LUẬN VĂN:ẢNH HƯỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT LUƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN)
lượt xem 48
download
Căn cứ vào đề tài, đối tượng nghị luận mà có hai kiểu bài chủ yếu: nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Nếu như đề tài, đối tượng của bài văn nghị luận xã hội là một vấn đề chính trị, tư tưởng, đạo lí, một hiện tượng xã hội thì đối với bài văn nghị luận văn học lại là tác phẩm, hiện tượng văn học hay những ý kiến, nhận định về văn học. Đây là kiểu bài văn phổ biến, quen thuộc nhất đối với học sinh các cấp nhà trường hiện nay....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN:ẢNH HƯỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT LUƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN)
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------- NGUYỄN HOÀI THU ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƢỜNG THPT LƢƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------- NGUYỄN HOÀI THU ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƢỜNG THPT LƢƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60.22.01 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN VĂN KHANG Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tác giả luận văn Nguyễn Hoài Thu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- LỜI CẢM ƠN Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Nguyễn Văn Khang. Nhân đây, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS Nguyễn Văn Khang - Người Thầy đã tận tình giúp đỡ để tác giả hoàn thành luận văn này . Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả các thầy, cô giáo, những người đã trực tiếp giúp tác giả nâng cao vốn kiến thức ngôn ngữ trong thời gian theo học chương trình thạc sĩ ngôn ngữ khoá 2007 - 2009 tại trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp, các em học sinh, những người đã động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này. Tác giả luận văn Nguyễn Hoài Thu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 3 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 5 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT...................................................................... 7 1.1 Khái quát về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ............................................. 7 1.1.1 Ngôn ngữ nói ...................................................................................... 7 1.1.2 Ngôn ngữ viết ................................................................................... 11 1.1.3 Những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ...................... 14 1.1.4 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và viết ............................................ 16 1.2 Giới thiệu cảnh huống ngôn ngữ của trường THPT Lương Thế Vinh ..... 20 Tiểu kết ......................................................................................................... 21 Chƣơng 2. KHẢO SÁT NĂNG LỰC VIẾT TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LƢƠNG THẾ VINH DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ...................................................................... 23 2.1 Khái niệm về năng lực ngôn ngữ ............................................................. 23 2.1.1 Năng lực ngôn ngữ ............................................................................ 23 2.1.2 Năng lực giao tiếp ............................................................................. 24 2.2 Khảo sát thực tế về ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh THPT Lương Thế Vinh ............................................................. 25 2.2.1 Về phương diện chữ viết ................................................................... 25 2.2.2 Về phương diện từ vựng- ngữ nghĩa .................................................. 29 2.2.3 Về phương diện ngữ pháp ................................................................. 34 Tiểu kết ......................................................................................................... 43 1
- Chƣơng 3. NHỮNG NHÂN TỐ TẠO RA ẢNH HƢỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ĐỐI VỚI NGÔN NGỮ VIẾT VÀ CÁCH KHẮC PHỤC ............... 45 3.1 Những nhân tố tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết ..... 45 3.1.1 Học sinh không phân biệt được ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ....... 45 3.2.2 Môi trường giao tiếp.......................................................................... 48 3.2.3 Ảnh hưởng của ngôn ngữ chat ........................................................... 51 3.2 Cách khắc phục ....................................................................................... 53 3.2.1 Giúp học sinh nhận biết được sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết ............................................................................................................. 53 3.2.3 Dạy học tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp ............................ 55 Tiểu kết ........................................................................................................ 57 KẾT LUẬN .................................................................................................. 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 62 PHỤ LỤC......................................................................................................... 2
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngôn ngữ giao tiếp của con người tồn tại ở hai dạng cơ bản là nói và viết. Về mặt thuật ngữ, trước đây chúng ta vẫn thường gặp các tên gọi “phong cách nói” hoặc “phong cách khẩu ngữ” đặt trong thế đối lập với “phong cách viết” hoặc “phong cách sách vở”. Xét về mặt lịch sử, tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nói bắt đầu có sự chuyển biến tích cực từ thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một số nhà ngôn ngữ học đã đạt được sự nhất trí rằng, lời nói mới là sự hoạt động chính của ngôn ngữ còn dạng viết chỉ là thứ cấp. Trên thực tế, ngôn ngữ nói cũng từng bị xếp ở vị trí thứ yếu do bị quy vào bản chất không cố định, không có hệ thống và không có cấu trúc. Từ những tồn tại trong nghiên cứu ngôn ngữ cần thiết phải có cái nhìn đầy đủ, toàn diện không thể áp đặt cái nhìn phiến diện đối với ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết. Việc nghiên cứu về ngôn ngữ nói và viết không chỉ giúp xác định lại một cách đúng đắn những nhận định đã có về ngôn ngữ nói và viết trong phạm vi ngôn ngữ học cơ bản và phân tích diễn ngôn, mà còn có ý nghĩa thiết thực đối những bộ môn khoa học khác như phong cách khoa học ngôn ngữ, lý thuyết dạy và học tiếng. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, dù nói hay viết con người không chỉ cần xác định nội dung giao tiếp tức nói, viết cái gì mà còn quan tâm đến việc nói như thế nào, viết như thế nào. Sự lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ của chủ thể giao tiếp không ngừng bị chi phối bởi các nhân tố như: mục đích giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp và đối tượng giao tiếp hoặc kênh giao tiếp. Sự lựa chọn này thể hiện năng lực giao tiếp ở mỗi người. Nghiên cứu về ngôn ngữ nói và viết còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ của dân tộc. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt được đặt ra cấp thiết thì cần thiết 3
- phải giáo dục cho thế hệ trẻ thói quen nói đúng và viết đúng tiếng Việt. Vấn đề này được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm và một trong số đó là Cao Xuân Hạo, người đã từng nhắc đến thực trạng này như sau: “Đặc biệt những lỗi về tiếng Việt, những cách dùng từ sai, những câu bất thành cú (thườ ng là vì cách dịch sát từng chữ do tính cẩu thả của những người dịch tin nước ngoài truyền bá), đã được nêu lên không biết bao nhiêu lần từ hơn nửa thế kỷ nay mà các biên tập viên cũng cứ lặp lại hàng mấy chục lần trong một buổi truyền hình hay phát thanh, và mỗi năm lại được bổ sung thêm hàng chục kiểu lỗi mới phát minh. Những người lớn có văn hoá chỉ khinh bỉ, nhún vai, nhưng thế hệ trẻ nhất là học sinh phổ thông lại tưởng đâu đó lại là một kiểu nói “ hiện đại” hơn, vội vàng bắt chước hoặc tuy không cố bắt chước nhưng nghe nhiều lần đâm quen, không thấy chướng tai nữa, và cứ thế nói ẩu, viết ẩu dần dần phổ biến và rốt cục tiếng Việt trở thành một thứ tiếng tạp nham không còn quy tắc ngữ pháp gì nữa.” [ 7, tr.340] Nghiên cứu ngôn ngữ nói và viết sẽ góp phần vào việc phát triển, nâng cao năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp của học sinh trong nhà trường. Thực trạng của học sinh phổ thông hiện nay là năng lực phân tích còn yếu kém. Các em chỉ có thể mô tả lại sự vật, hiện tượng, còn khi được yêu cầu phân tích, đánh giá lập tức các em sẽ gặp khó khăn và thường là không thể làm được. Hơn thế nữa, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ của các em rất yếu. Tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ của các em và đã được học rất nhiều năm qua, thế mà khi sử dụng, các em vẫn mắc nhiều lỗi về dùng từ, viết câu, dựng đoạn, liên kết ý, diễn đạt… Đa phần các em viết lung tung, lộn xộn, không có cấu trúc rõ ràng, ý nghĩa tối tăm, nhiều khi không thể diễn đạt rõ ràng suy nghĩ của mình khi được giáo viên hỏi… Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, luận vă n này tiến hành khảo sát sự ảnh hưởng của tiếng Việt nói tới tiếng Việt viết ở một trường học cụ thể - nơi 4
- mà chúng tôi đang làm công tác giảng dạy, đó là trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh, thành phố Thái Nguyên. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Thông qua khảo sát việc sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Lương Thế Vinh, Thành Phố Thái Nguyên, luân văn mong muốn góp phần vào làm rõ thêm mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, đặc biệt là những ảnh hưởng của ngôn ngữ nói tới ngôn ngữ viết của học sinh phổ thông. Qua đó, luận văn đưa ra những ý kiến đóng góp vào việc giảng dạy môn ngữ văn nói chung, tiếng Việt nói riêng trong nhà trường nhằm nâng cao khả năng nói và viết tiếng Việt của học sinh. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ như sau: 1). Nêu được cơ sở lý thuyết có liên qua n đến đề tài, cụ thể là liên quan đến ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. 2). Giới thiệu những nét cơ bản về môi trường dạy học của trường THPT Lương Thế Vinh, Thành Phố Thái Nguyên (Có tác động đến tiếng Việt của học sinh). 3). Khảo sát đặc điểm sử dụng tiếng Việt của học sinh Trường THPT Lương Thế Vinh khi viết, chú trọng tác động của ngôn ngữ nói tới ngôn ngữ viết. 4) Chỉ ra những nhân tố tạo ra những ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết và đề ra cách khắc phục. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là tiếng Việt học sinh sử dụng ở trường THPT Lương Thế Vinh – nơi mà chúng tôi đang tham gia giảng dạy . - Phạm vi nghi ên cứu: Giới hạn trong các bài kiểm tra, các bài thi của học sinh và quan sát tiếng Việt các em học sinh sử dụng khi phát biểu trong lớp. 5
- 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là phương pháp của ngôn ngữ học xã hội và phương pháp phân tích lỗi của dụng học. Phương pháp của ngôn ngữ học nhằm điều tra thực tế ảnh hưởng của tiếng Việt nói đến tiếng Việt viết của học sinh. Phương pháp phân tích lỗi của dụng học nhằm thống kê, phân loại những lỗi xuất hiện trong bài văn của học sinh 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Về mặt lý luận: đề tài góp phần chứng minh cho luận điểm: giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có sự tác động qua lại với nhau. - Về mặt thực tiễn: Từ việc chỉ ra năng lực ngôn ngữ c ủa học sinh THPT hiện nay và năng lực vận dụng chúng như thế nào, luận văn bước đầu khái quát hướng sử dụng ngôn ngữ của học sinh THPT, hy vọng sẽ giúp cho việc dạy - học tiếng Việt có hiệu quả hơn. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài. Chương 2: Khảo sát năng lực sử dụng tiếng Việt khi viết của học sinh trường THPT Lương Thế Vinh dưới tác động của ngôn ngữ nói. Chương 3: Những nhân tố tạo ra ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đến ngôn ngữ viết của học sinh THPT Lương Thế Vinh và cách khắc phục . 6
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và viết như: tính tự nhiên và tính nhất thời, tính trực tiếp và tính không gọt giũa của ngôn ngữ nói; tính hoàn chỉnh và tính cố định, tính không đối mặt và vững bền, tính gọt giũa của ngôn ngữ viết. 1.1 Khái quát về ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết 1.1.1 Ngôn ngữ nói Ngôn ngữ nói có vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân và c ộng đồng. Cuộc sống của các cá thể là một chuỗi nối tiếp của những hành động có chủ ý (và không có chủ ý), với một hoặc một số người nghe xác định, nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp trước mắt hoặc để đạt một mục đích nào đó. 1.1.1.1 Tính tự nhiên và tính nhất thời Lời nói thường trải ra một cách tự nhiên, ít gò bó. Người nói có khả năng phát ra một tràng dài, thường là các ngữ đoạn ngắn hơn một câu, và các ngữ đoạn này dường như thiếu liên kết bề mặt như cách tổ chức một văn bản viết. Tính tự nhiên cũng có nguyên nhân từ tính tức thời, từ tính chất không dàn dựng trước, hoặc không được lập trình trước. Cho rằng người nói có thể chuẩn bị trước một số ý cơ bản trước khi gặp gỡ, trò chuyện với đối tượng mà mình quan tâm, nhưng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày k hông ai có thể chuẩn bị đến từng chi tiết như khi soạn thảo văn bản trên giấy hoặc bằng máy vi tính. Trong tương tác mặt đối mặt, người nói và người nghe thường luân phiên đưa ra và chấp nhận các lượt lời, luân phiên đổi vai cho nhau. Phát ngôn kế tiếp của người nói thứ nhất không hoàn phụ thuộc vào ý chủ định của người ấy, mà trái lại, phụ thuộc rất lớn vào hồi đáp tức thời của người nghe, tức là người sẽ luân phiên đảm nhận vị trí người nói thứ hai. Nếu cuộc thoại 7
- không diễn tiễn như dự kiến, người nói phải lựa chọn cách bổ sung sửa chữa hoặc chuyển hướng đề tài. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ tự nhiên. Tuy vậy đặc tính tự nhiên của ngôn ngữ nói không đồng nghĩa với “tự do”, “hồn nhiên” hoặc “phi nghệ thuật”. Ngôn ngữ nói không chỉ có những ràng buộc thông thường tùy vào mục đích và nội dung giao tiếp, nhất là những quy định mang màu sắc văn hoá, phong cách ứng xử chung của cộng đồng người bản ngữ. Ngôn ngữ nói tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới được cấu thành bởi những yếu tố ngôn ngữ mang tính chất tuỳ chọn, nhưng thực chất cũng bị ràng buộc một cách chặt chẽ: t ừ cách xưng hô đến cách mở đầu, cách phát triển đề tài diễn ngôn, cho đến cách kết thúc cuộc thoại. Những yếu tố này thuộc đặc trưng mang tính dân tộc, thể hiện thói quen tiềm tàng trong cách nghĩ, trong tập tục đời sống văn hoá của cộng đồng suốt chiều dài lịch sử. Một trong những điểm nổi bật khác tạo nên sự khác biệt lớn giữa nói và viết đó là bản chất nhất thời, tức là bản chất không cố định được trong không gian của ngôn ngữ nói. Có thể thấy rằng người nghe phải xử lý nguồn thông tin mà họ nghe được bằng cách ghi nhớ, tóm tắt nội dung được trình bày hơn là tập trung ghi nhớ từng chữ từng lời. Họ phải lưu ý để nhận biết phần ý mà người nói muốn truyền đạt, hơn là phần lời đã đư ợc nói ra. Một mặt, tính nhất thời là điểm thuận lợi đối với người nói khi cần chuyển hướng đề tài sửa chữa các phát ngôn, hoặc thậm chí phủ định lời nói đã được nói ra. Mặt khác, bản chất nhất thời khiến lời nói miệng chỉ có hiệu lực tức thời và có thể gây ra những khó khăn nhất định khi người nghe chỉ dựa trên những “ hợp đồng miệng” nhất là trong giao dịch mua bán, trong những mối quan hệ tình cảm, …vv… 8
- 1.1.1.2 Tính trực tiếp Khi người nói quyết định nói điều gì thì cũng là lúc người ấy phát đi các tín hiệu ngôn ngữ bằng một chuỗi âm thanh. Đồng thời người nghe cũng lập tức tiếp nhận và giải mã các tín hiệu âm thanh ấy. Khác với giao tiếp bằng chữ viết, trong giao tiếp bằng lời nói người nghe có cơ hội để hỏi lại và có thể được giải thích ngay tại chỗ. Đ iều này cũng có đóng góp đáng kể đến mức độ thành công trong việc truyền đạt và nhận hiểu nội dung giao tiếp. Giao tiếp bằng ngôn ngữ nói khó có thể đạt hiệu quả nếu giữa hai phía đối thoại không có hiểu biết chung, hoặc giả định chung về nhau. Điều này cũng có nghĩa là trong những tình huống giao tiếp mặt đối mặt, các bên tham gia hội thoại có được những thuận lợi nhất định như biết được khi nào nên nói hay nên dừng, đều nhận thức được về môi trường vật lý xung quanh, về các mối quan hệ xã hội và văn hoá giữa họ với nhau và do đó có thể điều chỉnh được tác động của những điều họ nói ra đối với người nghe. Tóm lại, nhờ vào tính chất trực tiếp của tình huống giao tiếp cụ thể mà người nói có thể tạo ra những phát ngôn để người nghe có thể hiểu được một cách dễ dàng. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, người đọc chỉ có thể có thêm các tín hiệu ngoài văn bản như tranh ảnh, sơ đồ (nếu có), chữ viết tay hoặc hình thức của chữ in, hoặc xuất xứ của văn bản (từ sách, tạp chí,…vv..). Trong khi đó, người nghe với tư các h là người thụ ngôn hoàn toàn có thể dựa vào nét mặt, ánh mắt, cử chỉ cũng như giọng điệu của người nói để hiểu đúng ý định chức năng mà người nói muốn thể hiện. Nhờ có thể quan sát trực tiếp trong giao tiếp mặt đối mặt mà hai phía người nói và người nghe có thể cùng thương lượng nghĩa, thậm chí họ có thể sửa chữa kịp thời để làm tăng hoặc giảm tác động phát ngôn đối với bên còn lại, điều mà người viết trong những điều kiện thông thường khó có thể thực hiện được. 9
- 1.1.1.3 Tính không gọt giũa Ngay cả người nói ngôn ngữ thứ nhất đôi khi cũng có một số khó khăn do phải tổ chức các phát ngôn trong một thời gian tương đối ngắn. Các lỗi thường gặp khi nói là: những lỗi về từ ngữ, cú pháp, việc bỏ lửng những ý định mình định nói lúc đầu hoặc quên đi phần mình vừa phát biểu xong và lặp lại cùng một ý. Trong tương tác mặt đối mặt, người phát ngôn tổ chức lời nói của mình một cách nhanh chóng. Do thời gian cho phép để vừa tổ chức phát ngôn, vừa thao tác để sản sinh phát ngôn bị hạn chế, và do người nói và người nghe thường có những hiểu biết chung nên người nói thường không nói hết và nhường phần tham chiếu lại cho người nghe. Sự thiếu hụt về thời gian nêu trên được đền bù bằng cách người nói có điều kiện để vừa suy nghĩ vừa diễn tả ngay những hình ảnh, ý nghĩ trong đầu thành những sản phẩm lời nói có tính tự phát. Kết quả là những sản phẩm nói tức thời thường ít trau chuốt và không hoàn chỉnh (theo cách đánh giá đối với văn bản viết), bởi vì một người bình thường khó có thể làm cả hai việc một lúc là vừa nói tự nhiên vừa nói trau chuốt được. Tính không gọt giũa của ngôn ngữ nói được thể hiện ở những nét đặc thù mà người viết có xu hướng loại bỏ khi tạo lập diễn ngôn viết. Trong ngôn ngữ nói tiếng Việt, thường sử dụng rất nhiều trợ từ tình thái như: à, á, đấy, ứ, ừ, chớ, nhớ, nhá, nhỉ… v.v..; các trợ từ nhấn mạnh: chính, cái, cóc, đích, mới, hẳn…vv.. Một mặt, trợ từ là cái thêm vào, là bộ phận lời nói có thể bị lược bỏ khi văn bản được trình bày lại ở dạng viết. Mặt khác, trợ từ là phương tiện ngôn ngữ có tầm quan trọng đặc biệt. Trợ từ tiếng Việt vừa là những từ công cụ chuyển tải một số ý nghĩa ngữ pháp nhất định, vừa góp phần diễn đạt tư tưởng, tình cảm một cách tinh tế, nhẹ nhàng. Ngoài ra trợ từ còn có chức năng “đánh dấu” (hoặc làm đầy) văn bản nói. Trợ từ là những yếu tố làm cho ngôn ngữ nói không bao giờ bị đồng nhất với ngôn ngữ viết. 10
- Có ý kiến cho rằng chính những yếu tố dư này là những yếu tố làm cho ngôn ngữ nói luôn biến đổi một cách sinh động, mới mẻ và truyền cảm. Có thể nói rằng sự phong phú, đa dạng của trợ từ tình thái xuất phát từ đặc thù ngữ âm của tiếng Việt và sự phân biệt nghĩa rất tinh tế trong cảm quan ngôn ngữ của người bản ngữ. Ngoài ra, cũng như hầu hết các ngôn ngữ khác, “tính thô” trong văn nói tiếng Việt cũng được thể hiện ở những chỗ ngắt quãng trong lời nói, chỗ ngập ngừng lúc bắt đầu, những từ ngữ thiếu chính xác, những từ ngữ có ý nghĩa chung chung không cụ thể như: Hổng chừng, đại khái như, kiểu như, đại thể là, phải không nào; và ở những điệp từ, điệp ngữ không có chủ ý. 1.1.2 Ngôn ngữ viết Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không chỉ khác nhau ở hình thức tồn tại trong môi trường vật lý (âm thanh – chữ viết), mà còn ở cách chúng tái hiện thực tại khách quan. Ngôn ngữ viết trình bày sự vật và hiện tượng dưới dạng những sản phẩm hoàn chỉnh hơn là những quá trình. Trong khi ngôn ngữ nói xác định lĩnh vực sáng tạo chủ yếu của nó là những quá trình, những hình ảnh sinh động của hiện thực khách quan, thì ngôn ngữ viết được dàn trải trên trang giấy hoặc màn ảnh, màn hình. N goài những đặc điểm c hung có t hể q uan sát được ở cả hai biến t hể nói và viết, ngôn ngữ viết còn thể hiện những điểm khác biệt c hính như sau: 1.1.2.1 Tính hoàn chỉnh và tính cố định Tính cố đ ịnh được trong không gian là một trong những ưu thế c ủa hệ t hống chữ viết. Bản chất c ố đ ịnh này cho phép các thế hệ sau nghiên cứu văn bản từ c ác thế hệ t rước một cách thấu đáo và xem xét các ý tưởng hoặc bình phẩm về các mối quan hệ bên trong và bên ngoài văn bản một cách dễ dàng. 11
- Ngoài ra việc lưu trữ thông tin bằng chữ viết cho phép con người phát triển cách nhìn phê phán đối với kiến thức và những tư tưởng của các xã hội trước và do đó giúp xã hội không ngừng phát triển. Và cũng chính nhờ đặc trưng tĩnh trạng này mà việc nghiên cứu ngôn ngữ viết có nhiều thuận lợi hơn, và do đó đã đạt được những thành tựu có tính tiên phong so với việc nghiên cứu ngôn ngữ nói. Ngôn ngữ viết đòi hỏi sự thống nhất về chuẩn mực chính tả cũng như những quy tắc về cách viết, cách trình bày văn bản. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng kể từ khi hệ thống chữ viết đảm nhận các chức năng xã hội của mình, nó có xu hướng tạo ra sự nhất quán trong hệ thống để thuận tiện cho việc sử dụng, và bởi vì sự tiến hóa của hệ thống chữ viết luôn gắn liền với các quá trình chuẩn hóa. Ý kiến sau đây góp phần giải thích vì sao ng ôn ngữ viết có được ưu thế vượt trội với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh như đã nhắc đến ở trên: “Ngày xưa, trong truyền thống ngữ văn học thì văn bản là đối tượng nghiên cứu và lời nói, tức là ngôn ngữ nói, không thể coi là có giá trị để nghiên cứu như ngôn ngữ viết được. Quan niệm ấy có lý do: Ngôn ngữ viết tức là ngôn ngữ đã thành văn chương, thành những tác phẩm biểu hiện cái hay, cái đẹp, cái tinh hoa đã có giá trị định hình của một ngôn ngữ; ngôn ngữ nói thì biến động, cho nên rất dễ trở thành “pha tạp”, “hư hỏng”. Vì thế trước đây, sự chuẩn mực hóa cũng dựa trên ngôn ngữ viết để quy định cái đúng, cái sai. Như vậy mặt chữ có ưu thế hơn hẳn mặt âm. Vả lại trong đời sống trước đây thì ở đâu sách cũng là công cụ chủ yếu của sự truyền đạt tư tưởng văn hóa. Vai trò quan trọng như vậy của sách cũng là vai trò quan trọng của mặt chữ” [23 ] Các sản phẩm bằng ngôn ngữ viết tồn tại lâu bền và cố định hơn các sản phẩm lời nói, do đó chúng phù hợp hơn để lưu giữ các sự kiện thông tin. Người Việt ta xưa đã nhận thức rõ về tính nhất thời và không cố định được 12
- của ngôn ngữ nói (lời nói gió bay). Từ trước đến nay, tất cả các loại giấy tờ quan trọng như văn bản pháp lý, giấy chứng nhận, bằng cấp, thư từ giao dịch đều phải ghi lại bằng văn bản viết. Đó chính là bằng c hứng về tính ưu việt và tính đặc thù của ngôn ngữ viết mà lời nói miệng không thể thay thế được. 1.1.2.2 Tính không đối mặt và tính vững bền Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không chỉ khác nhau ở hoàn cảnh và phương thức tạo lập văn bản của người phát ngôn, mà còn khác nhau về các yêu cầu mà chúng đòi hỏi đối với người thụ ngôn. Trước hết, ngôn ngữ viết không theo nguyên tắc “ở đây” và “bây giờ”. Điều này cũng góp phần tạo ra những ý nghĩa khác biệt của giao tiếp bằng chữ viết. Khi phát triển ngôn từ, hiển nhiên rằng con người đã biết kết hợp với một số kiểu âm thanh thường xuất hiện trong tự nhiên, với những tiếng kêu do cảm xúc, biết dùng điệu bộ để diễn tả kèm theo lời nói của họ. Về sau này, khi xã hội loài người phát triển đến một độ nhất định, con người không chỉ sử dụng ngôn ngữ âm thanh để thể hiện những mối quan hệ tâm lý, tình cảm, những đòi hỏi thiết yếu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, mà còn có nhu cầu truyền đạt kiến thức, kỹ năng, thông tin giữa họ với nhau và với các thế hệ sau. Cuối cùng chữ viết xuất hiện cùng với sự phát triển của các hệ thống dấu hiệu và văn tự của ngôn ngữ viết và cùng với sự chuyển tiếp từ nói sang viết, chữ viết đã trở thành phương tiện hữu hiệu để chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm. Trong suốt tiến trình phát triển của xã hội loài người, cũng chính nhờ vào việc ghi chép, lưu trữ thông tin bằng chữ viết mà thế hệ đi sau có thể biết được những kinh nghiệm mà các bậc tiền bối của mình đã trải qua và muốn truyền đạt lại cho họ. Việc ghi chép bằng ngôn ngữ viết giúp con người lưu trữ những tư tưởng, những kiến thức lâu bền và chính xác. Do bản chất của giao tiếp là một chiều và không trực tiếp nên người viết có thể tiến hành giao tiếp với những người ở cách xa cả về không gian và thời gian. 13
- Trong những điều kiện thông thườ ng, khi viết, tác giả thường bị tách biệt khỏi người đọc trong môi trường làm việc của mình. Do không có điều kiện tương tác trực tiếp với người đọc, do không chịu sức ép về mặt thời gian, về tâm lí mà người viết có điều kiện tổ chức các cấu trúc dày đặc thông tin, điều mà người nói khó thực hiện trong điều kiện tiếp xúc trực tiếp và không được chuẩn bị trước. 1.1.2.3 Tính gọt giũa Khi sử dụng ngôn ngữ viết, người tạo lập văn bản có đầy đủ điều kiện để chủ động tổ chức sắp xếp thông tin, thực hiện các k iểu quan hệ nghĩa - logic giữa các câu theo một trình tự mong muốn. Khác với việc sử dụng lời nói miệng, trong đó người nói dành nhiều thời gian để lựa chọn cá c chiến lược giao tiếp và lựa chọn từ ngữ và mặt âm thanh của ngôn ngữ, người viết thường chú ý nhiều hơn đến việc tổ chức các phương tiện ngôn ngữ sao cho việc diễn đạt được tốt nhất. Tính gọt giũa của ngôn ngữ viết được thể hiện ở việc kết hợp các phương tiện ngôn từ một cách công phu và sáng tạo để tạo ra những tác phẩm có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật. Ngoài việc sắp xếp, tổ chức các phát ngôn theo một trật tự cú pháp hợp lí để văn bản viết trở nên hoàn chỉnh và có thể hiểu được, tính gọt giũa của ngôn ngữ viết cũng được thể hiện ở việc lựa chọn ngôn từ phù hợp nhất với nội dung cần biểu đạt để tạo nên xúc cảm thẩm mỹ cao nhất ở người đọc. 1.1.3 Những khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết Nghiên cứu của nhiều tác giả đã chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Theo P.M.Clanay, sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có nguồn gốc từ những nhu cầu nhận thức và xã hội khác nhau trong những cảnh huống riêng biệt khi nói hoặc khi viết. Tác giả W.L.Chafe lại nghiên cứu sự khác nhau trong các quá trình tạo lập văn bản viết và văn bản nói đã dẫn đến các kết quả khác b iệt trong 14
- các sản phẩm lời nói (lời nói và chữ viết) như thế nào. Ông chú ý đến hai khía cạnh chính: 1. Nói thì nhanh hơn viết (và chậm hơn đọc); 2. Người nói tương tác trực tiếp với người nghe, còn người viết thì không. Chafe tìm thấy các cấu trúc ngôn ngữ khác nhau giữa ngôn ngữ hội thoại hàng ngày với văn xuôi có tính học thuật trong ngôn ngữ của cùng đối tượng nghiên cứu. Tác giả cũng thấy rằng các cứ liệu của ngôn ngữ nói mà ông thu thập được thường bị ngắt quãng do nhịp độ nhanh của ngôn ngữ nói. Trong khi đó các cứ liệu của ngôn ngữ viết thì được tổ chức chặt chẽ hơn. Chafe chứng minh rằng ngôn ngữ viế t có khuynh hướng không lệ thuộc bởi tương tác trực tiếp giữa người viết và người đọc nhờ việc sử dụng các cấu trúc bị động và danh hóa. Trái lại, trong ngô n ngữ nói có thể tìm thấy nhiều cách thể hiện tương tác liên cá nhân giữa người nói và người nghe bao gồm các quy chiếu về người nói và các quá trình tạo lập văn bản của người nói, các phương tiện tổ chức thông tin, việc sử dụng các tiểu từ để nhấn mạnh, v à các lời dẫn trực tiếp. Nói đến sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết không thể không nhắc đến các ý kiến của nhà nghiên cứu M.K.Hallyday. Ông cho rằng sự khác biệt này không nằm trong bản thân hệ thống ngôn ngữ mà là ở phương tiện diễn đạt, ở ngữ cảnh và ở cách tổ chức kinh nghiệm. Cụ thể là: ngôn ngữ viết không thu được vào trong mình những ý nghĩa tiềm tàng của lời nói miệng, đó là những đóng góp có ngôn điệu và các phương tiện kèm ngôn ngữ. Còn ngôn ngữ nói thì lại không chỉ ra được đường biê n giới của câu và của đoạn văn. Theo Halliday, trong ngôn ngữ luôn có những biến thể. Các biến thể này gồm có biến thể có tính chất xã hội, tức là phương ngữ, và các biến thể thuộc về chức năng ngôn ngữ, tức là ngữ vực. Biến thể thuộc về chức năng là 15
- cái làm cho ngôn ngữ nói và viết không bao giờ bị đồng nhất. Trong khi phương ngữ là cái mà người nói sử dụng như một thói quen ngôn ngữ, và được xác định tùy vào người nói là ai, thì biến thể chức năng của ngôn ngữ được sử dụng là cái mà người nói thực sự nói ra (hoặc viết ra) lúc đó. Với quan điểm: “Nói và viết không chỉ đơn thuần là những cách thức để làm những việc như nhau. Nói đúng đúng hơn, chúng là những cách thức để làm những việc khác nhau” [ 2, tr.42], Halliday đã di đến kết luận rằng hai hình thức ngôn ngữ này khai thác những đặc điểm khác nhau của cùng một hệ thống ngôn ngữ, và cả hai đều đạt được những thế mạnh khác nhau. 1.1.4 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói và viết Tuy có nhiều ý kiến không thống nhất về vấn đề sự khác biệt có tính cấu trúc giữa ngôn ngữ nói và viết, song cũng không ít tác giả nhận ra mối liên hệ chặt chẽ giữa hai biến thể có tính chức năng (nói và viết) của cùng hệ thống ngôn ngữ. Halliday, một nhà nghiên cứu đã tìm ra rất nhiều điểm khác biệt giữa ngôn ngữ nói và viết, cũng đã thừa nhận rằng: nói và viết đều là “sự nói ra những cái như nhau” (nói miệng và viết là hai cách khác nhau của việc nói ra).[2, tr.38] Theo tác giả A.N.Morohovski, đối với những ngôn ngữ phát triển chẳng mấy ai còn đơn giản nghĩ rằng viết chẳng qua là ghi lạ i lời nói miệng. Ở đấy, chữ viết với hệ thống kí tự khác hẳn về chất liệu – chất liệu đồ hình khác với chất liệu âm thanh – thời gian của lời miệng – đã có đời sống riêng của mình ở những khu vực nhất định trong hệ thống của mình (như hệ thống dấu câu, quy tắc viết hoa, viết xuống dòng…) và do đó lời viết vừa chịu tác động của lời miệng vừa tác động trở lại lời miệng, hai bên dựa vào nhau và nâng đỡ giúp ngôn ngữ phát triển lên hơn nữa. Những khảo sát của các tác giả khác cũng chỉ ra rằng những cái được cho là có liên quan đến phương thức nói có thể tìm thấy trong diễn ngôn theo 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: ẢNH HƯỞNG CỦA NGÔN NGỮ NÓI ĐẾN NGÔN NGỮ VIẾT CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (TRÊN CỨ LIỆU NHỮNG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT LƯƠNG THẾ VINH - THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN)
77 p | 400 | 130
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
ẢNH HƯỞNG VÀ BIỂU HIỆN CỦA NGÔN NGỮ CỬ CHỈ TRONG GIAO TIẾP
5 p | 398 | 99
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu thành ngữ chỉ quan hệ xã hội trong Tiếng Việt và Tiếng Anh từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
170 p | 178 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
105 p | 141 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đối chiếu từ ngữ chỉ hoa trong tiếng Anh và tiếng Việt
174 p | 83 | 26
-
Luận án tiến sĩ: Ảnh hưởng của tiểu thuyết minh thanh đối với tiểu thuyết nam bộ Việt Nam giai đoạn 1900-1930
258 p | 181 | 26
-
Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày hiện đại
169 p | 116 | 16
-
Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Đối chiếu nhóm động từ chuyển động đa hướng Anh – Việt
170 p | 63 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Ảnh hưởng của thơ ca dân gian trong thơ Nguyễn Duy
120 p | 30 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ chát của giới trẻ Việt
252 p | 27 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết của học sinh phổ thông (trên cứ liệu khảo sát học sinh lớp 9, trường Trung học cơ sở Hồ Văn Long, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh)
111 p | 16 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Ảnh hưởng của khả năng ngôn ngữ lên việc giải bài toán có lời văn của học sinh lớp 4 một số trường tiểu học tại TP.HCM
140 p | 30 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu ảnh hưởng tiêu cực của khác biệt ngữ pháp giữa tiếng Việt và tiếng Anh đến diễn đạt tiếng Anh trong luận văn của học viên cao học Việt Nam
29 p | 115 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Ngôn ngữ điêu khắc trong tạo hình kiến trúc
16 p | 30 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Mĩ thuật: Sự ảnh hưởng của nghệ thuật tối giản đến điêu khắc việt nam giai đoạn 2000 2015
90 p | 59 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ảnh hưởng của ngôn ngữ nói đối với ngôn ngữ viết tiếng Việt (Qua khảo sát bài làm văn của học sinh trung học cơ sở tại TP Hồ Chí Minh)
227 p | 12 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn