chuyển động, xáo trộn, đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, luôn tranh chấp nhau giữa các thế lực” [4; tr.436]. Về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Hữu Sơn trong cuốn Điểm tựa phê bình văn học có bài Bóng đêm - Một phương diện tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma chủ yếu khảo sát thủ pháp nghệ thuật, cụ thể là thời gian nghệ thuật của tiểu thuyết này. Theo tác giả Nguyễn Hữu Sơn thì tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma “không có những trang miêu tả, thể hiện thời gian tâm lí, tâm trạng gây ấn tượng như: Sầu đông càng lắc càng đầy – Ba thu dồn lại một ngày dài ghê! (Truyện Kiều), song chính mối liên hệ giữa các biến cố, sự kiện với thời điểm nảy sinh các biến cố, sự kiện đó mới là đặc điểm chính yếu tạo nên đặc trưng thời gian cho tác phẩm” [11; tr.131-132]. Và đặc trưng thời gian của tác phẩm là thời gian bóng đêm, các phân đoạn mở đầu hay kết thúc trong tác phẩm cũng gắn liền với cảnh chiều tà, bóng tối. Trong Cấu trúc, cái dở nhất của tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của tạp chí Văn học và dư luận, Thanh Phước cho biết: “Nếu tác giả ngắt đi đoạn thừa, nếu chăm sóc kỹ hơn phần còn lại, tôi tin chắc người đọc sẽ dễ dàng chấp nhận đây là một trong số ít tác phẩm đứng đầu của văn học Việt Nam trong thời gian qua” [10; tr.52-53]. Về mảnh đất lắm người nhiều ma của tạp chí Văn nghệ Quân đội, Hồng Diệu cho rằng: “Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma có nhiều đoạn tả phong tục đặc 2
  9. sắc đến mức có nhà nghiên cứu đã gọi đây là “tiểu thuyết phong tục”, hay có nhiều đoạn nói về chuyện tình yêu, chuyện sinh lí thật tinh tế và có một số đoạn tuy diễn đạt dài dòng nhưng người đọc không thấy sốt ruột, vẫn cứ phải đọc cho hết” [1; tr.167]. Hồng Diệu cho thấy cái tài của nhà văn qua hàng loạt các đoạn với các cách diễn đạt khác nhau. Điều đó, làm cho độc giả không cảm thấy chán mà trái lại càng đọc lại càng thích thú và càng muốn tìm hiểu nhiều hơn về tác phẩm. Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định “Cái làng Giếng Chùa trong Mảnh đất lắm người nhiều ma là sự cộng lại của cả hai cái làng Đông Xá của Ngô Tất Tố và Vũ Đại của Nam Cao. Với sự tham nhũng, nạn xôi thịt, những xung đột phe phái “quần ngư tranh thực” của bọn cường hào ác bá dường như sống lại nguyên vẹn” [9; tr.442]. Nó chỉ khác một điều là ngày nay những cuộc tranh chấp ngôi thứ, quyền lực nó không còn diễn ra ở các đình làng như trước. Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, Đỗ Mai Hà nhận thấy: “Mảnh đất lắm người nhiều ma chẳng những làm nổi bật lên trong đời văn của Nguyễn Khắc Trường, mà còn là một tác phẩm xuất sắc viết về nông thôn và do đó còn là một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam hiện đại” [5; tr.175]. Qua sự nhận định của các nhà phê bình cũng như các tạp chí văn học được nêu trên, phần nào cho ta thấy được giá trị đích thực và những đóng góp về nội dung cũng như nghệ thuật của tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma – Nguyễn Khắc Trường đối với công chúng độc giả cũng như đối với nền văn học Việt Nam trong thời kì đổi mới. 3. Mục đích của việc nghiên cứu Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng tới những mục tiêu sau: Một là, trong khi nghiên cứu các vấn đề thuộc về nông thôn được trình bày trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma, chúng tôi sẽ cố gắng phác hoạ những tồn tại và nảy sinh trong bức tranh văn hoá làng quê Việt Nam trong thời kì đổi mới. Hai là, chúng tôi quan tâm đến vấn đề con người cũng như quan tâm đến việc phát hiện những chuyển biến trong lối sống, tâm lí, tình cảm của người nông dân trước sự thay đổi của xã hội. 3
  10. Ba là, bên cạnh những tìm tòi về nội dung thể hiện của tác phẩm, chúng tôi còn chú ý đến vấn đề phản ánh hiện thực của tác giả. 4. Phạm vi nghiên cứu Nhìn chung, các tiểu thuyết thời kì đổi mới đã phản ánh nhiều đến vấn đề xã hội như: vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chiến tranh, vấn đề con người và quan niệm về giá trị con người trong thời kì mới,... Ở đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề của nông thôn miền Bắc qua tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma như đã xác định ở trên. 5. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu và mục đích cần hướng tới của luận văn, chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích tổng hợp: Nắm vững đặc trưng phương pháp luận phân tích tổng hợp của thể loại tiểu thuyết để khái quát bức tranh nông thôn, tìm ra và phân tích những vấn đề chung, những biến đổi của xã hội, của con người và những bi kịch mà con người phải chịu đựng sau luỹ tre làng. Phương pháp lịch sử: Trên quan điểm lịch sử cụ thể, người viết xem xét sự vận động và chuyển biến của xã hội theo xu thế tất yếu của nó, để từ đó cố gắng tiếp cận một cách đầy đủ nhất những quan điểm của tác giả về đời sống, xã hội và con người thể hiện trong tiểu thuyết. Phương pháp so sánh: Phương pháp này, được chúng tôi sử dụng để so sánh tiểu thuyết với một số tiểu thuyết khác cùng thời, có cùng phản ánh những vấn đề liên quan đến đề tài luận văn của chúng tôi đang nghiên cứu. 4
  11. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và yêu cầu đổi mới văn học từ sau năm 1975 đến nay 1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội Như chúng ta đã biết, sau chiến thắng chống đế quốc Mỹ với biết bao đau thương, quật cường đã khép lại trang sử hào hùng của dân tộc, một hiện thực xã hội đầy vẻ vang, oanh liệt mà sử sách không thể nào nói khác đi được. Giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ nhưng hậu quả của nó vẫn còn đó với những khó khăn chất chồng, những con người - chủ nhân của thời đại lịch sử mới lại bộn bề với những lo toan, phải đối mặt với một hiện thực xã hội mới đầy biến động, xáo trộn, phức tạp. Dường như những cái được xem là chân lý của thời kỳ trước lại là cái có vấn đề của thời kỳ sau. Ngay cả chiến tranh cũng vậy, hàng loạt các vấn đề của cuộc sống thời hậu chiến lại được đặt ra, đòi hỏi một cách nhìn mới và những nhận thức mới, những cách thể hiện mới... Sau khi thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nước ta bước vào thời kì quá độ để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước giờ đây có nhiều thuận lợi cơ bản hơn so với thời kì ở miền Bắc từ sau năm 1954. Nước nhà hoàn toàn độc lập thống nhất, bừng dậy hào khí của một dân tộc vừa mới chiến thắng, đang thiết tha với độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Hơn bao giờ hết, con người Việt Nam có đầy đủ điều kiện để thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình. Mặc dù, cuộc sống sau chiến tranh vận hành một cách khó nhọc, đầy rẫy những lo toan, phức tạp. Những tổn thất, đau thương trong chiến tranh dần dần tỏa sức nặng. Đó là thời kỳ nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp tỏ ra bất lực và ngày càng bộc lộ thêm những khuyết tật. Do đó, cùng với sự đổi thay mọi mặt trong đời sống xã hội từ sau 1975 đã kéo theo sự thay đổi không chỉ ở bề mặt mà cả bề sâu trong tâm lý và nhận thức ở mỗi con người. Nếu như trước kia tất cả mọi người đồng lòng, đồng sức cho chiến thắng dân tộc, thì ngày nay trong thời kỳ hậu chiến con người phải đối mặt với bao nỗi lo toan cá nhân, cho cuộc sống đời thường. Trong cuộc chiến không 5
  12. tiếng súng tưởng như yên ả ấy lại chất chứa những biến động dữ dội, tác động sâu sắc đến tâm thức cá nhân mỗi người. Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét: “Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh, giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không thể chết trong nhà tù, trên trận địa, trong chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã dành được tự do và độc lập”. Sau mấy mươi năm chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân thời hậu chiến vô cùng khó khăn. Cơ chế quản lí tập trung, bao cấp với bộ máy hành chính phức tạp đã trở thành lực cản đáng kể. Mặc khác, các thế lực thù địch, phản động trong nước và trên thế giới vẫn còn đang ngấm ngầm chống phá, gây rối. Đặc biệt, tình hình quốc tế vào những năm cuối thập niên 80 đã diễn biến theo chiều hướng xấu đi, hết sức bất lợi cho phong trào Cách mạng trên thế giới và trong nước. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - đó là sự nghiệp vô cùng vinh quang nhưng không ít những khó khăn thử thách. Hiện thực xã hội đó đòi hỏi mỗi người phải có một cách nhìn, một cách nghĩ mới, với trách nhiệm và niềm tin. Nguyễn Đình Thi đã nói về vấn đề này như sau: “Trong chiến tranh, chúng ta như đi giữa cơn bão lửa thổi trên mặt đất. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, không thấy có bão lửa, vậy mà hình như mỗi người thấy đất động dưới chân mình” [12; tr.52]. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, để giải quyết những khó khăn thử thách trước mắt, nhằm xây dựng và phát triển đất nước thì đổi mới là một lựa chọn khẩn thiết, dứt khoát, có ý nghĩa sống còn. Đổi mới là con đường tất yếu, duy nhất đảm bảo cho sự phát triển đất nước và cũng là nỗi khát khao cháy bỏng, là nguyện vọng của toàn dân tộc nhằm thoát khỏi những khó khăn, thách thức của một đất nước sau hơn 30 năm chiến tranh. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã diễn ra với hai khẩu hiệu: “Lấy dân làm gốc” và “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật’’. Hai khẩu hiệu đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống xã hội, đặc biệt là đời sống văn học nghệ thuật, mở ra một thời kỳ đổi mới cho văn học Việt Nam, vì thế mà văn học sau 1986 thực sự đã có một khởi sắc mới trên các phương diện. Song có thể thấy, một trong những điều cốt lõi của công cuộc đổi mới này chính là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, cách nghĩ sao cho đúng quy luật khách 6
  13. quan vốn có của nó. Nói về vấn đề này, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ đã đưa ra một quan niệm mới có cơ sở lý luận và ý nghĩa thực tiễn như sau: “Đổi mới tư duy là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt nhưng đồng thời cũng là một công việc lâu dài, phải tiến hành một cách khoa học, nghiêm túc… Trong quá trình đổi mới tư duy, tất nhiên không chỉ có phê phán mà chủ yếu là phải suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, cá nhân và tập thể cùng đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI” [2; tr108]. Một lần nữa, Đảng Cộng sản lại tỏ rõ bản lĩnh chính trị và sứ mạng lịch sử trọng đại đối với đất nước, dân tộc. Từng bước đã uyển chuyển khéo léo mà kiên định chắc chắn, Đảng đã lãnh đạo thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn diện, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước ta vượt qua khủng hoảng để vươn lên một tầm cao mới. Và được thể hiện rõ qua hai thời kì lớn dưới đây: 1.1.1.1. Thời kì từ 1975 đến 1985 Sau ngày miền Nam được giải phóng, nhân dân cả nước khẩn trương bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Đường lối lãnh đạo của Đảng thời kì này được cụ thể hóa trong những mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ II (1976 – 1980) và lần thứ III (1981 – 1985). Bên cạnh một số thành tựu bước đầu như: thiết lập được một Nhà nước thống nhất, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp từng bước được cải thiện; cơ sở vật chất, kỹ thuật được khôi phục, tăng cường; bảo đảm an ninh chính trị,... Tuy nhiên, thực tiễn Cách mạng đã bộc lộ khá rõ nhiều bất cập, chủ quan trong đường lối, chính sách và trong chỉ đạo thực hiện về cải tạo và cơ cấu các thành phần kinh tế; về xác định mục tiêu và bước đi thích hợp trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật; về cơ chế điều hành, quản lí kinh tế; về lưu thông phân phối… Hậu quả là đất nước phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng như: thu nhập quốc dân không đảm bảo được tiêu dùng xã hội; các mặt hàng thiết yếu như lương thực, vải vóc, thuốc men đều hạn chế; phân phối lưu thông gặp nhiều trắc trở; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu, các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa được cải tạo và sử dụng hợp lí… Thêm vào đó, tình hình quốc tế cũng có những tác động không tốt. Nhiều nước trong phe xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng rồi tan 7
  14. rã. Lợi dụng tình hình này, các thế lực thù địch quốc tế ra sức tiến hành cuộc phản kích nhằm thủ tiêu hệ thống xã hội chủ nghĩa. Việt Nam trở thành một trong những mục tiêu phá hoại chủ yếu của chúng. Thực tế đó đã khiến cho đời sống nhân dân, nhất là nông dân và những người hưởng lương Nhà nước gặp rất nhiều khó khăn. Quần chúng giảm sút lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nhìn chung, ở thời kì năm 1975 – 1985, Nhà nước vẫn còn vận hành theo cơ chế cũ – cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò độc quyền nhưng không phát huy được hiệu quả. Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa (tư bản, cá thể,…) bị xóa bỏ một cách chủ quan, nóng vội. Những nhược điểm của mô hình ấy đã trở thành sức cản lớn đối với sự phát triển, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Thực tiễn trên là bài học quý giá để Đảng phát huy cao độ ý chí quyết tâm tìm tòi, sáng tạo các giải pháp khắc phục một cách hữu hiệu. Mặc khác, từ những bức xúc đời sống đã dẫn đến sự đổi mới tất yếu trong từng bộ phận ở các cơ sở, địa phương. Đó là những cứ liệu sống động, làm tiền đề tốt cho công cuộc đổi mới toàn diện được mở ra từ Đại hội VI của Đảng ở giai đoạn tiếp theo. 1.1.1.2. Thời kì từ 1986 đến nay Thực trạng đất nước vào giữa thập niên 80 với những khó khăn gay gắt và phức tạp đã đặt ra một yêu cầu khách quan, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp Cách mạng. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo một cách toàn diện, phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Cần dũng cảm đối diện với sự thật để nhận định đánh giá đúng tình hình, từ đó xác định cho thật sát mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân trong thời gian trước mắt và đề ra những quyết sách, giải pháp hữu hiệu. Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã diễn ra theo tinh thần đó. Từ sự phân tích thấu đáo, tổng kết được những bài học kinh nghiệm quý báu. Đại hội đã chủ trương đổi mới một cách toàn diện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ ở nước ta. Tư tưởng chỉ đạo cốt lõi của Đại hội VI là: “lấy dân làm gốc, giải phóng mọi năng lực sản xuất, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước; phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan; nhanh chóng sửa đổi hoặc bãi bỏ những chủ trương, chính sách không phù hợp với lòng dân”. Đường lối mở ra từ Đại hội VI đã mang đến cho Cách mạng 8
  15. nước ta nguồn sức mạnh mới. Trong những năm tiếp theo, chủ trương đúng đắn ấy tiếp tục được giữ vững và phát huy đã đem lại nhiều thành tựu đáng phấn khởi. Về cơ bản, nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và từng bước vững chắc tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từ năm 1975 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng dân tộc ta đã thực hiện thành công công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Đây là một sự nghiệp không kém phần vĩ đại bởi nó luôn tìm ẩn nhiều khó khăn thử thách, có lúc đến mức hiểm nghèo. Công cuộc đổi mới toàn diện mở ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mang tính sống còn đối với chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta. Thành công của nó góp phần tạo nên thế và lực vững chắc, như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Với những thắng lợi giành được trong thế kỉ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. 1.1.2. Yêu cầu đổi mới văn học Văn học là một hình thái ý thức xã hội, một loại hình hoạt động nghệ thuật đặc thù lấy con người làm đối tượng trung tâm, phản ánh và nhận thức hiện thực đời sống thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Như một lẽ tự nhiên, không một nhà văn nào tồn tại trong lịch sử mà lại không phải là con người sống giữa muôn vàn những diễn biến phức tạp, những vận động đổi thay của thời đại mình. Những vận động, đổi thay ấy là hệ quả tất yếu của lịch sử trong quá trình vật lộn, kiếm tìm một hướng đi mới. Trong công cuộc đổi mới toàn diện được Đảng khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986, đổi mới nền văn học cũng là một yêu cầu cấp thiết. Bởi lẽ “không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ và nếp sống của con người” (Báo cáo chính trị - Đại hội Đảng lần VI). Thực ra từ cuối thập niên 70 và những năm đầu thập niên 80, đời sống văn học đã xuất hiện ngày càng rõ nét 9
  16. những tiền đề cho sự đổi mới. Để có thể đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của cuộc sống trong giai đoạn Cách mạng mới và tiến bước vững chắc trên con đường hiện đại hóa, nền văn học cần phải đổi mới một cách toàn diện: từ quan niệm về nghệ thuật, quan niệm về hiện thực, về con người đến các thủ pháp nghệ thuật, từ quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ đến tâm lí tiếp nhận của công chúng. Từ sau 1975 - 1985, đây là chặng đường chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của thời kỳ hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương thức nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Ở nửa cuối thập niên 70, những năm liền ngay sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật và với những cảm hứng chủ đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Đề tài chiến tranh và khuynh hướng sử thi vẫn nổi trội, tuy đã có những thay đổi và bước phát triển mới ở cả hai thể loại văn xuôi và thơ. Bước vào những năm đầu thập niên 80, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước còn gặp nhiều khó khăn chồng chất và rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Nền văn học cũng chững lại và không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Ý thức nghệ thuật của số đông người viết và công chúng chưa chuyển biến kịp với thực tiễn xã hội, những quan niệm và cách tiếp cận hiện thực vốn quen thuộc trong thời kỳ trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực mới và đòi hỏi của người đọc. Đây là khoảng thời gian mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “khoảng chân không trong văn học”. Nhưng cũng chính trong những năm này đã diễn ra sự vận động ở chiều sâu của đời sống văn học với những trăn trở vật vã, tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt ở một số nhà văn có mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống và có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình, đó là những người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, mà người mở đường ở chặng đầu này chính là Nguyễn Minh Châu với những truyện ngắn hướng vào các vấn đề thế sự - đạo đức trong đời sống hàng ngày của con người. Góp phần tạo nên chuyển động theo hướng mới của văn học, trong những năm này cũng phải kể đến những sáng tác của Nguyễn Khải (Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người), Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn), Dương Thu Hương (Bên kia bờ ảo vọng, Chuyện tình kể trước lúc rạng đông), thơ của Nguyễn Duy (Ánh trăng), Ý Nhi (Người đàn bà ngồi đan), trường ca của Thanh Thảo (Những ngọn 10
  17. sóng mặt trời, Khối vuông ru-bích),… trên sân khấu kịch thì có nhiều vở kịch của Lưu Quang Vũ, Xuân Trình đã trực diện tấn công nhiều vào những cái tiêu cực, trì trệ trong xã hội, trong kinh tế và trong tư tưởng của một bộ phận cán bộ quản lý. Những tìm tòi và thành công bước đầu ấy đã mở ra cho văn học những hướng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt, đặc biệt là cái hiện thực đời thường với những vấn đề đạo đức – thế sự đang tồn tại nổi bật, đòi hỏi văn học phải nhận thức, khám phá. Những tác phẩm ấy, đã giúp thu hẹp khoảng cách giữa văn học và đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một thời kỳ mới cho đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng để bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ và ngày càng vững chắc. Đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng và tiếp theo đó là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, cuộc gặp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987, tất cả những điều đó đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật. Vào nửa cuối những năm 80 và đầu những năm 90 đã phát triển mạnh khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản. Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho khuynh hướng này và đã trở thành sự kiện văn học nổi bật của những năm 1986 - 1987. Chiến tranh cũng được Nguyễn Minh Châu nhìn nhận từ phía tác động của nó đến số phận và tính cách con người (Cỏ lau và Mùa trái cóc ở Miền Nam). Nguyễn Huy Thiệp lại phơi bày sự khủng hoảng của xã hội qua việc thay đổi các giá trị và lối sống (Tướng về hưu, Không có vua). Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng lại là những bức tranh hiện thực với nhiều mảng tối trước đây thường bị khuất lấp, nay đã được hiện ra trên trang sách với bao điều xót xa và cả sự nhức nhối mà các tác giả muốn thức tỉnh trong mỗi người đọc cũng như toàn xã hội để có thể dứt khoát vượt qua cái “thời xa vắng” vốn chưa xa là mấy. Tuy nhiên, cảm hứng phê phán cũng có lúc bị đẩy tới cực đoan, lệch lạc và người viết bộc lộ một cái nhìn ảm đạm, hoài nghi, thiên lệch. Tiếp tục hướng tiếp cận đời sống trên bình diện thế sự – đời tư đã được mở ra ở nửa đầu những năm 80, 11
  18. nhiều cây bút đã đi vào thể hiện mọi khía cạnh của đạo đức cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn thịnh, phức tạp mà vĩnh hằng. Nhiệt tình đổi mới xã hội, khát vọng dân chủ và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã là những động lực tinh thần cho văn học của thời kỳ đổi mới phát triển mạnh mẽ, sôi nổi. Sự đổi mới ý thức nghệ thuật nằm ở chiều sâu của đời sống văn học, nó vừa là kết quả, vừa là động lực cho những tìm tòi đổi mới trong sáng tác, đồng thời lại tác động mạnh mẽ đến sự tiếp nhận của công chúng văn học. Tư duy văn học mới đã dần hình thành, làm thay đổi các quan niệm về chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc, về sự tiếp nhận văn học. Đồng thời sự đổi mới tư duy nghệ thuật cũng thúc đẩy mạnh mẽ những sự tìm kiếm, thể nghiệm về cách tiếp cận thực tại, về các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật, phát huy cá tính và phong cách cá nhân của nhà văn. Gần 10 năm của chặng đầu công cuộc đổi mới của xã hội nước ta, trong đó có nền văn học đang ở trong trạng thái chuyển động dữ dội của một cuộc trở dạ. Những khoảng thời gian như vậy có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhưng thường thì không thể kéo dài. Nếu trong chiến tranh, xã hội và văn học đều phải tồn tại trong điều kiện bất bình thường, thì trong thời kỳ này đã diễn ra những chuyển biến lớn lao của đời sống xã hội như chặng đầu công cuộc đổi mới cũng đã tạo ra một môi trường tinh thần và những điều kiện có tác động ít nhiều khác thường cho văn học phát triển. Từ giữa những năm 90 của thế kỷ vừa qua, trong xu thế đi tới sự ổn định của xã hội, văn học về cơ bản cũng trở lại với những quy luật mang tính bình thường, nhưng không xa rời định hướng đổi mới đã hình thành từ giữa những năm 80. Nếu như trước đó, động lực thúc đẩy văn học đổi mới là nhu cầu đổi mới xã hội và khát vọng dân chủ – đó cũng chính là nội dung cốt lõi của văn học trong chặng đầu đổi mới, thì khoảng 10 năm trở lại đây, văn học quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới của chính nó, mặc dù vẫn không đi ra khỏi xu hướng dân chủ hóa. Đây là lúc văn học trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng thời có ý thức và nhu cầu tự đổi mới về hình thức nghệ thuật và phương thức thể hiện hơn bao giờ hết. Tuy ít có những tác phẩm gây được những tiếng vang trong dư luận, trở thành những hiện tượng thu hút đông đảo của công chúng, nhưng hầu như ở thể loại nào cũng có sự tìm tòi, tự đổi mới. Tuy nhiên, tình trạng có phần trầm lắng của đời sống văn học nước nhà gần đây là điều có thực. Điều đó phải được cắt nghĩa từ nhiều 12
  19. nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính yếu là do sự hạn chế của chính người cầm bút và không ít tác giả sau một vài tác phẩm ban đầu được đánh giá cao thì đã dừng lại, không tự vượt được mình, đổi mới chính mình để đạt được những thành công mới. Như vậy, cùng với những chuyển động trong đời sống xã hội sau 1975 và nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 là sự đổi mới mang tính tất yếu của đời sống xã hội Việt Nam, nó là cơ sở, là tiền đề đổi mới trong đời sống văn học nghệ thuật. 1.1.3. Sự vận động của tiểu thuyết thời kì đổi mới Trong văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết là thể loại có vai trò chủ lực, với sự hiện diện của nhiều thế hệ nhà văn, đóng góp nhiều thành tựu quan trọng cho nền văn học. Con đường của tiểu thuyết trong hơn 30 năm qua cũng trải qua không ít thăng trầm, nhưng vẫn luôn là sự vận động với những tìm tòi nỗ lực để đổi mới. Ở chặng đầu thời kì đổi mới (nửa cuối những năm 80 và đầu thập niên 90), tiểu thuyết gặt hái được nhiều thành công, có những tìm tòi, bứt phá mạnh bạo về nghệ thuật và gây được tiếng vang lớn trong công chúng. Những chuyển biến sâu sắc trong đời sống xã hội Việt Nam từ nửa sau thập niên 80 là tiền đề quan trọng cho quá trình đổi mới quan niệm nghệ thuật, đổi mới tư duy sáng tác để tạo thành một cuộc chuyển đổi mạnh mẽ trong đời sống văn học Việt Nam đương đại. Với tiểu thuyết, những thay đổi đó đã diễn ra toàn diện, sâu sắc cả về nội dung khám phá, phương thức phản ánh lẫn kỹ thuật biểu hiện. Đổi mới tư duy tiểu thuyết: Có thể thấy văn học thời kỳ đổi mới đã có bước chuyển đổi quan trọng về tư duy: tư duy sử thi từng chi phối các sáng tác văn chương thời kỳ trước dần thay thế bằng tư duy tiểu thuyết, cùng với nó là sự chuyển đổi cảm hứng sáng tác: từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư. Tư duy tiểu thuyết đã trả lại cho văn học bộ mặt chân thực và chính xác của đời sống. Cùng với sự thay đổi ấy, hiện thực được khám phá dưới nhiều góc nhìn mới mẻ và số phận con người đã trở thành vấn đề trung tâm luận của tiểu thuyết, nhất là con người cá thể, con người đời thường. Khám phá hiện thực đa chiều: Sự chuyển đổi tư duy tiểu thuyết đã mở ra khả năng khám phá hiện thực đa dạng, đa chiều. Có thể thấy ba xu hướng khám phá hiện thực nổi bật. Thứ nhất là khuynh hướng nhận thức lại hiện thực. Các vấn đề 13
  20. tưởng như quá cũ của đời sống như chiến tranh, người lính, người nông dân, đời sống nông thôn… được khai thác dưới một trường nhìn mới, đem lại những nhận thức mới: khách quan và đúng như nó vốn có. Khuynh hướng thứ hai là mở rộng biên độ hiện thực, khai thác những mảng hiện thực mà xưa nay vẫn xem là “nhạy cảm” của văn học như: các biến cố và nhân vật lịch sử, vấn đề bản năng và tình dục… Khuynh hướng thứ ba là khuynh hướng sáng tạo hiện thực, tăng cường chiều hướng khai thác, chiếm lĩnh cả những hiện thực giấc mơ, vô thức, hiện thực tâm lý, tâm linh… Nó được thể hiện qua các tác phẩm tiêu biểu như: Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng, Thời xa vắng của Lê Lựu, Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Người đi vắng, Thoạt kỳ thuỷ của Nguyễn Bình Phương… Khám phá hiện thực đa chiều, bên cạnh cái tốt đẹp cao cả, tiểu thuyết còn phản ánh cả những mặt xấu xa, thấp hèn, phi nhân tính, đôi khi hiện hữu đầy đủ ngay trong một hình tượng nghệ thuật. Cuộc sống hiện lên trong những trạng thái phức tạp, các khuynh hướng trái ngược cùng đấu tranh và cùng tồn tại. Khai thác số phận cá nhân: Tiểu thuyết cũ với cảm quan sử thi chủ yếu khai thác các hình tượng tập thể, khắc hoạ hình tượng con người cộng đồng, con người mang tính đại diện cho chân lý thời đại. Tiểu thuyết mới đi sâu khám phá con người cá nhân trong tính đa dạng, phức tạp của nó. Con người với tư cách là đối tượng của văn học, phải được nhìn nhận trong tính tổng thể và toàn vẹn, phải được soi chiếu từ mọi góc độ và được nhìn nhận ở mọi giá trị. Tiểu thuyết đương đại vì thế vừa mở rộng biên độ khai thác, vừa tăng cường chiều sâu khám phá, tiếp cận con người trên nhiều bình diện: con người đời tư, con người tự nhiên, con người tâm lý, tâm linh… Tiêu biểu là các tiểu thuyết như: Thời xa vắng của Lê Lựu, Bến không chồng của Dương Hướng, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Lão Khổ của Tạ Duy Anh, Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái… Gia tăng tính chất triết luận: Khuynh hướng triết lý hay triết luận trong tiểu thuyết xuất hiện gắn liền với sự thay đổi mô hình cấu trúc tiểu thuyết từ cấu trúc lịch sử - sự kiện sang cấu trúc lịch sử - tâm hồn. Khuynh hướng này được khơi mở trong văn học từ sau 1975 với sáng tác của các nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu... Song yếu tố triết luận thực sự được tăng cường và trở thành một đặc 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2