Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số cơ sở khoa học trồng rừng thâm canh bạch đàn chu kỳ sau ở vùng Trung tâm Bắc Bộ
lượt xem 4
download
Mục tiêu của đề tài nghiên cứu nhằm xác định được một số cơ sở khoa học để trồng rừng thâm canh bạch đàn chu kỳ sau cho năng suất, chất lượng cao và ổn định ở vùng Trung tâm Bắc Bộ; xác định được các giống bạch đàn thích hợp và các biện pháp kỹ thuật tổng hợp để phát triển rừng trồng bạch đàn chu kỳ sau cho năng suất, chất lượng cao và ổn định ở vùng Trung tâm Bắc Bộ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số cơ sở khoa học trồng rừng thâm canh bạch đàn chu kỳ sau ở vùng Trung tâm Bắc Bộ
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Thực hiện Chiến lƣợc phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 với mục tiêu phát triển 825.000 ha rừng nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ, diện tích rừng trồng mới đã tăng rất nhanh trong những năm qua từ 1,92 triệu ha năm 2000 lên 3,4 triệu ha năm 2012 và 4,24 triệu ha năm 2018, bình quân tăng 128.000 ha/năm. Diện tích rừng trồng tăng đã góp phần cung cấp nguyên liệu phục vụ cho chế biến đồ mộc xuất khẩu tăng liên tục qua các năm. Năm 2019 giá trị xuất khẩu gỗ và đồ gỗ của Việt Nam đã đạt con số 11,3 tỷ USD, tăng 19,2% so với năm 2017, giá trị xuất siêu đạt 8,7 tỷ USD, đƣa Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 5 trên thế giới, thứ 2 châu Á và thứ nhất Đông Nam Á về xuất khẩu gỗ và đồ gỗ với thị trƣờng đã đƣợc mở rộng ra 140 quốc gia và vùng lãnh thổ (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2019 của Tổng cục Lâm nghiệp). Bạch đàn là loài cây trồng rừng chủ lực của 9 vùng kinh tế - sinh thái lâm nghiệp theo Quyết định số 4961/QĐ-BNN-TCLN ngày 17/11/2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hiện nay, diện tích rừng trồng bạch đàn của cả nƣớc đạt 300.000ha, tập trung nhiều nhất tại các tỉnh vùng Trung tâm Bắc Bộ và chủ yếu là rừng trồng kinh doanh gỗ nhỏ làm nguyên liệu cho chế biến ván bóc, bột giấy với chu kỳ kinh doanh ngắn (4 - 6 năm), giá trị kinh tế thấp so với tiềm năng của nó. Diện tích rừng trồng bạch đàn trong vùng lớn nhƣng số lƣợng giống mới đƣợc đƣa vào sản xuất không nhiều, chủ yếu vẫn là các dòng U6, PN14 (Nguyễn Xuân Quát, 2013) do vậy rừng trồng sản xuất rất dễ bị dịch sâu, bệnh hại. Trong thời gian qua, một số giống mới Bạch đàn lai UP và Bạch đàn urô có năng suất, chất lƣợng cao đã đƣợc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận (Quyết định số 65/QĐ- BNN-TCLN ngày 11/01/2013 của Bộ Nông nghiệp &PTNT) nhƣ UP35, UP54, UP72, UP95, UP99, U1088, U262, U821 và U892. Tuy nhiên, các giống bạch đàn này chủ yếu mới đƣợc công nhận cho Ba Vì, Hà Nội và Đông Hà, Quảng Trị (đối với Bạch đàn lai UP), cho Nam Đàn, Nghệ An và Đông Hà, Quảng Trị (đối với Bạch đàn urô), chƣa đƣợc khảo nghiệm cho vùng Trung tâm Bắc Bộ để đánh giá khả năng thích ứng với điều kiện lập địa trong vùng.
- 2 Đất lâm nghiệp của vùng Trung tâm Bắc Bộ chủ yếu là đất đồi núi dốc, nằm trong vùng khí hậu mƣa mùa tập trung với lƣợng mƣa cao, vì vậy lớp đất mặt dễ bị xói mòn, rửa trôi mạnh. Hiện nay, diện tích rừng trồng ở vùng này phần lớn chƣa đƣợc áp dụng các biện pháp quản lý vật liệu hữu cơ sau khai thác và dinh dƣỡng đất hợp lý. Một số biện pháp kỹ thuật cũ, lạc hậu vẫn đang đƣợc áp dụng phổ biến nhƣ phát dọn thực bì toàn diện và đốt toàn bộ vật liệu hữu cơ sau khai thác rừng, cày đất,… kết hợp với đặc điểm đất dốc, khí hậu mƣa mùa tập trung nên đã gây mất một lƣợng lớn chất dinh dƣỡng trong đất. Hậu quả là đất bị thoái hóa và dẫn đến suy giảm năng suất rừng trồng ở các chu kỳ tiếp theo. Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động sản xuất lâm nghiệp hiện nay của vùng Trung tâm Bắc Bộ là phải áp dụng tổng hợp các biện pháp trồng rừng thâm canh để sử dụng nguồn tài nguyên đất có hiệu quả, tăng năng suất cây trồng, thích ứng với biến đổi khí hậu trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại có liên quan. Điều này đặc biệt quan trọng đối với kinh doanh rừng trồng bạch đàn nhiều chu kỳ, tính bền vững và năng suất của rừng thƣờng bị giảm ở các chu kỳ sau. Xuất phát từ thực trạng và yêu cầu nêu trên, cần thiết phải có các giải pháp kỹ thuật tổng hợp để phát triển rừng trồng bạch đàn theo hƣớng thâm canh bền vững trên đất rừng đã kinh doanh nhiều chu kỳ ở vùng Trung tâm Bắc Bộ. Do vậy, thực hiện đề tài luận án: “Nghiên cứu một số cơ sở khoa học trồng rừng thâm canh bạch đàn chu kỳ sau ở vùng Trung tâm Bắc Bộ” là có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Về khoa học Xác định đƣợc một số cơ sở khoa học để trồng rừng thâm canh bạch đàn chu kỳ sau cho năng suất, chất lƣợng cao và ổn định ở vùng Trung tâm Bắc Bộ. 2.2. Về thực tiễn Xác định đƣợc các giống bạch đàn thích hợp và các biện pháp kỹ thuật tổng hợp để phát triển rừng trồng bạch đàn chu kỳ sau cho năng suất, chất lƣợng cao và ổn định ở vùng Trung tâm Bắc Bộ. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- 3 3.1. Ý nghĩa khoa học Cung cấp một số cơ sở khoa học từ khâu chọn giống, quản lý lập địa,... cho đến kỹ thuật trồng rừng bạch đàn trên các lập địa đã kinh doanh nhiều chu kỳ cho năng suất, chất lƣợng cao và ổn định ở vùng Trung tâm Bắc Bộ. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn Đã xác định đƣợc một số giống bạch đàn phù hợp và các biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh bạch đàn chu kỳ sau cho năng suất, chất lƣợng cao và ổn định ở vùng Trung tâm Bắc Bộ. 4. Những đóng góp mới của luận án Đây là công trình nghiên cứu tƣơng đối có hệ thống và toàn diện về cơ sở khoa học cho trồng rừng thâm canh bạch đàn chu kỳ sau có năng suất, chất lƣợng cao và ổn định trên đối tƣợng đất dốc ở vùng Trung tâm Bắc Bộ. Đề tài luận án có các đóng góp mới sau đây: (1) Đã xác định đƣợc các giống bạch đàn UP54, UP72, UP95 và UP99 phù hợp cho trồng rừng thâm canh tại vùng Trung tâm Bắc Bộ. (2) Đã xác định đƣợc các biện pháp kỹ thuật tổng hợp liên hoàn để phát triển rừng trồng bạch đàn thâm canh trên đất dốc, đã trải qua ít nhất 2 chu kỳ kinh doanh ở vùng Trung tâm Bắc Bộ, từ khâu chọn giống, quản lý VLHCSKT rừng trồng bạch đàn chu kỳ trƣớc, bón phân, quản lý cỏ dại, tỉa thƣa và nuôi dƣỡng rừng. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu - Rừng trồng bạch đàn trên lập địa đã kinh doanh ít nhất 2 chu kỳ ở vùng Trung tâm Bắc Bộ. - Các giống Bạch đàn lai UP35, UP54, UP72, UP95, UP99 và các giống Bạch đàn urô U892, U1427, PN14. 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Về điều tra khảo sát ngoại nghiệp: tiến hành điều tra, khảo sát tại 6 tỉnh vùng Trung tâm Bắc Bộ, gồm: Hà Giang, Lào Cai, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc và Yên Bái. Trong đó, điều tra chi tiết tại 2 tỉnh Phú Thọ và Yên Bái.
- 4 - Về địa điểm thí nghiệm: Khảo nghiệm giống và lâm sinh đƣợc bố trí tại Công ty TNHHMTV Lâm trƣờng Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. 6. Cấu trúc luận án Luận án, ngoài phần lời cam đoan, lời cảm ơn, tài liệu tham khảo và các phụ lục, đƣợc kết cấu thành các phần sau đây: - Phần mở đầu - Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu - Chƣơng 2: Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu - Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận - Kết luận, tồn tại, kiến nghị
- 5 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Kết quả nghiên cứu về chọn, tạo giống bạch đàn Trong sản xuất lâm nghiệp, giống đóng vai trò quan trọng giúp tăng năng suất và chất lƣợng rừng trồng. Do đó, tại một số nƣớc có nền sản xuất lâm nghiệp hàng hóa cao nhƣ Germany, Sweden, Finland, Australia, Brazil,… nghiên cứu chọn tạo giống là lĩnh vực đƣợc ƣu tiên đầu tƣ và thƣờng đi trƣớc các chƣơng trình trồng rừng một bƣớc. Bạch đàn là một chi thực vật thuộc họ Sim (Myrtaceae) bao gồm trên 700 loài và đƣợc phân thành nhiều chi phụ khác nhau, chủ yếu gặp ở Australia, Indonesia (Lê Đình Khả, 1996) [29]. Trong những năm qua, cây bạch đàn đã đóng vai trò quan trọng trong trồng rừng cung cấp nguyên liệu sản xuất bột giấy, ván dăm, gỗ xây dựng và đồ nội thất ở các nƣớc có diện tích trồng rừng tập trung lớn nhƣ Brazil, China, India, South Africa, Zimbabwe và các nƣớc khu vực Đông Nam Á. Với những cố gắng về chọn giống, sử dụng các dòng vô tính cao sản và các biện pháp thâm canh,… năng suất rừng trồng bạch đàn đã tăng lên rất đáng kể, đặc biệt là Brazil, Công, South Africa (dẫn theo (Nguyễn Việt Cƣờng, 2005) [13], (Lê Đình Khả, 2003) [31]). Nghiên cứu về chọn tạo và cải thiện giống bạch đàn đã đƣợc triển khai từ rất sớm ở nhiều nƣớc trên thế giới, tập trung vào các hƣớng sau đây: - Nghiên cứu về chọn loài và xuất xứ là bƣớc đi đầu tiên trong mọi chƣơng trình cải thiện giống. Theo ghi nhận trên thế giới có trên 700 loài bạch đàn, tuy nhiên chỉ có khoảng 20 loài đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong trồng rừng kinh tế (Lê Đình Khả, 2005) [32], (Nguyễn Việt Cƣờng, 2010) [14], (Davidson, 1998) [77]. Căn cứ vào vùng phân bố tự nhiên cũng nhƣ phạm vi trồng rừng tại vùng nhiệt đới thì có các loài bạch đàn phổ biến nhƣ Bạch đàn camal (E. camaldulensit), Bạch đàn tere (E. tereticornis), Bạch đàn pellita (E. pellita), Bạch đàn urô (E. urophylla) (Eldridge et al., 1993) [83].
- 6 + Khi khảo nghiệm loài và xuất xứ Bạch đàn pellita ở một số nƣớc nhiệt đới, các tác giả đã chỉ ra (1) Bạch đàn pellita là loài cây sinh trƣởng nhanh với lƣợng tăng trƣởng bình quân hàng năm đạt từ 2 - 4cm về đƣờng kính và từ 2 – 4m về chiều cao tùy từng điều kiện lập địa (Harwood et al., 1998) [93], (Pinyopusarerk et al., 1996) [110], (2) Chất lƣợng gỗ tốt, đáp ứng đƣợc nhu cầu đa dạng cho các loại gỗ chất lƣợng cao nhƣ đồ gỗ trong nhà, đồ gỗ ngoài trời, gỗ xây dựng, ván sàn (Bootle, 1983) [71]; (3) Ở vùng thấp nhiệt đới, lƣợng mƣa lớn, mùa mƣa ngắn, các xuất xứ từ Papua Guinea có sinh trƣởng nhanh, thân đẹp và chống chịu bệnh tốt hơn so với các xuất xứ ở vùng Đông Bắc Queensland - Australia (Pinyopusarerk et al., 1996) [110]. + Bạch đàn urô có khả năng thích nghi với các điều kiện lập địa khác nhau và đƣợc sử dụng gây trồng rộng rãi ở nhiều nƣớc trên thế giới nhƣ Indonexia, Malayxia, Autraylia, Brazil, South Africa, Congo, China,… (Davidson, 1998) [77]. Khi khảo nghiệm xuất xứ, từ đó chọn những cây mẹ tốt nhất trong xuất xứ đối với 02 loài Bạch đàn E. urophylla và E. grandis đã thu đƣợc 65 dòng vô tính trong đó có 15 dòng tốt nhất phục vụ sản xuất cây con để trồng rừng và cho năng suất rừng trồng tăng lên khoảng 15% (dẫn theo Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2001) [35]. - Các nghiên cứu về chọn lọc cây trội và khảo nghiệm dòng vô tính đã đƣợc thực hiện ở nhiều nƣớc và có những kết quả tích cực. + Từ những năm 1983 tại South Africa đã triển khai một chƣơng trình cải thiện giống từ công tác chọn lọc cây trội tại chỗ, từ các khảo nghiệm hậu thế, khảo nghiệm cây bạch đàn lai rồi nhân giống vô tính để lấy cây con đem khảo nghiệm dòng vô tính. Kết quả cho thấy: (1) Ở 30 tháng tuổi, với 30 dòng vô tính đem khảo nghiệm, tăng trƣởng bình quân về thể tích của dòng tốt nhất đạt 24,4m3/ha/năm; (2) Trong 78 dòng vô tính đƣợc chọn lọc từ các khảo nghiệm hậu thế có 50 dòng vô tính vƣợt so với đối chứng, trong đó có 9 dòng đạt tăng trƣởng bình quân 30 m3/ha/năm và 3 dòng đạt 40m3/ha/năm (dẫn theo Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2001) [35].
- 7 + Trong chƣơng trình cải thiện giống đƣợc triển khai cho loài Bạch đàn E. grandis ở Colombia vào năm 1989, các nhà nghiên cứu đã chọn đƣợc 65 cây trội với cƣờng độ chọn lọc là 60 cây chọn 1, trong đó 15 cây tốt nhất đã đƣợc dùng để sản xuất hom cho giai đoạn trƣớc mắt. Do cƣờng độ chọn lọc thấp nên năng suất trồng rừng chỉ tăng khoảng 15% (Eldridge et al., 1993) [83]. + Để xác định mức độ phù hợp và năng suất của bạch đàn trên các điều kiện lập địa khác nhau, các nhà khoa học đã tiến hành khảo nghiệm các dòng Bạch đàn lai (E. urophylla x E. camaldulensis, E. grands x E. urophylla) ở Quangzhou, China và Kerala, India (Yang, 2003) [123]. - Các nghiên cứu về lai tạo giống bạch đàn đã đƣợc thực hiện từ rất sớm ở nhiều nƣớc trên thế giới và đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. + Năm 1975, Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp Quảng Tây (Trung Quốc) đã lai giữa E. saligna với E. exserta tạo ra đƣợc một số tổ hợp lai có khả năng vƣợt trội hơn loài E. exserta tới 82% về thể tích thân cây, trong đó tổ hợp lai nghịch E. exserta x E. saligna có sinh trƣởng nhanh hơn tổ hợp lai thuận E. saligna x E. exserta, giống lai giữa Bạch đàn saligan với Bạch đàn liễu có khả năng chống chịu đƣợc gió bão tốt, thích hợp cho vùng biển (Shuxiong, 1989). Các tổ hợp lai thuận nghịch giữa E. urophlla và E. grandis cũng đƣợc tạo ra ở Trung Quốc, trong đó có một số giống rất thích hợp với điều kiện lập địa vùng đồi, có khả năng chống chịu gió và cho năng suất 45-48 m3/ha/năm nhƣ E. urophylla x E. tereticornis TH9211- LH4-6 (Wang và Yang, 1996) [120], (Rezende Gabriel và Rezende Marcos, 2000) [112]. Năm 1989, Martin cũng đã thống kê có hơn 20 tổ hợp lai khác loài đƣợc tạo ra ở chi bạch đàn, trong đó chủ yếu là nhóm E. grandis và E. urophylla đƣợc dùng làm cây mẹ (Martin, 1989) [101]. + Nghiên cứu của Glory năm 1993 về lai giống thuận nghịch giữa các loài bạch đàn cho kết quả thể tích viên trụ ở cây 4 năm tuổi của tổ hợp lai thuận E. pelltita x E. urophylla là 180,9 dm3/cây, tổ hợp lai nghịch E. urophylla x E. pelltita là 145,7 dm3/cây, trong khi E. pelltita là 35 dm3/cây, E. urophylla là 25,8 dm3/cây
- 8 (Glory, 1993) [87]. Nhƣ vậy, đổi vị trí của cây bố, mẹ trong phép lai thuận nghịch đã làm thay đổi sinh trƣởng của cây lai (ƣu thế lai chịu ảnh hƣởng của tế bào chất). + Tại Brazil, khi lai giống và sử dụng hình thức nhân giống bằng hom để tạo cây con Bạch đàn lai E. urophylla x E. grandis đã cho kết quả một số lô thí nghiệm đạt tăng trƣởng bình quân 70m3/ha/năm ở tuổi 5,5. Kết quả trong nghiên cứu này cũng thu đƣợc khả năng tăng thu di truyền của một số tính trạng khác nhƣ khối lƣợng thể tích (tăng từ 480 lên 490 kg/m3), năng suất bột giấy (tăng từ 47 lên 49%, hàm lƣợng vỏ giảm từ 18% xuống 12% (Zobel et al., 1984) [125]. + Nghiên cứu phƣơng pháp lai nhân tạo giống bạch đàn qua thụ phấn khống chế đƣợc thực hiện ở Congo từ những năm 1997. Kết quả thu đƣợc hàng trăm dòng vô tính và thông qua các khảo nghiệm dòng vô tính đã tuyển chọn đƣợc những dòng tốt nhất để lai giống. Bằng hình thức này, các nhà nghiên cứu đã thu đƣợc 174 kiểu gen ƣu việt của tổ hợp lai giữa 02 loài E. alba x E. urophylla (dẫn theo Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2001) [35]. + Venkatesh và Sharma (1976, 1977) đã nghiên cứu ƣu thế lai về sinh trƣởng và tính nở hoa sớm. Ƣu thế lai thể hiện sức đề kháng nấm, chống chịu rét và sƣơng muối hơn loài thuần. Ƣu thế lai về sinh trƣởng và tính chịu lạnh ở tổ hợp lai E. grandis x E. nitens, ƣu thế lai về sinh trƣởng, tính chống chịu loét thân ở tổ hợp lai E. grandis x E. urophylla (Verryn, 2000) [119]. - Nghiên cứu về chọn giống bạch đàn có khả năng chống chịu: Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu chọn, tạo giống cây trồng có sức chống chịu với các điều kiện bất lợi của môi trƣờng. + Nghiên cứu về chọn giống bạch đàn kháng bệnh đã đƣợc thực hiện từ những năm 1976, Pikethley đã phát hiện ra nấm Cylindroclacdium quinqueseptatum trên các cây họ Sim tại Australia; Sharma (India) năm 1982, 1985 cũng đã phát hiện loại nấm này trên bạch đàn tại India; các nghiên cứu ở Australia (Bollands et al., 1985), Brazil (Alfenas et al., 1997; Junghans et al., 1999) và South Africa (Crous and Swart, 1995) đều có các kết quả về bệnh ở bạch đàn (dẫn theo (Nguyễn Việt Cƣờng, 2005) [13], (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2010) [36]). Các nghiên cứu trên thế
- 9 giới đã chỉ ra có nhiều loài nấm có liên quan đến các loại bệnh hại lá bạch đàn đã ảnh hƣởng không nhỏ tới năng suất và chất lƣợng rừng trồng. + Các công trình nghiên cứu về chọn, tạo giống có sức chống chịu, đặc biệt là tính chịu mặn của McComb (2007), Xiang Yu (2009) cùng xác định đƣợc loài Bạch đàn E. camaldulensis là loài cây có khả năng chịu mặn khá tốt so với các loài bạch đàn khác (ngƣỡng chịu mặn tối đa của loài bạch đàn này 600 mM/l trong thời gian 1 tuần) (dẫn theo Nguyễn Thế Hƣởng, 2017) [27]. Bên cạnh các phƣơng pháp cải thiện giống truyền thống, phƣơng pháp cải thiện giống hiện đại nhƣ chuyển gen, ứng dụng chỉ thị phân tử,… để tạo ra các giống bạch đàn mang các tính trạng quý cũng đã đƣợc áp dụng ở các nƣớc Japan, America, China, Brazil… Kết quả đã tạo ra nhiều giống bạch đàn chuyển gen với các tính trạng tốt nhƣ: chất lƣợng gỗ tốt, khả năng kháng bệnh, chống chịu,…. Một số giống mới đã đạt đƣợc nhƣ: giống Bạch đàn trắng (E. cammaldulensi) chuyển gen làm giảm hàm lƣợng lignin (Chen et al., 2001) [75]; giống Bạch đàn urô (E. urophylla) chuyển gen kháng bệnh gây ra bởi Pseudomonas solanaceanum (Shao et al., 2002) [114]; giống Bạch đàn trắng (E. cammaldulensis) chuyển gen có khả năng chịu mặn (Xiang et al., 2009) [122]. Nhƣ vậy, trong thời gian qua trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về chọn, tạo giống bạch đàn bằng các phƣơng pháp từ truyền thống đến hiện đại. Kết quả nghiên cứu đã chọn đƣợc những dòng, giống chất lƣợng góp phần nâng cao năng suất rừng trồng. 1.1.2. Kết quả nghiên cứu về các biện pháp lâm sinh trong trồng rừng bạch đàn 1.1.2.1. Quản lý độ phì đất thông qua duy trì vật liệu hữu cơ sau khai thác Độ phì đất là yếu tố lập địa quan trọng ảnh hƣởng đến năng suất rừng trồng, trong đó lƣợng vật chất hữu cơ trong đất quyết định đến độ phì của đất. Phần lớn đất đồi núi vùng nhiệt đới nghèo dinh dƣỡng, nguồn dinh dƣỡng chính cho cây trồng là các chất phân hủy từ vật chất hữu cơ trong đất. QLLĐ bao gồm các hoạt động nhƣ duy trì vật liệu hữu cơ sau khai thác, kiểm soát thảm thực bì và bổ sung
- 10 dinh dƣỡng phù hợp đã có tác dụng tích cực đến độ phì đất và năng suất rừng trồng (Nambiar, 1997) [106]. Năm 2002, Paul và cộng sự đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu của 43 đề tài trồng rừng cho thấy hàm lƣợng mùn hầu hết giảm trong những năm đầu sau khi trồng rừng, nguyên nhân là do ảnh hƣởng của các biện pháp chuẩn bị đất và đất không đƣợc che phủ những năm đầu dẫn đến xói mòn, rửa trôi mạnh (Paul, 2002) [109]. Một số nơi có tập quán canh tác đốt các VLHCSKT nhằm giảm chi phí nhân công chuẩn bị hiện trƣờng gây mất một lƣợng lớn các chất dinh dƣỡng do bị phân giải ở nhiệt độ cao hoặc dễ dàng bị rửa trôi sau khi đƣợc giải phóng từ dạng hữu cơ sang vô cơ (Huong et al., 2004) [96], (DeBano et al., 2005) [78]; Hardiyanto and Wicaksono, 2008) [92]. Khi đốt các vật liệu hữu cơ có thể làm tăng tạm thời một số cation, lân và kali trong đất ở dạng dễ tiêu làm cho cây trồng thƣờng sinh trƣởng tốt trong năm đầu (DeBano et al., 2005) [78], (Toit et al., 2008) [118]. Tuy nhiên, các chất dinh dƣỡng này dễ dàng bị rửa trôi dẫn đến mất dinh dƣỡng đất và cây trồng sinh trƣởng chậm lại ở những năm sau nếu không đƣợc bón thúc bổ sung dinh dƣỡng đất (DeBano et al., 2005) [78]. Các tính chất lý, hóa và sinh học khác của đất cũng bị ảnh hƣởng do sự mất đi của lƣợng mùn trong đất. Các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hạn chế xói mòn rửa trôi và giữ lại VLHCSKT có thể duy trì đƣợc một lƣợng lớn chất hữu cơ - nguồn dinh dƣỡng cho chu kỳ sau. Quản lý các vật chất hữu cơ đảm bảo duy trì độ phì đất và năng suất rừng trồng đã đƣợc tổ chức CIFOR quan tâm nghiên cứu từ 1995. Các nghiên cứu tập trung cho các loài bạch đàn, keo và thông trên 16 lập địa khác nhau trên thế giới nhƣ Australia, Brazil, Congo, China, India, Indonesia, South Africa và Việt Nam (Nambiar, 2008) [107]. Kết quả cho thấy, duy trì VLHCSKT có tác động lâu dài đến năng suất rừng. Năng suất rừng trồng tăng ngay ở chu kỳ hiện tại sau khi áp dụng các biện pháp duy trì vật liệu sau khai thác: rừng bạch đàn tăng từ 13 - 30% (Deleporte et al., 2008) [79], (Gonçalves et al., 2008) [89] so với thí nghiệm đốt hoặc lấy đi các vật chất hữu cơ sau khai thác.
- 11 Các nghiên cứu cũng đồng thời chỉ ra việc duy trì VLHCSKT làm hàm lƣợng một số chất dinh dƣỡng trong đất tăng đáng kể sau khi các chất hữu cơ đƣợc giữ lại phân hủy. Thí nghiệm trên 16 lập địa khác nhau, có 9 lập địa cho thấy để lại VLHCSKT đã làm tăng đáng kể chất hữu cơ trong đất, 6 lập địa chƣa cho thấy tăng và 1 lập địa giảm. Điều này đảm bảo lƣợng dinh dƣỡng trong đất cũng nhƣ năng suất rừng của chu kỳ sau sẽ cao hơn chu kỳ trƣớc (Hardiyanto and Wicaksono, 2008) [92], (Nambiar, 2008) [107]. Rừng trồng cây mọc nhanh hiện nay chủ yếu đƣợc áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh đơn giản nhƣ trồng thuần loài và khai thác trắng. Khí hậu mƣa mùa tập trung đã làm mất một lƣợng các chất dinh dƣỡng trong đất do xói mòn, rửa trôi, cũng nhƣ phá vỡ kết cấu và các chức năng khác của đất (Macedo et al., 2008) [99]. Các nghiên cứu về quản lý vật liệu hữu cơ đối với rừng trồng bạch đàn đƣợc Nambiar và cộng sự thực hiện tại Brazil cho thấy: Việc giữ lại lớp thảm mục, cành khô, lá rụng và vỏ cây sau khi khai thác có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ chống thoái hóa đất và tăng năng suất rừng bền vững. 1ha bạch đàn khi để lại toàn bộ cành, lá và vỏ cây sau khai thác có thể trả lại cho đất khoảng 2-3 tấn chất dinh dƣỡng bao gồm canxi, magne, photpho, đồng thời tạo ra một lớp phủ bề mặt chống thoát hơi nƣớc, duy trì độ ẩm và hoạt động của vi sinh vật đất và tạo ra một lớp mùn hữu cơ giúp cho đất tơi xốp (Nambiar and Brown, 1997) [106]. Nhƣ vậy, nhiều nghiên cứu trên thế giới về vấn đề quản lý độ phì đất thông qua duy trì VLHCSKT đã cùng khẳng định tầm quan trọng của việc để lại vật liệu hữu cơ có tác dụng rất lớn trong việc chống thoái hóa đất, duy trì dinh dƣỡng trong đất, năng suất rừng trồng ở luân kỳ sau cao hơn. Các nghiên cứu cũng đồng quan điểm khi chỉ ra quá trình mất dinh dƣỡng sẽ diễn ra nhanh nếu đốt VLHCSKT. 1.1.2.2. Quản lý thực vật cạnh tranh dưới tán rừng Nghiên cứu ảnh hƣởng của biện pháp quản lý thực bì (không xử lý thực bì trƣớc và sau khi trồng rừng, xử lý thực bì bằng biện pháp thủ công trƣớc và sau khi trồng rừng; xử lý thực bì bằng phun hóa chất trƣớc và sau khi trồng) đến năng suất gỗ và hiệu quả kinh tế của rừng trồng Bạch đàn lai E. grandis x E. camaldulensis tại
- 12 KwaZulu - Natal, South Africa năm 1990-1997 của KM Little và J van Staden cho thấy sau 7 năm trồng rừng biện pháp xử lý thực bì trƣớc và sau khi trồng cho năng suất gỗ tăng 62% và hiệu quả kinh tế tăng 30% so với công thức không xử lý thực bì trƣớc và sau khi trồng. Về mặt hiệu quả kiểm soát cỏ dại thì làm cỏ bằng biện pháp phun thuốc hóa học có chi phí thấp nhất, làm giảm sinh trƣởng của cây trồng nhƣng hiệu quả kinh tế cao nhất. Làm cỏ bằng biện pháp thủ công có chi phí lớn nhất, cây trồng sinh trƣởng tốt nhất nhƣng hiệu quả kinh tế thấp hơn biện pháp xử lý thực bì bằng hóa chất. Nghiên cứu ảnh hƣởng của quản lý cỏ dại đến sự phát triển ban đầu của Bạch đàn grandis của nhóm tác giả João Renato Vaz da Silva; Pedro Luís da Costa Aguiar Alves; Roberto Estevão Bragion de Toledo ở hạt Araraquara và Altinópolis, Bang São Paulo, Brazil (năm 2012) cho thấy kiểm soát cỏ dại bằng thuốc diệt cỏ với băng rộng 75cm về mỗi bên của hàng bạch đàn cho hiệu quả tốt ở giai đoạn 270 ngày sau khi trồng. Kết quả nghiên cứu này làm thay đổi quan niệm phổ biến ở Brazil về bề rộng cần xử lý cỏ dại khi trồng rừng bạch đàn là 50cm về mỗi bên. Nghiên cứu ảnh hƣởng của thời điểm và thời gian kiểm soát cỏ dại đến sinh trƣởng của rừng trồng Bạch đàn globulus ở đồn điền Labill trong 2 năm đầu của nhóm tác giả P.R. Adams, C.L. Beadle, N.J. Mendham & P.J. Smethurst cho thấy không quản lý cỏ dại trong 2 năm đầu ảnh hƣởng đến 52% về sinh trƣởng D 1,3 và 40% về sinh trƣởng chiều cao và ảnh hƣởng mạnh nhất vào năm đầu. Nhóm tác giả khuyến cáo rằng thời kỳ quan trọng nhất cho tác động kiểm soát cỏ dại là từ khi trồng đến khi 18 tháng tuổi để tối đa hóa khả năng phát triển của cây. Cỏ dại chủ yếu cạnh tranh mạnh với cây bạch đàn về nitơ, cạnh tranh không đáng kể về nƣớc. 1.1.2.3. Làm đất trồng rừng Nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nƣớc phát triển nhƣ: America, Russia, Sweden, Germany, Canada, Brazil,... công việc làm đất trồng rừng chủ yếu đƣợc thực hiện bằng cơ giới (dẫn theo Phạm Quang Thu và cộng sự, 2008) [42]. Những năm gần đây, ở Brazil, Congo, Indonesia, Malaysia đã sử dụng liên hợp máy cày ngầm với máy kéo xích Komatsu có công suất trên 200 ml để làm đất trồng
- 13 rừng. Rừng trồng “Bạch đàn cao sản” ở Brazil, sử dụng liên hợp máy kéo Komatsu với cày ngầm có công suất lớn để làm đất, độ sâu cày tới 80 - 90cm và năng suất rừng đạt trên 50 m3/ha năm. Một số nơi có địa hình phức tạp đã sử dụng máy khoan hố chạy bằng động cơ xăng (1 hoặc 2 ngƣời tác nghiệp) để khoan hố trồng cây. Một số nghiên cứu gần đây của Australia về cơ giới làm đất trồng rừng với các phƣơng thức kỹ thuật khác nhau: Xử lý thực bì bằng ruller có gắn các lƣỡi cắt, cày vun luống theo rạch (cày ngầm có lắp 2 chảo vun luống); Dùng máy xúc với gầu múc đặc biệt làm đất theo hố; Cày ngầm theo đƣờng đồng mức... [The Australian Forest Growers - 2004] (dẫn theo Phạm Quang Thu và cộng sự, 2008) [42]. Ở các nƣớc phát triển cơ giới làm đất trồng rừng ngày càng đƣợc quan tâm nghiên cứu áp dụng ở mức độ cao, công nghệ và thiết bị hiện đại đƣợc sử dụng có hiệu quả trong sản xuất. 1.1.2.4. Bón phân và chế phẩm sinh học Các nghiên cứu về bón phân cho trồng rừng bạch đàn đã đƣợc thực hiện một cách có hệ thống tại Brazil và một số nƣớc trên thế giới. Mello (1976) khi nghiên cứu ở Brazil đã nhấn mạnh việc bón phân NPK thích hợp có thể tăng năng suất rừng trồng lên đến 50%. Yelu (2004) thí nghiệm bón phân trên các lập địa khác nhau ở Madang đã chỉ ra bón 300g NPK (12:12:17)/cây cho sinh trƣởng tốt nhất (dẫn theo Võ Đại Hải và cộng sự, 2019) [24]. Khi nghiên cứu về tỷ lệ hàm lƣợng phân NPK, Costa và cộng sự đƣa ra kết luận sinh trƣởng của rừng trồng Bạch đàn trắng tại Brazil cao nhất ở công thức có tỷ lệ 200kg N + 30kg P + 50kg K/ha (Costa, 2012) [76]. Một nghiên cứu khác ở South Africa Schonau (1985) về bón phân cho Bạch đàn (E. grandis) cho thấy công thức bón 150g NPK(3:2:1)/gốc có thể nâng chiều cao trung bình của rừng trồng lên gấp 2 lần sau năm thứ nhất. Phân tích các kết quả nghiên cứu trên thế giới về việc bón phân cho bạch đàn cho thấy, nhiều tác giả đã chỉ ra rằng không có một công thức phân bón nào là chung cho các rừng trồng bạch đàn mà cần phải căn cứ vào tính chất vật lý và hóa học của đất để quyết định liều lƣợng phân bón. Bên cạnh đó hầu hết các nghiên cứu đều cùng nhận định NPK có tỷ lệ đạm cao rất quan trọng cho sinh trƣởng của bạch đàn, phân đạm có ảnh hƣởng rất rõ rệt đến sinh trƣởng của rừng trồng bạch đàn trong giai đoạn tuổi non.
- 14 Chế phẩm sinh học sử dụng để bón cho cây trồng nhằm cải thiện sinh trƣởng và kháng sâu bệnh là hỗn hợp chứa một hoặc nhiều thành phần sinh vật: (1) Vi khuẩn phân giải lân, là loại vi khuẩn có khả năng phân giải lân khó tan thành lân dễ tan, cây trồng có thể sử dụng đƣợc; (2) Vi sinh vật đối kháng: là các loài vi sinh vật có thể bảo vệ cây trồng, chống lại các vi sinh vật gây bệnh, đồng thời tạo điều kiện cho cây trồng sinh trƣởng và phát triển tốt; (3) Nấm cộng sinh: là các loài nấm có khả năng cộng sinh với rễ của cây chủ khác, tạo thành mối cộng sinh, không gây hại cho cây chủ mà ngƣợc lại cung cấp các chất dinh dƣỡng cho cây chủ, giúp cây chủ sinh trƣởng và phát triển tốt. Đến nay chƣa ghi nhận kết quả nghiên cứu nào trên thế giới về bón chế phẩm sinh học cho bạch đàn. Các kết quả nghiên cứu về sản xuất và bón chế phẩm sinh học cho cây trồng đã đƣợc ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp ở các nƣớc nhƣ America, Canada, France, India, Philipin,… (dẫn theo Phạm Quang Thu và cộng sự, 2009) [43]. 1.1.2.5. Mật độ trồng và tỉa thưa Mật độ trồng rừng ban đầu là một trong những biện pháp kỹ thuật lâm sinh quan trọng có ảnh hƣởng khá rõ đến năng suất rừng trồng. Vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu với cây bạch đàn trên các dạng lập địa khác nhau, điển hình là công trình nghiên cứu của Evans, J. (1992), tác giả đã bố trí 4 công thức mật độ khác nhau (2985; 1680; 1075 và 750 cây/ha) cho Bạch đàn (E. deglupta) ở Papua New Guinea, sau 5 năm cho thấy đƣờng kính bình quân của các công thức thí nghiệm tăng theo chiều giảm của mật độ, nhƣng tổng tiết diện ngang (G) lại tăng theo chiều tăng của mật độ, có nghĩa là rừng trồng ở mật độ thấp tuy lƣợng tăng trƣởng về đƣờng kính cao hơn nhƣng trữ lƣợng gỗ cây đứng của rừng vẫn nhỏ hơn những công thức trồng mật độ cao hơn (Evans, 1992) [84]. Rừng trồng cung cấp gỗ lớn yêu cầu phải có đoạn thân thẳng, tròn đều, ít khuyết tật và kích thƣớc đủ lớn để có thể làm gỗ xẻ, do đó các biện pháp kỹ thuật chủ yếu đƣợc áp dụng là tỉa cành, tỉa thƣa kết hợp bón phân. Hạn chế kích thƣớc cành là khâu kỹ thuật quan trọng trong tạo chất lƣợng thân cho gỗ lớn. Đối với bạch đàn, tỉa cơ giới đối với cành có kích thƣớc lớn hơn 20mm rất dễ bị xâm nhiễm bệnh
- 15 hoặc chết tự nhiên (Beadle, 2006) (dẫn theo Võ Đại Hải và cộng sự, 2019) [24]). Trồng rừng mật độ cao để hạn chế phát triển cành ngang và tỉa cành tạo độ thẳng thân (form pruning) thƣờng đƣợc áp dụng để hạn chế nhƣợc điểm trên. Ngoài ra, tỉa cành nhỏ (lift pruning) cũng đƣợc áp dụng sớm để tránh tạo mấu mắt trên gỗ. Việc tỉa cành có thể ảnh hƣởng đến sinh trƣởng của cây nếu cƣờng độ tỉa quá cao làm giảm đáng kể diện tích lá cho quang hợp. Tuy nhiên, đối với loài cây mọc nhanh nhƣ bạch đàn, sự ảnh hƣởng này ít hơn (Beadle, 2006). Đƣờng kính gỗ là yếu tố quan trọng quyết định giá trị gỗ, vì vậy tỉa thƣa làm giảm cạnh tranh ánh sáng và dinh dƣỡng thúc đẩy sinh trƣởng đƣờng kính cũng rất quan trọng. Medhurst et al. (2001) thí nghiệm tỉa thƣa rừng Bạch đàn nitens từ mật độ 1.140 cây/ha xuống các mật độ từ 100 - 600 cây/ha và kết luận mật độ thích hợp nhất cho trồng rừng gỗ lớn chu kỳ 20 - 25 năm là 200 - 300 cây/ha. Tuy nhiên, mật độ này có thể không phải là tối ƣu cho chu kỳ ngắn hơn. Chất lƣợng lập địa cũng ảnh hƣởng rất lớn đến năng suất rừng sau tỉa thƣa vì đối với những lập địa xấu khả năng cung cấp dinh dƣỡng cho cây trồng có hạn nên cƣờng độ tỉa thƣa cao cũng không giúp cây sinh trƣởng nhanh hơn đáng kể (Medhurst et al., 2001) [102]. Do đó, biện pháp tỉa thƣa thƣờng kết hợp với bón phân để mang lại hiệu quả cao. 1.1.2.6. Trồng luân canh bạch đàn và keo Bạch đàn và keo là hai loại cây trồng chính trong trồng rừng sản xuất. Từ lâu ngƣời trồng rừng bạch đàn thƣờng có định kiến là loài cây này có tác động xấu đến lập địa nhƣ hút nƣớc và dinh dƣỡng mạnh, có tính cạnh tranh cao, làm khô đất, kìm hãm sinh trƣởng và phát triển của các loài thực vật bản địa và sinh vật đất, do đó làm giảm đa dạng sinh học và một số chức năng của đất (Casson, 1997) [74]. Tuy nhiên các nghiên cứu của Ghosh (1978) tại India và nhiều vùng trên thế giới; nghiên cứu của Rajvanshi (1984) tại Bangladesh khi đánh giá sinh trƣởng của bạch đàn đến chế độ nƣớc, chất dinh dƣỡng trong đất và phát triển của thực bì đã nhận định vì các lý do nhƣ chăn thả quá mức, cháy hoặc đốt lƣớt để phòng cháy hàng năm, quét lá để
- 16 thu nhiên liệu, xói mòn đất đã ngăn cản thực bì phát triển hơn là do bản thân cây bạch đàn tác động đối với lập địa đó (Ghosh, 1978) [88]. Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của rừng trồng bạch đàn tới đất trong thời gian gần đây cũng cho thấy, nếu quản lý lập địa tốt rừng bạch đàn không ảnh hƣởng tới các tính chất lý và hóa tính của đất (Deleporte et al., 2008) [79], (Gonçalves et al., 2008) [89], (Mendham et al., 2008) [103], (Zhang et al., 2010) [124]. Khả năng sản xuất nhanh các vật chất hữu cơ trong đất của keo cao hơn các loài bạch đàn (Schiavo et al., 2009; Yang et al., 2009) [113], [123], thông (Bernhard - Reversat, 1996) [69], rừng trồng một số loài cây bản địa (Wang et al., 2010) [120], hay đất sa-van và trảng cỏ (Kasongo et al., 2009; Yang et al., 2009) [123]. Các loài keo có khả năng cố định đạm nên có tác dụng cải tạo dinh dƣỡng đất (Brockwell et al., 2005) [72]. Nhiều nghiên cứu cho thấy đất rừng Keo tai tƣợng và Keo lá tràm có hàm lƣợng các bon, đạm tổng số, lân và một số cation dễ tiêu cao hơn đất rừng trồng bạch đàn, thông và rừng trồng một số loài cây bản địa (Bernhard-Reversat, 1996) [69]; (Schiavo et al., 2009) [113]; (Yang et al., 2009) [123]; Wang et al., 2010) [120]. Đất dƣới rừng keo cũng có độ chặt thấp hơn, khả năng giữ nƣớc trong đất cao hơn nhiều loài cây trồng khác (Yang, 2009) [123]. Do đó, đất sau khai thác rừng keo thƣờng tốt hơn đất sau khai thác rừng bạch đàn. Từ những đặc điểm trên, nhiều nghiên cứu đã thử nghiệm trồng rừng hỗn giao keo và bạch đàn. Rừng trồng hỗn loài đƣợc đánh giá có một số ƣu điểm hơn so với trồng thuần loài nhƣ hạn chế rủi ro dịch bệnh (Watt, 1992), tăng các giá trị sinh thái của rừng (Kelty, 2006) và tổng năng suất rừng cao hơn nếu các loài cây trồng xen có tác dụng bổ trợ cho nhau (Ashton and Montagnini, 1999) (dẫn theo Võ Đại Hải và cộng sự, 2019) [24]). Rừng trồng hỗn giao keo và bạch đàn có tổng lƣợng sinh khối cao hơn rừng trồng thuần loài. Forrester (2006) đã tổng hợp và đánh giá 18 đề tài nghiên cứu về trồng hỗn giao giữa bạch đàn và cây cố định đạm cho thấy, tổng sinh khối rừng hỗn giao cao hơn so với trồng thuần loài bạch đàn. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy sinh trƣởng của bạch đàn tăng có quan hệ chặt chẽ với hàm lƣợng đạm trong đất tăng do keo có khả năng cố định đạm và tốc
- 17 độ phân hủy của vật rơi rụng của keo nhanh nên lƣợng dinh dƣỡng nhanh chóng đƣợc giải phóng sang dạng dễ tiêu cho cây trồng hấp thụ. Lƣợng đạm trong lá bạch đàn cũng tăng đáng kể trong các rừng trồng hỗn giao với keo, điều này giúp khả năng quang hợp cao hơn và tổng hợp đƣợc nhiều sinh khối hơn. Tỷ lệ hỗn loài cũng ảnh hƣởng đến tăng năng suất và tỷ lệ hỗn loài 50% keo + 50% bạch đàn cho tổng sinh khối cao nhất (Forrester, 2006) [86]. Rừng trồng bạch đàn có khả năng tái sinh chồi rất mạnh nên việc xử lý gốc bạch đàn sau khai thác thƣờng gặp khó khăn và tốn kém. Có thể xử lý gốc bằng phƣơng pháp cơ giới, thủ công và hóa học. Phƣơng pháp cơ giới áp dụng nhƣ đào gốc bằng máy hoặc dùng máy nghiền gốc cây trực tiếp sâu xuống dƣới mặt đất. Phƣơng pháp thủ công nhƣ dùng tấm ni-lon đen phủ gốc cây và chèn kín bằng đất xung quanh (DiTomaso and Kyser, 2013) [80]. Các phƣơng pháp này có thể diệt toàn bộ gốc bạch đàn nhƣng rất tốn kém. Phƣơng pháp dùng chất hóa học thƣờng đƣợc áp dụng nhƣ Picloram + 2,4D (Tordon 101M, Tordon RTU hoặc Pathway), Triclopyr (Garlon 3A, Garlon 4 Ultra, hoặc Pathfinder II), và Glyphosate (Roundup hoặc Accord XRT III) (DiTomaso and Kyser, 2013) [80]. Các phƣơng pháp này có hiệu quả cao, nhƣng nhiều chất hóa học đƣợc khuyến cáo hạn chế sử dụng vì có thể gây ô nhiễm đất và nƣớc, có thể ảnh hƣởng đến cây trồng khác bên cạnh. Từ các nghiên cứu trên có thể nhận định việc trồng luân canh bạch đàn với keo hoặc cây trồng họ đậu đem lại nhiều hiệu quả về khả năng sinh trƣởng phát triển, tăng tổng sinh khối, giảm các phát sinh về chi phí và ảnh hƣởng đến môi trƣờng trong việc xử lý gốc sau khai thác. Phƣơng thức luân canh này đã đƣợc nhiều nghiên cứu trên thế giới ghi nhận và khuyến cáo áp dụng. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Kết quả nghiên cứu về chọn, tạo giống bạch đàn Bạch đàn là một trong những loài cây chủ lực và có hiệu quả cao trong trồng rừng sản xuất ở Việt Nam. Các nghiên cứu về chọn, tạo giống bạch đàn đã đƣợc thực hiện nhiều ở các tổ chức nghiên cứu về lâm nghiệp, trong đó phải kể đến Viện Nghiên cứu Giống và Công nghệ sinh học Lâm nghiệp thuộc Viện Khoa học Lâm
- 18 nghiệp Việt Nam. Những hƣớng nghiên cứu từ truyền thống đến hiện đại trong giai đoạn từ 1990 đến nay đã đạt đƣợc nhiều kết quả nổi bật. Giai đoạn 1990 - 1994: Các nghiên cứu khảo nghiệm xuất xứ đối với các loài bạch đàn nhƣ E. urophylla, E. pellita đã đƣợc thực hiện ở nhiều nơi và cho thấy: (1) Bạch đàn urô là loài cây có tính thích ứng cao và đƣợc trồng ở nhiều vùng trên cả nƣớc. Các xuất xứ có triển vọng của Bạch đàn urô là Lewotobi Flores cho vùng Trung tâm, Lembata Flores cho vùng Bắc Trung Bộ (Nguyễn Dƣơng Tài, 1994) [38], (Lê Đình Khả và cộng sự, 1996) [29], (Lê Đình Khả và cs, 2003) [31]. (2) Xuất xứ Bạch đàn urô Ulubahu ở độ cao 150m có sinh trƣởng tốt nhất, tiếp đến là các xuất xứ Lewotobi Flores và Egon Flores tại các khảo nghiệm xây dựng ở Phú Thọ; (3) Chọn đƣợc xuất xứ E. pellita có triển vọng là Kuranda, Helenvale, Bloomfield và Kiriwo tại khảo nghiệm ở Hà Nội, Quảng Trị và Bình Dƣơng (Lê Đình Khả và cs, 2003) [31]. Giai đoạn 1994 - 2000: Những nghiên cứu về lai nhân tạo một số loài bạch đàn đã thực hiện các phép lai thuận nghịch giữa các loài Eucalyptus urophylla, Eucalyptus excerta và Eucalyptus camaldulensis. Kết thúc giai đoạn này đã công nhận đƣợc 31 dòng bạch đàn là giống tiến bộ kỹ thuật, một số tổ hợp lai cho hiệu suất bột giấy cao hơn, độ bền tƣơng đƣơng các loài bố mẹ (Lê Đình Khả, Nguyễn Việt Cƣờng, 2001) [30]. Đến năm 2000 đã có hơn 60 tổ hợp lai giữa 3 loài trên, trong đó một số loài có sinh trƣởng gấp 1,5 đến 2 lần loài bố mẹ (Lê Đình Khả, 2005) [32], (Nguyễn Việt Cƣờng, 2005) [13]. Cũng trong giai đoạn này, khảo nghiệm các giống bạch đàn lai cho thấy sinh trƣởng của các tổ hợp lai thuận nghịch thay đổi theo từng điều kiện lập địa khác nhau, ví dụ giống lai giữa Bạch đàn urophylla với Bạch đàn camaldulensis có sinh trƣởng nhanh nhất trên đất giàu dinh dƣỡng tại Thụy Phƣơng, trong khi đó ở Ba Vì trên đất đồi núi trọc nghèo dinh dƣỡng thì tổ hợp lai giữa Bạch đàn urophylla với Bạch đàn liễu lại có sinh trƣởng nhanh nhất, các cây lai ở Hà Nội sinh trƣởng tốt hơn cây lai ở Hà Tây cũ (Lê Đình Khả, 2005) [32].
- 19 Giai đoạn 2001 - 2005: Nghiên cứu lai giống các loài bạch đàn đã tạo đƣợc trên 100 tổ hợp lai đôi, ba cho 7 loài là Bạch đàn urophylla, tereticornis, camandulensis, grandis, saligna, microcorys, pellita. Qua khảo nghiệm đã chọn đƣợc 30 dòng bạch đàn lai có sinh trƣởng nhanh hơn các giống đối chứng PN2, PN14, U6, GU6 ở hầu hết các điểm khảo nghiệm và có thể tích thân cây vƣợt hơn giống đối chứng từ 110% đến 300% ở năm thứ 3. Đây là nguồn vật liệu quý cho các nghiên cứu cải thiện giống tiếp theo. Tổ hợp lai P18U29 cho năng suất 17,3 dm3/cây trên đất đồi trọc nghèo dinh dƣỡng ở Cẩm Quỳ, Hà Nội, vƣợt mẹ (P18) là 316%, vƣợt bố (U29) là 363%, vƣợt giống đối chứng GU8 (nhập từ Brazil) là 160% về thể tích. Tổ hợp lai T1P17, C18P17, P18U29C3, P18U29, C9G15 đạt thể tích thân cây tƣơng ứng là 26,1; 26,1; 22,8; 21 dm3/cây ở điểm khảo nghiệm Minh Đức, Bình Phƣớc, vƣợt giống đối chứng PN14 tƣơng ứng là 383%, 384%, 335%, 321%, 309% (Nguyễn Việt Cƣờng và cộng sự, 2005) [13]. Nghiên cứu về chọn giống bạch đàn kháng bệnh có năng suất cao thực hiện trong thời gian từ 2001 - 2005 đã chọn đƣợc 2 dòng bạch đàn là SM16 và SM23 có khả năng chống chịu bệnh và sinh trƣởng nhanh ở vùng Đông Nam Bộ (Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự, 2010) [36]. Giai đoạn 2006 - 2010: Kết quả nghiên cứu khảo nghiệm một số loài bạch đàn tại Hà Nội, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Bình Định, Cà Mau,… đã tìm ra đƣợc các loài bạch đàn sinh trƣởng triển vọng cho từng vùng sinh thái điển hình, nhƣ: bạch đàn vùng cao gồm Bạch đàn grandis, Saligna, microcorys; bạch đàn vùng thấp phù hợp các tỉnh phía Nam gồm Bạch đàn camaldulensis, tereticornis; bạch đàn vùng thấp phù hợp các tỉnh phía Bắc gồm Bạch đàn urophylla, Bạch đàn liễu, Bạch đàn tereticornis (Nguyễn Việt Cƣờng và cộng sự, 2010) [14]. Trong giai đoạn này nhiều nghiên cứu đã xây dựng đƣợc các phép lai nhằm kết hợp đƣợc các đặc điểm ƣu việt của con lai để tìm ra đƣợc giống lai có ƣu thế về sinh trƣởng, chất lƣợng, chống chịu với điều kiện bất lợi và có khả năng mở rộng phạm vi thích ứng rộng hơn bố mẹ. Nguyễn Việt Cƣờng đã chọn đƣợc: (1) 13 dòng bạch đàn lai đƣợc công nhận là giống quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật là UE24,
- 20 UC80, UE27, CU91, UE73, UC1, UC2, UE3, UE23, UE33, UC75, CU90, UU8; (2) Các giống bạch đàn lai phù hợp với từng vùng sinh thái, nhƣ: CT, UP, US, UM cho các tỉnh Hà Nội, Phú Thọ, Yên Bái và Vĩnh Phúc; CP, TP và CG cho các tỉnh Bình Dƣơng, Bình Phƣớc, Bình Định, Cà Mau, An Giang; (3) Các giống có sinh trƣởng nhanh cho một số vùng ở phía Nam và phía Bắc là UE, UC, UG (Nguyễn Việt Cƣờng và cộng sự, 2010) [14]. Nghiên cứu cải thiện giống bạch đàn nhằm tăng năng suất, chất lƣợng cho một số loài cây trồng rừng chủ lực với đối tƣợng nghiên cứu là Bạch đàn urophylla, pellita, camaldulensis, Bạch đàn lai UP và các phép lai giữa chúng. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định sinh trƣởng của các tổ hợp lai phụ thuộc vào điều kiện lập địa, cá thể bố mẹ (Hà Huy Thịnh và cộng sự, 2010) [40], (Nguyễn Việt Cƣờng, 2010) [14]. Giai đoạn này cũng xác định đƣợc nhiều dòng Bạch đàn urô, Bạch đàn lai UP có sinh trƣởng tốt, vƣợt trội so với các giống đối chứng (U6, PN14, giống sản xuất đại trà) ở các điểm khảo nghiệm Ba Vì, Nam Đàn, Đông Hà,… (Hà Huy Thịnh và cộng sự, 2010) [40]. Kết quả khảo nghiệm các loài bạch đàn trên các điều kiện sinh thái khác nhau đã xác định đƣợc: 8 dòng Bạch đàn camaldulensis (gồm 2 dòng có triển vọng ở các tỉnh miền Bắc, 6 dòng có triển vọng ở các tỉnh miền Nam) có sinh trƣởng thể tích cao, năng suất bình quân đạt 45,7 m3/ha/năm, gấp 3 lần đối chứng, đồng thời cũng là các dòng có tỷ trọng gỗ cao trung bình từ 521-544 kg/m3; 23 dòng Bạch đàn urophylla và 18 dòng Bạch đàn lai UP có sinh trƣờng nhanh, thể tích thân cây vƣợt trên 50% so với đối chứng (Hà Huy Thịnh và cộng sự, 2010) [40]. Từ năm 2005 đến 2010, nghiên cứu chọn các dòng bạch đàn chống chịu bệnh có năng suất cao phục vụ trồng rừng kinh tế đã xác định đƣợc 22 loại nấm gây bệnh cho bạch đàn tại khu vực Đông Bắc Bộ và vùng Trung tâm, trong đó có 2 loài nấm Cylindrocladium clavatum và Cylindrocladium scoparium lần đầu tiên đƣợc ghi nhận có phân bố ở Việt Nam, ngoài ra còn xác định đƣợc các nấm gây bệnh nguy hiểm nhất cho từng đối tƣợng bạch đàn. Nghiên cứu cũng đã tuyển chọn đƣợc 30 cây trội bạch đàn và nhân giống đƣợc 22 dòng, đƣợc công nhận 9 dòng bạch đàn là
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp: Đánh giá hiệu quả của một số hệ thống nông lâm kết hợp tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
0 p | 361 | 78
-
Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp: Nghiên cứu cân bằng dinh dưỡng kali cho mía đồi vùng Lam Sơn - Thanh Hóa
212 p | 170 | 36
-
Luận án Tiến sĩ lâm nghiệp: Xây dựng phương pháp để cộng đồng ứng dụng trong đo tính, giám sát carbon rừng lá rộng thường xanh ở Tây Nguyên - Phạm Tuấn Anh
192 p | 106 | 16
-
Luận án Tiến sĩ lâm nghiệp: Xác định lập địa, trạng thái thích hợp và kỹ thuật làm giàu rừng khộp bằng cây tếch (tectona grandis L.F.) ở tỉnh Đăk Lăk
188 p | 84 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Tác động của du lịch sinh thái đến quản lý rừng đặc dụng tại Vườn Quốc gia Ba Vì
211 p | 27 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp: Nghiên cứu một số thông số kỹ thuật của thiết bị cô đặc mật ong kiểu chân không dạng ống phối hợp công nghệ siêu âm
179 p | 19 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp: Nghiên cứu cân bằng dinh dưỡng kali cho mía đồi vùng Lam Sơn - Thanh Hóa
28 p | 132 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp: Sử dụng vỏ quả chanh leo (Passiflora edulis) làm thức ăn cho bò sữa tại Sơn La
139 p | 23 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu hiện trạng, phân bố loài vượn đen má trắng Nomascus leucogenys (Ogilby, 1840) tại Vườn Quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh nhằm đề xuất giải pháp bảo tồn
185 p | 16 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh keo lá tràm cung cấp gỗ lớn ở vùng Đông Bắc Bộ
168 p | 17 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật nhân giống mai cây (Dendrocalamus yunnanicus Hsueh Et D.Z.Li) tại khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam
224 p | 20 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp: Nghiên cứu truyền động vô cấp sử dụng hộp số phân nhánh công suất thủy tĩnh trên máy kéo nông nghiệp
144 p | 14 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và kỹ thuật trồng thâm canh Quế (Cinnamomum cassia BL.) tại ba vùng sinh thái chính của Việt Nam
208 p | 16 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu bổ sung đặc điểm sinh học và biện pháp kỹ thuật gây trồng Vù hương (Cinnamomum balansae H.Lecomte) tại một số tỉnh phía Bắc
217 p | 9 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu giải pháp bón phân hợp lý cho rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium Willd) ở Quảng Ninh
175 p | 6 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu bổ sung đặc điểm sinh học và biện pháp kỹ thuật gây trồng Vù hương (Cinnamomum balansae H.Lecomte) tại một số tỉnh phía Bắc
29 p | 7 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và kỹ thuật trồng thâm canh Quế (Cinnamomum cassia BL.) tại ba vùng sinh thái chính của Việt Nam
27 p | 8 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu giải pháp bón phân hợp lý cho rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium Willd) ở Quảng Ninh
26 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn