Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của hoạt động bán hàng đa cấp đối với chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
lượt xem 22
download
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của hoạt động bán hàng đa cấp đối với chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam nêu tổng quan về chất lượng nguồn nhân lực và hoạt động bán hàng đa cấp. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam và tình hình phát triển của hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam. Phân tích tác động của hoạt động bán hàng đa cấp đến chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam thông qua ví dụ điển hình của công ty Thiên Ngọc Minh Uy. Giải pháp nâng cao chầt lượng nguồn nhân lực Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của hoạt động bán hàng đa cấp đối với chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
- TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ------------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP ĐỐI VỚI CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM Sinh viên thực hiện : Bùi Thị Thu Uyên Lớp : Trung 2 Khoá : K43G - KT&KDQT Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Đào Thị Thu Giang Hà Nội – Tháng 06/200
- LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội của đất nƣớc, nhu cầu về nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực đang ngày càng trở nên cấp thiết. Việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực không chỉ làm tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp mà còn là động lực cơ bản để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của một quốc gia. Thực trạng chất lƣợng nguồn nhân lực nƣớc ta đang gặp rất nhiều vấn đề đáng lo ngại. Tình trạng thể lực suy yếu kéo dài trong một thời gian dài, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật không đáp ứng nổi những đòi hỏi đặt ra của xã hội là nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của đất nƣớc. Bán hàng đa cấp ra đời và phát triển trong gần một thế kỷ qua đã làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế của nhiều nƣớc trên thế giới. Không những thế ngành nghề này còn đem lại những đóng góp không nhỏ trong việc hoàn thiện nhân cách và khai thác những khả năng tiềm ẩn của con ngƣời. Thực hiện đề tài khóa luận mang tên: “Tác động của hoạt động bán hàng đa cấp đối với chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam”, ngƣời viết mong muốn tìm ra giải pháp để nhanh chóng nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam thông qua việc học hỏi tiếp thu một phƣơng thức kinh doanh tiến bộ trên thế giới. Bố cục đề tài gồm 4 chƣơng: Chƣơng 1: Tổng quan về chất lƣợng nguồn nhân lực và hoạt động bán hàng đa cấp. Chƣơng 2: Thực trạng chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam và tình hình phát triển của hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam. Chƣơng 3: Phân tích tác động của hoạt động bán hàng đa cấp đến chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam thông qua ví dụ điển hình của công ty Thiên
- Ngọc Minh Uy. Chƣơng 4: Giải pháp nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam cùng với việc phát triển hoạt động bán hàng đa cấp. Đề tài đƣợc lựa chọn tuy còn khá mới mẻ và chƣa đƣợc nhiều ngƣời quan tâm song giá trị thực tiễn không nhỏ bởi ở bất cứ quốc gia nào, bất cứ thời điểm nào vấn đề phát triển con ngƣời đều đáng đƣợc ƣu tiên hàng đầu. Đã từng hoạt động trong lĩnh vực bán hàng đa cấp, ngƣời viết tin tƣởng chắc chắn rằng đây là một mô hình kinh doanh có phạm vi tác động khá rộng, mức độ tác động tƣơng đối sâu sắc không chỉ đối với cá nhân những ngƣời làm việc chuyên nghiệp. Việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp bản thân ngƣời viết có thêm cơ sở lý luận xác đáng hơn đồng thời cũng phản ảnh phần nào những kết quả thu đƣợc qua quá trình học tập. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, ThS. Đào Thị Thu Giang khoa quản trị kinh doanh, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế cũng nhƣ toàn thể cán bộ, giáo viên trƣờng ĐH Ngoại Thƣơng Hà nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình tìm hiểu và viết khoá luận. Hà Nội, tháng 6 năm 2008
- CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP I. HIỂU BIẾT CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC 1. Khái niệm nguồn nhân lực Mỗi quốc gia trên thế giới có một quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Chính vì thế khái niệm về nguồn nhân lực cũng rất đa dạng. Theo từ điển thuật ngữ của Pháp: “ Nguồn nhân lực xã hội bao gồm những ngƣời trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và mong muốn có việc làm.” Nhƣ vậy theo ngƣời Pháp, những ngƣời trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhƣng không có mong muốn làm việc thì cũng không đƣợc tính vào nguồn nhân lực của xã hội. Ngƣợc lại, ngƣời Úc lại quan niệm “ Nguồn nhân lực xã hội đƣợc xác định là tất cả những ngƣời bƣớc vào tuổi lao động trở lên, có khả năng lao động.” Nhƣ vậy, điểm khác nhau căn bản giữa ngƣời Úc và ngƣời Pháp chính là độ tuổi và nhu cầu, mong muốn của ngƣời lao động. Đối với ngƣời Úc không có giới hạn trên cho độ tuổi lao động. Một ngƣời cho dù có muốn làm việc hay không chỉ cần bƣớc vào tuổi lao động là đƣợc tính vào nguồn nhân lực của xã hội. Còn ở Việt Nam nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các tiềm năng lao động của một nƣớc hay một địa phƣơng sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó. Theo khái niệm này, nguồn nhân lực mang nghĩa rất rộng, nó bao gồm toàn bộ dân cƣ của một nƣớc hoặc một địa phƣơng không phân biệt lao động đƣợc phân bố vào ngành nghề nào, lĩnh vực hay khu vực nào. Tóm lại, cho dù hiểu theo cách nào thì nguồn nhân lực của một quốc gia cũng phản ánh những đặc điểm quan trọng sau:
- Nguồn nhân lực là nguồn lực về con ngƣời. Nguồn nhân lực là một bộ phận dân cƣ gắn liền với nguồn cung lao động. Nguồn nhân lực phản ánh phần nào khả năng lao động của xã hội (về trình độ phát triển cũng nhƣ sự tiến bộ của xã hội đó). 2. Chất lƣợng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực đƣợc xác định bởi số lƣợng và chất lƣợng của bộ phận dân cƣ tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Số lƣợng nguồn nhân lực thể hiện qua các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ phát triển của nguồn nhân lực. Ví dụ: Nguồn nhân lực có bao nhiêu ngƣời, chiếm bao nhiêu phần trăm dân số, tăng trƣởng bao nhiêu phần trăm một năm. Số lƣợng nguồn nhân lực đông đảo cũng đƣợc xem là một lợi thế để phát triển kinh tế, song trong thời đại của công nghệ và khoa học kĩ thuật phát triển ở trình độ cao nhƣ hiện nay máy móc đã dần thay thế lao động thủ công thì số lƣợng lao động không còn là yếu tố quyết định đem lại lợi thế so sánh cho một quốc gia nữa. Ngƣợc lại, ngƣời ta quan tâm đến chất lƣợng nguồn nhân lực bởi nó là yếu tố chính giúp nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất tạo nên những bƣớc đột phá cho nền sản xuất hàng hoá. Chất lƣợng lao động là một khái niệm bao gồm rất nhiều nhân tố. Cụ thể nhƣ sau: - Sức khoẻ: ngƣời lao động cần có một cơ thể khoẻ mạnh đủ để đảm bảo khả năng lao động. - Trình độ văn hoá: ngƣời lao động cũng cần có một trình độ văn hoá nhất định để nhận thức về những việc mình làm và tiếp thu những kiến thức tối thiểu liên quan đến công việc đó. - Trình độ chuyên môn - kỹ thuật: khả năng chuyên môn có đƣợc thông qua đào tạo, Khi làm việc ở một trình độ phức tạp hơn thì trình độ chuyên môn - kỹ thuật trở nên rất cần thiết và đóng vai trò là nhân tố cơ bản quyết
- định khả năng làm việc của ngƣời lao động. - Tính năng động xã hội: bao gồm khả năng sáng tạo, sự nhạy bén, mức độ phản ứng linh hoạt và khả năng thích ứng với những yêu cầu đòi hỏi mới của công việc và xã hội. - Phẩm chất đạo đức thể hiện qua tác phong làm việc, thái độ đối với công việc và môi trƣờng làm việc của ngƣời lao động. - Thu nhập, mức sống và mức độ thoả mãn nhu cầu cá nhân (cả vật chất và tinh thần) của ngƣời lao động cũng phản ánh chất lƣợng nguồn nhân lực xã hội vì có liên quan trực tiếp đến quá trình tái tạo sức lao động. - Cuối cùng là hiệu quả lao động phụ thuộc rất nhiều vào năng lực thực tế về tri thức và kỹ năng nghề nghiệp. Đó là những kinh nghiệm thực tế ngƣời lao động tích luỹ đƣợc thông qua quá trình làm việc. Tóm lại, chất lƣợng nguồn nhân lực là mặt biểu hiện cái bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng nhƣ mức sống, trình độ dân trí của con ngƣời. Chất lƣợng nguồn nhân lực luôn vận động đi lên cùng với sự phát triển của lực lƣợng sản xuất tuy nhiên để quá trình vận động này đi đúng hƣớng và trong thời gian ngắn nhất thì cần có sự tác động của con ngƣời. Nhận biết đƣợc vai trò và những nhân tố góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực là cơ sở để không ngừng nâng cao đời sống vật chất - tinh thần, hoàn thiện con ngƣời lao động đồng thời thúc đẩy sự phát triển của xã hội. 3. Vai trò của việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực trong hoạt động kinh tế - xã hội. Lịch sử phát triển của loài ngƣời gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá. Con ngƣời thông qua lao động để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu bản thân và xã hội. Quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào theo một phƣơng thức nhất định để tạo ra sản phẩm đầu ra. Mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất và sản lƣợng hàng hoá đƣợc biểu diễn
- bởi hàm số sau: Y = F ( Xi) Trong đó: Y: Sản lƣợng hàng hoá Xi ( i = 1,2,3,...n): Các yếu tố sản xuất. Tuỳ theo sự phát triển của từng giai đoạn mà các nhà kinh tế có cách đƣa ra và lý giải về các yếu tố sản xuất cũng nhƣ vai trò của chúng đối với việc gia tăng sản lƣợng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các học thuyết kinh tế đều thống nhất ở một điểm: Lao động là nhân tố kinh tế trực tiếp tạo ra giá trị sản lƣợng và là yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất. Lao động tạo ra giá trị thặng dƣ cho các nhà sản xuất nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Giá trị sức lao động đƣợc tính trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết để làm ra của cải vật chất. Có thể nói sức lao động là một yếu tố sản xuất đặc biệt. Sức lao động - sản xuất của cả xã hội đƣợc biểu hiện thông qua hai mặt của nguồn nhân lực xã hội: Mặt chất và mặt lƣợng. Mặt lƣợng cho ta cái nhìn tổng quan về lực lƣợng lao động của một xã hội, nhƣng chính mặt chất mới là động lực mạnh mẽ giúp cho xã hội phát triển đi lên theo hƣớng tích cực. Thế giới thay đổi từng ngày, từng giờ theo sự phát triển của khoa học công nghệ. Máy móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại dần thay thế sức lao động của con ngƣời nhƣng không thể thay thế hoàn toàn vai trò của con ngƣời. Chính con ngƣời làm nên những bƣớc đột phá trong công nghệ và tạo ra các thành tựu KHKT. Bởi vậy, cũng chính con ngƣời phải điều khiển nó, dùng nó làm phƣơng tiện để đạt đƣợc mục đích của mình. Xét từ góc độ các doanh nghiệp, doanh nghiệp đầu tƣ trang thiết bị, kỹ thuật tiên tiến nhƣng lại không có một đội ngũ công nhân đƣợc đào tạo phù hợp thì cũng không thể đem lại hiệu quả kinh doanh nhƣ mong muốn. Mặt khác, nếu hai doanh nghiệp có cùng một mức đầu tƣ trang thiết bị, có trình độ kỹ thuật ngang nhau thì doanh nghiệp nào sở hữu một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao hơn, đội ngũ quản lý nhanh nhạy, sáng tạo hơn thì chắc chắn sẽ có hiệu suất công việc cao hơn và có thể làm ra các sản phẩm dịch vụ tốt hơn.
- Nhƣ vậy, nguồn nhân lực hay nguồn lực con ngƣời mới là nguồn tài nguyên bên trong quý giá nhất. Nó là nhân tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp và đồng thời quyết định sự hƣng vong của một quốc gia. Bởi chỉ có sức sáng tạo, khả năng tƣ duy của con ngƣời là vô hạn. Tận dụng đƣợc những thế mạnh sẵn có song song với việc khai thác những tiềm năng vô hạn đó sẽ có thể tạo nên những bƣớc đột phá lớn trong phát triển kinh tế – xã hội. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực trở thành nhu cầu mang tính tất yếu của một quốc gia đang phát triển. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực có thể đƣợc thực hiện thông qua việc tiếp thu có sàng lọc những thành tựu của ngƣời đi trƣớc kết hợp với tận dụng những cơ hội mới của thời đại. Tuy nhiên yếu tố quyết định vẫn là ở nội lực của mỗi quốc gia. Tìm hiểu các nhân tố tác động đến chất lƣợng nguồn nhân lực sẽ là định hƣớng cho hành động để vấn đề cải thiện chất lƣợng nguồn nhân lực không chỉ là của riêng cá nhân các doanh nghiệp mà trở thành vấn đề của toàn xã hội, là mối quan tâm hàng đầu của mỗi con ngƣời. 4. Các nhân tố tác động đến chất lƣợng nguồn nhân lực. Chất lƣợng nguồn nhân lực là một khái niệm bao hàm rất nhiều yếu tố. Chính vì vậy nhân tố tác động đến chất lƣợng nguồn nhân lực cũng rất đa dạng. Đối với một quốc gia đang phát triển, vấn đề đói nghèo, chế độ dinh dƣỡng, chăm sóc sức khoẻ, chế độ giáo dục đào tạo và trình độ phát triển kinh tế xã hội luôn tác động nhanh và mạnh nhất đến chất lƣợng nguồn nhân lực. 4.1 Kinh tế – xã hội Nguồn nhân lực có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Ngƣợc lại trình độ phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia sẽ quyết định chất lƣợng nguồn nhân lực của quốc gia ấy thông qua tốc độ tăng trƣởng kinh tế, cơ cấu kinh tế, yếu tố KHKT, cơ hội đầu tƣ, lối sống văn hoá, tƣ tƣởng, quan niệm… Tốc độ tăng trƣởng kinh tế sẽ tác động tới đời sống của mỗi cá
- nhân trong xã hội. Thông thƣờng nó đƣợc phản ánh qua hệ thống các chỉ tiêu nhƣ tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập bình quân đầu ngƣời…Khi đời sống kinh tế đi lên cuộc sống của ngƣời dân sẽ đƣợc cải thiện trƣớc hết là thông qua thu nhập sau đó là điều kiện và chất lƣợng sống. Sản phẩm của một nền kinh tế có tốc độ tăng trƣởng cao là của cải vật chất đƣợc tạo ra nhiều hơn, thoả mãn tốt hơn những nhu cầu của con ngƣời. Ngƣời lao động trực tiếp tạo ra hàng hoá đồng thời cũng chính là ngƣời thụ hƣởng những hàng hoá đó với tƣ cách là ngƣời tiêu dùng. Họ đƣợc quan tâm đầy đủ từ vật chất tới tinh thần, đƣợc tiếp xúc dễ dàng hơn đối với môi trƣờng đào tạo chuyên nghiệp để nâng cao trình độ. Nhƣ vậy kinh tế phát triển là tiền đề để chất lƣợng nguồn nhân lực đƣợc cải thiện. Mặt khác, kinh tế phát triển sẽ kéo theo hệ quả tất yếu là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tƣơng quan giữa các ngành nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ có sự thay đổi theo hƣớng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ. Sự phát triển của công nghiệp kéo theo những cải tiến về KHKT. Để đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi mới của xã hội về thị trƣờng lao động, ngƣời lao động phải có những biện pháp để nâng cao trình độ chuyên môn - kỹ thuật. Đồng thời do nhu cầu của con ngƣời ngày càng phức tạp nhà sản xuất phải đặc biệt lƣu tâm đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Chất lƣợng dịch vụ cần phải đƣợc cải thiện. Những ngƣời hoạt động trong lĩnh vực thị trƣờng phải có những tố chất đặc biệt về tính linh hoạt xã hội, tri thức và kỹ năng nghề nghiệp đƣợc trải nghiệm qua kinh nghiệm thực tế. Đó là những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Tăng trƣởng kinh tế gắn liền với những cơ hội đầu tƣ. Trong một xã hội phát triển tỉ lệ giữa tích luỹ và đầu tƣ luôn thay đổi theo xu hƣớng tăng đầu tƣ. Hơn nữa một quốc gia có tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao sẽ là điểm đến lý tƣởng cho các các quốc gia khác khi tỉ suất lợi nhuận của các nhà sản xuất trong quốc gia đó đã đến một giới hạn nhất định. Tăng cƣờng kinh tế đối
- ngoại sẽ giải quyết đƣợc rất nhiều vấn đề nan giải đối với một nƣớc đang phát triển nhƣ nạn nghèo đói, thất nghiệp, bất bình đẳng xã hội…, việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực còn đƣợc thực hiện thông qua việc tiếp xúc với môi trƣờng làm việc cũng nhƣ phong cách quản lý mới. Kinh tế là nền tảng để phát triển xã hội. Sự góp mặt của công nghệ thông tin đã làm nên cuộc cách mạng về năng suất lao động và góp phần thay đổi những thói quen sinh hoạt hàng ngày, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Xã hội hiện đại kéo theo những đổi thay về nhân sinh quan, tƣ tƣởng, quan niệm về giá trị dẫn đến việc hình thành một lối sống mới. Đây là những yếu tố gián tiếp quyết định chất lƣợng nguồn nhân lực. Khi những giá trị truyền thống và giá trị hiện đại giao tranh sẽ tạo nên những tác động xấu và tốt lẫn lộn đối với mỗi cá nhân trong xã hội đó. Mặt tốt của xã hội hiện đại là sự giải thoát cho khả năng và những nhu cầu, ƣớc muốn của con ngƣời. Bên cạnh đó là những nguy cơ huỷ hoại tài nguyên môi trƣờng, sự phân hoá giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế…Điều này xuất phát từ quy luật tự nhiên. Nắm bắt đƣợc quy luật để khắc chế những mặt tiêu cực, phát huy những mặt tích cực là chìa khoá để giải quyết mọi vấn đề của xã hội. Tóm lại: Kinh tế xã hội có mối quan hệ sâu sắc đến chất lƣợng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là động cơ để bánh xe kinh tế chạy nhanh hơn đồng thời một nền kinh tế phát triển cũng sẽ đặt ra những yêu cầu và tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Quan tâm đến các chỉ tiêu tăng trƣởng kinh tế song song đồng thời với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao sẽ giúp cho xã hội đi lên một cách nhanh chóng và ổn định. 4.2 Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ Sức khoẻ là một trong những chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá chất lƣợng nguồn nhân lực. Một quốc gia muốn có lực lƣợng lao động chất lƣợng cao trƣớc hết phải quan tâm đến chế độ dinh dƣỡng và chăm sóc sức khoẻ không chỉ vì thế hệ hiện tại mà còn vì thế hệ tƣơng lai. Ƣu tiên phát triển nguồn nhân
- lực đồng nghĩa với việc giảm tỉ lệ đói nghèo, suy dinh dƣỡng, nâng cao khẩu phần chất lƣợng ăn cho ngƣời lao động và tạo điều kiện để xã hội có một lƣợng lao động dữ trữ dồi dào cả về chất và lƣợng. Tình trạng dinh dƣỡng Theo các nhà kinh tế học ngƣời Hà Lan (Lipton, M và Ravallino, 1995) thì “chỉ số nghèo tài chính là thƣớc đo cơ bản về khả năng của hộ gia đình để mua lƣơng thực, thực phẩm vừa đủ và duy trì một tiêu chuẩn dinh dƣỡng tối thiểu”. Nhƣ vậy, nguồn lực tài chính có liên quan mật thiết đến chế độ dinh dƣỡng của ngƣời lao động. Thiếu dinh dƣỡng của các hộ gia đình đƣợc lý giải nhƣ sau: do nguồn lực tài chính hạn hẹp, ăn uống thiếu hợp lý dẫn đến thiếu chất nhƣ lipit, protein, gluxit, các vitamin và khoáng chất khác… Nghèo đói, thiếu chất dinh dƣỡng khiến cho thể lực ốm yếu, khả năng miễn dịch kém, dễ mắc bệnh truyền nhiễm, suy giảm nghiêm trọng khả năng làm việc và tác động tiêu cực đến chất lƣợng nguồn nhân lực. Ở các nƣớc nghèo dân cƣ thƣờng lâm vào cái vòng luẩn quẩn sau: Đói nghèo Suy dinh dƣỡng Ít cơ hội việc làm Năng suất lao động thấp Đói nghèo. Nhƣ vậy, tình trạng suy dinh dƣỡng, đói nghèo và chất lƣợng nguồn nhân lực thấp luôn có mối quan hệ cùng chiều và có sự tƣơng tác qua lại với nhau. Do đó phải xem xét lại chế độ dinh dƣỡng của ngƣời nghèo đồng thời với việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Chăm sóc sức khoẻ Sức khoẻ là yếu tố trực tiếp ảnh hƣỏng đến chất lƣợng nguồn nhân lực. Ngƣời lao động có sức khoẻ tốt có khả năng tập trung cao trong công việc, có sức dẻo dai, bền bỉ theo đuổi công việc đến cùng. Nếu có sức khoẻ, ngƣời lao động sẽ dễ dàng, nhanh chóng lĩnh hội những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh…Và khi đó họ sẽ xứng đáng đƣợc hƣởng những mức lƣơng, thƣởng cao hơn, thu nhập ổn định hơn song nhìn chung
- tâm lý của ngƣời lao động là khi thu nhập chƣa đảm bảo ngƣời ta thƣờng ít quan tâm tới các sản phẩm bảo vệ sức khoẻ và các hoạt động có liên quan đến việc nâng cao thể lực. Do đó, giúp ngƣời lao động nhận thức đƣợc vai trò của việc bảo vệ sức khoẻ cũng sẽ góp phần tiết kiệm chi phí cho các hoạt động y tế đồng thời cải thiện chất lƣợng nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp cần chú ý đến chế độ sinh hoạt và môi trƣờng làm việc của ngƣời lao động vừa vì mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất vừa để đảm bảo tính ổn định, bền vững cho các thế hệ sau. 4.3 Chế độ giáo dục - đào tạo. Giáo dục đào tạo có vai trò không nhỏ đối với việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của một quốc gia có chất lƣợng tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống giáo dục đào tạo của quốc gia đó. Tác động của giáo dục đào tạo đến chất lƣợng nguồn nhân lực thể hiện qua hai mặt: Mức độ phát triển của giáo dục đào tạo càng cao thì quy mô nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật càng đƣợc mở rộng. Vì giáo dục đào tạo là nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo đồng thời một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh với mạng lƣới rộng khắp các địa phƣơng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Mức độ phát triển của giáo dục đào tạo càng cao càng có khả năng nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực theo chiều sâu. Điều này thể hiện ở chỗ một trong những tiêu chí của phát triển giáo dục đào tạo là nâng cao chất lƣợng đầu ra nhằm đảm bảo đáp ứng đƣợc yêu cầu của thị trƣờng lao động và của xã hội. Giáo dục đào tạo đem lại những lợi ích to lớn, lâu dài cho cá nhân và xã hội. Kinh nghiệm thực tế từ các nƣớc Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản…đã chứng tỏ đầu tƣ cho giáo dục đào tạo đem lại tỷ suất lợi nhuận và hiệu quả cao hơn so với đầu tƣ vào các ngành kinh tế khác.
- Năm 1995, các chuyên gia Ngân hàng thế giới (World Bank) đã đƣa ra thuyết “Tỷ suất lợi nhuận của giáo dục” để đánh giá những lợi ích và hiệu quả của giáo dục đối với sự phát triển của các quốc gia. Tỉ suất lợi nhuận từ giáo dục đƣợc tính bằng công thức: L1 L2 (1) L x100 CX T Trong đó: - L: Tỷ suất lợi nhuận từ giáo dục - L1: Lợi nhuận của ngƣời học thu đƣợc trong quá trình làm việc - L2: Lợi nhuận xã hội thu đƣợc qua giáo dục từ quá trình làm việc của ngƣời học. - T: Tổng số năm làm việc của ngƣời học - C: Tổng chi phí ngƣời học phải trả (C = C1+C2 với C1:Chi phí trực tiếp, C2:Chi phí gián tiếp) - X: Chi phí xã hội bao cấp cho ngƣời học. Theo công thức trên tỉ suất lợi nhuận từ giáo dục đƣợc xác định dựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa ngƣời học và xã hội. Tỉ suất này tỉ lệ nghịch với số năm làm việc của ngƣời học. Nhƣ vậy cả xã hội và ngƣời học cùng muốn hƣởng một mức tỷ suất lợi nhuận tối ƣu bằng cách giảm chi phí và thời gian gắn bó với công việc của ngƣời lao động. Điều này cho thấy trách nhiệm của xã hội đối với việc nâng cao chất lƣợng đào tạo. Với vai trò là một phần không thể thiếu của xã hội, các doanh nghiệp cũng cần tham gia tích cực vào quá trình đó để đẩy nhanh tiến trình đào tạo, giảm thiểu chi phí và đảm bảo một nguồn cung lao động cần thiết. Tiểu kết: Nhìn vào bức tranh tổng thể nền kinh tế trƣớc tiên phải nắm Quách Thuỳ Linh, 2006, Đề tài :”Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình hội nhập (1) kinh tế quốc tê”, Luận văn tốt nghiệp, ĐH Ngoại Thƣơng – Hà Nội
- chắc nguồn lực về con ngƣời vì con ngƣời là trung tâm của mọi hoạt động kinh tế xã hội. Trong xã hội hiện nay, sự khác biệt giữa các quốc gia, các doanh nghiệp không đƣợc đánh giá bởi số lƣợng nguồn nhân lực nữa mà bởi chất lƣợng với một hệ thống bao gồm rất nhiều chỉ tiêu nhƣ sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghiệp vụ, khả năng giao tiếp xã hội, tác phong, đạo đức…Để tạo ra lợi thế cạnh tranh cần phải không ngừng tìm ra các giải pháp nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Đây đƣợc coi nhƣ nhiệm vụ then chốt của một quốc gia đang phát triển đặc biệt là trong giai đoạn CNH, HĐH nhƣ Việt Nam hiện nay. II. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP 1. Giới thiệu chung về bán hàng đa cấp - MLM 1.1. Khái niệm MLM là cụm từ viết tắt của “Multi-level marketing” tại Việt Nam thuật ngữ này đƣợc dịch ra tiếng việt với nhiều tên gọi khác nhau nhƣ “Kinh donah theo mạng” (Network marketing), “Kinh doanh đa cấp”, “Bán hàng đa cấp”, “ Tiếp thị đa tầng”…dùng để chỉ một phƣơng thức bán hàng trực tiếp trong đó việc tiêu thụ hàng hoá đƣợc thực hiện thông qua một cơ cấu nhiều tầng bao gồm những cá nhân riêng biệt hoạt động độc lập. Những cá nhân này không phải là nhân viên công ty, mà là các đối tác phân phối hàng hoá cho công ty. Nói cách khác, họ là các doanh nhân kinh doanh độc lập nhờ việc giới thiệu sản phẩm tới khách hàng mà họ có những khoản thu nhập nhất định. Ngoài ra, họ còn giúp đỡ những ngƣời khác khi những ngƣời này cùng tham gia doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Họ sẽ dạy những ngƣời đó cách xây dựng mạng lƣới phân phối viên của riêng mình, cách để trở thành những doanh nhân độc lập giống nhƣ họ. Trong “ Nghị định về giám sát hoạt động bán hàng đa cấp do Chính phủ Việt Nam ban hành, tại điều 2 đã định nghĩa: “Bán hàng đa cấp (MLM) là một phƣơng thức tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp thông qua nhiều cấp
- khác nhau, trong đó ngƣời tham gia sẽ đƣợc hƣởng tiền hoa hồng, tiền thƣởng và/hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả bán hàng hóa của mình và của ngƣời khác trong mạng lƣới do ngƣời đó tổ chức ra và đƣợc doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận”. 1.2. Lịch sử hình thành Sự ra đời của ngành bán hàng đa cấp gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học ngƣời Mỹ Karl Renborg (1887-1973). Ông là ngƣời đầu tiên đã ứng dụng ý tƣởng bán hàng đa cấp vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh tế, một ngành kinh doanh đƣợc gọi là có triển vọng nhất trong thế kỷ 21. Karl Renborg có thời gian 20 năm sống tại Trung Quốc và làm việc tại nhiều công ty khác nhau. Giữa những năm 1920-1930, ông và một số ngƣời nƣớc ngoài khác bị bắt khi chính quyền thuộc về tay Tƣởng Giới Thạch. Trong điều kiện sống rất thiếu thốn, ông đã nhận thấy vai trò của dinh dƣỡng đối với sức khỏe con ngƣời. Để khắc phục điều kiện sống thiếu dinh dƣỡng, Renborg đã tìm ra phƣơng pháp cạo sắt từ những chiếc đinh gỉ cho vào khẩu phần ăn dành cho ngƣời tù và thỏa thuận với cai tù để xin các loại rau cỏ khác nhau bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày. Ông và một số ít bạn tù làm theo phƣơng pháp này nên có sức đề kháng tốt hơn và sống sót đƣợc đến ngày trở về quê hƣơng. Năm 1927 Ông Renborg về Mỹ và bắt đầu chế biến các chất bổ sung dinh dƣỡng khác nhau dựa trên cỏ linh lăng là một loại cỏ có chứa rất nhiều vitamin, khoáng chất, đạm và nhiều thành phần có ích khác. Ông đề nghị những ngƣời quen của ông thử nghiệm miễn phí sản phẩm nhƣng ông đã thất bại, không ai dám dùng thử vì họ không muốn mình làm vật thí nghiệm. Sau nhiều cố gắng mà không đem lại đƣợc kết quả, ông hiểu ra rằng chẳng ai chịu đánh giá tốt những thứ cho không, vì vậy ông đã đƣa ra một ý tƣởng và ngày nay ý tƣởng đó đã phát triển thành một ngành kinh doanh với doanh thu hàng tỷ đô.
- Ông Renborg đề nghị các bạn của ông giới thiệu chất bổ sung dinh dƣỡng này cho ngƣời quen của họ, còn nếu ngƣời quen của họ mua sản phẩm thì ông hứa sẽ trả hoa hồng. Ông cũng quyết định trả hoa hồng cho các ngƣời quen của bạn mình nếu giới thiệu sản phẩm tiếp theo quan hệ của họ. Kết quả là thông tin về các chất bổ sung dinh dƣỡng có lợi bắt đầu đƣợc truyền bá rộng rãi. Doanh thu bán hàng của công ty tăng vƣợt quá sức tƣởng tƣợng, mọi ngƣời đề nghị gặp ông để tham khảo về thông tin sản phẩm mới này. Năm 1934 ông Karl Renborg sáng lập ra công ty "Vitamins California" và nhờ phƣơng pháp phân phối hàng mới này, khi ngƣời tiêu dùng cũng trở thành ngƣời truyền bá sản phẩm (Distributor - Nhà phân phối độc lập), công ty của ông đã nhanh chóng đạt doanh số 7 triệu USD mà không hề mất một đồng quảng cáo nào. Sự độc đáo ở chỗ nhờ tiết kiệm đƣợc chi phí quảng cáo và các khâu trung gian (đại lý bán buôn, bán lẻ, kho bãi...) nên những ngƣời tham gia vào hệ thống của ông có thể nhận đƣợc thù lao cao hơn. Cuối năm 1939 đầu 1940 ông Renborg đổi tên công ty thành "Nutrilite Products" theo tên sản phẩm và vẫn giữ nguyên phƣơng pháp tiêu thụ. Những cộng tác viên của ông tự tìm ngƣời mới, chỉ cho ngƣời mới đầy đủ thông tin về sản phẩm và dạy cho ngƣời mới phƣơng pháp xây dựng mạng lƣới bắt đầu từ những ngƣời quen của mình. Công ty đảm bảo cho tất cả nhà phân phối độc lập có đủ sản phẩm và nhận hoa hồng không chỉ lƣợng sản phẩm họ bán ra mà còn trả hoa hồng cho lƣợng sản phẩm đƣợc bán ra bởi những ngƣời do họ trực tiếp tìm ra. Những ngƣời tham gia mạng lƣới của công ty nhận đƣợc sự giúp đỡ hƣớng dẫn tận tình của ngƣời bảo trợ. Phƣơng pháp phân phối hàng của ông Renborg chính là khởi điểm của ngành bán hàng đa cấp song ở đây ông chỉ mới áp dụng một tầng.Trong nhiều tài liệu thì năm 1940 là năm khởi đầu của bán hàng đa cấp và Renborg đƣợc coi là ông tổ của ngành kinh doanh này.
- 1.3. Nguyên tắc hoạt động Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, con ngƣời đã có thể chế tạo ra hàng loạt những sản phẩm hiện đại nhƣ xe hơi, ti vi, máy tính… Song lại phải đối mặt với vấn đề khác: làm sao để bán đƣợc hàng trên thị trƣờng, để đƣa những thành quả làm ra đến ngƣời tiêu dùng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Trong nền kinh tế hiện đại, vấn đề phân phối có ý nghĩa hết sức quan trọng. Cuộc chiến tranh giành khách hàng ngày càng trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Và thực tế là các nhà sản xuất buộc phải chi ngày càng nhiều tiền cho quảng cáo tiếp thị để thu hút sự chú ý của ngƣời tiêu dùng. Tuy nhiên chi phí cho quảng cáo tiếp thị tăng không hề bảo đảm khả năng tiêu thụ sản phẩm sẽ tăng theo. Với số lƣợng các kênh truyền thông trực tuyến ngày càng nhiều nhƣ hiện nay, ngƣời tiêu dùng có xu hƣớng bị mất định hƣớng do quá tải thông tin. Và kết quả là các nhà sản xuất không còn kiểm soát đƣợc tính hiệu quả của công cụ quảng cáo tiếp thị truyền thống. Ở một số nƣớc, không hiếm trƣờng hợp nhà sản xuất đƣợc trả tiền để không sản xuất bởi chẳng những hàng sản xuất ra chỉ nằm trong kho chứ không đến đƣợc ngƣời tiêu dùng, mà còn có thể gây ra những xu hƣớng bất lợi trên thị trƣờng. Ngành bán hàng đa cấp đã ra đời nhƣ một giải pháp phân phối mới, giúp đƣa hàng đến ngƣời tiêu dùng nhanh hơn, hiệu quả hơn và có lợi hơn với giá thấp hơn rất nhiều. Mô hình bán hàng đa cấp phân phối sản phẩm theo nguyên lý tƣơng đối đơn giản - Nguyên lý chia sẻ thông tin một cách trực tiếp. Trên thực tế, tất cả chúng ta đều thƣờng xuyên làm việc đó trong cuộc sống hàng ngày bởi không ai có thể tồn tại độc lập hoàn toàn mà luôn phải sống trong mối quan hệ với ngƣời thân, bạn bè, láng giềng…MLM chính là thông qua các mối quan hệ đó mở rộng và phát triển hoạt động mua bán. Tâm lý chung của mỗi ngƣời khi dùng một sản phẩm hay một dịch vụ tốt thƣờng có cảm giác thích thú và
- muốn chia sẻ, truyền đạt lại cho ngƣời khác. Các công ty sử dụng nguyên tắc truyền bá sản phẩm này tổ chức nó thông qua mạng lƣới phân phối. Khái niệm bán hàng đa cấp, tức là đƣa sản phẩm đến với khách hàng thông qua mạng lƣới các nhà phân phối, chính là bắt nguồn từ đây. Điều này xảy ra trên thực tế nhƣ sau: Các nhà phân phối mua sản phẩm, dùng thử, đánh giá chúng, thấy kết quả tốt sau khi sử dụng và chia sẻ thông tin (sản phẩm tốt) cho ngƣời quen của mình và những ngƣời khác, những ngƣời đó cũng lại làm tƣơng tự (dùng thử, thấy tốt, có kết quả..., chia xẻ thông tin này tới ngƣời khác)… Kết quả là hình thành một mạng lƣới khách hàng (nhà phân phối) của công ty. Nhƣ chúng ta đã thấy, quá trình này có thể kéo dài đến vô tận. Hệ thống đƣợc xây dựng không theo nguyên tắc quản lý cổ điển, mà đƣợc hình thành từ các nhà phân phối tự do muốn xây dựng những nhóm phân phối (mạng lƣới) của mình, trong đó các thành viên cũng không phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi khách hàng đều có thể trở thành nhà phân phối và ngƣời đỡ đầu, tức là phát triển mạng lƣới của riêng mình. Công việc đỡ đầu bao gồm việc tuyển dụng nhà phân phối mới, dạy họ cách bán hàng và phát triển mạng lƣới và cách đào tạo ngƣời mới. Hệ thống chia hoa hồng cũng rất có lợi cho tất cả các thành viên. Phần công việc đƣợc gọi là “đỡ đầu” cho phép nhà phân phối quyết định thu nhập của mình, bởi các nhà phân phối không chỉ nhận đƣợc hoa hồng trên số hàng mình trực tiếp bán, mà còn nhận đƣợc phần trăm trên doanh số của các thành viên trong nhóm vì đã có công tập hợp đƣợc đội ngũ cộng sự và điều hành, đào tạo đội ngũ đó. Một khi áp dụng đúng nguyên lý bội tăng trong quá trình phát triển mạng lƣới, số lƣợng thành viên trong mạng lƣới có thể sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Sử dụng súc mạnh của hệ thống chính là nguyên tắc cơ bản để các nhà phân phối có một nguồn thu nhập dồi dào trong tƣơng lai. 1.4. So sánh bán hàng đa cấp với bán hàng truyền thống
- 1.4.1 Bán hàng truyền thống Sơ đồ 1: Hàng hoá lƣu thông qua hệ thống bán hàng truyền thống Qua sơ đồ trên, trong hình thức bán hàng truyền thống bất kỳ sản phẩm nào cũng đƣợc xuất xƣởng từ một nhà máy, thông qua các khâu trung gian nhƣ: đại lý lớn, đại lý trung, đại lý nhỏ và cuối cùng dừng chân tại các cửa hàng bán lẻ. Khi một ngƣời có nhu cầu về sản phẩm anh ta sẽ đến các cửa hàng để mua. Đây là hình thức phân phối rất quen thuộc đối với ngƣời tiêu dùng. Từ khi nền sản xuất hàng hoá ra đời việc trao đổi mua bán đã trở thành một phần tất yếu của cuộc sống. Có hai phƣơng thức phân phối phổ biến: Phƣơng thức phân phối trực tiếp và phƣơng thức phân phối gián tiếp Phƣơng thức phân phối trực tiếp là hoạt động phân phối hàng hoá trực tiếp từ ngƣời sản xuất đến ngƣời tiêu dùng không thông qua hệ thống các khâu trung gian. - Các hình thức thƣờng gặp của phƣơng thức phân phối này là: bán hàng tận nhà, bán hàng qua thƣ đặt hàng, qua các cửa hàng của chính hãng sản xuất, qua mạng Internet… Sơ đồ 2: Mô hình kênh phân phối trực tiếp – Kênh O
- - Ƣu điểm: Công ty áp dụng phƣơng thức này có thể chủ động trong việc quyết định khối lƣợng hàng hoá, kiểm tra giám sát chặt chẽ hoạt động phân phối, phản ứng kịp thời trƣớc diễn biến trên thị trƣờng, lợi nhuận không bị phân chia. - Nhƣợc điểm: Vốn đầu tƣ cho hoạt động phân phối lớn, khó áp dụng với các công ty có quy mô vừa, nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Phƣơng thức phân phối gián tiếp là việc phân phối hàng hoá đƣợc thực hiện thông qua hệ thống các khâu trung gian - Hệ thống các khâu trung gian bao gồm: đại lý, môi giới, các cửa hàng bán buôn, bán lẻ… Sơ đồ 3: Mô hình kênh phân phối gián tiếp – Kênh cấp 1,2,3 - Ƣu điểm: Tiết kiệm chi phí cho hoạt động phân phối, giảm gánh nặng cho nhà sản xuất. Thông qua trung gian nhà sản xuất cỏ thể tận dụng vốn, kinh nghiệm, mối quan hệ sẵn có của họ để sản phẩm dễ dàng xâm nhập vào thị trƣờng mới, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. - Nhƣợc điểm: Giảm bớt quyền chủ động của doanh nghiệp sản xuất. Việc kiểm soát hoạt động phân phối phức tạp hơn, phản ứng trƣớc biến động thị
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của các hình thức khuyến mại đến hoạt động kinh doanh dịch vụ viễn thông di động Mobifone của tập đoàn Bưu chính viễn thông VNPT
136 p | 300 | 71
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của game nhập vai online đến đời sống của sinh viên hiện nay
15 p | 267 | 67
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của Festival đến đời sống người dân thành phố Huế (Nghiên cứu trường hợp tại 2 phường Thuận Thành, Phú Hội - thành phố Huế)
136 p | 265 | 50
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành dịch vụ du lịch Việt Nam
118 p | 254 | 49
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của hoạt động du lịch đến đời sống văn hóa - xã hội của cư dân địa phương tại khu di tích đền Trần - Phủ Dầy Nam Định
10 p | 253 | 44
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của luật đầu tư năm 2005 vào đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
120 p | 170 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của văn hóa nước ngoài tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam và hướng tới tiếp thu các giá trị văn hóa quốc tế kết hợp với các giá trị truyền thống để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập
106 p | 154 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu
92 p | 203 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp: Hoạt động nhập khẩu ô tô cũ và tác động của nó tới ngành sản xuất ô tô Việt Nam
109 p | 232 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của du lịch đến nghề dệt, may của người Thái ở bản Văn, Mai Châu, Hòa Bình - Đỗ Bình Thiêm
11 p | 177 | 21
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của chương trình truyền hình thực tế Vietnam’s got Tanlent đến thanh thiếu niên ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
10 p | 163 | 19
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của truyện tranh Nhật Bản tới trẻ em (qua khảo sát một số trường học ở Hà Nội)
14 p | 180 | 19
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của du lịch đến nghề dệt, may của người Thái ở Bản Văn, Mai Châu, Hòa Bình
11 p | 132 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
134 p | 126 | 11
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của giáo lý, các nguyên tắc về môi trường của công giáo đối với môi trường tự nhiên tại giáo xứ Thạch Bích - Bích Hòa - Thanh Oai - Hà Nội
17 p | 144 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của các cam kết gia nhập WTO đến dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam
99 p | 106 | 9
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Hoạt động của mạng Vinaren phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo ở Việt Nam
5 p | 105 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn