Luận án Thạc sĩ khoa học Ngữ văn: Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
lượt xem 15
download
Luận án Thạc sĩ khoa học Ngữ văn: Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều bao gồm những nội dung về người kể chuyện, cách kể câu chuyện, giọng điệu kể chuyện, lời kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Mời các bạn tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Thạc sĩ khoa học Ngữ văn: Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
- MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... 4 T 2 2T PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................... 5 T 2 2T 1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................................... 5 T 2 2T 2. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................................. 5 T 2 2T 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu: .......................................................................... 9 T 2 T 2 4. Kết cấu của luận án: .................................................................................................... 11 T 2 2T CHƯƠNG 1 : NGƯỜI KỂ CHUYỆN ................................................................................. 12 T 2 2T 1.1. Khái niệm: ................................................................................................................ 12 T 2 2T 1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện: ........................................................ 14 T 2 T 2 1.2.1. Chủ thể kể chuyên vô hình: ................................................................................ 14 T 2 T 2 1.2.2. Nhân vật tham gia kể lai câu chuyện của nhân vật khác ở trong tác phẩm: ......... 20 T 2 T 2 1.2.3. Nhân vật tự kể chuyện mình: ............................................................................. 21 T 2 T 2 1.3. Hiệu quá nghê thuật của hình thức "đa chủ thể kể chuyện" trong Truyện Kiều: ......... 25 T 2 T 2 CHƯƠNG 2: CÁCH KỂ CÂU CHUYỆN ........................................................................... 30 T 2 T 2 2.1. Khái niêm: ................................................................................................................ 30 T 2 2T 2.2. Cách kể trong Truyện Kiều: ...................................................................................... 30 T 2 2T 2.2.1. Đặc điểm thứ nhất: đơn giản hóa sự kiện, hành động, tập trung cho nhân vật T 2 trung tâm - Vương Thúy Kiều. ..................................................................................... 31 2T 2.2.2. Đặc điếm thứ hai: Bớt kể tăng miêu tả, biểu hiện tâm lý. .................................... 38 T 2 T 2 2.2.3. Đặc điếm thứ ba: ................................................................................................ 44 T 2 2T 2.2.4. Đặc điểm thứ tư: Truyện Kiều có nhịp kể chậm phương thức kể chuyện linh hoạt. T 2 T 2 .................................................................................................................................... 52 CHƯƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU KỂ CHUYỆN ........................................................................ 58 T 2 T 2 3.1. Khái niệm về giọng kể: ............................................................................................. 58 T 2 2T 3.2. Giọng kể trong Truyện Kiều: .................................................................................... 58 T 2 2T 3.2.1. Truyện Kiều có giọng điệu đa dạng, tràn đầy cảm xúc: ...................................... 59 T 2 T 2 3.2.2. Giọng điệu kể chính của Truyện Kiều là giọng buồn đau chiêm nghiêm với đời: 74 T 2 T 2 CHƯƠNG 4: LỜI KỂ CHUYỆN ........................................................................................ 76 T 2 2T 4.1. Lời kể chuyện gọn gàng, chính xác trong khuôn khổ của câu văn vần lục bát: .......... 76 T 2 T 2 4.2. Tính chất chủ quan và tính cụ thể xác định của lời kể chuyện: .................................. 79 T 2 T 2 4.3. Chất thơ, chất trữ tình tràn trổ trong lời kể của người kể chuyện: .............................. 82 T 2 T 2 4.4. Ngôn ngữ kể chuyện của Truyện Kiều giàu sắc thái dân gian: ................................... 84 T 2 T 2
- PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................. 87 T 2 2T PHỤ LỤC ........................................................................................................................... 90 T 2 T 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 92 T 2 2T
- LỜI CẢM ƠN Thực hiện luận án này, chúng tôi được sự giúp đỡ của quý thầy cô, của các đồng nghiệp, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS - TS Lê Ngọc Trà; nhân dịp này chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc của chúng tôi. 4
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: a.) Xưa nay đã có nhiều người nghiên cứu về Truyện Kiều trên nhiều phương diện khác nhau. Nhìn chung ở phương diện nào các nhà nghiên cứu cũng phát hiện được những điểm sâu sắc, độc đáo của Nguyễn Du. b.) Ở phương diện hình thức của Truyện Kiều, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu công phu về nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ... Riêng nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng ít nhiều được đề cập đến, nhưng còn tản mác, chưa có hệ thống, c.) Cái hay cứa một tác phẩm thuộc loại hình tự sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cách kể chuyện có một vị trí đặc biệt. Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Truyện Kiều là nghiên cứu một mặt quan trọng đã tạo nên cái hay của tác phẩm. Người ta cũng hay nói tới cái "tài" , cái "duyên" của người kể chuyện khi người đó kể lại một câu chuyện trong đời thường . Cùng một câu chuyện nhưng người này thì kể hay, hấp dẫn, còn người khác thì ngược lại, đó là một thực tế vẫn thường gặp. Trong nghệ thuật cũng vậy. Nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiểu , chúng ta thầy rõ hơn một phương diện của thiên tài Nguyễn Du. thấy rõ hơn sự đóng góp của ông vào hình thức kể chuyện trong văn học dân tộc. d.) Nghệ thuật kể chuyện là một vấn đề mới và khó . Ngay cả về phương diện lý luận , thi pháp kể chuyện là mảng còn được ít người đề cập đến Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những người đi trước, chúng tôi muốn đưa ra một số nhận xét nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm nghệ thuật kể chuyện trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, góp phần làm sáng tỏ thêm cái "duyên" của Truyện Kiều đối với người đọc. 2. Lịch sử vấn đề: Trong lịch sử văn học Việt Nam , không có tác phẩm nào được bàn bạc . nghiên cứu nhiều như Truyện Kiều của Nguyễn Du. Khen Truyện Kiều cũng nhiều và chê Truyện Kiều cũng không ít. Trong các ý kiến khen chê có cả ý kiến của những nho sĩ cùng thời với Nguyễn Du như Phạm Quý Thích ( Tổng Vịnh Đoạn Trường Tân Thanh ), Mộng Liên Đường Chủ nhân có những ý kiến của các vua chúa nhà Nguyễn như Minh Mệnh, Tự Đức. Nội dung của các ý kiến trong khoảng hai thế kỷ qua rất phức tạp, xoay quanh các vấn đề chủ yếu của nội dung và hình thức Truyện Kiều ... Trong số các vấn đề về hình thức của tác phẩm , nghệ 5
- thuật kể chuyện của Nguyễn Du là vấn đề ít được bàn đến nhất. Chưa có những chuyên luận đi sâu vào đề tài này; thường nó chỉ được nói qua khi bàn về các vấn đề khác. Giáo sư Lê Trí Viễn , ở chương viết về Nguyễn Du, trong cuốn: Lịch sử văn học Việt Nam (Tập III) phần : Một vài phương diện của nghệ thuật Nguyễn Du , đã đề cập tới bốn vấn đề : - Nguyễn Du và ngôn ngữ văn học Việt Nam . - Nguyễn Du và câu thơ lục bát. - Nguyễn Du đã "diễn ca" Kim Vân Kiều Truyện như thế nào? - Vài nét về bút pháp của Nguyễn Du. Trong khi nói về bốn vấn đề trên, giáo sư Lê Trí Viễn ở một số chỗ đã đề cập đến nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Chúng tôi xin dẫn một vài ví dụ : " Truyện Kiều là cả một xã hội phức tạp , nhiều màu, nhiều vẻ. nhưng ngòi bút Nguyễn Du - mặc dù đã bị hạn chế trong khuôn khổ văn vần - luôn luôn đủ tiếng , đủ lời, tiếng và lời thực chính xác để lột được tinh thần, diện mạo của từng trường hợp một, không hề lúc nào bị lúng túng, khó khăn cả." (1) 0F P 1T " Nguyễn Du giữ nguyên cốt truyện và những sự việc lớn, về chi tiết cũng giữ, chỉ thêm bớt một số . Sự sáng tạo của Nguyễn Du tập trung ở chỗ thêm bớt các chi tiết ấy, xây dựng nhân vật thành những tính cách rõ rệt, có diện mạo, có tâm lý sắc sảo hơn, đem thiên nhiên vào trong văn thơ, làm cho câu chuyện dồi dào, sâu sắc hơn." (1) F P T 1 "Có lúc đang đóng vai người kể chuyện, Nguyễn Du bỗng kêu thét lên như bản thân mình cùng xen vào cảnh ngộ của nhân vật." ,(2) Trong cuốn Văn học Việt Nam, thế kỷ XVIII , P T 1 T 1 P nửa đầu thế kỷ XIX.ông Hoàng Hữu Yên trong chương viết về Nguyễn Du, phần Một số vấn đề về thơ văn Nguyễn Du, có đề cập đến ba nội dung : - Cách xây dựng nhân vật của Truyện Kiều . - Ngôn ngữ văn học trong Truyện Kiều. - Ảnh hưởng qua lại giữa Truyện Kiều và ca dao dân ca. Khi bàn về các vấn đề liên, ở một đôi chỗ ông Hoàng Hữu Yên đã lưu ý đến nghệ thuật kể chuyện cua Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Xin dẫn một vài ví dụ: (1) Lê Trí Viễn : Lịch sử văn học Việt Nam ( Tập III)-Nhà xuất bản Giáo dục - 1976 Trang 183,184. (1) (2) Lê Trí Viễn : Lịch sử văn học Việt Nam (Tập III)-Nhà xuất bán Giáo dục -1976.Trang 188,195. 6
- " Nguyễn Du vui mừng, thông cảm, xót thương, phẫn nộ khi Thúy Kiều có hạnh phúc hay bị đày đọa. Ngòi bút âu yếm của nhà thơ không một giờ phút nào xa lời cuộc đời Thúy Kiều ... Nhà thơ đã nhập thân vào Thúy Kiều." (3) F 2 P T 1 " Ngôn ngữ Truyện Kiều là một thứ ngôn ngữ chải chuốt, đẹp, trong sáng, vô cùng thi vị và đại chúng sâu sắc."(4)P Giáo sư Nguyễn Lộc, trong cuốn: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX (Tập II), trong phần : Lai lịch Truyện Kiều đã có một số ý kiến nói đến nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du. "Nguyễn Du viết Truyện Kiều dựa khá sát vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, có nghĩa là Nguyễn Du đã giữ lại của tác phẩm này những tình nối chính,những biến cố quan trọng, chứ không phải mọi tình tiết của tác phẩm đều được giữ lại. Thực tế thì nhà thơ đã bỏ đi khoảng một phần ba những chi tiết trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, và thêm vào một khối lượng cũng khá lớn." (5) 3F P 1T Giáo sư Nguyễn Lộc trong khi nói về nghệ thuật xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ cua Nguyễn Du cũng đã nêu một số ý kiến liên quan đến nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du. Những ý kiến trên đây của các tác giả một sô giáo trình đại học có thê được xem phần nào như đại diện cho ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du. Ớ đây các tác giả chưa đại vân đề nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, mà chỉ đề cập qua vân đề này khi bàn về những vấn đề khác. Song nói chung đó là những nhận xét đúng gợi ra nhiều hướng đê suy nghĩ , mặc dù còn lẻ lẻ, chưa có hệ thông. Có lẽ người cổ ý thức đề cập đến vân đề nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là Giáo sư Phan Ngọc. Trong cuốn sách Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, ông Phan Ngọc có một chương bàn về Phương pháp tự sự của Nguyễn Du. Bằng phương pháp so sánh đối chiếu mà nhiều nhà nghiên cứu đã áp dụng khi nghiên cứu Truyện Kiều, ông Phan Ngọc đã tiến hành khảo sát và đưa ra những ý kiến sắc sảo. Tính thuyết phục của các ý kiến này có lẽ chủ yếu nằm ở phần số liệu thống kê cái cụ thể của cuốn sách. Tất nhiên ý kiến của Phan Ngọc trong vấn đề này không phải là hoàn toàn mới, nhưng cái chính là cách trình bày cụ thể, sắc sảo của ông. Xin dẫn một vài ý kiến : (3) (4) Hoàng Hữu Yêu : Văn học Việt Nam , thế kỷ XVIII, nửa dầu thế kỷ XIX - Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội - 1962. Trang 313,315. (5) Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam.nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Tập II -Nhà xuất bản ĐH & THCN. Hà Nội - 1978. Trang 65. 7
- " Nguyễn Du dã đôi mới hoàn toàn bô cục của Kim Vân Kiều Truyện. Ta có thể thấy điều dó qua quan hệ về số lượng giữa các bộ phận. Các sự việc chính trong Kim Vân Kiều Truyện và trong Truyện Kiều về căn bản là như nhau nhưng quan hệ số lượng của chúng lại khác nhau." (1). Khi nói tới "con người cô độc" trong Truyện Kiều, ông Phan Ngọc đã khẳng 4F P 1T 1T P định: Nguyễn Du "cố tình không cho họ hành động, bởi vì số câu lự sự hết sức ít, mọi hành động của họ đều bị ông dùng phương pháp kể lại vắn tắt."(2) P Trong những thao tác của Nguyễn Du, Phan Ngọc có nói đến thao tác "đặt sự việc vào một thế đối lập" và khẳng định " tự thân Nguyễn Du không thể nghĩ ra thao tác này, bởi vì đó là thao tác của kịch . Ông học tập nó ở kịch Trung Quốc và nhất là ở tuồng." (3) P P . Tính chất kịch mà Phan Ngọc nói, thực ra trong Kim Vân Kiều Truyện đã có, Nguyễn Du kế thừa và nâng cao lên. Sức hấp dẫn của nhiều bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc chủ yếu là ở tính kịch của sự kiện được kể, mỗi hồi gần như kể về mội mưu mô, một sự kiện có tính chất kịch. Và, một khuyết điểm dễ thấy của một số nhà nghiên cứu là, trong khi so sánh để thấy rõ cái tài của Nguyễn Du thì lại vô tình hạ thấp Thanh Tâm Tài Nhân. Trong lúc khẳng định giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều với tư cách là truyện thơ, một số nhà nghiên cứu lại so sánh nó với một tác phẩm khác thuộc loại tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc sáng tác cách Truyện Kiều khá xa về mặt thời gian ; như vậy là thiếu quan điểm lịch sử trong đánh giá. Muốn phê phán Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là "chi tiết rườm rà"... thì phải đặt nó trong hệ thống thi pháp của tiểu thuyết chương hồi thời Minh - Thanh. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một truyện thơ của Việt Nam được sáng tác vào đầu thế kỷ XIX, có những đặc điểm riêng về thế loại. So sánh hai tác phẩm để thấy sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Du thì được, còn từ đó phê phán Thanh Tâm Tài Nhân thì cần phải xem xét lại. Trong lịch sử văn học thế giới , hiện tượng dựa vào một tác phẩm của dân tộc khác để sáng tạo nên một tác phẩm khác mang bản sắc của dân tộc mình là một hiện tượng cũng dễ thấy. Anh hùng ca Ramayana của Ấn Độ và các bản anh hùng ca của các dân tộc chung quanh như Rama Kiên (Thái Lan) , Xỉn Xay (Lào), Ramayana (Inđônêxia ) , Ramayna ( của người Chàm - Việt Nam ) ... là ví dụ. Trong lúc khẳng định giá trị các bán anh hùng ca của các dân tộc dựa vào Ramayana của Ấn Độ để sáng tác, người ta vẫn đánh giá cao bản anh hùng ca vĩ đại Ramayana của Ấn Độ cổ đại. Nói tóm lại, về mặt nghệ thuật kể chuyện , mặc dù chưa có những bài viết chuyên về vấn đề này , một số nhà nghiên cứu đã khẳng định được sự kế thừa có sáng tạo của Nguyễn (1) (2),(3) Phau Ngọc : Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều - Nhà xuất bản Khoa học xã hội , Hà Nội -1985 . Trang 86,91,84. 8
- Du đối với Thanh Tâm Tài Nhân và khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong việc kế lại một câu chuyện cũ. 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu: a.) Phương pháp : a1.) Tác phẩm văn học là một hệ thống, trong đó có nhiều hệ thống con. Nghệ thuật kể chuyện là một hệ thống trong hệ thống nghệ thuật của tác phẩm thuộc loại hình tự sự. Nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều được thể hiện dần theo lời kể chuyện của Nguyễn Du - người kể chuyện. Đặc điểm của nghệ thuật Truyện Kiều đều được phản ánh trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du. Đặc điểm của nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du là một mặt của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du. Vì vậy, phương pháp chủ yếu chúng tôi áp dụng khi nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là phương pháp hệ thống - cấu trúc. a2.) Câu chuyện về Từ Hải và Thúy Kiều là câu chuyện có thật trong lịch sử. Từ Hải tự là Minh Sơn, người An Huy , năm thứ 34 niên hiệu Gia Tĩnh Triều Minh (1555) đã chỉ huy bọn giặc cướp đánh phá Sa Thổ, Bình Hồ, Gia Hưng, Tô Châu , Hàng Châu. Hồ Tôn Hiến, một trọng thần của triều đình đã lợi dụng mưu thuẫn, li gián tả hữu , hối lộ Thúy Kiều - sủng thiếp của Từ Hải, để Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Kết quả : Từ Hải đã đầu hàng và bị giết ; Thúy Kiều bị bắt , buộc phải đánh đàn, hầu rượu cho Hồ Tôn Hiến. Sau đó, Kiều bị ép lấy một tù trưởng người dân tộc thiểu số , Kiều đau khổ và nhục nhã đã nhảy xuống sông tự tử. Câu chuyện này do Mao Khôn, một người trong quân đội của Hồ Tôn Hiến ghi lại trong sách : Ký tiểu trừ Từ Hải bản mạt. Từ đó về sau câu chuyện này được viết đi viết lại nhiều lần . Ví dụ: Lý Thúy Kiều truyện của Đới Sĩ Lâm ; Vương Thúy Kiều Truyện của Dư Hoài, Hồ Thiếu Bảo bình nụy tấu tích của Trần Thụ Cơ, ... Những tác phẩm này tình tiết có thay đổi ít nhiều nhưng cốt truyện chính vẫn là mối quan hệ giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là cuốn tiểu thuyết cuối cùng vào thời cuối Minh đầu Thanh viết về đề tài này. Câu chuyện này không còn tồn tại ở dung lượng truyện ngắn như các tác phẩm trước đó mà đã tồn tại ở dạng truyện dài, gồm hai mươi hồi. Nội dung của Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không còn xoay quanh mối quan hệ chính Từ Hải - Thúy Kiều như những tác phẩm trước đó, mà xung quanh cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của Vương Thúy Kiều - nhân vật chính của truyện. Câu chuyện không kết thúc lúc Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường mà Thanh Tâm 9
- Tài Nhân thêm đoạn Kiều được vớt lên và Kim-Kiều tái hợp. So với những tác phẩm trước dó , Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân tình tiết phức tạp hơn , nhân vật nhiều hơn, và thực sự một tác phẩm mới về chất lượng đã được ra đời. Nguyễn Du đã dựa vào Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để viết Đoạn Trường Tân Thanh ( Truyện Kiều ). Vì vậy, trong khi nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều chúng tôi áp dụng phương pháp so sánh. Trước hết chúng tôi so sánh đối chiếu Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân . Sự so sánh này sẽ giúp người nghiên cứu thấy được sự kế thừa của Nguyễn Du đối với Thanh Tâm Tài Nhân và sự sáng tạo của Nguyễn Du về mặt nghệ thuật kể chuyện ở trong Truyện Kiều. Thứ hai. chúng tôi so sánh Truyện Kiểu với những tác phẩm có nội dung tự sự trong sáng tác của Nguyễn Du như : Sở Kiến Hành, Thái Bình mại ca giả,... Cách kể chuyện đơn giản của Nguyễn Du trong những bài thơ tự sự có thể giúp người nghiên cứu hiểu thêm nghệ thuật kể chuyện của ông ở trong Truyện Kiều. Thứ ba, nghệ sĩ bao giờ cũng là con đẻ của thời đại. Nghệ sĩ thực sự có tài năng là người biết kế thừa tinh hoa của thời đại nước, đồng thời thể hiện được tinh hoa của biện pháp nghệ thuật của thời đại trong lác phẩm của mình. Ngoài ra nếu nghệ sĩ sáng tạo được những biện pháp nghệ thuật mới mà người cùng thời không làm được, người đời sau kế thừa phát huy thì nghệ sĩ đó thực sự là thiên tài. Vì vậy, chúng tôi đặt Nguyễn Du trong quan hệ so sánh với những nghệ sĩ cùng thời và những người trước và sau ông trong truyền thống Huyện Nôm. Việc làm này sẽ giúp người nghiên cứu xác định rõ hơn tài năng của Nguyễn Du về mặt nghệ thuật kể chuyện. Ngoài hai phương pháp chính nói trên , chúng tôi có sử dụng thêm biện pháp thống kê. Các phương pháp nghiên cứu nói trên không phải được áp dụng riêng biệt mà được phối hợp với nhau trong nghiên cứu. b.) Nôi dung nghiên cứu : Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là một vấn đề khá lớn và phức tạp. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những người đi trước và trong điều kiện hạn hẹp của bản thân, chúng tôi xin tập trung khảo sát nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều ở một số mặt chủ yếu sau đây : - Người kể chuyện. 10
- - Cách kể chuyện. - Giọng điệu kể chuyện. - Lời kể chuyện. Văn bản Truyện Kiều chúng tôi kháo sát chủ yếu là bản Truyện Kiều trong cuồn Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế do Nhà xuất bản Hà nội in 1991. 4. Kết cấu của luận án: Luận án gồm ba phần sau đây : - Phần mở đầu. - Phần nội dung: Chương I : Người kể chuyện. Chương II : Cách kể chuyện. Chương III : Giọng điệu kể chuyện. Chương IV : Lời kể chuyện. - Phần kết luận. Cuối luận án có mục thống kê tài liệu tham khảo. 11
- CHƯƠNG 1 : NGƯỜI KỂ CHUYỆN 1.1. Khái niệm: Trong loại hình truyện tự sự nói chung, từ các truyện kể dân gian cổ đại: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích đến các truyện hiện đại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết luôn luôn tồn lại hình thức người kể chuyện. Người kể chuyện là chiếc cầu nối giữa câu chuyện về các nhân vật với các độc giả. Chủ thể kể chuyện ( hay người kể chuyện ) là "chủ thể của lời kể chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm văn học." (1) 5F P 1T 1T P Người kể chuyện là người có nhiệm vụ kể lại câu chuyện. Trong truyện chủ thể kể chuyện có nhiều hình thức xuất hiện. Thông thường người kể chuyện xuất hiện trong tác phẩm như một nhân vật trung gian để kể lại câu chuyện. Có lúc tác giả giao nhiệm vụ này cho một hoặc nhiều nhân vật khác đảm nhiệm. Khi chủ thể kể chuyện ẩn mình ở ngôi trung gian ở dạng "vô nhân xưng" thì chủ thể kể chuyện hoàn toàn ở ngoài cốt truyện. Người kể chuyện luôn luôn theo sát các nhân vật và sự kiện, biết toàn bộ sự việc kể tỉ mỉ về con người và sự việc và dường như không bao giờ trực tiếp can thiệp vào câu chuyện. Vai trò của chủ thể kể chuyện ở dạng "vô nhân xưng" đổi thay theo lịch sử phát triển của truyện . Ớ các truyện kể dân gian : thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, người kể chuyện ở dạng "vô nhân xưng" (người kể chuyện vô hình) không để lại dấu vết riêng của mình , vì đó là truyện kể của tập thể quần chúng lao động. Chúng ta chỉ cỏ thố khái quát hình lượng người kể chuyện ở các loại truyện này ỏ dạng trung bình lý tưởng mà thôi. Theo quá trình cá thể hóa của hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật, chủ thể kể chuyện ở trong truyện ngày càng rõ nét hơn. Điều đo được đánh giá bằng cái mốc lúc tác phẩm truyện là sản phẩm của tác giả cá nhân cụ thể. Và trong một thời gian dài, khi văn học còn ở trong giai đoạn văn học "phi ngã" (theo cách nói của giáo sư Lê Trí Viễn) thì mặc dù tác phẩm truyện có mang tên tác giả cụ thể nhưng dấu ấn tinh thần của hình tượng người kể chuyện vẫn chưa được rõ rệt. (1) Lê Ngọc Trà : Lý luận vãn học . Nhà xuất bàn Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh -1990 . Trang 149 12
- Khi văn học thoái khỏi giai đoạn "phi ngã", đặc biệt giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa hiện thực, chủ quan của người viết văn , bộc lộ qua vai trò của người kể chuyện rất rõ rệt. "Đặc biệt, cùng với việc lồng cái nhìn của nhà văn vào cái nhìn của từng nhân vật , lối trao đổi tường thuật qua tay nhiều nhân vật khác nhau tạo nên mối quan hệ phức tạp giữa cái tôi của tác giả, cái tôi của người kể và cái tôi của nhân vật, hình thành "tính phức điệu" trong tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực." (1) 6F P 1T Từ cách kể chuyện , từ một điểm nhìn của truyện truyền thông đến cách kể chuyện từ nhiều điểm nhìn của truyện hiện đại , thể loại truyện đã có sự phát triển vươt bậc về mặt nghệ thuật kể chuyện. Từ cách nhìn nhiều chiều của nhiều chủ thể kể chuyện , tác giả đã ''khách quan hóa" được cách kể chuyện của mình, giảm bớt được sự phụ thuộc của người đọc vào quan điếm cua tác giả, tăng cường khả năng độc lập trong thưởng thức tác phẩm cho người đọc và tránh được sự đơn điệu trong kể chuyện. Nhiệm vụ của chủ thể kể chuyện là kể lại câu chuyện , nhưng ngoài cốt truyện , trong tác phẩm truyện còn có những đoạn " trữ tình ngoại đề" thể hiện những suy tư về con người , cuộc đời, những đoạn triết lý mang tính chất luận đề ... Ớ những đoạn này, tác giả thay đổi giọng điệu rất linh hoạt. Những đoạn "trữ tình ngoại đề" này giúp người đọc thấy được thái độ của tác giả đối với nhân vật và sự kiện được kể, đồng thời giúp người đọc hiểu thêm câu chuyện theo quan điếm của tác giả . Truyện Kiều của Nguyễn Du có nhiều đoạn "trữ tình ngoại đề". Khi nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du, chúng ta không bỏ qua yếu tố này. Truyện Kiều củaNguyễn Du là một truyện thơ . Bằng một tình cảm nồng cháy , nhà thơ kể lại một câu chuyện có đầu có đuôi, có cốt truyện, có nhân vật , nhân vật có quá trình phát triển. Vì thế đặc điểm của chủ thể kể chuyện ở tác phẩm thơ tự sự sẽ có những điểm khác với chủ thể kể chuyện trong tác phẩm văn vần lự sự hoặc văn xuôi tự sự. Khảo sát Truyện Kiều của Nguyễn Du , chúng ta thấy Nguyễn Du xuất hiện ở trong tác phẩm với hai tư cách :Thứ nhất : tư cách chủ thế kể chuyện vô hình ; thứ hai : tư cách chủ thể trữ tình. Nguyễn Du không phải là người duy nhất phân thân thành chủ thể tự sự và chủ thể trữ tình ở trong tác phẩm, nhưng ông là người thể hiện sự phân thân này hoàn chỉnh nhất. Đây là một nét độc đáo cua Nguyễn Du. (1) F 7 P T 1 T 1 P (1) Lê Ngọc Trà : Lý luận và vãn học . tài liệu đã dẫn. Trang - 150. (1) Xem: Đỗ Minh Tuấn : Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nhà xuất bản Vãn hóa Thông tiu , Hà Nội - 1995. 13
- 1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện: Trong Truyện Kiều chủ thể kể chuyện xuất hiện dưới các hình thức sau đây: 1.2.1. Chủ thể kể chuyên vô hình: Chủ thể kể chuyện ẩn mình dưới dạng "vô nhân xưng ". Truyện Kiều là câu chuyện về Thúy .Kiều viết theo Huyền thông truyện Nôm của Việt Nam. Câu chuyện xoay quanh nhân vật nào thì tên của nhân vật đó thường được dùng để dặt tên cho tác phẩm , ví dụ : Thạch Sanh, Phạm Tải-Ngọc Hoa, Lục Vân Tiên. Nguyễn Du đặt lên cho lác phẩm cua mình là Đoạn Trường Tân Thanh (tiếng nói mới đứt ruột). Khi viết xong chưa được in ngay, tương truyền Nguyễn Du có đưa cho Phạm Quý Thích xem, Phạm Quý Thích có sửa chữa một số chỗ và lúc đưa in đã đổi lên tác phẩm của Nguyễn Du thành Kim Vân Kiều Tân Truyện. Sau đó tác phẩm của Nguyễn Du lại được đổi tên lần nữa từ Kim Vân Kiều Tân Truyện sang Truyện Kiều. Cái lên này được chấp nhận lâu dài vì có lẽ nó đã phản ánh đúng bản chất đích thực của lác phẩm: đây là câu chuyện về Vương Thúy Kiều. Tên gọi này cua tác phẩm phù hợp với cách đặt tên tác phẩm thường có trong truyền thống truyện Nôm của Việt Nam. Truyện Kiều, như đã nói ở trên là câu chuyện xoay quanh số phận cua vương Thúy Kiều trong vòng mười lăm năm. Câu chuyện này được kể chủ yểu dưới hình thức người kể chuyện vô hình - ở dạng "vô nhân xưng". Câu chuyện về Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện trong 3254 dòng thơ lục bát. Trong đó theo thống kê ban đầu của chúng tôi , chỉ có 182 dòng thơ ( trong đó có 19 dòng thơ Vương Quan kể về Đạm Tiên, thực ra đó là một hình bóng của Kiều ) chiếm tỷ lệ hơn 5 phần trăm là do các nhân vật khác kể về đời Kiều, phần còn lại gần 95 phần trăm lời kể là lời của người kể "chuyện vô hình". Tất nhiên hơn ba nghìn dòng thơ chủ thể vô hình kể về Kiều không có nghĩa là chỉ kể về riêng Thúy Kiều mà còn kể về nhiều nhân vật khác. Các nhân vật khác tồn tại trong Truyện Kiều một phần cũng là để góp phần bộc lộ nhân vật Thúy Kiều. Những nhân vật mà Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả, nếu Nguyễn Du không thấy không phục vụ cho việc bộc lộ nhân vật Kiều, ông không sử dụng lại. Xin nêu một ví dụ : Trong Kim Vân Kiều Truyện có khoảng hai phần ba của hồi mười hai (1) , Thanh Tâm Tài Nhân dùng để miêu tả cuộc đấu trí 8F P 1T T 1 P giữa Tú Bà và Thúc Sinh để giành giật Thúy Kiều. Thúc Sinh sau khi đưa Kiều đi dấu ở một nơi đã sai người báo cho Tú Bà biết mình muốn chuộc Kiều. Mụ Tú đi tìm mười ngày cũng không thấy tung tích của Kiều ở đâu. Sau đó mụ mới biết Thúc Sinh dựa vào Vệ Hoa Dương một người "đã từng khét tiếng trong tỉnh" để uy hiếp mụ. Màn kịch do Thúc Sinh dàn dựng (1) Phạm Dan Quế : Truyện Kiều đối chiếu. Nhà xuất bản Hà Nội-1991. Từ trang 249 - 256 14
- đã được trình diễn, mụ Tú thua cuộc. Mụ chỉ nhận được năm trăm lạng bạc liền chuộc, và tân trạng "tiếc rẻ đến chảy máu mắt, cụt hứng mà quay trở về" (2) .Màn kịch nhỏ này có năm nhân F 9 P T 1 T 1 P vật : Tú Bà, Kiều, Bộ Tân, Vệ Hoa Dương, Thúc Sinh - với tư cách vừa là nhân vật của vở kịch vừa là đạo diễn , là một màn kịch sinh động ; nhưng Nguyễn Du bỏ không đưa vào Truyện Kiều vì nó không bổ ích gì cho việc thể hiện nhân vật Kiều. Màn kịch chỉ thể hiện tính ma lanh "mượn oai hùm nhát khỉ" của Thúc Sinh mà thôi. Đặc điểm nổi bật của chủ thể kể chuyện vô hình trong Truyện Kiều là tính chủ quan rất rõ rệt. Tính chủ quan là một đặc điểm quan trọng của thi pháp kể chuyện hiện đại. Chính tính chủ quan trọng kể chuyện của Nguyễn Du thể hiện qua vai trò của hình tượng người kể chuyện vô hình đã làm cho Truyện Kiều của ông có một số đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại. Nguyễn Du trở thành người đầu tiên cải cách nghệ thuật kể chuyện truyền thống của truyện Nôm Việt Nam thời kỳ trung đại. là người mở đẩu trong giai đoạn sơ khai của tiểu thuyết kể theo phong cách kể chuyện hiện đại của dân tộc. Tính chất chủ quan của người kể chuyện vô hình trong nghệ thuật kể chuyện được biểu hiện ở nhiều mặt, trong đó chủ yếu ở các mặt : cách kể câu chuyện , giọng điệu kể chuyện, ngôn ngữ kể chuyện; và ở cách kể lại những chủ thể hữu hình trong tác phẩm đang kể lại một phần đời nào đó của một hay nhiều nhân vật ở trong tác phẩm. Chúng lôi sẽ chứng minh trong các phần viết tiếp theo. Chủ thể kể chuyện vô hình rất chủ quan , thậm chí rất "thiên vị"' đối với nhân vật chính của tác phẩm - Vương Thúy Kiều, nhưng không phải vì thế mà tùy tiện trong miêu tả, kể chuyện, không tuân theo "chủ nghĩa lược đồ" - một đặc điểm nổi bật của nhiều truyện Nôm đương thời . Đây là một chủ thể kể chuyện có bản lĩnh, ông đi sâu vào miều tả đời sống nội lâm nhân vật, để nhân vật phát triển theo logíc của chính nó, mặc dù sự phát triển đó có thể không phù hợp với mong muốn chủ quan của người kể chuyện. Nguyễn Du không đặt tên tác phẩm của mình theo tên nhân vật , như nhiều người cùng thời với ông thường làm. Tên của tác phẩm đã gợi được tư tưởng của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh đã gợi cho người đọc một tiếng kêu thương mới đứt ruột nát gan. Thần thái của tiếng nói ây được loát lên từ lời kể của người kể chuyện vô hình về số phận nàng Kiều. Tất cả nỗi niềm thương cẩm , nâng niu, trân trọng ... của ông đều dồn vào Thúy Kiều , nhưng không phải vì thê mà ông miêu lả Kiều không đúng thực tế. Kiều của Nguyễn Du có quá trình phát triển , không phải là một sự phát triển đi lên dể tìm một sự hoàn thiện hơn mà là một quá trình tha hóa, đổ vỡ. Từ một nhân vật cực kỳ xinh đẹp , tài hoa và đức hạnh buổi đầu, mười (2) Phạm Dan Quế : Truyện Kiều đối chiếu, Nhà xuất bản Hà Nội-1991 Trang 256 . 15
- lăm năm gió bụi dã làm cho Kiều bị tha hóa, Kiều cũng ăn cắp, cũng nói dối, cũng xiêu lòng bởi tiền tài và địa vị vương hầu, cũng cơ hội ( khi khuyên Từ Hải đầu hàng)... Đó là một thực tế tàn nhẫn, người kể chuyện không muốn như vậy nhưng vẫn kể như vậy, thậm chí kể rất tỉ mỉ, rất hay, kể lừ gan ruột của nhân vật kể ra. Đấy chính là bản lĩnh của người kể chuyện. Bản lĩnh, đó là lập trường cá nhân của người kể chuyện . Đó là một trong những phẩm chất của nhà văn hiện đại, thể hiện tính chủ quan của nhà văn. Nguyễn Du đã vượt được cái nhìn một chiều của truyện cổ tích, của truyện Nôm khuyết danh truyền thông. Ông đã xây dựng nhân vật Thúc Sinh , Hoạn Thư, Kiều trỏ thành những nhân vật của văn học hiện thực , những nhân vật có cá tính, có chiều sâu lâm lý, thậm chí có chiều sâu tâm linh (Kiểu ). Đặc điểm thứ ba của hình tượng người kể chuyện vô hình trong Truyện Kiều là : chủ thể kể chuyện vô hình với tác giả và với nhân vật có những lúc hòa nhập với nhau làm một. Hay nói cách khác có sự hài hòa giữa chủ thể kể chuyện và chủ thể trữ tình trong khi kể lại câu chuyện. Chủ thể trữ tình là chủ thể của cảm xúc trữ tình được thế hiện trong tác phẩm. Nhân vật của Truyện Kiều là nhân vật tự sự của truyện thơ, nhưng có nơi, cố lúc Nguyễn Du đã thể hiện họ như là những nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình. Nguyễn Du, người kể chuyện đã nhập thân vào nhân vật để thể hiện đời sống nội tâm sôi động , dữ dội của họ : cảm xúc, tâm trạng của nhân vật được thể hiện trong một ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh , nhạc điệu, có tính tổng hợp hàm súc cao. Nếu lách những đoạn đó ra , sửa đổi chút ít thì nó có thể đứng được như một bài thơ độc lập. Ví dụ : Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích, tâm trạng Kiều ở lầu xanh lần thứ nhất ... Trong bảy lần Kiều nhớ nhà, 22 lần chính Kiều cỏ những tâm sự nước hoặc sau mỗi biến cố của cuộc đời, chúng ta thấy nhiều lần Nguyễn Du thể hiện Kiều như lù một nhân vật trữ tình. Trong điều kiện hạn hẹp , chúng tôi có khảo sát một số truyện Nôm thời trung đại , đặc biệt ba truyện: Nhị Độ Mai, Bích Câu Kỳ Ngộ , Lục Vãn Tiên . Những tác phẩm này có nhiều chứng cớ xác định chúng xuất hiện sau Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng trong ba ltác phẩm này không có đoạn thơ nào , tác giả thế hiện nhân vật như những nhân vật trữ tình. Nguyễn Du rất am hiểu nhân vật, ông gần như nhập thân vào nhân vật Kiều để tả và biểu hiện . Đoạn thơ : " Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lai thương mình xót xa. ... Đã đày vào kiếp phong trần 16
- Sao cho sĩ nhục một lần mới thôi."(1) F 0 P T 1 tức từ dòng thơ 1233 đến dòng thơ 1274 của Truyện Kiều , là một đoạn thư tiêu biểu. Sau khi bị mắc lừa kế "đà đao" của Tú Bà qua bàn lay của Sở Khanh, Kiều bị đánh đập tàn nhẫn và buộc lòng phải ra tiếp khách. Đoạn thơ nói trên gồm 42 dòng thơ thể hiện nỗi đau cua Thúy Kiều trong những ngày tháng ở lầu xanh của mụ Tú, đồng thời thể hiện sự cảm thương sâu sắc của người kể chuyện, của Nguyễn Du đối với vương Thúy Kiều. Trong Kim Vân Kiều Truyện không có đoạn truyện thể hiện nỗi đau của Kiều, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ nối đến bài ca "khốc hoàng thiên" của Kiều. "Kiều đem phổ nhạc vào khúc Hồ cầm , một khi dạo lên nghe càng ai oán, não nuột"(2) . Nội dung của bài ca "Khóc trời xanh" của Kiều trong F P 1T 1T P Kim Vân Kiều Truyện mang tính tự sự. Kiều kể lại một quảng đời của mình : Xót mệnh bạc gặp cơn biến cố Liều cứu cha mắc hố lửa nồng cho đến lúc : Chăn gối bảo học nghề ma mọi Phân son tô, đêm lôi gạ người. Kiều nói khá rõ về cách tiếp khách và phần cuối bài ca có một số dòng bộc lộ nỗi khổ tâm của Kiều : Sinh ra phận gái khổ thay Gái mà kỹ nữ khố rày gấp trăm ! ..... Khóc trời tả lại mấy câu, Ngâm lên một chữ dạ sầu muôn chung. (3) F 2 P T 1 Nguyên Du đã nắm bắt tinh thần bài ca này và đã thể hiện trong 6 dòng thơ thể hiện suy nghĩ, tâm trạng của Kiều : Xót mình cửa các buồng khuê Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay ! Khéo là mặt dạn, mày dày, (1) Phạm Đan Quế - Truyện Kiều đối chiếu , đã dẫn. Trang 244.245,246. (2) Phạm Đau Quế - Truyện Kiều đối chiếu , đã dẫn. Trang 232. (3) Phạm Đau Quế - Truyện Kiều đối chiếu , đã dẫn. Trang 230.231.Từ đây uhữug câu thơ Kiều chúng tôi sử dụng trong luận án đều dược trích từ tài liệu liêu trêu. 17
- Kiếp người đã đến thế này thì thôi ! Thương thay ! Thân phận lạc loài, Dẫu sao, cũng ở tay người, biết sao ? Nguyễn Du dùng 6 dòng thơ kể tiếp về cuộc đời của Kiều ở lầu xanh. sau đó ông mới thể hiện tâm trạng của Kiều. Kiều xuất hiện như một nhân vật có ý thức sâu sắc về mình. Cái "tôi" cá nhân của nhân vật được Nguyễn Du thể hiện rõ nét: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa. Khi sao phong gấm rũ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Chỉ qua động tác "giật mình", "thương mình" khi "tàn canh", khi tàn cuộc rượu cũng đủ thấy được Kiều đau đớn đến nhường nào. Không có ý thức về cá nhân sâu sắc không thể có sự "giật mình" ấy được. Cảm giác : Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ ? là cảm giác của Nguyễn Du, của người kể chuyện vô hình và cũng là cảm giác của Vương Thúy Kiều. Tám dòng thơ tiếp theo thể hiện tâm trạng "vui là vui gượng", tâm trạng "chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau " của Kiều. Sau 20 dòng thơ thể hiện nỗi đau của một nhân phẩm bị chà đạp, người kể chuyện đã nhập thân vào Kiều thể hiện nỗi nhớ những người thân : cha mẹ, người tình của Kiều. Nhớ ơn chín chữ cao sâu Một ngày một ngả bóng dâu tà tà. ... Nhớ lời nguyện ước ba sinh Xa xôi, ai có thấu tình chăng ai ? .... Hoa kia đã chắp cành này cho chưa? Nỗi đau , nỗi nhớ của Kiều không dứt theo dòng thời gian : 18
- Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng. Đến đây, Nguyễn Du ,người kể chuyện không chịu được nữa đã bước ra phát biểu trực tiếp, vừa thương, vừa giận : Xót người trong hội Đoạn trường đòi cơn. Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho cho hại cho tàn cho cân ! Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi. Trong đoạn thơ trên Nguyễn Du đã xuất hiện với ba tư cách : chủ thể trữ tình, chủ thể kể chuyện và tác giả. Chứ thể kể chuyện vô hình và tác giả ở Truyện Kiều là một , Nguyễn Du phân thân và hội nhập rất hài hòa ở hai tư cách: chủ thể kể chuyện và chủ thể trữ tình ở trong Truyện Kiều. Đó là một nguyên nhân quan trọng đã lạo ra tiếng nói đa thanh trong đoạn thơ mà chúng tôi đã dẫn ở trên. Đoạn thơ có ngôn ngữ trữ tình của Vương Thúy Kiều , có tiếng nói trữ tình ngoại đề cửa tác giả, có ngôn ngữ' của người kể chuyện vô hình trong quá trình kể, tả, phần tích tâm lý nhân vật. Qua "cảnh", qua "tình" người là thấy được "việc". Chỉ đoạn thơ này , người đọc hiểu được đoạn đời của Kiều ở lầu xanh. Và vì thế , Nguyễn Du không tả, kể về cuộc sống của Kiều lúc vào lầu xanh lần hai ở Châu Thái. Nguyễn Du đã dùng 14 dòng thơ , bộc lộ trực tiếp thái độ phẫn uất của mình đối với định mệnh khắc nghiệt đang kiềm tỏa Kiều. Chém cha cái số hoa đào, Gở ra rồi lại buộc vào như chơi ! Nghĩ đời mà ngán cho dời, Tài tình chi lắm cho trời đất nghen ! ..... Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phân cho rồi ngày xanh. Tiếng chửi số phận, chửi đời, oán trời, tâm trạng "liều" trong đoạn thơ trên là của Kiều đồng thời là của người kể chuyện, của Nguyễn Du. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học địa lý: Du lịch An Giang tiềm năng và định hướng
120 p | 217 | 46
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ nhà hàng của Khách sạn Midtown Huế
161 p | 213 | 41
-
Luận án Thạc sĩ khoa học Ngữ văn: Bút pháp xây dựng nhân vật trí thức trong truyện ngắn Nam Cao và Lỗ Tấn
69 p | 214 | 36
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học ngữ văn: Giọng điệu thơ Chế Lan Viên
114 p | 170 | 34
-
Luận án Thạc sĩ khoa học kinh tế: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Vĩnh Linh
113 p | 122 | 33
-
Luận án Thạc sĩ khoa học kinh tế: Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại Công ty Bảo Việt Quảng Trị
122 p | 144 | 26
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái và đề xuất biện pháp bảo tồn, phát triển các loài rau dại ăn được có giá trị tại đảo Cù Lao Chàm, TP Hội An, tỉnh Quảng Nam
26 p | 177 | 25
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
118 p | 88 | 17
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Hoàn thiện công tác quản lý nguồn nhân lực tại khách sạn Midtown Huế
137 p | 89 | 16
-
Luận án Thạc sĩ khoa học kinh tế: Giải pháp phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
106 p | 84 | 13
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Thừa Thiên Huế
124 p | 121 | 13
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học ngữ văn: Nhà văn Tô Hoài với mảng "Truyện loài vật"
133 p | 157 | 13
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Giải pháp phát triển rừng trồng sản xuất trên địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
142 p | 89 | 11
-
Luận án Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu thực trạng phát triển rừng trồng Sa mộc (Cunninghamia lanceota hook) tại huyện Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang
98 p | 84 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Dấu ấn hiện sinh trong thơ Bùi Giáng
26 p | 86 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Bồi dưỡng năng lực khai thác chương trình giáo dục môn Toán cho giáo viên trung học phổ thông
318 p | 41 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp: Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
104 p | 32 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn