intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước

Chia sẻ: Huc Ninh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:192

56
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích cơ bản của luận án "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước" là thông qua nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐỖ TIẾN DŨNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỦ TỊCH NƯỚC LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2018
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐỖ TIẾN DŨNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỦ TỊCH NƯỚC LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 62 38 01 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN MẠNH HÀ NỘI - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Đỗ Tiến Dũng
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 10 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 10 1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 29 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỦ TỊCH NƯỚC 34 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về Chủ tịch nước 34 2.2. Nội dung, hình thức pháp luật về Chủ tịch nước 47 2.3. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước 52 2.4. Yếu tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước 57 2.5. Mô hình, pháp luật một số nước trên thế giới và những giá trị, kinh nghiệm có thể tham khảo cho Việt Nam 63 Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHỦ TỊCH NƯỚC 70 3.1. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về Chủ tịch nước 70 3.2. Thực trạng pháp luật về Chủ tịch nước 88 Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỦ TỊCH NƯỚC 118 4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước 118 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 124 4.3. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước khi có điều kiện sửa đổi Hiến pháp năm 2013 139 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 168
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BMNN Bộ máy nhà nước CNXH Chủ nghĩa xã hội ĐĐNN Đứng đầu nhà nước ĐƯQT Điều ước quốc tế HĐNN Hội đồng Nhà nước HP Hiến pháp NNPQ Nhà nước pháp quyến NTQG Nguyên thủ quốc gia QLNN Quyền lực nhà nước QP&AN Quốc phòng và an ninh QPPL Quy phạm pháp luật TANDTC Toà án nhân dân tối cao TTg Thủ tướng Chính phủ UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội VKSNDTC Viện Kiểm sát nhân dân tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1: Mức độ quan tâm của người dân tới Chủ tịch nước 96 Biểu đồ 3.2: Mức độ đánh giá của người dân về hoạt động của Chủ tịch nước 96 Biểu đồ 3.3: Đánh giá về hoạt động đối ngoại của Chủ tịch nước 107 Biểu đồ 4.1: Nhu cầu cần cụ thể hóa vai trò của Chủ tịch nước khi tham gia phiên họp Chính phủ 131 Biểu đồ 4.2: Mức độ cần thiết phải quy định "Hằng năm, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo công tác trước Chủ tịch nước 132 Biểu đồ 4.3: Khảo sát về nhu cầu ban hành luật riêng về Chủ tịch nước 137 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Trang Sơ đồ 3.1: Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 72 Sơ đồ 3.2: Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1959 74 Sơ đồ 3.3: Hội đồng Nhà nước trong bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1980 77 Sơ đồ 3.4: Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992 80 Sơ đồ 3.5: Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong đối nội 90 Sơ đồ 3.6: Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong đối ngoại 91 Sơ đồ 3.7: Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 92 Sơ đồ 4.1: Cấu trúc bộ máy thiết chế Chủ tịch nước 135
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Về mặt lý luận: Trong bộ máy tổ chức các quốc gia đều có thiết chế đứng đầu nhà nước (ĐĐNN) hay còn gọi là nguyên thủ quốc gia (NTQG). Dù có thể giữa các nước có sự khác nhau về tên gọi và tổ chức, hoạt động nhưng thiết chế ĐĐNN luôn có vị trí, vai trò hết sức đặc biệt và quan trọng, không chỉ đối với Nhà nước mà còn đối với cả đất nước và Nhân dân. Vì vậy, thiết chế này là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó khoa học pháp lý; đồng thời, nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thiết chế này là yêu cầu, nhu cầu tất yếu, khách quan đối với các nước trên thế giới. Nghiên cứu thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người cho thấy, trong bất kỳ tổ chức tự nhiên hay tổ chức xã hội nào đều luôn tồn tại vị trí và chủ thể đứng đầu. Trong tổ chức tự nhiên, đó là cá thể đầu đàn, được hình thành nhờ sức mạnh, sự khôn ngoan và kinh nghiệm sinh tồn; có vai trò, trách nhiệm duy trì sự tồn tại, gắn kết, dẫn dắt hoạt động sống của cả đàn và chiến đấu bảo vệ lãnh địa của đàn. Quy luật, vị trí tự nhiên đó tiếp tục tồn tại, được duy trì và phát triển trong lịch sử tiến hoá của loài người để hình thành nên vị trí, vai trò của người đứng đầu các tổ chức do con người lập ra, kể cả nhà nước. Về điều này, Ăngghen có viết, đứng đầu thị tộc là các Hội đồng (boule), lúc đầu, có lẽ nó gồm tất cả các trưởng thị tộc; về sau, khi có quá nhiều trưởng thị tộc, thì là một số người được bầu ra trong số họ. Khi nhà nước xuất hiện, Hội đồng này biến thành Viện Nguyên lão [44] và theo thời gian, Viện Nguyên lão nhận ra một nhu cầu tất yếu là cần phải có một người lãnh đạo duy nhất, vì vậy họ đã bầu ra Vua và giao cho ông quyền lực tối cao [138]. Cùng với quá trình phát triển của nhân loại qua các hình thái kinh tế - xã hội, trong cơ cấu bộ máy nhà nước (BMNN) các quốc gia đều đã hình thành chức vụ/thiết chế ĐĐNN hay còn gọi là NTQG. Mặc dù, ở mỗi nước, NTQG có các tên gọi khác nhau như Chủ tịch nước, Vua, Nữ hoàng, Quốc vương, Đại diện toàn quyền, Tổng thống, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (HĐNN),… nhưng luôn có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà nước, với xã hội và với nhân dân. Người nắm giữ chức vụ này không chỉ là ĐĐNN, đại diện cao nhất cho quốc gia trong đối nội, đối ngoại cấp nhà nước, cấp quốc gia - là chủ thể trong pháp luật quốc tế; mà còn là biểu tượng cho sự trường tồn của dân tộc, là lãnh tụ tinh thần tối cao nhằm duy trì ổn định chính trị, phát huy khối đại đoàn kết và sức mạnh toàn dân tộc.
  8. 2 Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy, NTQG ở các nước nói chung, Chủ tịch nước ở Việt Nam nói riêng đã trở thành đối tượng, chủ đề nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau; trong đó, có khoa học pháp lý. Nghiên cứu pháp luật về thiết chế này đã trở thành vấn đề, nhiệm vụ quan trọng, tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới; không chỉ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia nhằm xác lập hành pháp lý cho NTQG hình thành, tổ chức và hoạt động; mà còn là cơ sở nền tảng cho việc đổi mới thể chế chính trị, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước. Việc Nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước” cho Luận án cũng xuất phát và nhằm phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của Chủ tịch nước. Về mặt thực tiễn: Trải qua 70 năm ra đời, phát triển của Nhà nước ta thì pháp luật về Chủ tịch nước đã dần hoàn thiện hơn; từng bước xác lập địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước để khẳng định, phát huy vị trí, vai trò của người ĐĐNN, thay mặt cho Nước Việt Nam trong trong đối nội, đối ngoại. Qua đó, góp phần quan trọng giúp Chủ tịch nước cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới; quan tâm giải quyết có hiệu quả những vấn đề quốc kế dân sinh, những vấn đề bức xúc trong xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; thúc đẩy quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, nâng cao vị thế của nước ta trong khu vực và trên trường quốc tế, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước [10]. Tuy nhiên, cùng với mặt ưu điểm, thành công thì thực tế cũng đã cho thấy không ít hạn chế, bất cập và đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi cần phải đổi mới đối với tổ chức BMNN nói chung và đối với Chủ tịch nước nói riêng. Nhất là khi, Việt Nam quyết tâm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và đang trong thời kỳ đầu của giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) nên còn “nhiều vấn đề về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền, về tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, về quyền làm chủ của nhân dân còn chưa được làm sáng tỏ” [33]. Trong nhiều nguyên nhân của những hạn chế, bất cập thì nguyên nhân chủ yếu nhất là pháp luật về Chủ tịch nước còn chưa hoàn thiện. Nổi lên một số vấn đề lớn đó là:
  9. 3 - Xét trong suốt lịch sử hình thành, phát triển pháp luật về Chủ tịch nước là hạn chế về tính ổn định. Trải qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, qua 8 lần lập hiến, nhìn chung, vấn đề đổi mới tổ chức BMNN nói chung và thiết chế ĐĐNN nói riêng luôn được đặt ra và có sự thay đổi khá thường xuyên trên thực tế, nhất là giai đoạn trước Hiến pháp năm 1992. Trong 5 phiên bản Hiến pháp (HP) được ban hành vào các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 thì có đến 3 lần dẫn đến sự thay đổi khá cơ bản về thiết chế ĐĐNN, cả về tên gọi, cấu trúc tổ chức và thẩm quyền. Theo HP năm 1946, BMNN “có nhiều đặc điểm của chế độ lưỡng tính cộng hòa” [14, tr.170], [18], tức là, kết hợp giữa cộng hòa nghị viện (đại nghị) với cộng hòa tổng thống [109]; theo đó, thiết chế ĐĐNN là cá nhân, có tên gọi là Chủ tịch nước, rất thực quyền, đồng thời đứng đầu Chính phủ. Đến HP năm 1959, BMNN ta có sự tương đồng với mô hình cộng hòa đại nghị [121]; theo đó, Chủ tịch nước có vị trí khá độc lập trong BMNN, mang tính biểu tượng do không còn đồng thời đứng đầu hành pháp. HP năm 1980 lại có sự thay đổi, do ảnh hưởng từ mô hình Cộng hòa Xô Viết [41], HĐNN vừa là Chủ tịch tập thể của Nước, vừa là cơ quan thường trực của Quốc hội nên thẩm quyền rất rộng. Đến HP năm 1992, thiết chế ĐĐNN lại thay đổi, trở về mô hình biểu tượng của HP năm 1959. HP năm 2013 tiếp tục duy trì mô hình của HP năm 1992. Điều này cho thấy, chúng ta vẫn đang trong quá trình tìm tòi, đổi mới để có được mô hình tổ chức BMNN phù hợp nhất với điều kiện Việt Nam, trong đó có thiết chế ĐĐNN. - Ở góc độ thực trạng pháp luật về Chủ tịch nước đã cho thấy những hạn chế, bất cập về mặt thực định và những yêu cầu, đòi hỏi mới đặt ra trong quá trình thực thi pháp luật (xem thêm Mục 3.2.3). Về mặt hình thức, pháp luật về Chủ tịch nước qua các thời kỳ cũng như hiện hành còn rất tản mạn, thiếu tính thống nhất, đồng bộ, cụ thể, chi tiết. Dù Quốc hội Khoá XIII đã đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh dự án Luật về Chủ tịch nước nhưng cho đến nay vẫn chưa được ban hành. Về nội dung, pháp luật về Chủ tịch nước còn (i) thiếu nhiều quy định điều chỉnh vai trò thay mặt Nước, nhất là trong mối quan hệ với các thiết chế khác trong hệ thống chính trị nước ta như Đảng, Mặt trận Tổ quốc…; (ii) chưa phân định một cách rõ ràng và cụ thể hoá nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với các cơ quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhất là, nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước (QLNN) mới được ghi nhận trong HP năm 2013; (iii) còn chưa đầy đủ,
  10. 4 thiếu quy định cụ thể, chi tiết về bộ máy của thiết chế Chủ tịch nước cũng như về những nhiệm vụ, quyền hạn đặc thù của Chủ tịch nước trong đối nội, đối ngoại như điều kiện, tiêu chuẩn, tuyên thệ, trường hợp khuyết, đặc xá,… Về yêu cầu trong tình hình mới, pháp luật về Chủ tịch nước hiện hành chưa thể chế hoá mạnh mẽ, đầy đủ quan điểm của Đảng về Chủ tịch nước theo hướng “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng NTQG, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [32]. Bên cạnh đó, chủ trương hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng của Đảng, của Nhà nước, của Quốc gia đòi hỏi pháp luật về Chủ tịch nước cần phải được hoàn thiện để tạo cơ sở pháp lý cho Chủ tịch nước trong xây dựng hình ảnh, vị thế của đất nước, Nhà nước Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế; phát huy hơn nữa vai trò của Chủ tịch nước trong duy trì, mở rộng, tham gia các tổ chức quốc tế, trong mối quan hệ song, đa phương, cũng như trong vai trò đại diện Nhà nước, Quốc gia với tư cách là chủ thể trong pháp luật quốc tế. Về sự phù hợp với chuyên ngành đào tạo và bảo đảm tính mới: Việc lựa chọn đề tài Luận án nghiên cứu Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước là phù hợp với chuyên ngành đào tạo “Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật” (Mã số: 60 38 01 01). Đồng thời, qua tìm hiểu lịch sử nghiên cứu cho thấy, dù đã có những công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài Luận án, tuy nhiên, vẫn còn không ít vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra chưa được giải quyết một cách hệ thống, đầy đủ, cụ thể, thấu đáo. Trên cơ sở nền tảng nghiên cứu đã có và kế thừa, phát huy những kết quả nghiên cứu của các tác giả đã đạt được, Luận án sẽ tập trung giải quyết những vấn đề nghiên cứu còn dang dở, những vấn đề nghiên cứu mới liên quan trực tiếp tới Đề tài Luận án. Điều này bảo đảm tính mới trong nghiên cứu của Luận án Tóm lại, đề tài Luận án “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước” là cần thiết, mang tính cấp thiết. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài Mục đích cơ bản của Luận án là thông qua nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước. Với mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu của Luật án gồm: (i) Tìm hiểu, phản
  11. 5 ánh, đánh giá khái quát lịch sử tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước có nội dung liên quan mật thiết đến đề tài Luận án; từ đó, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và xác định rõ những vấn đề mà Luận án sẽ tập trung nghiên cứu; (ii) Làm rõ cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước như khái niệm, đặc điểm của Chủ tịch nước; khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức, tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng, điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước; tìm hiểu mô hình NTQG và pháp luật về NTQG ở một số nước trên thế giới, từ đó rút ra một số kinh nghiệm có thể tham khảo cho Việt Nam; (iii) Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước từ quá trình hình thành, phát triển pháp luật về Chủ tịch nước ở Việt Nam qua các thời kỳ cho đến nay; hệ thống hoá, đánh giá, phân tích thực trạng pháp luật về Chủ tịch nước hiện nay; từ đó, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; (iv) Đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận án là pháp luật Việt Nam về Chủ tịch nước dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Với đối tượng nghiên cứu này, ngoài việc làm rõ những vấn đề mang tính bổ trợ như khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò và kinh nghiệm quốc tế thì Luận án sẽ tập trung nghiên cứu về hình thức và nội dung pháp luật về Chủ tịch nước. Nội dung và hình thức pháp luật về Chủ tịch nước sẽ được Luận án tiếp cận, phân tích làm rõ một cách thống nhất, xuyên suốt từ lý luận đến thực tiễn và đề xuất kiến nghị hoàn thiện. Trong đó, nội dung pháp luật về Chủ tịch nước là đối tượng nghiên cứu trọng tâm. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận án: Về đối tượng, Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý về tổ chức, hoạt động của thiết chế Chủ tịch nước như địa vị pháp lý, cấu trúc bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn... Về tài liệu nghiên cứu, Luận án chủ yếu nghiên cứu các văn bản mang tính pháp lý; trọng tâm là HP và các văn bản cấp luật. Luận án còn nghiên cứu một số tài liệu khác như văn kiện của Đảng, các báo cáo công tác, các công trình nghiên cứu,... Về thời gian, ngoài những nghiên cứu để làm rõ lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật về Chủ tịch nước thì Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề có liên quan trong khoảng những thập niên gần đây, trọng tâm là từ khi HP năm 2013 được ban hành cho đến nay. Về không gian, Luận án tập trung nghiên cứu trong và trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
  12. 6 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để nhận diện, làm rõ và giải quyết các nội dung, vấn đề, câu hỏi nghiên cứu, Luận án dựa trên nền tảng cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước, pháp luật, về tổ chức QLNN. Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng là nền tảng, xuyên suốt; quan điểm toàn diện và phát triển trong triết học Mác - Lênin là cơ sở để xác định, xem xét, phân tích, luận giải và giải quyết các vấn đề, nội dung nghiên cứu một cách có hệ thống, có trọng tâm, trọng điểm; gắn với lịch sử và từ thực tiễn. Ngoài phương pháp luận nghiên cứu, Luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, chủ yếu gồm (i) nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và (ii) nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Việc sử dụng các nhóm phương pháp và từng phương pháp trong nhóm là linh động và có thể kết hợp với nhau, tuỳ thuộc vào từng nội dung, vấn đề và mục đích, mức độ nghiên cứu. Về cơ bản, được sử dụng như sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng chủ yếu để làm rõ cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước, cụ thể: Phương pháp phân tích - tổng hợp lý thuyết được sử dụng chủ yếu trong Chương 1 và Chương 2 của Luận án để nghiên cứu các văn bản, tài liệu chứa đựng những quan điểm, học thuyết, luận điểm của một hoặc một số nhà khoa học khác nhau về tổ chức QLNN, mô hình chính thể, mô hình NTQG; từ đó, phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên cứu; sau đó, liên kết, sắp xếp, tổng hợp lại thành một hệ thống lý thuyết đầy đủ, sâu sắc hơn về vấn đề, chủ đề cần nghiên cứu. Phương pháp phân loại, hệ thống hoá lý thuyết và mô hình hoá chủ yếu được dùng khi nghiên cứu Chương 1, Chương 2 và một phần tại Chương 3 nhằm phân chia các tài liệu sưu tầm được thành những nhóm nhất định có chung dấu hiệu bản chất hoặc cùng hướng phát triển để hiểu rõ hơn từng vấn đề và sự liên kết giữa chúng (ở Chương 1 và Chương 2 là theo nhóm vấn đề; ở Chương 3 là theo thời gian); sau đó, sắp xếp các vấn đề thành hệ thống, thành mô hình lý thuyết để có nhìn nhận tổng thể, toàn diện và sâu sắc hơn. Phương pháp này sẽ được ưu tiên sử dụng khi nghiên cứu về kinh nghiệm các nước trên thế giới, với sự phân loại mô hình để làm rõ những đặc trưng của từng mô hình tổ chức BMNN cũng như mô hình Chủ tịch nước. Phương pháp lịch sử là nghiên cứu bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hóa của các vấn đề, nhiệm vụ nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước để phát
  13. 7 hiện bản chất và quy luật của đối tượng hoặc ngược lại. Phương pháp giả thuyết là đặt ra giả thuyết rồi bằng lý thuyết hoặc lịch sử để chứng minh giả thuyết. Cả hai phương pháp này được sử dụng trong Luận án để nghiên cứu về nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển của pháp luật cũng như trong phần tổng quan; giúp Nghiên cứu sinh phát hiện những thiếu hụt, những điều chưa hoàn chỉnh trong các tài liệu đã có, từ đó xác định chính xác vấn đề nghiên cứu của Luận án. Ngoài ra, phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu Chương 2 (để làm rõ các khái niệm) và chủ yếu khi nghiên cứu Chương 3 (để hệ thống, so sánh, phân tích quá trình hình thành, phát triển pháp luật về Chủ tịch nước). Phương pháp giả thuyết còn được dùng để chứng minh một số nhận định, đánh giá tại Chương 3 và để đặt ra các phương án sau đó phân tích chỉ ra ưu điểm, nhược điểm (Chương 4). - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu về thực trạng pháp luật về Chủ tịch nước ở Việt Nam. Theo lý thuyết phân loại, nhóm này gồm các phương pháp như quan sát, điều tra, thực nghiệm, chuyên gia và phân tích, tổng kết kinh nghiệm... Căn cứ vào đặc thù của đối tượng nghiên cứu và điều kiện thực tiễn, Luận án tập trung sử dụng phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm. Theo đó, dựa trên các văn bản, tài liệu, báo cáo công tác và những kết quả nghiên cứu trước đó, Nghiên cứu sinh sẽ kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu lý thuyết như lịch sử, so sánh, tổng hợp, thống kê... để tổng kết, phân tích, đánh giá tìm ra những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân từ thực trạng pháp luật về Chủ tịch nước. Luận án cũng tiếp cận phương pháp điều tra, khảo sát nhưng do điều kiện không cho phép nên chỉ sử dụng một cách gián tiếp với việc kế thừa kết quả điều tra, khảo sát của công trình trước đó. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu tại Chương 3 và Chương 4. Bên cạnh đó, Luận án còn sử dụng các kỹ thuật nghiên cứu như tìm kiếm, tra cứu thông tin, dịch thuật... 5. Đóng góp mới của Luận án Kết quả nghiên cứu của Luận án sau khi hoàn thành sẽ mang lại những đóng góp mới về mặt khoa học như: 5.1. Về mặt lý luận: Luận án góp phần: (i) Làm rõ hơn khái niệm, đặc điểm của Chủ tịch nước; (ii) Xây dựng khái niệm pháp luật về Chủ tịch nước, làm rõ hơn đặc điểm, vị trí, vai trò và nội dung, hình thức của pháp luật về Chủ tịch nước; (iii) Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện; chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng và
  14. 8 điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước; (iv) Đồng thời, từ kết quả nghiên cứu mô hình, pháp luật một số nước trên thế giới về NTQG, đã khái quát hoá để rút ra một số bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể nghiên cứu tiếp thu trong quá trình hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước. Trong những đóng góp về mặt lý luận như trên, so với các công trình khác, Luận án đã lần đầu tiên chỉ ra một số đặc điểm của NTQG, nhất là tính tự nhiên - lịch sử, chính trị - pháp lý và biểu tượng dân tộc; từ đó, lý giải, làm rõ hơn vì sao Chủ tịch nước thường là cá nhân; tại sao Chủ tịch nước vừa là người ĐĐNN, đồng thời là NTQG; vì sao Việt Nam lấy tên gọi là Chủ tịch nước; cơ sở, nguyên lý để các quốc gia lựa chọn các mô hình NTQG... 5.2. Về mặt thực tiễn: Luận án là công trình nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ, cụ thể, cập nhật nhất pháp luật về Chủ tịch nước cho đến hiện nay. (i) Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về Chủ tịch nước được chia thành các giai đoạn, phản ánh khái quát về nội dung, hình thức, chỉ ra sự kết thừa, phát triển và phân tích những nguyên nhân, yếu tố tác động dẫn hết sự thay đổi; đánh giá ưu, nhược điểm, rút ra bài học kinh nghiệm và nguyên nhân. (ii) Đối với pháp luật về Chủ tịch nước hiện hành (từ năm 2013 đến nay), đã hệ thống hoá để phản ánh đầy đủ nội dung (theo từng nhóm quy phạm pháp luật), hình thức (theo cấp độ văn bản), có phân tích, đánh giá ưu, nhược điểm, chỉ ra nguyên nhân từ thực trạng pháp luật về Chủ tịch nước hiện hành gắn với thực tiễn thi hành; từ đó, cho thấy rõ nhu cầu, yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với việc tiếp tục phải hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước trong thời gian tới. 5.3. Về kiến nghị giải pháp: Sau khi nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, Luận án đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước. Những kiến nghị hoàn thiện này là toàn diện, cả về hình thức, nội dung pháp luật về Chủ tịch nước. Nghiên cứu sinh nhận thấy, đây là luận án tiến sỹ luật học đầu tiên và là một trong số rất ít công trình nghiên cứu khoa học đưa ra các giải pháp mang tính tổng thể, toàn diện và cụ thể nhất nhằm hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước theo HP năm 2013. Đồng thời, Luận án còn đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước một cách căn bản, về lâu dài, khi có điều kiện sửa đổi, bổ sung HP năm 2013.
  15. 9 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận: Với kết quả nghiên cứu, đặc biệt là những đóng góp mới như đã trình bày thì Luận án đã góp phần bồi đắp, làm sáng tỏ hơn những giả thuyết, luận điểm, học thuyết của các nhà khoa học về những vấn đề liên quan đến sự ra đời, phát triển của thiết chế ĐĐNN, NTQG cũng như pháp luật về Chủ tịch nước. Từ đó, giúp mọi người hiểu rõ hơn những vấn đề pháp lý về Chủ tịch nước. Đồng thời, thông qua nghiên cứu thực trạng pháp luật về Chủ tịch nước, Luận án cũng góp phần giúp người đọc có thêm thông tin, hiểu biết hơn về tổ chức, hoạt động của Chủ tịch nước; cung cấp thêm những tri thức kinh nghiệm, thực tiễn để kiểm nghiệm, đánh giá tính tương thích của những quan điểm, lý thuyết về pháp luật Chủ tịch nước; qua đó, tiếp tục làm sáng tỏ, củng cố thêm sự đúng đắn của lý thuyết trên thực tế hoặc phát hiện những khía cạnh, xu thế mới làm cơ sở và đặt ra yêu cầu cần đổi mới, hoàn thiện lý thuyết. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: (i) Góp phần giúp Chủ tịch nước, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan nhìn nhận lại, hiểu rõ hơn quyền, nghĩa vụ và thực tiễn hoạt động của mình; từ đó, có những điều chỉnh phù hợp để khắc phục những hạn chế, bất cập, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình. (ii) Cung cấp thêm thông tin tham khảo phục vụ hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, cụ thể các quy định của HP năm 2013 nói chung và pháp luật về Chủ tịch nước nói riêng. (iii) Là tài liệu tham khảo tin cậy cho hoạt động nghiên cứu và giảng dạy ở Việt Nam. 7. Bố cục của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của Luận án được kết cấu gồm 4 chương, 12 tiết.
  16. 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án 1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về bộ máy nhà nước và pháp luật về bộ máy nhà nước * Nghiên cứu về bộ máy nhà nước gắn với tổ chức quyền lực nhà nước và xây Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Về tổ chức QLNN có: (1) Cuốn "Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước" của Nguyễn Minh Đoan và các cộng sự [34] là công trình nghiên cứu khá sớm và tập trung những vấn đề lý luận về QLNN, tổ chức thực hiện QLNN (như khái niệm, nguyên tắc...); tổ chức QLNN ở Việt Nam (QLNN thống nhất, có sự phân công, phối hợp; về vai trò lãnh đạo của Đảng); về nguy cơ và yêu cầu đối với tổ chức thực hiện QLNN (tha hoá, tham nhũng, tham quyền, cố vị). Kết quả nghiên cứu của tác giả là cơ sở lý thuyết để luận giải về vị trí, vai trò và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong tổ chức thực hiện QLNN ở Việt Nam. (2) Cuốn "Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay” của Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh [129] gồm 4 phần lớn nghiên cứu (i) những vấn đề chung về giám sát, cơ chế giám sát QLNN; (ii) giám sát của BMNN; (iii) giám sát của các tổ chức chính trị xã hội; (iv) giới thiệu về giám sát việc thực hiện QLNN ở một số nước trên thế giới (Đức, Trung Quốc) cũng như ở nước ta thời phong kiến. Trong đó, kết quả nghiên cứu về cơ chế giám sát QLNN nói chung và giám sát QLNN của Chủ tịch nước sẽ là cơ sở để xác định, phân tích, đánh giá vai trò của Chủ tịch nước đối với Nhà nước nói chung và với các thiết chế khác trong BMNN. (3) Cuốn “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước", Nguyễn Đăng Dung [16] gồm 8 chương đề cập đến một số vấn đề như sự cần thiết phải giới hạn QLNN; lý thuyết chung để giới hạn QLNN (như vai trò của Hiến pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ)...); một số nội dung, hình thức để giới hạn QLNN (như
  17. 11 bảo đảm nhân quyền; cơ chế bầu cử và nhiệm kỳ, trong đó có NTQG); về cơ chế giới hạn QLNN từ bên trong (giới hạn bằng việc phân chia/phân công, phân nhiệm, tự kiểm tra giữa các cơ quan trong BMNN, nhất là Chính phủ phải chịu trách nhiệm) và hạn chế QLNN từ bên ngoài (các tổ chức xã hội, nhân dân). Giá trị của cuốn sách này đối với Luận án là cung cấp cơ sở lý thuyết để khẳng định con đường hình thành của Chủ tịch nước trong xã hội dân chủ phải là bầu cử với nhiêm kỳ nhất định; đặc biệt, cần phải xác lập cơ chế kiểm soát, giới hạn quyền lực từ phía Chủ tịch nước và đối với Chủ tịch nước, cả từ bên trong và bên ngoài (như giám sát, phản biện của Mặt trận tổ quốc hay của nhân dân với Chủ tịch nước). (4) Cũng bàn về tổ chức và kiểm soát QLNN còn có một số công trình của một số tác giả khác như: (i) Một số cuốn sách, đề tài, luận án có: Cuốn “Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước” của Thái Vĩnh Thắng [118]; Đề tài khoa học cấp nhà nước: “Phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [42] và Cuốn “Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992” của Trần Ngọc Đường [43]; “Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” của Cao Anh Đô [37]… (ii) Một số bài viết như: "Tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946 giá trị mang tính thời đại” của Phạm Hồng Thái [109]; "Kiểm soát việc thực hiện quyền lập pháp: một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trương Thị Hồng Hà [45]; “Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa ba quyền theo tinh thần Hiến pháp năm 2013” của Nguyễn Đăng Dung [23]; "Nội dung Hiến pháp 2013 và Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng CSVN lần thứ XII về kiểm soát quyền lực nhà nước” của Nguyễn Văn Mạnh [74];... - Về NNPQ XHCN có: (1) Các công trình nghiên cứu trong giai đoạn (2001- 2013) là: (i) Đề tài cấp Nhà nước “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng” của Đào Trí Úc [128] đã làm rõ nội dung và phương hướng xây dựng NNPQ ở nước ta, đề ra các yêu cầu bảo đảm trên con đường đó là phải bảo đảm quyền lực nhân dân (dân chủ), bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, xây dựng cơ chế thực hiện QLNN có sự phân công, phối hợp rõ ràng trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
  18. 12 hành pháp, tư pháp. (ii) Cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, pháp chế và sự vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Trịnh Đức Thảo [112] lại tập trung nghiên cứu NNPQ dưới góc độ chính trị - pháp lý; từ việc làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và pháp chế đã chỉ ra những giá trị, việc vận dụng của Đảng trong xây dựng NNPL và một số đề xuất, kiến nghị. (iii) Một số công trình của cá tác giả khác như: Cuốn "55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh [81]; Cuốn "Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp" của Nguyễn Đăng Dung [19]; Cuốn "Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Lý luận và thực tiễn" của Nguyễn Văn Mạnh [72]; Cuốn "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân” của Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn [105]; (v) Cuốn "Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay" của Lê Minh Thông [119]; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Hoàng Thị Hạnh [49]… Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của việc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam giai đoạn (2001-2013), các tác giả đã khẳng định, làm rõ bản chất, mục tiêu dân chủ của nhà nước ta và tính đúng đắn của chủ trương xây dựng NNPQ XHCN; rút ra được những đặc điểm, giá trị cốt lõi của mô hình BMNN pháp quyền XHCN; cho thấy nhu cầu tất yếu cần phải tiếp tục hoàn thiện và đề xuất những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện mô hình BMNN. Những kết quả nghiên cứu này vừa là cơ sở lý luận, vừa là cơ sở thực tiễn để Luận án phân tích, đánh giá rõ hơn ưu điểm, hạn chế của thực trạng tổ chức, hoạt động của Chủ tịch nước trong quá trình xây dựng NNPQ cũng như khẳng định nhu cầu và xác định định hướng hoàn thiện trong tương lai. Tuy nhiên, đa số các công trình trên tập trung nghiên cứu nhiều về Quốc hội (lập pháp), Chính phủ (hành pháp), Toà án nhân dân (tư pháp) và về mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; mức độ, phạm vi nghiên cứu về Chủ tịch nước chưa nhiều, chủ yếu phát sinh từ nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế lập pháp, hành pháp, tư pháp. (2) Sau khi HP năm 2013 được ban hành, có một số bài viết đáng chú ý: "Nguyên lý chủ quyền nhân dân và biểu hiện của nó trong NNPQ ở Việt Nam”, của Trịnh Đức
  19. 13 Thảo, Nguyễn Thị Việt Hương [113]; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam" của Nguyễn Văn Mạnh [73]; "Đảng hóa thân vào nhà nước" trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta” của Nguyễn Hữu Đổng [38]; Hội thảo “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách về nhà nước và pháp luật trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng” của Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam [136];... Nhóm công trình này đã tập trung phân tích, làm rõ những điểm mới về tổ chức BMNN trong HP năm 2013 và kiến nghị phục vụ việc thể chế hoá những quy định của HP; trong đó, có đề cập đến việc cần cụ thể hoá các quy định về Chủ tịch nước. Những kết quả nghiên cứu này giúp Nghiên cứu sinh có thêm thông tin để phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về Chủ tịch nước hiện hành cũng như nhận diện được một số vấn đề cần nghiên cứu trong tương lai. Tuy nhiên, do nghiên cứu về cả BMNN và mục đích chính là nhằm triển khai thi hành HP năm 2013 nên nhóm công trình này chưa nghiên cứu sâu, cụ thể về Chủ tịch nước và chưa hướng tới những kiến nghị lâu dài. * Nghiên cứu pháp luật về BMNN: Cuốn "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Lê Minh Tâm [108] đã nghiên cứu (i) những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, hệ thống pháp luật; (ii) quá trình hình thành, phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, từ năm 1945; (iii) nêu lên những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của công trình, nhất là nội dung nghiên cứu về tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật và những đánh giá về thực trạng cũng như đề xuất phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật là cơ sở giúp Luận án xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước cũng như tham khảo để đánh đánh giá, phân tích thực trạng pháp luật (đặt trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung ở giai đoạn trước) và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước. Gần đây nhất, cuốn "Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Minh Đoan [36] đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Trong nội dung nghiên cứu thực trạng cơ chế pháp lý, thực tiễn pháp luật và thực tiễn kiểm soát quyền lập pháp, hành pháp, tư
  20. 14 pháp của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam, tác giả đã đề cập đến các quy định của pháp luật về Chủ tịch nước. Trong phần quan điểm, giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam, tác giả đã khẳng định "cần tăng cường sự kiểm soát quyền lực của Chủ tịch nước”. Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình có liên quan của một số tác giả như: (i) Cuốn "Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1992 và 1992 sửa đổi, bổ sung” của Nguyễn Đăng Dung [17]; (ii) Cuốn "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn Minh Đoan [35]; (iii) "Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của Dương Thị Mai [71]; (iv) "Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” của Ban Chỉ đạo tổng kết [5]... Nội dung khái quát của các công trình trên là tập trung phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam từ khi xây dựng NNPQ; chỉ ra những yêu cầu, phương hướng tiếp tục hoàn thiện trong tương lai. Kết quả nghiên cứu trên mang tính khái quát rất cao, nhất là nội dung nghiên cứu pháp luật về tổ chức BMNN, trong đó quy định pháp luật về Chủ tịch nước sẽ giúp Nghiên cứu sinh có thêm cơ sở thực tiễn để đánh giá thực trạng cũng như xác định định hướng hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước một cách phù hợp, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, hạn chế là các công trình trên lại không nghiên cứu trực tiếp, sâu sắc và đầy đủ pháp luật về Chủ tịch nước... 1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu pháp luật về Chủ tịch nước * Nghiên cứu về thiết chế Chủ tịch nước: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiết chế Chủ tịch nước ở Việt Nam” của Bùi Ngọc Sơn [107] nghiên cứu (i) vấn đề chung về thiết chế ĐĐNN (như sự ra đời, mô hình); sự đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiết chế Chủ tịch nước qua tư tưởng lập hiến của Người; từ đó, chỉ ra những giá trị có thể kế thừa và phát triển trong tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh về Chủ tịch nước.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0