intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh tế học - Phát triển khu vực dịch vụ: Phần 2

Chia sẻ: Hoa La Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:63

101
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 Tài liệu Phát triển khu vực dịch vụ do TS. Đinh Văn Ân và Hoàng Thu Hòa (đồng chủ biên) biên soạn trình bày nội dung chương 3 của Tài liệu. Nội dung chương này nói về khu vực dịch vụ ở Việt Nam, tập trung phân tích cơ hội và thách thức đối với khu vực dịch vụ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nêu ra một số kiến nghị đối với khu vực dịch vụ và các nội dung khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh tế học - Phát triển khu vực dịch vụ: Phần 2

  1. CHƯƠNG 3 TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KHU VỰC DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM TRONG 20 NĂM ĐỔI MỚI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN KHU VỰC DỊCH VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI I. Nhận thức về khu vực dịch vụ I.1. Tầm quan trọng của khu vực dịch vụ đối với công cuộc phát triển kinh tế- xã hội Những phân tích trong Phần I đã cho thấy vai trò to lớn của khu vực dịch vụ trong phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia. Đối với Việt Nam, những thành tựu trong 20 năm đổi mới vừa qua có sự đóng góp quan trọng của khu vực dịch vụ. Sự đóng góp này đã được chỉ ra trong nhiều báo cáo, được phân tích trong nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Phần trình bày dưới đây đánh giá tầm quan trọng của khu vực dịch vụ thông qua việc phân tích khái quát tác động của nó đến các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội cụ thể như: tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường...Có thể nói một cách khái quát: Dịch vụ là một khu vực kinh tế có khả năng lớn nhất trong việc huy động, liên kết và phát huy mọi nguồn lực của nền kinh tế để tạo ra giá trị gia tăng mới; chính bản thân khu vực dịch vụ có khả năng tạo ra giá trị gia tăng lớn. Vì lý do này, sự phát triển của khu vực dịch vụ còn được xem là thước đo sự phát triển của một nền kinh tế.10 Giữa GDP và khu vực dịch vụ có mối quan hệ khăng khít. Xét về tỷ trọng của dịch vụ trong GDP thì có thể thấy rõ quy luật chung là nền kinh tế càng tăng trưởng thì tỷ trọng của dịch vụ trong GDP càng cao. Xét về tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ thì quy luật chung là tăng trưởng của dịch vụ nhanh hơn tăng trưởng chung của GDP. Xét cơ cấu GDP của Việt Nam trong 20 năm đổi mới vừa qua, tỷ trọng dịch vụ đã có giai đoạn đạt tới hơn 40% (hồi giữa những năm 1990), sau đó giảm xuống và hiện nay đạt gần 40% (Bảng 3.1). Điều này có nghĩa là những biến động của khu vực dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn một phần ba GDP của Việt Nam. Điều đáng chú ý là sau khoảng 10 năm giảm liên tục, từ 44,06% năm 1995 xuống còn 37,98% năm 2004, tỷ trọng dịch vụ trong GDP trong năm 2005 đã tăng hơn năm trước, đạt 38,50%. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, sự gia tăng này 10 Nguyễn Trung - 2006 60
  2. báo hiệu đà hồi phục của khu vực dịch vụ khi nền kinh tế đất nước bước vào thời kỳ kế hoạch 5 năm 2006-2010. Bảng 3.1. Cơ cấu của các khu vực kinh tế trong GDP, 1990-2005 Đơn vị: % Nông, lâm Công nghiệp và Dịch vụ Năm nghiệp và thuỷ xây dựng sản 1990 38,74 22,67 38,59 1991 40,49 23,79 35,72 1992 33,94 27,26 38,80 1993 29,87 28,90 41,23 1994 27,43 28,87 43,70 1995 27,18 28,76 44,06 1996 27,76 29,73 42,51 1997 25,77 32,08 42,15 1998 25,78 32,49 41,73 1999 25,43 34,49 40,08 2000 24,53 36,73 38,74 2001 23,24 38,13 38,63 2002 22,99 38,55 38,46 2003 22,54 39,47 37,99 2004 21,81 40,21 37,98 2005 20,70 40,80 38,50 Nguồn: Niên giám Thống kê, nhiều năm. Do tỷ trọng dịch vụ khá cao trong cơ cấu GDP, cho nên khu vực dịch vụ đã có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP. Mặc dù trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP (ngoại trừ năm 2005), tuy nhiên tăng trưởng của khu vực này vẫn đóng góp gần 40% vào tăng trưởng chung của nền kinh tế (Bảng 3.2). Tính chung trong giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng GDP bình quân đạt 7,51%/năm, tốc độ tăng của khu vực dịch vụ đạt bình quân 6,97%, đóng góp của khu vực dịch vụ vào tăng trưởng GDP tính theo điểm phần trăm là 2,84 điểm phần trăm và tính theo tỷ lệ là 37,70%. Riêng năm 2005, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 8,48%, cao hơn mức tăng trưởng 8,43% của GDP, và tỷ lệ đóng góp của khu vực dịch vụ vào tăng trưởng GDP vượt qua 40%. Xét trong cơ cấu ba khu vực của nền kinh tế, có thể nhận thấy xu hướng khu vực dịch vụ ngày càng giữ vị 61
  3. trí quan trọng so với khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản cũng như khu vực công nghiệp và xây dựng. Bảng 3.2. Đóng góp của các khu vực kinh tế vào tăng trưởng GDP, 2001-2005 Đơn vị % 2001 2002 2003 2004 2005 2001- 2005 Tốc độ tăng trưởng GDP 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 7,51 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 2,98 4,17 3,62 4,36 4,04 3,84 Công nghiệp và xây dựng 10,39 9,48 10,48 10,22 10,65 10,24 Dịch vụ 6,10 6,45 6,45 7,26 8,48 6,97 Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm GDP 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 7,51 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 0,69 0,93 0,79 0,92 0,82 0,83 Công nghiệp và xây dựng 3,68 3,47 3,92 3,93 4,19 3,84 Dịch vụ 2,52 2,68 2,63 2,94 3,42 2,84 Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo tỷ lệ % GDP 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 10,37 13,20 10,76 11,80 9,78 11,12 Công nghiệp và xây dựng 53,39 48,95 53,37 50,48 49,71 51,18 Dịch vụ 36,54 37,85 35,86 37,72 40,52 37,70 Nguồn: Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2006). Khu vực dịch vụ được xem là khu vực có nhiều tiềm năng phát triển. Do vậy, trong tương lai, nếu các cơ hội phát triển được khai thác tốt, sự đóng góp của khu vực dịch vụ vào tăng trưởng GDP có thể tăng lên đáng kể. Thí dụ, có tính toán cho rằng, nếu công tác xã hội hoá hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá... được đẩy mạnh, thì các ngành này có thể đóng góp tới trên 10% vào tốc độ tăng trưởng GDP (con số này của năm 2005 là 6,07%)11. 11 Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2006), Kinh tế Việt Nam 2005, NXB Lý luận Chính trị, tr. 14, 15. 62
  4. Sự phát triển của khu vực dịch vụ trong thời gian qua đã tác động tích cực đến việc cải thiện đời sống của nhân dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục trong nhiều năm đã góp phần làm tăng mức GDP bình quân đầu người đạt bình quân 5,8%/năm trong giai đoạn 1990-2004, từ 114 USD năm 1990 lên 397 USD năm 2000 và 640 USD năm 2005. Điều này đã góp phần làm giảm tỷ lệ nghèo đói từ 58,1% năm 1993 xuống còn 22% năm 2005. Khu vực dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế về tạo việc làm và hỗ trợ giảm nghèo. Tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực dịch vụ ở Việt Nam trong những năm qua liên tục tăng do việc làm trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ngày càng giảm và có sự dịch chuyển lao động giữa hai khu vực này. Tính trung bình trong giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng người làm việc chính ở khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đã giảm 1,17 điểm phần trăm/năm; ở khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 0,96 điểm phần trăm/năm; và ở khu vực dịch vụ tăng 0,21 điểm phần trăm/năm. Năm 2005, tỷ trọng lao động trong ba khu vực nêu trên tương ứng là: 56,8%- 17,9%- 25,3%. Phần lớn lao động thiếu việc làm ở nông thôn đã chuyển sang tìm kiếm việc làm trong khu vực dịch vụ phi chính quy, chủ yếu là dịch vụ bán buôn và bán lẻ. Khu vực dịch vụ cũng là khu vực rất thích hợp cho sự thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp dịch vụ chiếm tới hơn một nửa tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam, trong đó có tới ba phần tư số lượng doanh nghiệp dịch vụ có dưới 5 lao động và khoảng một nửa số doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng. Sự gia tăng mạnh các doanh nghiệp dịch vụ là nhân tố quan trọng trong việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh việc tạo việc làm và thu nhập, một số ngành dịch vụ như giáo dục, y tế, văn hoá, an sinh xã hội,... có tác dụng trực tiếp nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Một số chỉ tiêu xã hội phản ánh chất lượng cuộc sống đã gia tăng liên tục trong những năm qua (Bảng 3.3). 63
  5. Bảng 3.3. Một số chỉ tiêu về xã hội, 2001-2005 Chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2002 2003 2004 2005 Tỷ lệ người lớn biết chữ % 93,1 93,4 92,7 90,3 93 Tỷ lệ người đi học trong % 67 67 64 64 độ tuổi 6-24 Số tỉnh đạt phổ cập trung Tỉnh - 12 19 25 32 học cơ sở Tỷ lệ tử vong của trẻ em ‰ 35 33 32 26 21 dưới 1 tuổi Tỷ lệ tử vong của trẻ em ‰
  6. do Nhà nước cung ứng, do vậy yếu tố công bằng xã hội được đặt lên hàng đầu. Ngay cả khi Nhà nước thực hiện chủ trương xã hội hoá cung ứng một số dịch vụ công, mục tiêu công bằng xã hội vẫn đặc biệt được chú trọng. Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao khẳng định rõ: “Thực hiện xã hội hoá nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất là phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao” (Phần II, Mục 1). Vị trí quan trọng của nhóm dịch vụ sự nghiệp và nhóm dịch vụ quản lý hành chính công trong khu vực dịch vụ nói chung có hàm ý rằng phát triển dịch vụ sẽ góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Xét trong cơ cấu ngành của khu vực dịch vụ, trong những năm vừa qua, cả ba nhóm ngành dịch vụ đều có tốc độ tăng trưởng tăng dần theo thời gian; đặc biệt là năm 2005 tốc độ tăng trưởng của cả ba nhóm ngành đều đạt khá cao. Tính trung bình trong giai đoạn 2001- 2005, nhóm dịch vụ sự nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhất, đạt 7,40%/năm- cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng chung của cả khu vực dịch vụ, chỉ đạt trung bình 6,97%/năm. Nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ hai là dịch vụ kinh doanh có tính thị trường (trung bình 7,02%/năm) và cuối cùng là dịch vụ quản lý hành chính công (trung bình 5,49%/năm). Tính gộp cả nhóm dịch vụ sự nghiệp và nhóm dịch vụ quản lý hành chính công thì trung bình trong những năm vừa qua, hai nhóm này đóng góp khoảng 1,5 điểm phần trăm và hơn 20% tốc độ tăng trưởng của cả khu vực dịch vụ nói chung (Bảng 3.4). Nhóm dịch vụ kinh doanh có tính thị trường có tốc độ tăng trưởng rất cao trong năm 2005 và được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong những năm tới khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sự phát triển của những dịch vụ này là động lực mạnh để phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương không có điều kiện phát triển thuận lợi như vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Thực vậy, sự phát triển của các dịch vụ như vận tải, viễn thông, thương mại, tài chính ngân hàng,... đã giúp cho các địa phương này phát triển kinh tế, từng bước giảm bớt sự chênh lệch với các địa phương có điều kiện phát triển thuận lợi hơn. Hơn nữa, phát triển dịch vụ cũng giúp một số địa phương khai thác được lợi thế vốn có của mình cho phát triển kinh tế như về du lịch, vui chơi giải trí, thương mại xuyên biên giới,... 65
  7. Đây là điều kiện tốt để đảm bảo giảm thiểu sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước. Bảng 3.4. Đóng góp của khu vực dịch vụ vào tăng trưởng GDP, 2001-2005 Đơn vị % 2001 2002 2003 2004 2005 2001- 2005 Tốc độ tăng trưởng Khu vực dịch vụ 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 6,97 DV kinh doanh có tính thị 6,23 6,57 6,30 7,31 8,67 7,02 trường 5,85 7,62 7,83 7,65 8,08 7,40 DV sự nghiệp 5,22 3,89 5,24 5,91 7,20 5,49 DV quản lý hành chính công Đóng góp vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ theo điểm phần trăm Khu vực dịch vụ 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 6,97 DV kinh doanh có tính thị 4,87 5,15 4,94 5,72 6,79 5,49 trường 0,86 1,12 1,16 1,15 1,22 1,10 DV sự nghiệp 0,37 0,27 0,36 0,40 0,48 0,38 DV quản lý hành chính công Đóng góp vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ theo tỷ lệ % Khu vực dịch vụ 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 DV kinh doanh có tính thị 79,84 78,74 76,48 78,69 79,99 78,75 trường 14,09 17,07 17,94 15,79 14,32 15,84 DV sự nghiệp 6,07 4,19 5,58 5,52 5,69 5,41 DV quản lý hành chính công Nguồn: Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2006) và tính toán của các tác giả. Phát triển khu vực dịch vụ có tác động tích cực rõ rệt đến gìn giữ môi trường. Bản thân nhiều ngành dịch vụ đã được coi là những ngành công nghiệp “sạch”, do đó giúp tránh gây huỷ hoại môi trường và tránh được những căn bệnh do ô nhiễm môi trường gây ra. Nhiều ngành dịch vụ không chỉ không gây ô nhiễm môi trường mà còn có tác dụng hữu hiệu trong việc 66
  8. cải thiện môi trường như du lịch sinh thái hay bản thân dịch vụ vệ sinh môi trường. Có thể nhận thấy Nhà nước đang ngày một quan tâm đến đầu tư cho bảo vệ môi trường. Nếu như trong vòng 10 năm trước, Chính phủ đầu tư trên 2.000 tỷ đồng cho bảo vệ môi trường, chiếm 0,25% GDP hàng năm, thì năm 2005 khoản tiền này tăng lên 1% GDP và dự kiến năm 2006 là 2% GDP. Các ngành dịch vụ phát triển cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp áp dụng công nghệ sạch vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả đồng thời giảm ô nhiễm môi trường. Công nghệ sạch có đặc trưng là sử dụng nguyên vật liệu tối ưu, sinh ra ít hoặc không sinh ra chất thải, ngăn ngừa ô nhiễm ngay ở đầu nguồn. Tuy nhiên, công nghệ sạch thường đòi hỏi đầu tư lớn và có thể phải thay đổi phương pháp sản xuất trong quá trình áp dụng. Trong điều kiện ấy, sự phát triển của các dịch vụ như ngân hàng tài chính, viễn thông, tư vấn, đào tạo sẽ giúp giải quyết những vấn đề này. Về tác động đến văn hoá, trong những năm qua, khu vực dịch vụ đã có tác động tích cực đến việc thực hiện đường lối phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của nước ta. Phần lớn các dịch vụ văn hoá đều phát triển mạnh như xuất bản, phát hành, điện ảnh, thư viện, nghệ thuật biểu diễn... đã góp phần làm đa dạng hoá đời sống văn hoá của người dân. Quá trình thực hiện xã hội hoá các hoạt động văn hoá đã thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vào phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hoá. Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hoá- Thông tin, cả nước hiện có 20 trung tâm sản xuất băng, đĩa nhạc ngoài nhà nước; 25.020 cơ sở cho thuê băng, đĩa, karaoke, vũ trường…, trong đó có 2.102 cơ sở karaoke, vũ trường và 4.000 cơ sở cà phê Internet. Sự phát triển của một số dịch vụ như nghe nhìn (truyền hình và truyền thanh), viễn thông, du lịch,... cũng góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân trên khắp cả nước, nhất là các cộng đồng dân cư sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. I.2. Phạm vi rộng lớn và tính chất phong phú, đa dạng của khu vực dịch vụ Khu vực dịch vụ có phạm vi rất rộng lớn, phong phú, đa dạng với nhiều loại hình khác nhau, nhiều ngành và phân ngành. Như đã trình bày trong Phần I, theo Hệ thống phân ngành kinh tế của Việt Nam được ban hành kèm theo Nghị định số 75/CP ngày 27/10/1993 của Chính phủ, khu vực dịch vụ được phân loại thành các ngành dịch vụ cấp I, II, III và cấp IV. So với Hệ thống phân ngành kinh tế quốc tế và bối cảnh kinh tế mới hiện nay, Hệ thống của Việt Nam còn một số điều chưa phù hợp. Do vậy, hiện nay Tổng cục Thống 67
  9. kê đang nghiên cứu xây dựng Hệ thống phân ngành kinh tế mới để phù hợp với tình hình mới. Tính chất đa dạng, phong phú của khu vực dịch vụ thể hiện rõ nét ở mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngành/phân ngành dịch vụ với nhau. Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ một ngành/phân ngành dịch vụ có thể có đầu vào từ nhiều ngành/phân ngành dịch vụ khác đồng thời là đầu vào của nhiều ngành/phân ngành dịch vụ khác nữa. Thí dụ, các ngành dịch vụ như viễn thông, giáo dục và đào tạo, tài chính, kinh doanh, vận tải đường bộ, hàng không, hàng hải, xây dựng, du lịch,... vừa thu hút đầu vào vừa là đầu vào của nhiều ngành/phân ngành dịch vụ khác (Bảng 3.5). Bảng 3.5. Các mối quan hệ giữa các ngành/phân ngành dịch vụ Đầu vào từ Ngành dịch vụ Đầu vào đến Giáo dục và đào tạo Viễn thông Tất cả các dịch vụ, bao gồm Dịch vụ kinh doanh: cả an ninh quốc gia - Dịch vụ CNTT - Dịch vụ kỹ thuật - R&D Dịch vụ tài chính Viễn thông Giáo dục và đào tạo Tất cả các dịch vụ, bao gồm GD và ĐT (giáo viên) cả an ninh quốc gia Dịch vụ kinh doanh: - Dịch vụ CNTT - Tư vấn quản lý - Kiến trúc (trường học) - Kỹ thuật (trường học) Xây dựng (trường học) Dịch vụ tài chính Giáo dục và đào tạo Dịch vụ y tế Tất cả các dịch vụ Dịch vụ kinh doanh: - Dịch vụ CNTT - Kỹ thuật (bệnh viện) Xây dựng (bệnh viện) Bảo hiểm Cấp nước và vệ sinh MT Dịch vụ tài chính Viễn thông Dịch vụ tài chính Tất cả các dịch vụ Giáo dục và đào tạo Dịch vụ kinh doanh: - Dịch vụ CNTT - Nghiên cứu thị trường - Tư vấn quản lý 68
  10. Viễn thông Dịch vụ kinh doanh Tất cả các dịch vụ, bao gồm Giáo dục và đào tạo cả an ninh quốc gia Dịch vụ kinh doanh: - Dịch vụ CNTT - Nghiên cứu thị trường - Tư vấn quản lý Dịch vụ tài chính Viễn thông Dịch vụ vận tải đường bộ Dịch vụ kinh doanh Giáo dục và đào tạo Dịch vụ bưu chính và đưa Dịch vụ kinh doanh: tin - Dịch vụ CNTT Dịch vụ phân phối - Nghiên cứu thị trường Giải trí/thể thao, văn hoá - Tư vấn quản lý Du lịch - Kiến trúc (cầu) An ninh quốc gia Xây dựng (cầu, đường) Dịch vụ tài chính Viễn thông Dịch vụ vận tải hàng không Dịch vụ kinh doanh Giáo dục và đào tạo Dịch vụ bưu chính và đưa Dịch vụ kinh doanh: tin - Dịch vụ CNTT Dịch vụ phân phối - Nghiên cứu thị trường Dịch vụ y tế (cấp cứu) - Tư vấn quản lý Giải trí/thể thao, văn hoá - Kiến trúc (sân bay) Du lịch - KT (sân bay, máy bay) An ninh quốc gia Xây dựng (sân bay) Dịch vụ tài chính Viễn thông Dịch vụ hàng hải Dịch vụ phân phối Giáo dục và đào tạo An ninh quốc gia Dịch vụ kinh doanh: - Dịch vụ CNTT - Nghiên cứu thị trường - Tư vấn quản lý - R&D (đóng tàu) - Kiến trúc (cảng) - KT (cảng, tàu thuỷ) Xây dựng (cảng) Dịch vụ tài chính Viễn thông Dịch vụ xây dựng Dịch vụ giáo dục (trường Giáo dục và đào tạo học) Dịch vụ kinh doanh: Dịch vụ y tế (bệnh viện) - Dịch vụ kiến trúc Du lịch - Dịch vụ kỹ thuật Dịch vụ giao thông vận tải - Dịch vụ CNTT (cầu, đường, cảng, sân 69
  11. - Nghiên cứu thị trường bay...) - Tư vấn quản lý - R&D Dịch vụ tài chính Dịch vụ môi trường DV phân phối (cung cấp) DV giao thông (cung cấp) Viễn thông Du lịch Khách sạn và nhà hàng Giáo dục và đào tạo Dịch vụ phân phối Dịch vụ kinh doanh: Dịch vụ y tế - Dịch vụ CNTT Giải trí, văn hoá, thể thao - Nghiên cứu thị trường Dịch vụ giao thông - Tư vấn quản lý - Thiết kế và đóng gói - Kiến trúc (sự hấp dẫn) - Kỹ thuật (sự hấp dẫn) Xây dựng (sự hấp dẫn) Dịch vụ tài chính Dịch vụ môi trường Dịch vụ giao thông vận tải Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005). Ngành viễn thông là ngành cung ứng đầu vào cho tất cả các ngành dịch vụ. Các sản phẩm truyền hình, truyền thanh, dịch vụ Internet, điện thoại,... đã tạo điều kiện phát triển và hiện đại hoá nhiều ngành dịch vụ khác như y tế, giáo dục, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm,... Nhờ ứng dụng các sản phẩm dịch vụ công nghệ thông tin và bưu chính viễn thông, hệ thống quản lý nhà nước cũng từng bước được cải thiện. Xây dựng Chính phủ điện tử đã được đưa ra như một mục tiêu cải cách hành chính công ở Việt Nam. Thanh toán điện tử đang được sử dụng và phát triển hầu khắp trong nước và trong tất cả các ngành. Thương mại điện tử đã từng bước hình thành và phát triển. Ngành viễn thông sử dụng dịch vụ của nhiều ngành, trong đó quan trọng nhất là ngành công nghệ thông tin, dịch vụ thiết kế, nghiên cứu và phát triển (R&D), giáo dục và đào tạo và tài chính. Ngành giáo dục và đào tạo trực tiếp hoặc gián tiếp cung ứng dịch vụ cho hầu hết các ngành. Nguồn nhân lực- sản phẩm của dịch vụ giáo dục và đào tạo- có ảnh hưởng tới chất lượng và sản lượng dịch vụ của tất cả các ngành kinh tế quốc dân, không trừ ngành nào. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế thị trường và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, quyết định khả năng cạnh tranh của quốc gia và chất 70
  12. lượng cuộc sống. Đồng thời, ngành dịch vụ và đào tạo cũng sử dụng dịch vụ của nhiều ngành dịch vụ khác như viễn thông, công nghệ thông tin, xây dựng, tài chính,... Cũng giống như ngành giáo dục và đào tạo, sản phẩm dịch vụ của ngành y tế được tất cả các ngành kinh tế sử dụng. Sức khoẻ tốt là điều kiện để có thể làm việc tốt. Đồng thời, ngành y tế cũng sử dụng đầu vào là sản phẩm của nhiều ngành dịch vụ khác nhau. Chất lượng của đội ngũ bác sỹ, y tá phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng dịch vụ giáo dục và đào tạo. Dịch vụ bảo hiểm phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ y tế, nhờ đó nhiều người nghèo được hưởng dịch vụ y tế. Phát triển dịch vụ bảo hiểm đa dạng với chất lượng cao không chỉ có lợi cho người sử dụng dịch vụ y tế, mà cho cả người cung ứng dịch vụ y tế, là nền tảng để các cơ sở y tế của Nhà nước chuyển sang hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Các cơ sở y tế muốn phát triển phải có vốn đầu tư, và phải sử dụng sản phẩm dịch vụ tài chính. Nền kinh tế ngày càng phát triển, ô nhiễm môi trường ngày càng trở thành mối đe doạ đối với sức khoẻ con người. Sản phẩm của dịch vụ môi trường ngày càng trở nên quan trọng đối với ngành y tế. Các loại dịch vụ y tế cao cấp, sử dụng các thiết bị khám chữa bệnh hiện đại đòi hỏi phải có kết cấu hạ tầng tốt (cần sự đáp ứng đầu vào từ dịch vụ xây dựng), sử dụng đầu vào của các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin và viễn thông. Dịch vụ tài chính đóng vai trò huyết mạch trong việc cung ứng các nguồn lực tài chính và dịch vụ khác cho hoạt động của toàn bộ nền kinh tế cũng như cho các nhu cầu của đời sống xã hội. Tất cả các ngành kinh tế đều sử dụng dịch vụ tài chính. Vốn, một trong những yếu tố sản xuất chủ yếu, được cung ứng cho các nhà sản xuất- kinh doanh và người tiêu dùng thông qua các dịch vụ tài chính. Dịch vụ tài chính phát triển tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp huy động được nguồn vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Dịch vụ tài chính cũng sử dụng dịch vụ của nhiều ngành khác như giáo dục và đào tạo, viễn thông, công nghệ thông tin, nghiên cứu thị trường, tư vấn quản lý,... Thanh toán điện tử, một loại dịch vụ mới, tiện lợi, nhanh chóng chỉ thực hiện được khi ngành viễn thông và công nghệ thông tin phát triển và có được đội ngũ cán bộ- sản phẩm của dịch vụ giáo dục và đào tạo- có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu. Giao thông vận tải là một ngành dịch vụ lớn bao gồm các phân ngành như vận tải đường bộ, vận tải hàng không, hàng hải... Tất cả các ngành kinh tế, kể cả an ninh và quốc phòng đều sử dụng dịch vụ giao thông vận tải. Giao 71
  13. thông thuận tiện giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm của nhiều ngành. Giao thông cũng là ngành góp phần quan trọng vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước. Giao thông vận tải đặc biệt góp phần làm tăng tính hấp dẫn của các hoạt động du lịch trong nước, thu hút khách du lịch vào Việt Nam. Một số loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch lịch sử văn hoá, du lịch mạo hiểm, du lịch thể thao được phát triền nhờ giao thông phát triển, tạo điều kiện cho khách du lịch có thể đến những vùng xa xôi, hiểm trở với nền văn hoá bản địa sâu sắc. Giao thông vận tải cũng sử dụng dịch vụ của nhiều ngành dịch vụ khác. Ngành xây dựng, thiết kế, tư vấn quản lý, công nghệ thông tin, viễn thông, tài chính... có ảnh hưởng rõ rệt nhất tới giao thông vận tải. Những dự án kết cấu hạ tầng giao thông vận tải đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trình độ kỹ thuật thiết kế, xây dựng cao; các hoạt động điều hành hoạt động của hệ thống giao thông vận tải đòi hỏi công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực có trình độ cao... Những yêu cầu này sẽ được đáp ứng bởi các dịch vụ nêu trên. Khác với thông lệ quốc tế, ở Việt Nam xây dựng không được coi là một ngành dịch vụ. Vì vậy, nếu tính xây dựng là một ngành dịch vụ thì GDP và việc làm do khu vực dịch vụ tạo ra sẽ cao hơn. Dịch vụ xây dựng là khách hàng của nhiều ngành và cung ứng đầu vào cho nhiều ngành. Không có ngành nào là không có hoạt động xây lắp. Từ xây dựng cầu, đường, xây dựng trường học, bệnh viện đến xây dựng văn phòng làm việc, cửa hàng,... đều cần đến dịch vụ xây dựng. Sản phẩm của ngành xây dựng ngày càng chứa đựng hàm lượng công nghệ cao, đòi hỏi lực lượng lao động phải có trình độ cao hơn. Dịch vụ tài chính, giao thông vận tải, phân phối,... phát triển sẽ tạo điều kiện cho ngành xây dựng phát triển mạnh hơn. Dịch vụ du lịch chỉ được sử dụng như đầu vào của một số ít ngành dịch vụ như khách sạn và nhà hàng, giải trí, văn hoá, thể thao, phân phối..., nhưng ngành này thu hút đầu vào từ nhiều ngành dịch vụ. Bản chất sản phẩm du lịch vốn là sản phẩm của nhiều yếu tố. Các sản phẩm cung ứng cho khách du lịch như các chương trình du lịch, các cơ sở lưu trú du lịch, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng, các phương tiện vận chuyển khách du lịch là sự kết hợp sản phẩm dịch vụ của nhiều ngành khác nhau như giao thông vận tải, giáo dục và đào tạo, y tế, bảo vệ môi trường, viễn thông, tài chính... Vì vậy, phát triển du lịch không chỉ đòi hỏi phát triển các ngành dịch vụ đầu vào này, mà còn đòi hỏi kết hợp có hiệu quả các sản phẩm dịch vụ trên tư cách là đầu vào của ngành du lịch. 72
  14. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, sẽ ngày càng có nhiều dịch vụ mới xuất hiện và phát triển, đặc biệt là những ngành có công nghệ cao như dịch vụ Internet, giáo dục qua mạng, khám, chữa bệnh qua mạng, hội thảo trực tuyến... Vì vậy, có thể nói rằng quy mô của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế sẽ ngày càng lớn. Cùng với quá trình phát triển của khu vực dịch vụ thì mối liên kết giữa các ngành/phân ngành dịch vụ sẽ ngày càng chặt chẽ do tính chất đa ngành của chúng. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách là cần có sự phối hợp có hiệu quả giữa các cấp, các ngành trong việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển cũng như quản lý các ngành dịch vụ. I.3. Dịch vụ phổ cập và dịch vụ cao cấp Phân tích trên đây đã cho thấy tính chất phong phú, đa dạng của khu vực dịch vụ ở nước ta. Cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường với trình độ khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại, thì các ngành dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao sẽ càng phát triển. Những ngành dịch vụ này được nhiều học giả gọi là “trí tuệ của nền kinh tế”; chúng cũng được gọi là các ngành dịch vụ cao cấp. Sở dĩ được gọi là dịch vụ cao cấp để phân biệt với các dịch vụ phổ cập là ở hai điểm: thứ nhất, đây là những ngành dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao (khoa học- công nghệ và nguồn lực con người), thể hiện xu hướng phát triển kinh tế trong những thập kỷ tới; thứ hai, quan trọng hơn, chúng đóng vai trò ngày càng lớn trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức. Có thể kể ra đây một số dịch vụ cao cấp gồm: giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; viễn thông; tài chính; các dịch vụ kinh doanh như kế toán, tư vấn (pháp lý, công nghệ, quản trị, lập và thực hiện dự án...), nghiên cứu, tiếp thị, máy tính, thiết kế,... Trong đó, ngoài dịch vụ tài chính được coi là huyết mạch của nền kinh tế, thì ba ngành dịch vụ bao gồm (1) viễn thông, (2) giáo dục và đào tạo, và (3) các dịch vụ kinh doanh được coi là ba mũi đột phá nhằm tạo nền tảng và cơ sở vững chắc cho sự phát triển của toàn bộ khu vực dịch vụ cũng như các khu vực khác của nền kinh tế trong thời gian tới. Theo dự báo của một số chuyên gia thuộc nhóm chuyên gia xây dựng Đề án khung khổ chung cho Chiến lược Quốc gia Phát triển dịch vụ ở Việt Nam đến năm 2010, ba ngành trên sẽ trở thành những ngành then chốt, có tác động lan toả và đóng vai trò là chất xúc tác giúp nâng cao tính cạnh tranh của toàn nền kinh tế Việt Nam. 73
  15. Là một trong ba ngành mũi nhọn, dịch vụ viễn thông nói riêng cũng như ngành công nghệ thông tin nói chung được đánh giá sẽ trở thành kết cấu hạ tầng thiết yếu để chuyển giao dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Sự phát triển dịch vụ viễn thông giúp cho: (1) có thể thực hiện được các dịch vụ như y tế từ xa, giáo dục từ xa, giúp các dịch vụ chất lượng cao và sử dụng chuyên môn cao có khả năng đến với các cộng đồng ở vùng sâu, vùng xa, qua đó giúp thu hẹp khoảng cách về chất lượng cuộc sống giữa các vùng, miền trong cả nước (cũng như thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển), tạo cơ hội cho cộng đồng nông thôn và vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận được các dịch vụ cơ bản chất lượng cao; (2) có thể tuyển và sử dụng nhân viên ở các vị trí địa lý phân tán khác nhau, tạo điều kiện cho người dân ở trong một cộng đồng nhỏ có thể tham gia làm việc cho một tổ chức lớn, như vậy giảm bớt được áp lực gia tăng dân số và di dân đến các khu vực đô thị; và (3) tạo ra một mạng lưới hoạt động thu hút người lao động có kỹ năng cao, thay thế cho phương án phải gửi người đi biệt phái làm việc ở địa bàn khác. Nước ta hiện nay có lợi thế là đã cơ bản xây dựng được một mạng lưới số hoá khá rộng, hơn nữa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ viễn thông Việt Nam thuộc loại nhanh trên thế giới. Đây là những điều kiện quan trọng và tín hiệu khả quan cho phát triển dịch vụ viễn thông trong thời gian tới. Mũi đột phá thứ hai là dịch vụ giáo dục và đào tạo, trong đó đặc biệt tập trung vào việc cung ứng các dịch vụ bồi dưỡng khả năng ứng dụng thực tiễn các kiến thức đã được đào tạo đồng thời với việc tiếp tục nâng cao kỹ năng nhằm bồi đắp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai. Trong những năm qua, trình độ và kỹ năng thấp của nguồn nhân lực chính là một trong những yếu tố cản trở lớn đối với chất lượng và trình độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Để có được một bước chuyển căn bản về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, phải có một nguồn cung ứng lao động dồi dào và có kỹ năng trong đổi mới, có khả năng giải quyết vấn đề và phục vụ khách hàng. Bên cạnh đó, rất cần có một đội ngũ các nhà quản lý và giám sát được đào tạo bài bản để thực hiện công việc quản lý vĩ mô và quản trị doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp, mang lại hiệu quả cao cho hoạt động của doanh nghiệp. Ngành giáo dục và đào tạo phát triển sẽ giúp đáp ứng được những đòi hỏi trên. Trụ cột thứ ba là các dịch vụ kinh doanh với kỳ vọng tạo ra bước ngoặt về phát triển những phương thức kinh doanh mới để đem lại hiệu quả cao cho lĩnh vực này. Các ngành dịch vụ kinh doanh mang tính đột phá là nhờ vai trò 74
  16. quyết định của chúng trong mọi hoạt động kinh tế. Có thể liệt kê ra hàng loạt tác động từ các dịch vụ kinh doanh như: giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm bớt rào cản hạn chế đối với các doanh nghiệp có ý tưởng mới bằng cách cho phép thuê chuyên gia, tạo ra sự linh hoạt trong cơ cấu bằng cách biến các chi phí cố định (tự sản xuất) thành các chi phí khả biến (thuê ngoài), hỗ trợ quá trình lan toả công nghệ, cải thiện công việc quản lý chuỗi cung ứng, kết nối nhà cung ứng với người tiêu dùng giữa các quốc gia và mang lại thu nhập ngoại tệ... Để mang lại những hiệu ứng tác động tích cực này, điều cốt yếu là mở rộng các dịch vụ kinh doanh chuyên nghiệp nhằm phát triển một khu vực dịch vụ có khả năng cạnh tranh quốc tế. Các dịch vụ khoa học và công nghệ nhìn chung còn kém phát triển, nhưng triển vọng phát triển là rất rõ ràng khi Việt Nam đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Những dịch vụ đòi hỏi kỹ thuật cao như hướng dẫn lắp đặt và vận hành dây chuyền công nghệ, phục hồi, sửa chữa, hiệu chỉnh máy móc, thiết bị tự động... là nhu cầu hiện hữu của các doanh nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại. Khi Việt Nam gia nhập WTO, các hoạt động chuyển giao công nghệ sẽ diễn ra mạnh mẽ, tạo điều kiện cho các dịch vụ liên quan đến sở hữu trí tuệ, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, môi giới, xúc tiến công nghệ,... phát triển. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển hơn với sự gia tăng của các hoạt động nghiên cứu sáng tạo công nghệ và ứng dụng khoa học và công nghệ vào thực tiễn sẽ tạo điều kiện phát triển cho các dịch vụ như xử lý số liệu, tính toán, phân tích phục vụ trực tiếp nghiên cứu, triển khai, kiểm định và thử nghiệm, lập các báo cáo nghiên cứu khả thi và tiền khả thi... Cùng với các dịch vụ cao cấp, các dịch vụ phổ cập cũng phát triển mạnh mẽ nhờ cầu hưởng thụ dịch vụ của người dân tăng lên và đầu tư cho phát triển dịch vụ cũng tăng lên. Thu nhập của người dân tăng là yếu tố then chốt để đảm bảo họ thoả mãn được nhu cầu hưởng thụ các dịch vụ phổ cập, nhất là đối với người dân nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những dịch vụ như giao thông vận tải đường bộ, cấp điện, cấp nước, phân phối bán lẻ, dịch vụ nghe nhìn, dịch vụ vệ sinh,... trong những năm qua đã phát triển mạnh đến khắp các vùng, miền trong cả nước. Cùng với việc gia tăng đầu tư từ ngân sách, Nhà nước cũng thực hiện các chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển dịch vụ, xã hội hoá cung ứng dịch vụ, giúp cho các dịch vụ phát triển đa dạng. Năm 2005, trong cả nước có 98% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, trên 80% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 62% dân số nông thôn được cấp nước sạch sinh hoạt, 95% số 75
  17. hộ được nghe đài tiếng nói Việt Nam, 90% số hộ được xem đài truyền hình Việt Nam, 100% các trung tâm cụm xã ở các vùng dân tộc thiểu số có đường ô tô, có điểm bưu điện văn hoá, trung tâm thương mại... Với xu hướng phát triển này, nhiều loại dịch vụ trước đây được coi là dịch vụ cao cấp thì hiện nay đã trở thành dịch vụ phổ cập, thí dụ như dịch vụ nghe nhìn. Một điều đáng chú ý nữa là việc phát triển các dịch vụ như bán lẻ, đại lý bán hàng, vận tải nhỏ lẻ,... đã tạo kế sinh nhai cho nhiều hộ gia đình ở cả thành thị và nông thôn. II. Tình hình phát triển của khu vực dịch vụ ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới vừa qua Đánh giá khái quát về tình hình phát triển của khu vực dịch vụ ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới vừa qua, chúng ta thấy nổi lên một số điểm mang tính “pha trộn” đáng chú ý. Khu vực dịch vụ ngày càng đa dạng hoá với sự xuất hiện của nhiều ngành mới và có trình độ phát triển cao hơn, song tốc độ tăng trưởng nhìn chung là chưa cao và chưa ổn định, hay nói cách khác khu vực này còn kém năng động. Sự biến động tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu GDP chưa phản ánh xu hướng diễn biến cơ cấu kinh tế của một nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ. Mặc dù chúng ta đã nhận thức khá rõ về tầm quan trọng và tiềm năng phát triển của các ngành dịch vụ cao cấp nhưng trình độ phát triển của những ngành này còn thấp và tốc độ phát triển còn chậm. Phần này phân tích kỹ hơn về những vấn đề nêu trên. II.1. Tăng trưởng của khu vực dịch vụ Trong thời kỳ vận hành nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hoạt động dịch vụ chủ yếu chỉ bó hẹp trong khâu phân phối, lưu thông và do Nhà nước tổ chức quản lý. Các loại dịch vụ khác hầu như không có hoặc bị cấm. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy sự phát triển đa dạng của các ngành dịch vụ. Phân phối, lưu thông chuyển sang kinh doanh là bước đột phá cho sự hình thành hệ thống dịch vụ “đầu vào- đầu ra” phục vụ quá trình sản xuất vật chất. Trong giai đoạn 1986-1996, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ gia tăng liên tục và cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, kể từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ đã giảm xuống thấp hơn tốc độ tăng trưởng của GDP- điều này ngược lại với xu hướng tăng trưởng dịch vụ nói chung trên thế giới (Hình 3.1). 76
  18. Hình 3.1. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của GDP và của khu vực dịch vụ, 1986- 2005 Đơn vị: % 10 9 8.6 8 8.2 7 7.5 Tèc ®é t¨ng tr−ëng (%) 7 6.97 6 5.7 5.7 5 4.4 4 3 2 1 0 1986-1990 1990-1995 1995-2000 2000-2005 T¨ng tr−ëng GDP T¨ng tr−ëng dÞch vô Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư- Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (2006). Sự sụt giảm tăng trưởng của khu vực dịch vụ kể từ năm 1996 đã khiến cho khu vực này không đạt mục tiêu về tăng trưởng được đề ra tại các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm. Kế hoạch 1996-2000 đặt mục tiêu khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng bình quân 12-13%/năm và đến năm 2000 chiếm tỷ trọng 45-46% trong GDP, tuy nhiên các con số thực tế đạt được tương ứng chỉ là 5,7% và 38,74%. Các mục tiêu của Kế hoạch 2001-2005 tương ứng là trên 7% và 41-42%, nhưng các con số thực tế tương ứng chỉ là 6,97% và 38,50%. Mấy năm gần đây tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ đã có xu hướng hồi phục, nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Diễn biến tăng trưởng của các phân ngành dịch vụ trong 20 năm qua cũng có nhiều điểm tương tự như diễn biến tăng trưởng của cả khu vực dịch vụ nói chung. Phần lớn các phân ngành dịch vụ đều có tốc độ tăng trưởng khá cao trong các giai đoạn 1986-1990 và 1990-1995 (cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP), nhưng trong giai đoạn 1995-2000 tốc độ tăng trưởng giảm mạnh (thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP) và đạt dấu hiệu hồi phục trong giai đoạn 2000- 2005 (Bảng 3.6). 77
  19. Bảng 3.6. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của các phân ngành dịch vụ, 1986-2005 Đơn vị: % TT Phân ngành dịch vụ Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 1986- 1990- 1995- 2000- 1990 1995 2000 2005 1 Khách sạn và nhà hàng 6,2 9,8 5,6 8,7 2 Khoa học và công nghệ 9,6 7,5 5,5 8,6 3 Tài chính và tín dụng 6,2 16,4 7,5 7,7 4 Giáo dục và đào tạo 9,5 11,2 5,6 7,5 5 Thương mại; sửa chữa thiết bị 4,2 7,4 5,9 7,5 6 Y tế và các dịch vụ xã hội 11,1 5,8 5,0 7,4 7 Vận tải, kho chứa và viễn thông 3,4 7,2 6,5 7,4 8 Hoạt động văn hoá thể thao 13,5 9,3 7,8 6,2 9 Dịch vụ cá nhân và cộng đồng 5,5 10,1 8,0 5,9 10 Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp 4,9 70,3 12,5 5,9 hội 11 Quản lý nhà nước, an ninh, quốc 7,8 7,2 2,6 5,5 phòng và đảm bảo XH bắt buộc 12 Dịch vụ kinh doanh và BĐS 6,7 9,6 4,7 3,9 Tổng GDP 4,4 8,2 7,0 7,5 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư- Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (2006). Để thấy rõ hơn tác động của từng phân ngành dịch vụ đến diễn biến tăng trưởng của cả khu vực dịch vụ, chúng ta hãy xem xét sự đóng góp của từng phân ngành dịch vụ cho GDP theo số liệu của Bảng 3.7. 78
  20. Bảng 3.7. Tỷ trọng đóng góp của các ngành kinh tế cho GDP, 1995- 2005 (giá cố định) Đơn vị: % Hoạt động kinh tế Phần trăm trong GDP 1995 2000 2005 Nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp 26,2 23,3 19,6 Khai khoáng 5,3 6,7 5,8 Chế tạo 15,5 18,8 22,8 Tiện ích 1,7 2,3 2,9 Xây dựng 7,5 7,5 8,6 Thương mại 17,2 16,3 16,3 Khách sạn và nhà hàng 3,4 3,2 3,4 Vận tải, kho bãi, viễn thông 4,0 3,9 3,9 Dịch vụ tài chính 2,0 2,1 2,1 Khoa học và công nghệ 0,6 0,6 0,6 Dịch vụ kinh doanh, nhà đất 5,0 4,5 3,8 Quản lý hành chính 3,6 3,1 2,7 Giáo dục và đào tạo 3,6 3,3 3,3 Dịch vụ y tế và xã hội 1,5 1,4 1,4 Văn hoá, giải trí 0,6 0,6 0,6 Dịch vụ cá nhân và cộng đồng 2,3 2,4 2,2 Tổng GDP 100 100 100 Dịch vụ- phân loại Việt Nam 43,8 41,3 40,5 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư- Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (2006). Số liệu của Bảng 3.6 cho thấy rằng, ở giai đoạn 2000-2005, trong số 12 phân ngành dịch vụ thì chỉ có 5 phân ngành có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Trong số đó, tham khảo số liệu ở Bảng 3.7, đáng chú ý là có một số phân ngành chiếm tỷ trọng cao trong GDP cũng có tốc độ tăng trưởng cao, chẳng hạn như: phân ngành dịch vụ thương mại và sửa chữa thiết bị có tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm trong thời gian 2000-2005 (ngang với tốc độ tăng trưởng GDP) và chiếm tới 16,3% 79
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
24=>0