Khóa luận tốt nghiệp: Việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên ĐHSG
lượt xem 10
download
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là làm rõ thực trạng tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG, đánh giá những ưu điểm, hạn chế còn tồn tại, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG nói riêng cũng như SV các trường ĐH – CĐ trên cả nước nói chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên ĐHSG
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong những năm gần đây, cùng với tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế, đất nước ta đã tiến hành đổi mới về mọi mặt theo hướng CNH – HĐH, việc phát triển nguồn nhân lực đã trở thành một yêu cầu bức thiết hàng đầu trong giai đoạn hiện nay.Chính vì vậy, yêu cầu ngành giáo dục đại học, cao đẳng hiện nay phải chuyển đổi chương trình đào tạo nhằm phát huy tinh thần tự học, chủ động, sáng tạo trong học tập, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước. Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung, ngày 15 tháng 4 năm 2014 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào Tạo ban hành Văn bản hợp nhất số 17/VBHNBGDĐT (hợp nhất quy chế 43 và thông tư 57 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) ban hành quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Trong Văn bản hợp nhất quy định: “Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp. Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân. ” [1]. Chính vì vậy, mỗi khi nói đến đào tạo theo theo hệ thống tín chỉ là phải nói đến quá trình tự học, tự nghiên cứu của SV. Hiện nay, nếu người học chỉ lên lớp trông chờ vào sự truyền đạt từ kiến thức của giảng viên mà không có ý thức tự học, tự nghiên cứu thì chưa đáp ứng được yêu cầu chương trình. Chính vì thế, việc chuyển đổi từ chương trình đào tạo theo niên chế sang chương trình đào tạo theo tín chỉ là hướng đi tích cực phù hợp xu thế của nhân loại. Với chương trình đào tạo này, sinh viên giữ vai trò trung tâm, là chủ thể của quá trình học tập, sinh viên phải tự mình nghiên cứu, tìm tòi bằng nhiều con đường, bằng nhiều cách thức khác nhau để làm giàu vốn hiểu biết của bản thân, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
- 2 Từ năm học 2008 2009, cùng với các trường ĐH CĐ trên cả nước, trường ĐHSG đã chính thức triển khai chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các hệ đào tạo đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như nhà trường chưa quan tâm đến việc tổ chức tự học ở các khoa, các lớp; đầu sách thư viện chưa phong phú, khu tự học thiếu chỗ ngồi, wifi không hoạt động, cơ sở vật chất trong phòng học còn kém...Về phía sinh viên, chưa thực sự tự giác nghiên cứu, việc tự học ở nhà của sinh viên trường ĐHSG hầu như không kiểm soát được. Sinh viên vốn đã quen với phương pháp học “bao cấp” ở bậc phổ thông, chịu sự giám sát chặt chẽ của thầy cô nên khi bước sang môi trường đại học, tiếp xúc với chương trình học theo tín chỉ thường trở nên bị động, chưa tự giác với việc nghiên cứu trước ở nhà và chỉ làm khi giảng viên giao việc. Ngoài ra, sinh viên chưa biết cách tự xây dựng kế hoạch học tập cũng như phương pháp tự học hiệu quả nên phần lớn thời gian tự nghiên cứu ở nhà của sinh viên vô hình trở thành thời gian nghỉ ngơi, vui chơi, làm thêm mặc dù khối lượng kiến thức cần phải tự nghiên cứu, cần phải quyết trước khi lên lớp khá nhiều. Bên cạnh đó, khi đến lớp sinh viên ít đặt câu hỏi cho giảng viên, giảng viên hỏi gì thì ngại phát biểu ý kiến vì sợ sai, thắc mắc không giám hỏi, giảng viên nói gì, viết gì trên bảng thì sinh viên trường ĐHSG cố gắng chép hết vào vở để có tài liệu học đối phó với thi cử. Còn phải kể đến, một bộ phận giảng viên vẫn quen với cách dạy truyền thống theo lối “thầy đọc trò chép” thay vì có sự tương tác với sinh viên, đưa ra được những tình huống cũng như những vấn đề mang tính chất gợi mở nhằm tạo sự hứng thú, tò mò để sinh viên tham gia thảo luận và tự giác nghiên cứu, tự học trước ở nhà. Chính điều ấy, đã vô tình tạo cho sinh viên thói quen thụ động và rất sợ phát biểu ý kiến. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ giảng viên chưa xem trọng việc tự học của sinh viên, vì thiếu thời gian nên chưa tổ chức các hình thức tự học thường xuyên cũng như trên lớp cố gắng giảng giải chi tiết, cụ
- 3 thể cho hết tất cả nội dung bài học trong thời gian ngắn ngủi, nội dung giảng giải không kịp thì giao cho sinh viên tự nghiên cứu mà giảng viên không kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của các sinh viên nên việc tự học, tự nghiên cứu là việc tùy thuộc vào ý thức tự giác của từng sinh viên. Vì vậy, khả năng tự học của sinh viên trường ĐHSG chưa đáp ứng được những yêu cầu của phương pháp giảng dạy trong chương trình đào tạo theo tín chỉ. Khả năng tự học của sinh viên sẽ quyết định trực tiếp đến hiệu quả giáo dục bởi vì chỉ có tự học sinh viên mới làm chủ được tri thức nhân loại, sẽ không bao giờ đạt yêu cầu nếu chỉ biết trông chờ vào bài giảng trên lớp của giảng viên. Nếu những thực trạng nêu trên không được khắc phục, chắc chắn rằng sản phẩm của ngành giáo dục đại học, cao đẳng sẽ là những con người thụ động, không có khả năng sáng tạo, kiến thức chuyên môn của một bộ phận sinh viên trường ĐHSG còn thiếu, sẽ bộc lộ nhiều chỗ hỏng nên khi ra trường chất lượng một bộ phận sinh viên trường ĐHSG sẽ không đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Trước tình hình ấy, việc tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc tổ chức tự học cho sinh viên ở trường ĐHSG nói riêng và trường CĐ, ĐH trên cả nước nói chung là việc làm cấp thiết. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên ĐHSG” để viết khóa luận tốt nghiệp. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Tự học của sinh viên trong chương trình đào tạo theo tín chỉ là một trong những đề tài được nhiều tác giả đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua, đã có rất nhiều công trình, bài viết cũng như đề tài nghiên cứu khoa học có đề cập đến vấn đề này như : “Một số vấn đề cần quan tâm khi đào tạo theo tín chỉ” của Phan Văn Tấn và Nguyễn Phước Tài trong đó tác giả đã đề cập đến những vấn đề liên quan đến tín chỉ, nỗi bật là tác giả đã làm rõ quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tự học của SV trong chương trình cũng như các
- 4 điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất trong phòng học để phục vụ tốt cho việc giảng – dạy của giảng viên trong chương trình đào tạo theo tín chỉ có thể làm cơ sở lí luận phục vụ cho nghiên cứu. Hay trong bài viết “Bản chất của phương thức đào tạo theo tín chỉ” của Mỵ Giang Sơn trong đó nỗi bật là tác giả đã khái niệm tín chỉ cũng như những quy định về tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ, những khác biệt của chương trình đào tạo theo niên chế và chương trình đào tạo theo tín chỉ có thể là cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu về đề tài tự sau này. Trong bài viết “Mấy suy nghĩ về hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ” của Hồ Hoàng Hải trình bày những yếu tố cấu thành nên hệ thống tín chỉ trong đó nỗi bật là tác giả trình bày về những yếu tố cơ bản của hệ thống tín chỉ gồm người quản lí – điều hành, người dạy, phương tiện dạy học, người học, phương pháp dạy và phương pháp học. Bài viết: “Đào tạo theo hệ thống tín chỉ được và chưa được” của tác già Dương Hoàng Anh đã trình bày những mặt tích cực cũng như hạn chế của chương trình đào tạo theo tín chỉ của trường ĐHSG và nỗi bật tác giả đã nêu những ưu điểm và hạn chế việc tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở khoa giáo dục chính trị trường ĐHSG làm cơ sở lí luận phục vụ cho nghiên cứu về vấn đề tự học trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Trong bài viết: “ Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường đại học hiện nay ” của Vũ Đình Bảy, nổi bật là tác giả đã trình bày những khó khăn phương pháp giảng dạy của giảng viên và đề xuất giải pháp là cơ sở lí luận phục vụ cho đề tài nghiên cứu khoa học sau này.Trong bài viết của Nguyễn Thanh Bình với nhan đề “ Dạy sinh viên phương pháp học theo hệ thống tín chỉ” nỗi bật nhất là tác giả đã trình bày về việc đổi mới phương pháp dạy học theo hệ thống tín chỉ. Nguyễn Thị Thùy Dung có tác phẩm “ Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần tâm lí học quản lí” theo hệ thống tín chỉ tại trường ĐHSG ” trong đó tác giả đã trình bày về phương pháp thẻo luận nhóm làm cơ sở lí luận cho bài khóa luận. Và
- 5 không thể không nhắc đến đề tài khóa luận mang tên “Vấn đề tự học” của nhóm sinh viên trường Đại học Thái Nguyên nỗi bật là tác giả đã làm rõ thực trạng tự học của sinh viên trường Đại học Thái Nguyên đồng thời đã phân tích những nguyên nhân cũng như những hạn chế còn tồn tại, đề xuất ra những giải pháp khắc phục tuy nhiên đề tài chỉ nghiên về tự học của SV nhưng chưa đề cập đến việc tổ chức tự học của nhà trường, giảng viên cho SV. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu khoa học “Thực trạng tự học của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong đào tạo theo tín chỉ: thực trạng và giải pháp” của nhóm tác giả nghiên cứu do Tô Minh Thanh (chủ biên), trong đề tài đó tác đã đã làm nỗi bật thực trạng tự học của sinh viên đồng thời phân tích những nguyên nhân và giải pháp khắc phục có thề làm cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu tự học nhưng tác giả chỉ nghiên cứu về tự học của SV. Những đề tài nêu trên đề cập đến chương trình đào tạo theo tín chỉ cũng như về việc tự học của sinh viên. Hiện nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu Trên cơ sở làm rõ thực trạng tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG, đánh giá những ưu điểm, hạn chế còn tồn tại, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG nói riêng cũng như SV các trường ĐH – CĐ trên cả nước nói chung 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được những mục tiêu trên, khóa luận đi sâu vào giải quyết các vấn đề cơ bản như sau:
- 6 Làm rõ những vấn đề mang tính lí luận về việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG. Khảo sát, đánh giá tình hình việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tình hình tổ chức tự học của sinh viên trường ĐHSG hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Không gian: Trường đại học Sài Gòn Thời gian: 3/2017 – 5/2017 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Để đạt được những mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ nêu trên, khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chung của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng, Luật giáo dục về việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập thông tin từ các tài liệu như sách, tạp chí và những bài luận văn, khóa luận liên quan đến tự học sau đó tổng hợp và phân tích một cách hợp lí. Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát trực tiếp cơ sở vật chất trưởng ĐHSG như thư viện, giảng đường, khu tự học…để biết được thực trạng cơ sở vật chất nhà trường và tiến hành quan sát tình hình sinh viên đến thư viện tự học nhằm có cách đánh giá khách quan, toàn diện về ý thức tự học của SV cũng như việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của SV đại học Sài Gòn.
- 7 Phương pháp điều tra: + Điều tra bằng phỏng vấn: Phỏng vấn với Mỵ Giang Sơn – Trưởng phòng Đào tạo trường ĐHSG để biết được sự quan tâm của nhà trường đối với việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của SV trường ĐHSG. Phỏng vấn cùng với giảng viên nhà trường nhằm biết được thực trạng việc giảng viên tổ chức các hình thức tự học cho SV trường ĐHSG cũng như những khó khăn của giảng viên gặp phải trong việc tổ chức tự học cho SV hiện nay để tìm ra những giải pháp khắc phục hạn chế. Phỏng vấn 10 – 20 SV để biết được ý thức tự học của SV thể hiện qua thời gian tự học, mức độ thường xuyên thực hiện các hình thức tự học cũng như đánh giá về phía nhà trường, giảng viên tổ chức tự học cho SV trường ĐHSG. + Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đưa ra giả thuyết và các vấn đề cần được giải quyết trong từng phần của đề tài. Từ đó xác định các câu cần hỏi và thiết kế ra bảng hỏi. + Phương pháp chọn cỡ mẫu: Chọn cỡ mẫu nghiên cứu: áp dụng công thức tính cỡ mẫu đơn giản của Taro Yamane (2012) Trong đó: n: Số lượng quan sát mẫu cần xác định cho nghiên cứu điều tra. N: số lượng tổng thể e: sai số cho phép Trong nghiên cứu này, ta cho phép độ tin cậy là 95%, sai số cho phép là ±5%, ta có được số lượng mẫu cần xác định cho nghiên cứu điều tra là:
- 8 Vậy số lượng mẫu cần xác định cho nghiên cứu này là 390 mẫu. + Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản. Ở đề tài này, tác giả sẽ phân chia theo khóa học của sinh viên để làm rõ hơn mục đích nghiên cứu vì tính chất sinh viên ở mỗi khóa có sự khác nhau. Với số mẫu 390 thì sẽ chia đều cho 4 khóa. Vậy mỗi khóa khoảng 100 mẫu. + Quá trình khảo sát: Sau khi thiết kế bảng hỏi, tiến hành khảo sát thử 4 – 5 mẫu để xác định bảng hỏi có phù hợp với sinh viên hay không. Sau đó chỉnh sửa lại những câu hỏi chưa phù hợp và đưa ra bảng hỏi chính thức. + Phương pháp xử lí kết quả và phân tích kết quả: Xử lí kết quả bằng phần mềm SPSS 20 sau đó phân tích, bình luận và rút ra những kết luận. 6. Đóng góp của khóa luận Kết quả nghiên cứu khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên ĐHSG nói riêng và sinh viên các trường ĐH trên cả nước nói chung. 7. Cấu trúc đề tài nghiên cứu Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo , danh mục các bảng – biểu đồ, phụ lục, khóa luận được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận về việc tổ chức tự học theo học chế tín chỉ Chương 2: Thực trạng việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG Chương 3: Giải pháp để nâng cao hiệu quả việc tổ chức tự học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường ĐHSG
- 9 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VIỆC TỔ CHỨC TỰ HỌC THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ 1.1. Một số khái niệm cơ bản
- 10 1.1.1. Tín chỉ Đào tạo theo tín chỉ là phương thức đào tạo mới lấy người học làm trung tâm được nước ta và hầu hết các nước trên thế giới rất chú trọng. Đã có rất nhiều định nghĩa các nhà nghiên cứu khác nhau về tín chỉ mà xin được nêu ra một số định nghĩa như sau: Trong bài viết của Nguyễn Thị Thanh Minh có nêu lên định nghĩa của James Quann (ĐH Quốc gia Washington) về tín chỉ: “Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn cụ thể, bao gồm: Thời gian lên lớp Thời gian học trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác để được quy định thời khóa biểu Thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vần đề, viết hoặc chuẩn bị bài…; đối với các môn học lí thuyết một tín chỉ là một giờ học trên lớp (với 2 giờ chuẩn bị ở nhà) trong một tuần và kéo dài trong một học kì 15 tuần; đối với môn học ở studio hay phòng thí nghiệm ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị ở nhà ); đối với việc tự nghiên cứu – ít nhất là 3 giờ làm việc trong 1 tuần” [3,tr.247]. Hay trong bài viết của Nguyễn Thị Thúy Dung có nhắc đến định nghĩa của Phó GS. TS Hoàng Văn Vân như sau: “Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kĩ năng của một môn học mà người học cần phải tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định thông qua các hình thức: (1) Học tập trên lớp; ( 2) Học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc khác (có sự hướng dẫn của giảng viên); (3) Tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài...” [4,tr.112] Ngoài ra theo Thạc sĩ Mỵ Giang Sơn cho rằng: “Tín chỉ là một đơn vị đo khối lượng lao động học tập của người học ”.Tín chỉ là “đơn vị đo” chứ không
- 11 phải là một “đại lượng”, đại lượng cần đo là “khối lượng lao động học tập của người học” đo bởi đơn vị là tín chỉ”. [7,tr.23] Tóm lại , tín chỉ là một đơn vị đo toàn bộ khối lượng học tập của một người bình thường bao gồm : thời gian lên lớp, thời gian làm thí nghiệm, thực tập, tiểu luận, khóa luận tốt nghiệp và thời gian tự học ở nhà (đọc sách, nghiên cứu, giải bài tập, học nhóm hoặc chuẩn bị bài …) .Nếu sinh viên thiếu một trong ba hoạt động này thì SV chưa đạt yêu cầu mà chương trình đào tạo theo tín chỉ đề ra. 1.1.2. Tự học Tự học là một hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên tại các trường ĐH. Sinh viên biết tự học sẽ không bao giờ hài lòng với những gì đã học được, luôn trao dồi tri thức, chủ động, sáng tạo trong bất kỳ môi trường làm việc nào, sẽ hình thành thói quen học tập tích cực, đáp ứng được yêu cầu của xã hội đặt ra. Từ lâu, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về giáo dục đề cập đến vần đề tự học. Xin liệt kê một số định nghĩa như sau: Trong tác phẩm “Học và dạy các học” của Nguyễn Cảnh Toàn:“Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp và các phẩm chất khác của người học, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan thế giới quan để chiếm lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại, biến tri thức đó thành sở hữu của chính mình”[5,tr 89]. Bên cạnh đó, trong cuốn “Tự học: nhu cầu thời đại” tác giả Nguyễn Hiển Lê đã viết:“Tự học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm. Có thầy hay không ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn làm chủ mình, muốn học môn nào tùy ý, muốn học lúc nào cũng được:đó mới là điều kiện quan trọng.”[6, tr.14] Tóm lại, tổng hợp các quan niệm về tự học của các tác giả có thể đưa ra khái niệm về tự học như sau: Tự học là tự mình động não suy nghĩ, sử dụng khả năng trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,đánh giá…) và có khi cả
- 12 cơ bắp (sử dụng các công cụ thực hành), cùng các phẩm chất của cá nhân như: động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan (kiên trì, nhẫn nại, không ngại khó, say mê nghiên cứu khoa học, ...) để chiếm lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại và biến tri thức đó thành sở hữu của riêng mình. 1.2. Các hình thức tự học Tự học là hoạt động rất đa dạng, phong phú bao gồm rất nhiều biểu hiện khác nhau mà sau đây xin được kể ra những biểu hiện cụ thể của tự học như sau: 1.2.1.Tự học trên lớp học Nếu chúng ta quan niệm rằng tự học là học ở ngoài tiết dạy của giảng viên thì hơi hẹp. Tự học trên lớp có thể là hình thức tự học được tổ chức tại lớp học như làm bài tập, thảo luận nhóm...mà SV phải tự làm, tự nghiên cứu, thầy cô chỉ là người đứng ở bên ngoài để quan sát trực tiếp và đánh giá quá trình thực hiện của sinh viên. Bên cạnh đó, kết hợp lắng nghe và ghi chép bài thuyết giảng của giảng viên cũng là hình thức tự học trên lớp bởi sinh viên phải tự làm chứ giảng viên không làm thay. Vậy làm sao để đạt hiệu quả tốt nhất? Có nên vừa nghe giảng vừa ghi chép bài giảng hay không? Theo Nguyễn Cảnh Toàn [5, tr.136]: “Chúng ta có thể cùng một lúc nhận rất nhiều tín hiệu âm thanh khác nhau. Chính vì vậy chúng ta phải tập trung cao độ và có sự lựa chọn tín hiệu. Đặc biệt, khi nghe giảng phải nhanh chóng nắm bắt được tính logic của bài và phải so sánh, đối chiếu với những tư duy, suy nghĩ của mình xem có đúng với lời thầy cô giảng bài hay không, nếu trùng khớp thì người học sẽ cảm thấy hứng thú, nếu suy nghĩ không khớp với bài giảng của thầy cô thì lúc ấy sinh viên nên mạnh dạng phát biểu ý kiến của mình với thầy cô bởi biết đâu cùng một nội dung sẽ có nhiều cách diễn đạt khác nhau, ý kiến mới ấy sẽ làm bài học phong phú hơn, nhưng nếu ý kiến ấy sai thì chúng ta sẽ sửa lại và ghi nhớ lâu hơn”. Chính vì vậy cho thấy rằng,
- 13 không chỉ tự học ngoài giờ lên lớp quan trọng mà việc tự học trên lớp cũng góp phần rất lớn quyết định kết quả học tập của SV. Trong giờ học trên lớp, ngoài việc tích cực phát biểu xây dựng bài thì SV phải tập trung cao độ, tránh tư tưởng phân tâm, lơ đãng, suy nghĩ viễn vong đến việc khác, phải biết kết hợp giữa lắng nghe và ghi chép bài giảng. Nếu trong quá trình học, SV cố gắng chép hết bài giảng mà không chú ý lắng nghe, phân tích thì kết quả mang lại sẽ thật thậm tệ. Những điều chép được sẽ như “cái xác không hồn”, về nhà đọc lại SV sẽ không hiểu ý thầy cô muốn nói gì và những điều chép lại không giúp ích gì cho việc tự học. Hay nếu quá tập trung vào nghe giảng mà không ghi chép thì những lời giảng SV sẽ như “gió thoảng mây bay” chẳng đọng lại được gì trong trí nhớ. Bởi vậy, việc kết hợp giữa lắng nghe và ghi chép nhanh (trong quá trình chép sẽ có sự phân tích của trí óc) là phương pháp học tập đem lại kết quả cao. SV cần phải có những ký hiệu hay những từ viết tắt để ghi chép nhanh thông tin thầy cô cung cấp và những kiến thức mới biết, những kiến thức chưa hiểu có thể gạch chân để tự tìm hiểu hay hỏi giảng viên tại lớp. 1.2.2. Tự học ngoài lớp học Là các hình thức tự học ở ngoài lớp, ngoài trường mà SV chỉ đóng vai trò là tư vấn, hướng dẫn và trong một thời gian nhất định SV phải phải cho ra sản phẩm cụ thể. 1.2.2.1. Học nhóm Học nhóm là hình thức tự học tích cực trong chương trình đào tạo theo tín chỉ, ngày càng được chú trọng tổ chức. Với cách học này, người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào công việc chung của nhóm và được phân công một cách rõ ràng. Số lượng người học trong một nhóm thường không xác định tùy thuộc vào nhiệm vụ khó hay dễ, lớp học đông hay ít. Một nhóm học đem lại hiệu quả
- 14 làm việc cao khi mọi thành viên trong nhóm đều tham gia đòng góp ý kiến của mình, các ý kiến đưa ra đều được các bạn trong nhóm lắng nghe và được ghi nhận. Các ý kiến của các thành viên đồng nhất đôi khi cũng không tốt mà cần đến sự không đồng nhất giữa các thành viên trong nhóm cũng tạo nên chất xúc tác làm quá trình học nhóm đạt hiểu quả hơn. Sự không đồng nhất ấy sẽ sản sinh ra những ý kiến, phát hiện mới có ích cho bài tập chung của nhóm. Từ những ý kiến không đồng nhất ấy người học sẽ giải quyết mâu thuẫn và thuyết phục người khác ủng hộ ý kiến của mình, mà điều đó sẽ rất tốt cho tương lai của các bạn cho công việc sau này nhưng cho dù như thế nào thì rằng tất cả ý kiến thảo luận của nhóm là vì lợi ích chung của nhóm tránh để cái tôi lên cao, cự cãi, khó chịu vì ý kiến bị bát bỏ Tác giả Trần Mai Ước cho rằng: Trong học tập theo nhóm “Nhiệm vụ cả nhóm mang tính cộng tác vì người học không thể giải quyết một mình mà phải cần đến sự cộng tác thực sự giữa các thành viên trong nhóm, tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo tính độc lập giữa các thành viên. Hơn nữa, người dạy phải có yêu cầu rõ ràng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác giữa người học có hiệu quả tốt nhất. Người dạy không nên can thiệp quá sâu vào nội dung mà chỉ giữ vai trò chỉ dẫn thực sự trong các nhóm về các vấn đề sau: Tổ chức lấy ý kiến, hướng dẫn thảo luận; cung cấp những thông tin cần thiết; theo dõi ý kiến; quan điểm của mỗi một thành viên; duy trì hướng đi cho các nhóm theo đúng nhiệm vụ được giao, tránh trường hợp một thành viên làm cả nhóm hưởng thành quả”.[8,tr.392] 1.2.2.2. Đọc sách Sách là một kho tàng tri thức của nhân loại, là cánh cửa để con người bước ra thế giới, nếu SV thường xuyên đọc sách sẽ rèn luyện được rèn luyện kỹ năng nghiên cứu, tư duy cũng như nâng cao hiểu biết của bản thân. Chính vì vậy, đọc sách là một điều cần phải được thực hiện hằng ngày để làm phong phú tri thức bản thân. Như Nguyễn Cảnh Toàn đã viết trong tác phẩm
- 15 Học và dạy cách học đã nêu: “Sách là phương tiện học tập thuận lợi nhất và rẻ tiền nhất. Sách là kho tàng tri thức mà nhân loại lưu lại cho các thế hệ sau” [5,tr.101]. Chính vì vậy, muốn tự học tốt SV cần phải có thói quen đọc sách. Tự học với sách chính là đang học với tác giả của quyển sách và việc đọc sách phải có một phương pháp đúng đắn mới đem lại kết quả cao. Đọc sách ở đây không có nghĩa là vào thư viện đọc sách từ sáng đến chiều, đọc hết quyển sách này đến quyển sách khác nhưng cuối cùng vẫn không biết tác giả muốn nói điều gì mà muốn đọc sách có hiệu quả thì trong quá trình đọc cần phải có sự nghiền ngẫm, phân tích của trí óc và bên cạnh đó người học nên gạch chân những nội dung mình tâm đắc hay không hiểu để hỏi người khác hay tìm kiếm sách khác mà đọc, bởi có thể cùng một nội dung nhưng mỗi tác giả sẽ có cách diễn đạt khác nhau. Chính vì vậy, muốn đạt được kết quả cao trong học tập thì ngoài thời gian lên lớp SV dành nhiều thời gian cho đọc sách. 1.2.2.3. Làm bài tập Giải bài tập cũng là hình thức tự học qua đó sinh viên phải có sự kết hợp giữa bài giảng thầy cô trên lớp, sách giáo khoa, khả năng tư duy và sự nỗ lực, cố gắng của bản thân người học mới làm tốt được. SV thường xuyên làm bài tập sẽ hiểu bài hơn, có thêm nền tảng kiến thức để tiếp thu bài mới nhanh hơn và bên cạnh đó rèn luyện khả năng tư duy nhạy bén, áp dụng những kiến thức đã học vào các trường hợp cao hơn. Có thể cùng một bài toán có người giải được, có người không giải được vì điều đó tùy thuộc vào tư duy, ý chí và phương pháp tự học của mỗi sinh viên. 1.2.2.4. Ôn lại bài cũ và liên hệ thực tiễn Ôn lại bài cũ và liên hệ thực tiễn là quá trình tái hiện tri thức đã được học ở trên lớp. Ôn lại bài cũ là hình thức giúp người học củng cố lại kiến thức đã học trên lớp và giúp người học có thể vận dụng kiến thức mới và ghi nhớ kiến thức lâu hơn qua việc liên hệ thực tiễn, tạo nền tảng để tiếp thu kiến thức mới.
- 16 1.2.2.5. Xem bài trước khi đến lớp Thường xuyên xem bài trước khi đến lớp là hình thức tự học cần được thực hiện thường xuyên để phục vụ cho việc tiếp thu bài giảng trên lớp. Xem bài trước khi đến lớp sẽ mang lại rất nhiều lợi ích như là người học sẽ tiết kiệm thời gian hơn vì khi đọc bài trước ở nhà người học sẽ nắm bắt được cấu trúc của bài sắp được học trên lớp gồm có mấy nội dung, nội dung nào là quan trọng nhất và có những vấn đề nào chưa rõ để hỏi giảng viên. Thay vì lên lớp đợi giáo viên phân tích rồi mới tìm ra chỗ không hiểu để hỏi giảng viên thì khi xem bài trước ở nhà SV sẽ biết được những điều mình băng khoăn và hỏi ngay giảng viên lúc đó, những thắc mắc sẽ được giải đáp kịp thời. Bên cạnh đó, khi nghe thầy cô giảng trên lớp là lúc người học có cơ hội để lắng nghe thêm một lần nữa và kiểm tra lại kiến thức đã tìm hiểu trước ở nhà . Ngoài ra, SV sẽ mạnh dạng tham gia xây dựng bài hơn, làm cho tiêt dạy thêm sinh động, tạo được ấn tượng trong mắt thầy cô cũng như có thể tham gia thảo luận nhóm ở bất kỳ nhóm nào mà không phải rụt rè, e sợ và chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao trong học tập. 1.2.2.6. Tự học bằng tài liệu hướng dẫn Tự học bằng tài liệu hướng dẫn là hình thức tự học trong đó không chỉ hướng dẫn người học về nội dung kiến thức mà bên cạnh đó còn hướng dẫn người học phát triển vấn đề, để sau khi thực hiện các thao tác người học có thể biết được mình làm đúng hay sai. Tự học bằng tài liệu có hướng dẫn gồm có 2 hình thức cơ bản là: tự học bằng sách hướng dẫn và tự học bằng phần mềm máy tính. Tự học với sách hướng dẫn là khi tự học với sách hướng dẫn thông thường ở nội dung trước sẽ là những câu hỏi bài tập và phía sau sẽ có gợi ý và đáp án. Nhiệm vụ của người học phải mài mò tìm ra cách giải để cho ra đáp án đúng. Nếu người học cho ra kết quả không phù hợp, thì với gợi ý đã có người học sẽ làm lại cho đến khi áp án trùng khớp.
- 17 Tự học với phần mềm máy tính cũng vậy, phần mềm ấy sẽ bao gồm nội dung kiến thức thể hiện dưới dạng bài tập tự luận hay thể hiện dưới dạng những câu hỏi trắc nghiệm với nhiều đáp án khác nhau để người học lựa chọn. Sau khi người học cho ra đáp số hệ thống sẽ báo đúng hay sai, nếu chưa đúng thì sẽ làm lại đến khi trùng khớp với đáp án. 1.2.2.7. Tự học bằng phương tiện thông tin Hình thức tự học này hiện nay đang được nhiều người học trẻ tuổi lựa chọn bởi nhanh chóng và tiện lợi của hình thức này. Tuy nhiên, người học phải lựa chọn kỹ càng để tránh tiếp thu những nguồn thông tin không chính thống bởi những nguồn thông tin không được kiểm định. Với hình thức tự học này, sinh viên có thể học từ các tài liệu điện tử trên mạng, xem video hay nghe giảng qua các thông tin như internet, radio, tivi....và tiếp nhận thông tin từ một phía. Với cách tự học này, sinh viên sẽ có thêm một số kiến thức bổ ích phục vụ cho việc học, rèn luyện khả năng tư duy độc lập của bản thân nhưng khi có những thắc mắc sẽ tự mình cố gắng giải quyết vấn đề mà không có sự trợ giúp trực tiếp của giảng viên. 1.3. Những nhân tố tác động đến hiệu quả của quá trình tự học 1.3.1. Nhân tố khách quan 1.3.1.1. Tác động nhà trường Quy chế đào tạo. Quy chế đào tạo quy định về việc tổ chức tự học của SV trong chương trình đào tạo theo tín chỉ ở trường ĐH, CĐ nói chung cũng như ĐHSG nói riêng có vai trò rất quan trọng. Bởi đây là cơ sở để nhà trường triển khai quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức tự học cho SV xuống từng khoa cũng như lập kế hoạch quy định số tiết lên lớp, số tín chỉ đạt được, số giờ tự học, cách thức đánh giá kiểm tra….. rồi từ đó khoa triển khai cho giảng viên và yêu cầu mỗi giảng viên phải điều chỉnh phương pháp giảng dạy tích cực để
- 18 đáp ứng được yêu cầu của chương trình đề ra, mỗi SV phải điều chỉnh phương pháp học tập của bản thân dành thời gian tự học hợp lí để đạt được hiệu quả cao trong học tập. Điều kiện trang thiết bị, cơ sở vật chất, thông tin từ bên ngoài. + Thư viện: Là nơi cung cấp nguồn tài liệu giúp ích rất nhiều cho quá trình tự học của sinh viên. Tài liệu tham khảo trong thư viện: Tài liệu tham khảo trong thư viện rất cần thiết cho quá trình tự học của SV bởi khi không có thầy bên cạnh, có những vấn đề thắc mắc sinh viên sẽ phải hỏi tài liệu tham khảo như sách, tạp chí... Mua tài liệu thì không có khả năng nên đến thư viện tham khảo tài liệu là sự lựa chọn rất nhiều bạn sinh viên. Nguồn tài liệu trong thư viện phải phong phú về nội dung, số lượng sẽ tạo thuận lợi cho giảng viên trong việc đổi mới phương pháp dạy tích cực và đáp ứng yêu cầu tự học ngày càng cao của sinh viên. Tài liệu tham khảo gồm tài liệu như sách, báo, khóa luận tốt nghiệp, luận văn..... có trong thư viện và có cả những tài liệu điện tử trên thư viện trực tuyến. Số lượng máy tính trong thư viện: Máy tính trong thư viện phục vụ cho nhu cầu tìm tài liệu trong thư viện cũng như trong tài liệu điện tử ở thư viện. Để việc tìm kiếm tài liệu được dễ dàng hơn yêu cầu máy tính trong thư viện phải đủ sử dụng và phải trong tình trạng hoạt động tốt. Chính vì vậy, số lượng máy trong thư viện có vai trò quan trọng hỗ trợ giúp SV tiết kiệm thời gian và đạt hiệu quả cao trong việc tự học. + Khu tự học: Khu tự học phải là không gian lí tưởng để phục vụ cho việc tự học của SV. Khu tự học yêu cầu phải được che chắn thoáng mát, sạch sẽ, có đủ bàn ghế, có ổ cắm, wifi để phục vụ cho nhu cầu tự học của SV và đặc biệt không gian phải yên tĩnh, tránh âm thanh ồn ào làm người học phân tâm khiến quá trình tự học không đạt hiệu quả.
- 19 + Phương tiện thông tin: Lắp đặt nhiều hệ thống wifi hoạt động mạnh để thuận tiện cho việc tìm kiếm thông tin hỗ trợ cho quá trình tự học của sinh viên. + Phương tiện dạy học : Phòng học cần trang bị máy chiếu, âm thanh để ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học làm tiết dạy sinh động hơn, sinh viên sẽ dễ hiểu bài hơn. + Giảng đường: Đủ chỗ ngồi cho SV, phòng học thoáng mát, yên tĩnh, bàn ghế ở giảng đường phải mới, có quạt, đèn, máy chiếu, âm thanh hoạt động tốt để phục vụ tốt cho việc học tập của SV. Theo bài viết của Phan Văn Tấn và Nguyễn Phước Tài có nêu “Bàn ghế có thể di chuyển theo các hướng khác nhau, để tạo sự tương tác giữa người học với nhau” [9, tr.317] nhằm phục vụ cho hoạt động thảo luận nhóm giữa các thành viên thuận lợi hơn, lớp học lí tưởng nhất có tối đa 50 SV. 1.3.1.2. Tác động của giảng viên Phương pháp dạy. Khi bước sang chương trình đào tạo theo tín chỉ, vai trò của sinh viên là trung tâm nhưng không có nghĩa là phủ nhận vai trò của giảng viên mà vai trò của giảng viên sẽ tăng thêm rất nhiều. Trong bài viết của Đậu Trọng Chương đã nêu ý kiến của PGS.TS Phạm Viết Vượng về tổ chức dạy học theo phương pháp mới là: “Chuyển từ cách dạy theo kiểu giải thích, minh họa để học sinh hiểu và nhớ sang lối dạy: học sinh hoạt động, tự tìm phương pháp nhận thức, tự hình thành khái niệm khó học” [2,tr.13]. Yêu cầu mỗi SV phải thay đổi phương pháp dạy để tạo hứng thú để SV tự học. Thay đổi phương pháp dạy ở đây là giảng viên không còn phải làm thay mọi việc cho SV hay giảng giải tất cả nội dung bài học như trước kia mà chuyển sang phương pháp dạy theo lối hướng dẫn, dạy SV biết cách học. Chính vì vậy, phương pháp giảng dạy tích cực là phương pháp gợi cho sinh viên nhìn thấy những vấn đề “ ẩn” bên trong và hướng dẫn sinh viên đường
- 20 đi, cách đi để làm sáng tỏ vần đề đó, điều đó lí giải tại sao cùng một nội dung giảng dạy nhưng sinh viên lại thích giảng viên này dạy hơn giảng viên khác là do phương pháp dạy. Theo Nguyễn Cảnh Toàn trong “ Học và dạy cách học” cho rằng: “Người dạy giỏi là người biết làm cho những gì ẩn phải “hiện ra” một cách phù hợp với tâm – sinh lý của người học để người học biết cách tập làm các thao tác tư duy để rèn luyện tư duy, biết tự phê bình và sửa chữa để phấn đấu nâng cao phẩm chất, nhân cách” [5, tr.20] . Muốn phương pháp dạy thành công, trước tiên giảng viên phải là tấm gương sáng để sinh viên nôi theo. Giảng viên có tự học thì mới có thể chỉ dạy, huống dẫn sinh viên cách tự học từ đó sẽ có phương pháp tích cực cuốn hút người học và Nguyễn Cảnh Toàn còn cho rằng: “ ….giảng viên cần phải thể hiện mình là người khoan dung, độ lượng và luôn tôn trọng người học, tránh làm cho người học tự ti vì sự non nớt của họ ví dụ như hỏi sợ thầy cô chê, hay sợ bị la nên không dám hỏi dần dần kiến thức không hiểu ngày càng nhiều dẫn thế tâm lí chán học. Chính vì vậy, giảng viên cần phải có sự yêu nghề, sẵn sàng phục vụ người học, sẵn sàng lắng nghe... sẽ tạo nên một sự hòa hợp” [5,tr.225]. Chính điều ấy giảng viên có một sự ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tự của sinh viên, là người truyền cảm hứng tự học cho sinh viên. Tư vấn cho sinh viên cách tìm kiếm tài liệu liên quan môn học. Xã hội ngày càng phát triển, những tri thức nhân loại ngày càng vô cùng đa dạng, phong phú, giảng viên phải hướng dẫn cho SV cách tìm kiếm tài liệu cũng như thu thập thông tin từ những tài liệu ấy để tiết kiệm thời gian và chọn những nguồn thông tin chính thống để tìm hiểu. Chính vì vậy, vai trò tư vấn của giảng viên rất quan trọng sẽ giảm bớt đi những khó khăn khi người học phải tự mài mò một mình. Giảng viên là người định hướng và giúp sinh viên xác định nhiệm vụ học tập thể hiện qua đề cương môn học.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
13 p | 2487 | 691
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn hóa du lịch: Tìm hiểu việc tổ chức, quản lý, khai thác Lễ khai ấn đền Trần với phát triển du lịch của tỉnh Nam Định
75 p | 427 | 62
-
Khóa luận tốt nghiệp: Yếu tố 4p trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
88 p | 181 | 50
-
Khóa luận tốt nghiệp Sư phạm Vật lí: Tổ chức cho học sinh tự lực học tập chương “Cảm ứng điện từ” - Vật lý 11 Nâng cao
95 p | 198 | 43
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân quyền tại Công ty Cổ phần Công nghệ Sapo
83 p | 72 | 23
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tư vấn giải pháp quản lý năng suất chất lượng
66 p | 111 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nhân hóa tu từ trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài
77 p | 28 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Phương thức chiếu vật trong tác phẩm Tô Hoài
81 p | 37 | 15
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Yếu tố kỳ ảo trong Chiếc áo khoác của Gogol và Miếng da lừa của Balzac
84 p | 19 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tạo động lực làm việc cho người lao động tại Công ty Cổ phần May xuất khẩu Đại Đồng
62 p | 26 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Câu hỏi tu từ trong hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc của Tố Hữu
108 p | 23 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Kế toán kiểm toán: Hoàn thiện tổ chức công tác tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty TNHH May Thời trang Tân Việt
103 p | 40 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tính từ trong một số tác phẩm của Tô Hoài
118 p | 20 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cái tôi trữ tình trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
87 p | 15 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ láy trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu
109 p | 19 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân quyền của Công ty TNHH Dịch vụ và Phát triển Thương mại Trường Vinh
59 p | 20 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đơn phương chấm dứt hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn
77 p | 15 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác tin báo về tội phạm của VKSND quận Hồng Bàng - Hải Phòng
94 p | 10 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn