Kinh tế có vốn đầu tư . . .<br />
<br />
Nghiên cứu – Trao đổi<br />
<br />
KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI THỜI KỲ ĐẨY<br />
MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN<br />
<br />
Hoàng Xuân Sơn*, Hồ Thị Thanh Trúc**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài được<br />
xem là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế - xã hội<br />
của Việt Nam. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan<br />
trọng, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, tạo việc làm cho<br />
người lao động. Đồng thời khu vực này cũng tạo động lực thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ,<br />
cải tiến phương thức quản lý kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh hơn cho nền kinh tế Việt Nam<br />
đang phát triển.<br />
Từ khóa: kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam<br />
<br />
ECONOMY OF FOREIGN-INVESTED PERIOD OF ACCELERATED<br />
INDUSTRIALIZATION, MODERNIZATION IN VIETNAM –<br />
AWARENESS AND PRACTICES<br />
ABSTRACT<br />
In the process of industrialization and modernization of the country, foreign direct<br />
investment is seen as one of the important factors that contribute significantly to economic - society<br />
development of Vietnam. Corporate sector foreign investment has reaffirmed the important role<br />
and contribute positively to economic growth, improve the balance of payments and create jobs<br />
for laborers. Also, the area is also motivational boost technological innovation processes, improve<br />
business management practices, improve competitiveness over Vietnam’s economy is growing.<br />
Keywords: economy, foreign investment, industrialization and modernization, Vietnam<br />
<br />
∗<br />
<br />
ThS. Giảng viên Trường Đại học Kinh tế TP.HCM. ĐD: 0907.600.789. Email: xuanson@ueh.edu.vn<br />
ThS. Giảng viên Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan. ĐD: 09090.22483. Email: hotruc.lkt@gmail.com<br />
<br />
∗∗<br />
<br />
129<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Quan điểm về thành phần kinh tế có vốn<br />
đầu tư nước ngoài (KTĐTNN) dần được hình<br />
thành và phát triển từ Đại hội VI của Đảng<br />
(1986) cho đến nay và thuật ngữ “kinh tế có<br />
vốn đầu tư nước ngoài” lần đầu tiên được ta<br />
xác nhận tại Đại hội IX (2001), tiếp tục khẳng<br />
định tại Đại hội X (2006), Đại hội XI (2011)<br />
và Dự thảo Văn kiện Đại hội XII (2015). Theo<br />
đó, khái niệm KTĐTNN (đầu tư trực tiếp<br />
nước ngoài – FDI) được hiểu là hình thức đầu<br />
tư mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ<br />
hay phần đủ lớn vốn đầu tư của dự án nhằm<br />
giành quyền điều hành hoặc tham gia điều<br />
hành doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh<br />
dịch vụ.<br />
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã<br />
khẳng định sự tồn tại của KTĐTNN là một tất<br />
yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ<br />
nghĩa xã hội và việc cải tạo thành phần kinh<br />
tế này là một trong những nhiệm vụ kinh tế<br />
cơ bản, lâu dài của cả thời kỳ quá độ. Thực<br />
tiễn Việt Nam cũng cho thấy, việc phát triển<br />
KTĐTNN trong nền kinh tế thị trường định<br />
hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương<br />
đúng đắn và nhất quán của Đảng dựa trên<br />
cơ sở khoa học, phù hợp với quy luật kinh tế<br />
khách quan, là sự vận dụng một cách sáng tạo<br />
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh<br />
vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.<br />
2. Quá trình nhận thức của Đảng về<br />
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước<br />
ngoài thời kỳ đổi mới<br />
Tại Đại hội VI (1986), Đảng khẳng định:<br />
“công bố chính sách khuyến khích nước ngoài<br />
đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức,<br />
nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi<br />
kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với<br />
việc công bố luật đầu tư, cần có chính sách và<br />
biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người<br />
<br />
nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp<br />
tác kinh doanh”1. Tuy nhiên, khuyến khích<br />
đầu tư nước ngoài, Đảng cũng lưu ý “việc mở<br />
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ làm nảy sinh<br />
những vấn đề phức tạp, cần có biện pháp hạn<br />
chế và ngăn ngừa những hiện tượng tiêu cực,<br />
song không vì thế mà đóng cửa lại”2.<br />
Đại hội VII của Đảng (1991) chủ trương:<br />
“tranh thủ mọi khả năng và dùng nhiều hình<br />
thức thu hút vốn ngoài nước” nhằm mục đích<br />
“phá thế bao vây, cấm vận về kinh tế đối với<br />
nước ta” và “chú trọng hình thức công ty nước<br />
ngoài đầu tư trực tiếp vào nước ta, gắn với<br />
chuyển giao công nghệ tiên tiến và đẩy mạnh<br />
xuất khẩu”3. Để thực hiện chủ trương này,<br />
Đảng khẳng định cần phải: tạo môi trường<br />
và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài<br />
vào nước ta đầu tư, hợp tác kinh doanh. Xây<br />
dựng thể chế đồng bộ, ổn định, thuận tiện và<br />
tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh; thống nhất<br />
đầu mối giải quyết các thủ tục và yêu cầu đầu<br />
tư của nước ngoài. Bảo đảm những điều kiện<br />
thiết yếu về cơ sở hạ tầng, phương tiện làm<br />
việc và sinh hoạt cho người nước ngoài, trước<br />
hết là các khu chế xuất và những địa bàn đầu<br />
mối trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Tổ chức<br />
tốt thông tin kinh tế và chủ động chuẩn bị các<br />
dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài. Đào tạo đội<br />
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh tế<br />
đối ngoại theo cơ chế mới, với các đối tượng<br />
mới4. Song, Đảng cũng lưu ý: việc khuyến<br />
khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài phải đặt<br />
trong chiến lược phát triển và cơ chế quản lý<br />
đồng bộ, bảo đảm chủ quyền, khả năng kiểm<br />
soát và định hướng của Nhà nước đối với quá<br />
trình phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ<br />
chế quản lý nhà nước đối với việc thực hiện<br />
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời<br />
kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, HN, tr.89<br />
2 Sđd, tr.90<br />
3 Sđd, tr.362<br />
4 Sđd, tr.364<br />
<br />
130<br />
<br />
Kinh tế có vốn đầu tư . . .<br />
<br />
các dự án đầu tư có vốn nước ngoài và các<br />
công trình hoàn thành xây dựng đi vào hoạt<br />
động, đi đôi với việc mở rộng nhiều hình thức<br />
đầu tư, cần tăng dần tỷ trọng tham gia của phía<br />
Việt Nam vào công trình hợp tác liên doanh5.<br />
Đến Đại hội VIII (1996), Đảng tiếp tục<br />
chủ trương “tăng khả năng tiếp nhận vốn đầu<br />
tư và công nghệ từ bên ngoài” bằng các nhiệm<br />
vụ và giải pháp cụ thể: đầu tư trực tiếp của<br />
nước ngoài (FDI) hướng vào những lĩnh vực,<br />
những sản phẩm và dịch vụ có công nghệ tiên<br />
tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao. Đối với những<br />
ngành không đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ<br />
cao, có thể sinh lợi nhanh thì phải dùng nhiều<br />
hình thức để huy động vốn trong nước đầu tư<br />
toàn bộ hoặc chiếm tỷ lệ góp vốn cao nếu cần<br />
liên doanh. Về địa bàn đầu tư, cần có chính<br />
sách và biện pháp hữu hiệu để thu hút vào<br />
những nơi có tiềm năng nhưng trước mắt còn<br />
khó khăn. Hình thức đầu tư cần tiếp tục đa<br />
dạng hóa, chú ý thêm những hình thức mới,<br />
như đầu tư tài chính (bên ngoài góp vốn, mua<br />
cổ phần, nhưng không tham gia quản lý như<br />
xí nghiệp liên doanh). Về đối tác đầu tư, cần<br />
tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty đa<br />
quốc gia để tranh thủ được công nghệ nguồn,<br />
tiếp cận cách quản lý hiện đại và thâm nhập<br />
nhanh vào thị trường quốc tế, mở rộng được<br />
thị trường mới6. Với chủ trương này, Đảng đã<br />
bước đầu thử nghiệm việc cho phép công ty<br />
và người nước ngoài mua cổ phiếu của các<br />
công ty cổ phần trong nước kể cả các doanh<br />
nghiệp nhà nước cổ phần hóa, trong hạn mức<br />
quy định theo ngành nghề kinh doanh.<br />
Đại hội IX của Đảng (2001) là Đại hội đầu<br />
tiên của Đảng tiến hành trong thiên niên kỷ<br />
mới, xác định mô hình kinh tế tổng quát của<br />
nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH là nền<br />
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa<br />
<br />
và khẳng định kinh tế thị trường định hướng<br />
xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế<br />
vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường<br />
vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối<br />
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa<br />
xã hội”(7). Trên cơ sở nền kinh tế thị trường<br />
định hướng xã hội chủ nghĩa, với KTĐTNN,<br />
Đảng xác định: “KTĐTNN là một bộ phận<br />
của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích<br />
phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh<br />
doanh hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, hàng<br />
hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng<br />
kết cấu hạ tầng”8, trên cơ sở đó Đảng chủ<br />
trương: “tạo điều kiện để KTĐTNN phát triển<br />
thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết<br />
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút<br />
công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm.<br />
Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu<br />
hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”9. Như vậy,<br />
đến đây thành phần KTĐTNN đã được tách<br />
ra khỏi thành phần kinh tế tư bản nhà nước để<br />
trở thành một thành phần kinh tế độc lập trong<br />
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở<br />
Việt Nam.<br />
Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại<br />
hội IX, đối với thành phần KTĐTNN, Đại<br />
hội X của Đảng (2006) đánh giá: “KTĐTNN<br />
có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm<br />
15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới<br />
về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc<br />
tế”10, với đóng góp quan trọng của thành phần<br />
kinh tế này đối với nền kinh tế Việt Nam thời<br />
gian qua, Đảng tiếp tục khẳng định: các doanh<br />
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ<br />
phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam,<br />
được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt<br />
Nam trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho đầu<br />
7 <br />
8 <br />
9 <br />
10 <br />
<br />
5 Sđd, tr.537<br />
6 Sđd, tr.571-572<br />
<br />
131<br />
<br />
Sđd, tr.635-636<br />
Sđd, tr.724<br />
Sđd, tr.646<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu<br />
toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, HN, tr.146<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát<br />
triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp<br />
với các cam kết quốc tế của nước ta11.<br />
Với những đóng góp quan trọng và vị trí<br />
của thành phần KTĐTNN từ khi được xác<br />
định (2001), Cương lĩnh xây dựng đất nước<br />
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát<br />
triển năm 2011) nhấn mạnh: “KTĐTNN được<br />
khuyến khích phát triển”12 và tại Đại hội XI<br />
(2011), Đảng xác định: phải “thu hút mạnh<br />
nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài”<br />
bằng hình thức “cải thiện môi trường pháp lý<br />
và kinh tế, đa dạng hóa các hình thức và cơ<br />
chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà<br />
đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề,<br />
lĩnh vực kinh doanh quan trọng”13 và “thu hút<br />
đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, thân<br />
thiện môi trường và tăng cường sự liên kết với<br />
các doanh nghiệp trong nước”14.<br />
3. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư<br />
nước ngoài từng bước khẳng định vai trò,<br />
vị trí trong thực tiễn<br />
Dưới tác động của chính sách mở cửa đã<br />
trở thành một trong những nhân tố chính tạo<br />
nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh của nền kinh<br />
tế Việt Nam. Trong 5 năm 1996 – 2000, tổng<br />
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực<br />
hiện (không kể phần góp vốn trong nước) đạt<br />
khoảng 10 tỷ USD (theo giá năm 1995), gấp<br />
1,5 lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư<br />
trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ sung đạt<br />
24,6 tỷ USD, tăng so với thời kỳ trước 34%15.<br />
Cơ cấu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài<br />
ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch<br />
cơ cấu kinh tế của nước ta; tỷ lệ vốn FDI thu<br />
<br />
hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ<br />
tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85%<br />
vào năm 200016.<br />
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước<br />
thuộc Liên minh châu Âu (EU), ASEAN có<br />
chiều hướng tăng hơn 5 năm trước (tỷ lệ vốn<br />
đăng ký của các dự án từ EU bình quân chiếm<br />
23,3% thời kỳ 1991 – 1995, tăng lên 25,8%<br />
thời kỳ 1996 – 2000; tỷ lệ vốn đăng ký các dự<br />
án từ các nước ASEAN đã tăng tương ứng từ<br />
17,3% lên 29,8%). Riêng các nước thuộc EU,<br />
Mỹ, Nhật Bản chiếm 44% tổng vốn đăng ký<br />
tại Việt Nam17.<br />
Đến năm 2013 đã có 1.530 dự án đầu tư<br />
nước ngoài vào Việt Nam với tổng vốn đăng<br />
ký kinh doanh là 22.352,2 triệu USD với tổng<br />
vốn đã thực hiện đạt 11.500 triệu USD18. Tính<br />
chung cả cấp mới và tăng vốn trong 10 tháng<br />
năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã<br />
đăng ký đầu tư vào Việt Nam là 13,7 tỷ USD,<br />
bằng 71,2% so với cùng kỳ 2013 và 1.306 dự<br />
án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với<br />
tổng vốn đăng ký 9,95 tỷ USD, bằng 76,1%<br />
so với cùng kỳ năm 201319.<br />
Vai trò, vị trí của KTĐTNN trong nền<br />
kinh tế Việt Nam thời gian qua ngày càng<br />
được khẳng định. Theo Tổng cục Thống kê,<br />
đến ngày 31-12-2011, có 9.010 doanh nghiệp<br />
FDI đang hoạt động. Trong đó, doanh nghiệp<br />
100% vốn nước ngoài là 7.516 doanh nghiệp<br />
(chiếm 83,4% toàn bộ doanh nghiệp FDI),<br />
doanh nghiệp liên doanh là 1.494 doanh<br />
nghiệp (chiếm16,6% toàn bộ doanh nghiệp<br />
FDI) với tổng số lao động làm việc trong<br />
các doanh nghiệp FDI là hơn 2,5 triệu người,<br />
trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài<br />
chiếm 89,7%, doanh nghiệp liên doanh với<br />
<br />
11 Sđd, tr.238<br />
12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất<br />
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm<br />
2011), Nxb. CTQG-ST, HN, tr.17<br />
13 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu<br />
toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG-ST, HN, tr.87<br />
14 Sđd, tr.111<br />
15 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời<br />
kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. CTQG, H, tr.764<br />
<br />
16 Sđd, tr.764<br />
17 Sđd, tr.764<br />
18 http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=392&idmid=3&Item<br />
ID=15453; Ngày truy cập: 12-01-2016<br />
19 http://fia.mpi.gov.vn/tinbai/1839/Tinh-hinh-Dau-tu-nuoc-ngoai10-thang-nam-2014; Ngày truy cập: 10-01-2016<br />
<br />
132<br />
<br />
Kinh tế có vốn đầu tư . . .<br />
<br />
nước ngoài là 10,3%, bình quân mỗi năm thu<br />
hút thêm 221 nghìn lao động, góp phần đáng<br />
kể vào giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho<br />
người lao động20.<br />
Đến hết năm 2011, đầu tư nước ngoài vẫn<br />
là khu vực phát triển mạnh nhất trong các khu<br />
vực kinh tế với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc<br />
độ tăng GDP của toàn nền kinh tế. Tốc độ tăng<br />
GDP năm 2011 so với năm 2010 của khu vực<br />
FDI tăng 6,30% trong khi GDP toàn nền kinh<br />
tế tăng 5,89%. Như vậy, tính đến năm 2011,<br />
sau hơn 20 năm hoạt động, các doanh nghiệp<br />
thuộc khu vực FDI đã trở thành một bộ phận<br />
quan trọng trong toàn bộ doanh nghiệp Việt<br />
Nam, chiếm 16,1% vốn sản xuất kinh doanh;<br />
18,3% tài sản cố định; 19,7% tổng doanh thu;<br />
31,5% lợi nhuận trước thuế; 32,2% đóng góp<br />
vào ngân sách Nhà nước21.<br />
Giai đoạn 2006 – 2011, đầu tư nước ngoài<br />
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng công<br />
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vốn đầu tư nước<br />
ngoài tập trung chủ yếu vào sản xuất công<br />
nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của khu vực FDI<br />
ngành công nghiệp đạt bình quân gần 18%/<br />
năm22, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành.<br />
Đến nay, khu vực FDI đã tạo ra gần 45% giá<br />
trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, đồng<br />
thời góp phần hình thành một số ngành công<br />
nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông;<br />
thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí; sản xuất<br />
các sản phẩm điện tử; công nghệ thông tin;<br />
sản xuất thép, xi măng....<br />
Đối với thu nhập bình quân một lao động<br />
một tháng năm 2011 của các doanh nghiệp<br />
FDI là 4,94 triệu đồng, gấp 2,3 lần năm 2006.<br />
Theo hình thức đầu tư, doanh nghiệp liên<br />
doanh có thu nhập cao hơn, đạt 6,8 triệu đồng,<br />
gấp xấp xỉ 2 lần năm 2006, trong khi thu nhập<br />
<br />
bình quân lao động của khu vực 100% vốn<br />
nước ngoài là 4,78 triệu đồng. Theo khu vực<br />
kinh tế, khu vực dịch vụ đạt mức thu nhập<br />
bình quân cao nhất với 12,8 triệu đồng, gấp<br />
2,3 lần năm 2006. Tiếp đến là khu vực công<br />
nghiệp và xây dựng 4,4 triệu đồng và thấp<br />
nhất là khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản<br />
4,3 triệu đồng23.<br />
Như vậy, hiệu quả kinh doanh của các<br />
doanh nghiệp FDI tăng rõ rệt qua các năm. Tỷ<br />
suất lợi nhuận của phần lớn các doanh nghiệp<br />
đều được cải thiện đáng kể. Tỷ suất lợi nhuận<br />
trên vốn của toàn khu vực FDI tăng nhanh<br />
hơn so với các khu vực khác.<br />
Tóm lại, kể từ khi Luật đầu tư trực tiếp<br />
nước ngoài có hiệu lực năm 1988, dòng vốn<br />
FDI luôn là động lực quan trọng trong quá<br />
trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta<br />
trong suốt hơn 25 năm qua. Khu vực kinh tế<br />
có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn phát triển<br />
năng động. Trong 25 năm từ 1988 - 2013, tổng<br />
vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt khoảng<br />
218,8 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 106,3<br />
tỷ USD, trong đó lĩnh vực công nghiệp chiếm<br />
tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư<br />
Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong<br />
10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước<br />
ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ<br />
USD, bằng 71,2% so với cùng kỳ 201324.<br />
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên,<br />
khu vực doanh nghiệp FDI thời gian qua vẫn<br />
bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đó là:<br />
Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập<br />
trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên<br />
vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giá trị gia tăng<br />
chưa cao, điển hình là các hoạt động lắp ráp ô tô,<br />
xe máy, điện - điện tử, may mặc, da giầy, trong<br />
khi Việt Nam là một nước có thế mạnh về nông<br />
<br />
20 Tổng cục Thống kê (2014), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước<br />
ngoài giai đoạn 2006 – 2011, Nxb. Thống kê, HN, tr.11<br />
21 Sđd, tr.9-10<br />
22 Sđd, tr.9-10<br />
<br />
23 Sđd, tr.18<br />
24 http://www.vietrade.gov.vn/tin-tuc/20-tin-tuc/4666-thc-trng-u-ttrc-tip-nc-ngoai-fdi-vit-nam.html; Ngày truy cập: 31-12-2015<br />
<br />
133<br />
<br />