intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Tổng hợp và nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính xúc tác của vật liệu nano NdVO4: M2 + (M=Ca, Co, Zn)

Chia sẻ: Trần Thu Hương | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:66

103
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tổng hợp vật liệu theo phương pháp sol-gel, khi tổng theo phương pháp sol-gel, tiến hành khảo sát thành phần pha tạp khác nhau… Từ đó tìm ra thành phần pha tạp tối ưu để tổng hợp ra vật liệu mong muốn; dùng các phương pháp phân tích để nghiên cứu cấu trúc và tính chất của vật liệu tổng hợp được. Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Tổng hợp và nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính xúc tác của vật liệu nano NdVO4: M2 + (M=Ca, Co, Zn)

  1. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài     Ô nhiễm môi trường hiện nay không còn là vấn đề  mới, nhưng lúc nào  cũng nóng và được quan tâm. Tình trạng ô nhiễm môi trường diễn ra trên khắp   thế  giới,  ở  mọi nơi, mọi lúc và ngày càng gia tăng  ở  các trạng thái: ô nhiễm  rắn, ô nhiễm lỏng và khí.      Hiện nay, Việt  Nam  là một trong những  quốc gia có  không khí  bị  ô  nhiễm, đặc biệt tại thủ  đô Hà Nội nồng độ  khí CO, NOx, VOC, benzen, hơi  xăng dầu trung bình ngày ở  một số nút giao thông lớn đã vượt tiêu chuẩn cho  phép từ 1,2 ­ 1,5 lần [3]. Các nhà khoa học cùng nghiên cứu nhiều phương pháp  để  giảm thiểu sự  ô nhiễm không khí, đặc biệt hướng dùng các chất xúc tác  nhắm nâng cao hiệu suất chuyển hóa các khí độc hại thành các chất ít độc hại   hơn được nghiên cứu và  ứng dụng rộng rãi. Chất xúc tác thường dùng trước   đây là các kim loại quý và hợp chất của chúng, tuy chất xúc tác này có hiệu  quả khá cao trong quá trình xử lí nhưng giá thành rất cao không lợi về mặt kinh   tế. Ngay từ khi mới ra đời vật liệu nano được thử nghiệm làm chất xúc tác đã   cho kết quả bất ngờ.         Công nghệ  nano (tiếng Anh là nanotechnology) là ngành công nghệ  liên  quan đến việc thiết kế, phân tích, chế tạo và ứng dụng các cấu trúc, thiết bị và   hệ thống bằng việc điều khiển hình dáng, kích thước trên quy mô nanomet. Vật   liệu   nano   là   vật   liệu   trong   đó   ít   nhất   một   chiều   có   kích   thước   nanomet. Về  trạng thái của vật liệu, người ta phân chia thành ba trạng thái:   rắn, lỏng và khí. Vật liệu nano được tập trung nghiên cứu hiện nay chủ yếu là   vật liệu rắn, sau đó mới đến vật liệu lỏng và khí.  Về  mặt xúc tác, vật liệu zircon kiểu MVO 4 đã và đang là tâm điểm của  sự chú ý đối với nhiều nhà khoa học trong nước và trên thế giới.  1
  2. Trong thành phần zircon MVO4 (với M là nguyên tố hóa trị 3 như: Sc, Y,  Ce, Pr, Nd, Tb, Ho, Er, Tm, Yb, Lu…), khi thay thế nguyên tố  M có bản chất  khác nhau sẽ  cho những vật liệu có hoạt tính xúc tác khác nhau. Người ta đã  thay thế một phần các kim loại khác vào vị  trí M tạo nên cấu trúc zircon kiểu  M1­xAxVO4 ( A là nguyên tố  đất hiếm) hoặc M1­xA1,5xVO4 (A là các nguyên tố  hóa trị  II). Những vật liệu được pha tạp này thể  hiện nhiều tính chất xúc tác  đặc thù.  Vật liệu zircon NdVO4 đã và đang được quan tâm đặc biệt vì chúng có  những  ứng dụng quan trọng. Từ  lâu, vật liệu NdVO 4: Eu3+  được sử  dụng là  chất phát quang màu đỏ trong ống tia catot, đèn huỳnh quang… [13,31,37]. Vật  liệu nano NdVO4: Eu3+ có thể phát quang mạnh ở bước sóng  nm, vì vậy rất có   triển vọng trong các ứng dụng đánh dấu y sinh, hay đánh dấu bảo mật [18,46].   Ngoài ra NdVO4: Eu3+ còn có ứng dụng làm chất xúc tác cho các phản ứng xử  lý ô nhiễm môi trường khí. Hiện nay nhiều phòng thí nghiệm đã đi sâu vào   nghiên cứu vật liệu NdVO4 với thành phần nguyên tố pha tạp khác nhau nhưng  chủ yếu vẫn là kim loại đất hiếm hóa trị 3.  Việc chế  tạo chất xúc tác cho phản  ứng xử  lí các hợp chất hữu cơ  dễ  bay hơi VOCs (Volatile Organic Compounds) cũng là phần nghiên cứu quan   trọng của ngành xúc tác. Những dung môi hữu cơ  thải ra từ  công nghiệp hóa  chất như benzen, toluen, m­xylen… đang  ảnh hưởng không ít đến môi trường   làm việc của con người.  Tóm lại, với mong muốn tìm vật liệu zircon có hoạt tính xúc tác cao   trong các phản ứng nhằm mục đích xử lí ô nhiễm môi trường khí, đề tài nghiên   cứu của khóa luận  là: “Tổng hợp và nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính xúc tác   của vật liệu nano NdVO4: M2 + (M=Ca, Co, Zn)” 2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
  3. Tổng hợp vật liệu theo phương pháp sol­gel. Khi tổng theo phương pháp  sol­gel, tiến hành khảo sát thành phần pha tạp khác nhau… Từ đó tìm ra thành  phân pha tạp tối  ưu để  tổng hợp ra vật liệu mong muốn. Dùng các phương   pháp phân tích để nghiên cứu cấu trúc và tính chất của vật liệu tổng hợp được.  Chọn ra phương pháp tổng hợp vật liệu làm xúc tác trong phản ứng oxi   hóa m­xylen đạt hiệu suất cao nhất.   3. Phương pháp nghiên cứu  Tổng hợp vật liệu được thực hiện theo phương pháp sol­gel.  Xác định đặc trưng cấu trúc của vật liệu sẽ  sử  dụng các phương pháp  hóa lí và vật lí như: phương pháp phân tích phổ  hồng ngoại, nhiễu xạ  tia X,   hiển vi điện tử quét (SEM), tán xạ năng lượng tia X , xác định diện tích bề mặt  riêng (BET). Nghiên cứu khả năng xúc tác được tiến hành trên hệ vi dòng kết nối với   hệ sắc kí khí.  4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa xây dựng quy trình tổng hợp vật liệu zircon   NdVO4: M2+  (M=Ca, Co, Zn) có hoạt tính xúc tác cao trong vấn đề  xử  lí các  chất gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời đề  tài cũng cho thấy phần nào mối   quan hệ giữa cấu trúc của vật liệu zircon và hoạt tính xúc tác của chúng trong   phản ứng oxi hóa các chất hữu cơ dễ bay hơi.  3
  4. Chương 1 TỔNG QUAN  1.1. Tầm quan trọng của việc xử lí khí thải Trong thế  kỉ  XXI, nhân loại đang phải đối mặt với nhiều vấn đề  lớn   đặc biệt là ô nhiễm môi trường. Trong đó ô nhiễm không khí đang ngày càng  gia tăng là vấn đề đáng lo ngại nhất hiện nay. Trong những năm gần đây, ở các khu đô thị Việt Nam thì nguyên nhân ô  nhiễm chính là do các hoạt động giao thông vận tải. Sự  gia tăng mạnh các  phương tiện giao thông cơ  giới, đặc biệt là lượng xe máy và xe ô tô đã làm  tăng đáng kể  về  nhu cầu tiêu thụ  xăng dầu, vì vậy tình trang ô nhiễm môi   trường không khí càng trở nên trầm trọng. Theo thống kê năm 2009 của cục Đăng Kiểm Việt Nam và Vụ Khoa học  Công nghệ và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, số lượng phương tiện giao   thông hằng năm tăng đáng kể. Đô thị càng phát triển thì số lượng phương tiện   giao thông vận tải lưu hành trong đô thị  càng tăng nhanh (Hình 1.1). Đây là áp  lực rất lớn đối với môi trường không khí đô thị. Hình 1.1. Số lượng ô tô và xe máy hoạt động hàng năm của Việt Nam Các phương tiện giao thông sử  dụng động cơ  đốt trong là một trong  những nguồn phát thải các chất độc hại như  CO, hơi xăng dầu (HmCn, VOC),  4
  5. SO2, chì, BTX (Benzen, toluene, xylen) ra môi trường. Hình 1.2 cho thấy tỉ  lệ  phát thải khí ô nhiễm của các loại phương tiện khác nhau. Xe máy là nguồn  đóng góp chính các khí như CO, HmCn, VOCs. Thực tế  nếu hàm lượng các chất độc hại từ  khí thải động cơ  đốt trong   thấp, người sử dụng ít quan tâm tới sự nguy hiểm trước mắt do nó gây ra. Tuy  nhiên sự phân tích các dữ liệu về sự thay đổi thành phần không khí trong năm  gần đây đã cho thấy sự gia tăng rất đáng ngại của các chất ô nhiễm.              Theo Hội thảo Nhiên liệu và xe cơ  giới sạch  ở  Việt Nam, Bộ Giao  thông vận tải và Chương trình môi trường Mỹ  Á, 2004. Hình 1.2 cho thấy tỷ  lệ  phát thải các khí ô nhiễm của các loại phương tiện khác nhau. Xe máy là   nguồn đóng góp chính các khí như CO, HmCn và VOCs. Trong khi đó, xe tải lại  thải ra nhiều SO2 và NOx. Hình 1.2. Tỷ lệ phát thải chất gây ô nhiễm do các phương tiện giao thông cơ   giới đường bộ của Việt Nam Theo chương trình Không khí sạch Việt Nam – Thụy Sỹ, 2007  tại Hà  Nội một số nghiên cứu cho thấy nồng độ  BTX cao nhất  ở dọc hai bên tuyến  đường giao thông và có giảm đi  ở  các khu dân cư  nằm xa trục đường lớn   (Hình 1.3). Điều này chứng tỏ  nguồn gốc của những khí này chủ  yếu từ  các  phương tiện giao thông. 5
  6. Hình 1.3. Nồng độ BTX  trung bình 1 giờ của các khu vực thuộc thành phố Hà   Nội (quan trắc trong thời gian 12/1/2007­5/2/2007) Mặt khác, chất ô nhiễm xylen còn có thể bị phát thải từ các nhà máy do   nó được sử  dụng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất và pha chế  sơn, tổng  hợp nhựa PET (polyetylen terephtalat), sản xuất axit isophtalic, sản xuất mực   in, keo dán…. Nếu không có những biện pháp hạn chế  sự  gia tăng này một cách kịp  thời, những thế hệ tương lai sẽ phải đương đầu với một môi trường sống rất   khắc nghiệt. Bảo vệ  môi trường không chỉ  là yêu cầu của từng quốc gia, từng khu  vực mà đó là nhiệm vụ của toàn nhân loại. Tùy theo điều kiện của mỗi quốc   gia, luật lệ  cũng như  tiêu chuẩn về   ô nhiễm môi trường được  áp dụng  ở  những thời điểm và với mức độ  khắt khe khác nhau. Ô nhiễm môi trường do   động cơ phát ra được các nhà khoa học quan tâm từ đầu thế  kỉ XX và bắt đầu   thành luật  ở  một số  nước vào những năm 50.  Ở  nước ta, luật bảo vệ  môi  6
  7. trường có hiệu lực từ ngày 10/1/1994 và Chính phủ đã ban nghị định số 175/CP  ngày 18­10­1994 để hướng dẫn việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường. Tóm lại, ô nhiễm môi trường ngày càng trở thành một vấn đề nhức nhối  đối với con người, một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm đó có nguồn gốc  từ khí thải động cơ đốt trong. Ở  Việt Nam và trên thế  giới, ngày càng có nhiều phương pháp đưa ra  nhằm xử  lí khí thải động cơ  đốt trong. Bộ  lọc xúc tác là một trong những   phương pháp có thể  giải quyết triệt để  các khí thải độc hại. Và trong số  các  chất dùng cho bộ lọc xúc tác của các oxit phức hợp dạng vật liệu nano chiếm   được nhiều quan tâm vì hoạt tính xúc tác cao và lợi về kinh tế. 1.2. Vị trí, cấu hình electron nguyên tử của các nguyên tố đất hiếm, và kim  loại pha tạp. Trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, 14 nguyên tố có số thứ tự  nguyên   tử   từ   58   đến   71   được   gọi   là   nhóm   lantanoit,   bao   gồm:   Xeri   (Ce),   Prazeodim (Pr), Neodim (Nd), Prometi (Pm), Samari (Sm), Europi (Eu), Gadolini  (Gd), Tebi (Tb), Điprozi (Dy), Honmi (Ho), Eribi (Er), Tuli (Tu), Ytecbi (Yb),  Lutexi (Lu). Các nguyên tố  Scandi (Sc), Ytri (Y), Lantan (La) thuộc nhóm IIIB   nhưng có tính chất hóa học tương tự nhóm lantanoit nên vào năm 1968 IUPAC  đề  nghị  dùng tên “nguyên tố  đất hiếm” cho các nguyên tố: Sc, Y, La và 14  nguyên tố lantanoit. Tuy nhiên, do sự giống nhau một cách liên tục về các tính chất khác nhau  của 15 nguyên tố  từ  La đến Lu. Mặt khác, Y và La cùng tạo ra các cation 3+   trong dung dịch cũng như  cùng tồn tại trong quặng các hợp chất hóa trị  (III),   nên tên gọi “nguyên tố đất hiếm là tên gọi chung để chỉ 16 nguyên tố bao gồm  Y, La và lantanoit. Các nguyên tố đất hiếm (NTĐH) thường được chia thành 2   phân nhóm (bảng 1.1) Bảng 1.1. Phân nhóm các nguyên tố đất hiếm. NTĐH nhẹ NTĐH nặng 7
  8. 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 39 La Ce Pr Nd Pm Sm Eu Gd Tb Dy Ho Er Tm Yb Lu Y    Trong dãy lantanoit, các electron lần lượt được điền vào các obitan 4f   của lớp ngoài thứ ba, còn lớp ngoài cùng đã có 2 electron (6s2) và lớp ngoài thứ  hai thường đã có 8 electron (5s25p6). Sự khác nhau về cấu trúc lớp vỏ chỉ diễn  ra  ở  lớp ngoài thứ  3 nên các nguyên tố  lantanoit có tính chất đặc biệt giống   nhau (bảng 1.2). Khi bị  kích thích, thường  chỉ  một trong số  các electron  ở  obitan 4f chuyển sang obitan 5d, các electron còn lại bị che chắn mạnh bởi các   electron  ở 5s25p6 nên không có ảnh hưởng quan trọng đến tính chất của đa số  các nguyên tố  lantanoit. Như vậy, tính chất của các lantanoit được quyết định  chủ yếu bởi các electron 5d16s2, trạng thái oxi hóa bền và đặc trưng của chúng   là +3. Tính chất của chúng giống nhiều các nguyên tố  d trong nhóm IIIB, đặc   biệt giống với Y và La (hai nguyên tố  có bán kính nguyên tử  và bán kính ion   tương đương với các nguyên tố  lantanoit). Tuy nhiên, các nguyên tố  đất hiếm  vẫn có sự  khác nhau về  tính chất hóa học do cấu trúc lớp vỏ  electron và bán  kính nguyên tử  do cấu trúc lớp vở  và bán kính nguyên tử, bán kính ion không  hoàn toàn giống nhau.  Bảng 1.2. Một số đặc điểm của nguyên tố đất hiếm Năng lượng ion  Bán  Bán  Thế  Cấu hình  hóa, eV kính  kính  điện  STT NTĐH electron nguyên  nguyên  ion  cực  tử I1 I2 I3 chuẩn tử,  Α0 RE3+, Α0 , V 5,7 11,3 1 La 4f05s25p65d16s2 19,1 1,877 1,061 ­2,52 7 8 10,8 2 Ce 4f25s25p65d06s2 5,6 20,1 1,825 1,034 ­2,48 4 10,5 21,6 3 Pr 4f35s25p65d06s2 5,4 1,828 1,013 ­2,46 4 5 5,4 10,7 22,0 4 Nd 4f45s25p65d06s2 1,821 0,995 ­2,43 9 1 5 5 Pm 4f55s25p65d06s2 5,5 10,9 22,1 ­ 0,979 ­2,42 8
  9. 5 7 5,6 11,0 23,6 6 Sm 4f65s25p65d06s2 1,802 0,964 ­2,41 1 6 9 5,6 11,2 25,1 7 Eu 4f75s25p65d06s2 2,042 0,95 ­2,4 6 4 2 6,1 12,1 21,7 8 Gd 4f75s25p65d16s2 1,082 0,938 ­2,4 6 4 1 5,8 11,5 21,9 9 Tb 4f95s25p65d06s2 1,782 0,923 ­2,39 9 2 2 5,8 11,6 10 Dy 4f105s25p65d06s2 23,1 1,773 0,908 ­2,36 7 6 5,9 23,0 11 Ho 4f115s25p65d06s2 11,8 1,776 0,894 ­2,32 4 1 5,8 11,9 22,8 12 Er 4f125s25p65d06s2 1,757 0,881 ­2,3 1 2 7 12,0 23,8 13 Tm 4f135s25p65d06s2 6 1,746 0,899 ­2,28 5 8 6,2 12,1 24,9 14 Yb 4f145s25p65d06s2 1,94 0,858 ­2,27 4 7 5 5,3 18,8 21,2 15 Lu 4f145s25p65d16s2 1,747 0,848 ­2,25 1 9 8 Nhìn vào bảng trên, ta thấy cấu hình electron nguyên tử  chung của các  nguyên tố lantanoit là: 4f2­145s25p65d0­16s2. Sự biến đổi tuần tự  tính chất của các nguyên tố  đất hiếm là do “sự  co   lantanoit” và cách sắp xếp điện tử  vào các obitan 4f. Các tính chất biến đổi   tuần tự  như:  tính bazơ, pH bắt  đầu kết tủa (giảm dần khi số  thứ  tự  của   nguyên tử  tăng), mức oxi hóa, từ  tính, màu sắc và một số  thông số  vật lí: tỉ  trọng, nhiệt độ nóng chảy, nhiệt độ sôi… Về mặt hóa học, các nguyên tố đất hiếm hoạt động hóa học chỉ kém các  kim loại kiềm và kiềm thổ.  Các kim loại đất hiếm  ở  dạng khối rắn bền với không khí khô nhưng  trong không khí  ẩm bị  mờ  dần đi.  Ở  nhiệt độ  200oC­400oC, các kim loại đất  hiếm bốc cháy ngoài không khí tạo thành hỗn hợp oxit và nitrua.  9
  10. Các nguyên tố  đất hiếm tác dụng với các nguyên tố  halogen ở  nhiệt độ  thường và khi đun nóng, chúng tác dụng được với N2, C, S, P, H2…Chúng tạo  được các hợp kim với đa số các kim loại: Al, Cu, Mg, Co, Fe… Trong dãy điện thế, các nguyên tố đất hiếm đứng xa trước hidro với giá  trị  thế  điện cực chuẩn như   ở  bảng 1.2 nên chúng bị  nước đặc biệt là nước   nóng oxi hóa. Chúng tác dụng mãnh liệt với các axit. Các nguyên tố  đất hiếm   bền trong HF và H3PO4  do tạo thành màng muối không tan bọc bảo vệ. Các   nguyên tố đất hiếm không tan trong dung dịch kiềm…    1.1. Vị trí, cấu hình electron nguyên tử của các nguyên tố Co, Ca, Zn Trong bảng tuần hoàn các nguyên tố  hóa học: Ca, Co, Zn là các nguyên  tố có số thứ tự 20, 27, 30.   Cấu   hình   electron   của   các   nguyên   tố:   Ca   (1s22s22p63s23p64s2),   Co  (1s22s22p63s23p63d74s2), Zn (1s22s22p63s23p63d104s2).  Trong đó Ca là kim loại có tính khử mạnh, Co và Zn là 2 nguyên tố đều thể hiện  tính khử trung bình khi tham gia các phản ứng hóa học, chúng có một số tính chất  hóa học giống nhau: Tác dụng được với các halogen tạo ra muối halogenua, tác   dụng được với O2, N2, H2, S, C, P… Cả 3 nguyên tố trên trong hợp chất muối nitrat  ở trạng thái hóa trị  2 khi   tham gia phản ứng tạo hợp chất dạng NdMVO4 thì bền với axit và bazơ, không  bị oxi hóa bởi các tác nhân axit và bazơ. Bảng 1.3. Một số đặc điểm các nguyên tố Ca, Co, Zn Năng lượng ion  Bán  Bán  Thế  hóa, eV kính  kính  điện  NTĐ Cấu hình electron  nguyê ion  cực  H nguyên tử I1 I2 I3 n tử,  2+ M , chuẩn,  Α 0 0 Α V 2 2 6 2 6 2 1 Ca 1s 2s 2p 3s 3p 4s 6,11 17,0 33,50 1,25 0,78 ­0,28 2 Co 1s22s22p63s23p63d74s2 7,86 17,08 35,50 1,25 0,78 ­0,28 3 Zn 1s22s22p63s23p63d104s2 9,39 17,96 39,72 1,39 0,83 ­0,76 1.3. Vật liệu oxit phức hợp Zircon MVO4 10
  11. Zircon là tên gọi chung của các vật liệu có cấu trúc tinh thể  giống với   cấu trúc của vật liệu Zirconi silicat, có công thức hóa học là ZrSiO4. Zircon được biết đến như những khoáng vật quý, được sử dụng trên các  đồ  trang sức với nhiều màu sắc khác nhau, từ không màu tới màu vàng đỏ, da   cam và nâu, lục nâu, lục sang tới màu xanh da trời. Cùng với ánh kim cương nó   có tầm quan trọng đáng kể trong ngành trang sức.                                    Tên gọi zircon được bắt nguồn từ  các biệt ngữ, theo tiếng  Ả  rập có  nghĩa là màu đỏ son và theo tiếng I ran là màu vàng. Cho đến nay Zircon được   biết đến với nhiều tên khác nhau như “Zargoon” hoặc “Cerkonier” Vật liệu zircon kiểu MVO4 (gọi là orthovanadates) trong đó M là nguyên  tố  hóa trị  3 gần đây đã nổi lên là một vật liệu quang học cho các  ứng dụng   laser ở trạng thái rắn lưỡng chiết [2,4]. Ngoài ra chúng còn được sử dụng làm  vật liệu phát quang, nhiệt lân quang...            Hầu hết các orthovanadat kết tinh trong một cấu trúc zircon, bao gồm cấu  trúc dạng tứ diện VO4 bao quanh nguyên tử M (ở dạng tam giác MO8), có cấu  trúc hình 12 mặt. Đơn vị cấu trúc chính trong zircon là một chuỗi đa diện xen kẽ  VO4 và AO8 mở rộng song song với trục c trong không gian. Do   tầm   quan   trọng   trong   công   nghệ   của   cấu   trúc   zircon   loại  orthovanadat, tính chất điện tử  và quang học đã được nghiên cứu rộng rãi .  Ngược lại theo một số tài liệu, tính chất cơ học đang được quan tâm rất nhiều   nhưng mới chỉ  có một số  nghiên cứu về  cấu trúc này. Một số  nghiên cứu về  nhiệt đã được mở  rộng trên cấu trúc zircon loại orthovanadat, một số  nghiên  cứu đã được thực hiện để xác định các hằng số đàn hồi… 1.4. Vật liệu nền NdVO4 Mạng nền NdVO4 được lựa chọn để tổng hợp và nghiên cứu tính chất vì  là một trong những mạng chủ  rất thích hợp để  pha tạp các ion đất hiếm, có   tần số dao động phonon thấp, có độ bền nhiệt, độ  bền cơ học cao và rất thân  11
  12. thiện với môi trường. Khi vật liệu này được pha tạp các ion kim loại hóa trị III  thì nồng độ  pha tạp được tính theo tỉ  lệ  phần trăm số  mol ion kim loại (đất  hiếm) pha tạp so với tổng số mol ion kim loại có trong dung dịch.   Ví dụ: vật liệu NdVO4:Eu3+  (5%) trong thành phần có 2 ion kim loại  Eu3+, Nd3+ với tổng số mol được coi là 100%, trong đó số mol Nd3+ 2% còn 98%  là số mol của Nd3+. Từ vài năm gần đây, trên thế giới và trong nước, nhiều phòng thí nghiệm  đã tập trung nghiên cứu vật liệu NdVO4: RE3+ (RE=Eu3+, Er3+, Sm3+, Dy3+…) có  kích thước nano nhưng các vật liệu này có  ứng dụng chủ  yếu làm chất phát   quang, xử lý ô nhiễm môi trường không khí. Hiện nay, tổng hợp và nghiên cứu vật liệu NdVO4: M2+ (M= Ca, Co, Zn,  Ni, Cu....) là một hướng nghiên cứu mới đầy triển vọng.  Khi vật liệu được  pha tạp với kim loại hóa trị  II thì nồng độ  pha tạp được tính theo tỉ  lệ  phần  trăm số  2/3  số  mol ion kim loại (hóa trị  II)  pha tạp so tổng số  mol ion kim   loại Nd3+ và 2/3 số mol in kim loại pha tạp. Tổng hợp vật liệu có mạng nền là  NdVO4,  thành phần pha tạp là kim loại hóa trị  II để   ứng dụng trong xử  lý ô  nhiễm môi trường không khí vẫn đang là một hướng nghiên cứu mới mà các  nhà khoa học đang hướng tới. 1.5. Các phương pháp tổng hợp vật liệu Vật liệu nano là các oxit phức hợp có thể  được tổng hợp theo nhiều  phương pháp khác nhau. Người ta có thể  căn cứ  vào bản chất của phản  ứng,   trạng   thái   của   các   pha   khi   tham   gia   phản   ứng…   để   chia   thành   các   nhóm  phương pháp tổng hợp vật liệu nano khác nhau. Nhóm   các   phương   pháp   vật   lí   sử   dụng   các   thiết   bị   vật   lí   hiện   đại,  thường rất đắt tiền để  tổng hợp vật liệu như: phun nung, ngưng tụ  pha hơi,   bốc bay nhiệt độ cao, plasma… Nhóm các phương pháp hóa học thường dùng các thiết bị vật tư dễ tìm,  ít tốn kém để tổng hợp như: thủy nhiệt, sol­gel, đồng kết tủa… 12
  13. Tuy nhiên cũng có thể chia các phương pháp tổng hợp vật liệu nano theo  bốn   phương   pháp   phổ   biến:   phương   pháp   hóa   ướt,   phương   pháp   cơ   học,  phương pháp bốc bay, phương pháp hình thành từ pha khí.  Phương pháp hóa  ướt bao gồm các phương pháp chế  tạo vật liệu dùng  trong hóa keo: th ủy nhi ệt, sol­gel, đồng kết tủa. Theo ph ương pháp này, các  dung dịch ch ứa ion khác nhau đượ c trộn với nhau theo m ột t ỉ l ệ  nh ất đị nh,  dướ i tác động của nhiệt độ, áp suất mà các vật liệu nano đượ c kết tủa từ  dung dịch.   Phương pháp cơ học bao gồm các phương pháp tán, nghiền, hợp kim cơ  học. Các vật liệu  ở  dạng bột được nghiền đến kích thước nhỏ  hơn, phương  pháp này đơn giản, dụng cụ tổng hợp không đắt tiền và có thể  tạo được một   lượng lớn vật liệu tuy nhiên kích thước hạt không đồng đều. Phương pháp bốc bay thường được áp dụng để  tổng hợp màng mỏng  hoặc lớp bao phủ bề mặt vật liệu.  Phương pháp hình thành từ  pha khí gồm các phương pháp nhiệt phân,   bốc bay nhiệt độ  cao, plasma, lade. Nguyên tắc của phương pháp này là hình  thành vật liệu nano từ pha khí.  Mỗi phương pháp đều có  ưu, nhược điểm nhất định, một số  phương  pháp có thể áp dụng để tổng hợp vật liệu nhất định nhưng cũng có những vật  liệu khi tổng hợp, người ta kết hợp đồng thời một số phương pháp khác nhau.  Theo nhiều kết quả nghiên cứu của các tác giả, hoạt tính xúc tác của vật   liệu phụ thuộc vào thành phần, bản chất liên kết, cấu trúc tinh thể, kích thước,   độ  đồng nhất của hạt. Những tính chất này của vật liệu lại phụ  thuộc nhiều  vào   phương   pháp   tổng   hợp.   Sau   đây   chúng   tôi   giới   thiệu   sơ   lược   một   số  phương pháp thường dùng để tổng hợp vật liệu đã được áp dụng thành công. 1.5.1. Phương pháp đồng kết tủa  Phương pháp đồng kết tủa là phương pháp kết tủa những hợp chất có  nhiều hơn một cation, thường dùng để  tổng hợp các hạt nano oxit kim loại.   13
  14. Các quá trình này bao gồm sự  hòa tan của muối tiền chất, thường là clorua  hoặc nitrat của các cation kim loại. Chẳng hạn, Nd(NO3)3 để tạo Nd2O3, ZrCl4  để tạo ZrO2… Sau đó các cation được kết tủa trong nước dưới dạng hidroxit,   muối cacbonat, muối oxalat… Khi thêm vào một dung dịch bazơ  như  NaOH   hoặc ammoniac, dung dịch muối cacbonat hoặc oxalat. Kết tủa được lọc rửa,  sấy khô và nung để nhận được bột oxit kim loại. Đây là phương pháp rất hữu  dụng để  tổng hợp hỗn hợp các oxit bởi sự   đồng kết tủa của các hidroxit,  cacbonat, oxalat… tương ứng trong một dung dịch.  Phản ứng tạo kết tủa phụ thuộc vào tích số tan, khả năng tạo phức giữa  các ion kim loại và ion tạo kết tủa, pH của dung dịch…, thêm vào đó tốc độ  kết tủa của các hợp chất này cũng ảnh hưởng đến tính đồng nhất của hệ. Tính   đồng nhất của vật liệu cần tổng hợp phụ  thuộc vào tính đồng nhất của kết  tủa từ  dung dịch. Như  vậy muốn các ion kết tủa đồng thời thì chúng phải có  tích số  hòa tan xấp xỉ  nhau và tốc độ  kết tủa gần giống nhau. Để  các cation  cùng kết tủa phải thực hiện các biện pháp khắc nghiệt như: thay thế một phần  nước bằng dung môi hữu cơ, làm lạnh sâu để  tách nước ra khỏi hệ… Thêm   vào đó, quá trình rửa kết tủa có thể  kéo theo một cấu tử  nào đó làm cho vật  liệu thu được khác với thành phần mong muốn.  Điểm  không  thuận lợi  của  phương   pháp này  là  khó  điều  khiển kích  thước và sự phân bố kích thước hạt. Quá trình kết tủa nhanh thường dẫn đến  kích thước hạt lớn. Nếu khống chế tốt các điều kiện, phương pháp đồng kết   tủa có thể tạo thành những hạt cỡ vài chục nanomet.  1.5.2. Phương pháp sol­gel Sol­gel là phương pháp rất linh hoạt, có thể điều khiển quá trình tạo gel,   sấy, nung để  tạo ra vật liệu có tính chất mong muốn, cho phép tổng hợp các  vật liệu là oxit phức hợp siêu mịn, có tính đồng nhất và độ  tinh khiết hóa học  cao. Nhờ  phương pháp sol­gel, ta có thể  tổng hợp được các tinh thể  có kích  14
  15. thước cỡ nanomet, các pha thủy tinh, tạo được các dạng vật liệu khác nhau ở  dạng bột, khối, màng mỏng.  Phương pháp sol­gel xitrat lần đầu tiên được Pechini sử dụng năm 1967,   đặc biệt khi gốm siêu dẫn được phát hiện năm 1987 thì phương pháp này càng  được phát triển. Phương pháp này dựa trên cơ sở tạo phức giữa ion kim loại và   phối tử hữu cơ. Quá trình tạo gel mô tả theo sơ đồ sau: Axit xitric Dung dịch      Phức đơn nhân →  Phức đa nhân → Sol→ Gel Hình 1.1. Sơ đồ tổng hợp oxit phức hợp theo phương pháp sol­gel. Người ta có thể sử dụng phối tử hữu cơ khác nhau như axit xitric, axetic,  stearic… hoặc sử  dụng hỗn hợp một số  phối tử  hữu cơ  trong quá trình tổng  hợp gel. Phương pháp sol­gel xitrat dùng phối tử axit xitric. Cơ sở  của phương pháp là sự  tạo phức của ion kim loại Mn+ và phối tử  xitric HOOC­CH2­C(OH)(COOH)­CH2­COOH, phản ứng có thể biểu diễn đơn  giản như sau: Mn+ + H4L  ↔ Phức + H+ Khả  năng tạo phức của các cation kim loại khác nhau với axit xitric là  khác nhau, để cho tất cả các kim loại đi vào hết trong cùng một phức đa nhân  phải điều chỉnh tỷ số Ac: ∑ Mn+ và pH. Khả năng tạo phức của các cation kim  loại càng lớn thì tỉ số mol Ac: ∑ Mn+ và pH càng thấp và ngược lại. Từ đó cho  thấy rằng dựa vào khả  năng tạo phức của các cation kim loại có thể  dự  đoán  trước điều kiện tổng hợp oxit phức hợp theo phương pháp sol­gel xitrat. Quá trình tạo gel trong phương pháp sol­gel tạo phức do yếu tố động học  quyết định nên khó điều khiển. Đây là hạn chế  nhưng cũng là  ưu điểm của  phương pháp này do quá trình ngưng tụ tiếp tục diễn biến làm biến đổi cấu trúc  gel và làm biến đổi tính chất của sản phẩm. Ưu điểm nổi bật của phương pháp  sol­gel theo con đường tạo phức so với phương pháp sol­gel thủy phân alkoxit  kim loại là có thể dùng cho nhiều kim l oại và giá thành hạ hơn rất nhiều.   15
  16. Hiện nay, phương pháp sol­gel là kĩ thuật sử dụng rộng rãi và tỏ ra có ưu   việt để tạo ra các vật liệu khối, màng mỏng có cấu trúc nano, bột với độ  mịn  cao hoặc dạng sợi có cấu trúc đa tinh thể hay vô định hình mà các phương pháp  khác khó thực hiện được.  Nimai Pathak và Santosh K. Gupta [34] đã tổng hợp thành công LiZnVO4  bằng phương pháp sol­gel ở nhiệt độ 6000C.            Hình 1.2. Ảnh SEM của vật liệu LiZnVO4 được tổng hợp bằng phương pháp   sol­gel ở 6000C.           Trong thí nghiệm, các tác giả đi từ  những hóa chất ban đầu dung dịch   LiCO3, Zn(CH3COO)2, NH4VO3. NH4VO3 được hòa tan bằng nước và thêm vào  dung dịch axit HNO3 đặc. Trộn dung dịch axit citric và Zn(CH3COO)2 và khuấy  từ thu được dung dịch đồng nhất, tiến hành tương tự với LiCO 3. Trộn các dung  dịch trên với nhau, sấy và đem nung ở 6000C thu được vật liệu. 1.5.3. Phương pháp đốt cháy Cơ sở của phương pháp đốt cháy là nhờ phản ứng oxi hóa ­ khử giữa tác   nhân oxi hóa, thường là nhóm nitrat (­NO3) chứa trong muối nitrat của kim loại,  với các tác nhân khử  là nhiên liệu hữu cơ  có chứa nhóm amino (­NH2). Bột  nano oxit kim loại có thể nhận được sau khi sự bốc cháy xảy ra trong lò nung  (muffle) hay trên một tấm nóng (hot template)  ở  nhiệt độ  thường dưới 500oC.  Các tiền chất được sử dụng trong phương pháp đốt cháy là các muối nitrat của   kim loại có trong thành phần của vật liệu, các tác nhân khử thường dùng là ure,   16
  17. glyxin, cacbohydrazin hay oxalyldihydrazin có công thức hóa học tương  ứng là  (NH2)2CO, NH2CH2COOH, CH6ON4, C2H6O2N4. Phản ứng oxi hóa ­ khử xảy ra   giữa hai nhóm nitrat (­NO3) của các muối nitrat của các kim loại Y, RE và  nhóm amin (­NH2), khi có trong cùng một hệ. Nhóm amin có hai chức năng  chính là tạo phức với cation kim loại do đó làm tăng khả  năng hòa tan của  muối trong dung dịch và cung cấp nhiên liệu cho phản ứng cháy nổ.  Sau khi trộn lẫn trong dung dịch, tiền chất được làm khô và nung đến  nhiệt độ  thích hợp thì phản  ứng cháy nổ  xảy ra. Phản  ứng xảy ra  ở  đây là   phản ứng oxi hóa ­ khử tỏa nhiệt và mãnh liệt. Sự nung nóng nhận được gây ra  một ngọn lửa trong vài phút, kết quả nhận được là bột sản phẩm ở dạng bọt,   trương phồng trong dụng cụ  chứa (thường là các chén nung). Phản  ứng cháy  nổ tỏa nhiệt làm giải thoát một nhiệt lượng lớn, mà nó có thể nhanh chóng đốt   nóng hệ lên tới nhiệt độ trên 1600oC Kích thước hạt của sản phẩm có thể  được điều khiển bằng cách thay   đổi tác nhân phản  ứng, tỉ  lệ  mol của các thành phần oxi hóa, khử, cũng như  nhiệt độ  nung mẫu. Các điều kiện này có thể được khống chế  để  nhận được   các hạt nano có kích thước mong muốn.  Sang Do Han và các cộng sự  [27] đã tổng hợp thành công YVO 4:Dy3+  bằng phương pháp đốt cháy, ở nhiệt độ 500oC.  17
  18. Hình 1.3. Ảnh SEM của vật liệu YVO4:0,02Dy3+ được tổng hợp bằng phương   pháp đốt cháy ở 500oC (a), ở 900oC (b), ở 1100oC (c) Trong thí nghiệm, họ  đã đi từ  những hóa chất ban đầu: Y(NO3)3.4H2O,  Dy(NO3)3.5H2O, NH4VO3 và ure (H2NCONH2). Dy được pha tạp trong vanadate  với công thức là (Y1­xDyx)VO4, trong đó 0,005
  19. vậy, phương pháp đốt cháy đã được áp dụng để tổng hợp một số loại vật liệu  nền khác nhau như  Y2O3 [11, 15], SrAl2O4 [23], LaPO4 [24], YSZ (ZrO2 được  ổn định bởi Y2O3) [22]... 1.5.4. Phương pháp thủy nhiệt Phương pháp thủy nhiệt có thể được định nghĩa là bất kì phản ứng khác  pha nào khi có mặt của dung dịch với dung môi nước hoặc khoáng hóa ở điều  kiện áp suất và nhiệt độ  cao để  hòa tan, tái kết tinh (phục hồi) vật liệu mà  thường không tan trong điều kiện thường. Ở  phương pháp thủy nhiệt, nước thường   được sử  dụng như  là một   trong những dung môi của hệ. Chất lỏng tới hạn hay nước tới hạn cung cấp   một môi trường phản  ứng tuyệt vời cho công nghệ  thủy nhiệt tổng hợp vật   liệu nano, chúng cho phép thay đổi tốc độ phản ứng, trạng thái cân bằng bằng   cách thay đổi hằng số  điện môi, đặc biệt với áp suất và nhiệt độ, từ  đó làm   cho tốc độ  phản  ứng cao hơn và kích thước hạt thu được nhỏ  hơn. Các sản   phẩm phản ứng có thể ổn định trong chất lỏng tới hạn dẫn đến sự  hình thành   các hạt tốt.  Phương pháp thủy nhiệt là phương pháp tổng hợp các đơn tinh thể  mà  sự  hình thành phụ  thuộc vào độ  hòa tan của các chất vô cơ  trong nước  ở  áp  suất cao. Sự  hình thành tinh thể  có được nhờ  một thiết bị  là một bình kín  autoclave, trong đó chứa dung dịch mẫu bao gồm tiền chất và nước. Sự  thay   đổi nhiệt độ được giữ cố định ở hai đầu của bình, ở vị trí nóng hơn thì hòa tan   các chất còn  ở  vị  trí lạnh hơn sẽ  tạo ra các mầm hình thành tinh thể. Bình  autoclave thường làm bằng thép dày với một bình kín ở trong chịu được nhiệt  độ và áp suất cao trong một thời gian dài. Vật liệu dùng để chế tạo bình thủy  nhiệt phải trơ với các dung môi và được đóng kín.  Ban đầu chất lỏng thủy nhiệt chỉ bao gồm nước và các tiền chất ở trạng   thái rắn. Khi nhiệt độ  và áp suất tăng dần, các tiền chất liên tục bị  hòa tan   khiến cho nồng độ  của chúng tăng lên, thậm chí khi vượt qua điểm giới hạn  19
  20. bão hòa thì vật liệu tiền chất vẫn tiếp tục bị hòa tan. Trong điều kiện nhiệt độ  và áp suất cao, các phân tử có kích thước to bị thủy phân hoặc không bền nên   trong dung dịch lúc này chỉ  gồm các phần tử  có kích thước rất nhỏ. Tại một  điểm qúa bão hòa nhất định xảy ra quá trình kết tinh tự  phát, nồng độc chất  lỏng trong dung dịch giảm và ta thu được sản phẩm. Các yếu tố ảnh hưởng tới   quá trình thủy nhiệt là nhiệt độ, áp suất và thời gian phản ứng.  Ưu điểm của phương pháp này là có thể điểu chỉnh kích thước hạt bằng   nhiệt độ  thủy nhiệt, điều chỉnh hình dạng hạt bằng các vật liệu ban đầu, sản  phẩm   thu   được   có   chất   lượng   cao,   nguyên   liệu   rẻ   tiền,   tiêu   tốn   ít   năng  lượng… Tuy nhiên, khi tổng hợp vật liệu bằng phương pháp thủy nhiệt sẽ  gặp   một số hạn chế là các hạt thu được thường hay bị kết đám, cần sử  dụng một  số chất hoạt động bề mặt phù hợp với vật liệu chế tạo.  Có   nhiều   nhóm   nghiên   cứu   đã   tổng   hợp   thành   công   vật   liệu   bằng  phương pháp thủy nhiệt: K.Riwotzki và M.Haase [28], đã tổng hợp YVO 4: Ln  (Ln   =   Eu,   Sm,   Dy)   bằng   phương   pháp   thủy   nhiệt   như   sau:   pha   dung   dịch  Y(NO3)3 và Eu(NO3)3 vào nước. Cho Na3VO4 vào khuấy, khuấy trong 20 phút  và giữ  cho pH = 4,8 thu được huyền phù. Đun hỗn hợp trên vào nồi hấp  ở  200oC trong 1 giờ  sau đó làm lạnh về  nhiệt độ  phòng. Đem li tâm loại phần  dung dịch  ở  trên sau đó hòa vào nước. Thêm vào đó dung dịch HNO3 để  loại  Y(OH)3  dư  trong quá trình thủy nhiệt rồi khuấy trong 1 giờ. Dung dung dịch   NaOH để duy trì pH = 12,5 và khuấy, giữ pH ở giá trị này tránh cho V2O5 không  hòa tan trở lại thành natri vanadat. Đem li tâm 3000 vòng/phút ta được các tinh  thể nano. Các tinh thể nano YVO4: Ln3+ đã thu được có kích thước khoảng 10 ­  30 nm và khá đồng đều. Một nhóm các nhà khoa học khác là Yajuan Sun và cộng sự [29] đã tổng   hợp thành công vật liệu YVO4: Er3+ bằng phương pháp thủy nhiệt như sau: pha  dung dịch Y(NO3)3 và dung dịch Er(NO3)3 với dung dịch Natri citrate rồi khuấy   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2