intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu ảnh hưởng tiêu cực của khác biệt ngữ pháp giữa tiếng Việt và tiếng Anh đến diễn đạt tiếng Anh trong luận văn của học viên cao học Việt Nam

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

116
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án tổng kết một số điểm khác biệt cơ bản trên bình diện ngữ pháp giữa hai hệ thống ngôn ngữ; trên cơ sở những khác biệt ngữ pháp giữa tiếng Việt và tiếng Anh, luận án hướng vào việc nghiên cứu những ảnh hưởng của tiêu cực từ những khác biệt đó đối với việc diễn đạt ngôn ngữ thứ hai trong các luận văn của học viên cao học Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu ảnh hưởng tiêu cực của khác biệt ngữ pháp giữa tiếng Việt và tiếng Anh đến diễn đạt tiếng Anh trong luận văn của học viên cao học Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ PHAN THỊ NGỌC LỆ NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC  CỦA KHÁC BIỆT NGỮ PHÁP GIỮA TIẾNG VIỆT  VÀ TIẾNG ANH ĐẾN DIỄN ĐẠT TIẾNG ANH  TRONG LUẬN VĂN CỦA HỌC VIÊN CAO HỌC VIỆT NAM  Chuyên ngành: Ngôn ngữ học  Mã số: 62 22 02 40 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
  2. Hà Nội ­ 2016 Công trình được hoàn thành tại: Khoa Ngôn ngữ học ­ Trường  Đại học KHXH & NV ­ ĐHQG Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lâm Quang Đông Phản biện 1:  Phản biện 2:  Phản biện 3:  Luận án sẽ  được bảo vệ  trước Hội đồng cấp ĐHQG chấm luận  án tiến sĩ họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . ……. vào hồi            giờ           ngày          tháng        năm  Có thể tìm hiểu luận án tại:  ­ Thư viện Quốc gia Việt Nam
  3. ­ Trung tâm Thông tin ­ Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội  
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đối với Việt Nam mấy chục năm qua, cùng với nhiều ngoại  ngữ khác, tiếng Anh đã và đang được sử dụng vào nhiều mục đích  khác nhau, trong đó có mục đích học tập, giảng dạy và nghiên cứu,  tiếp cận tri thức khoa học công nghệ tiên tiến. Một điều không thể  tránh khỏi là khi sử  dụng tiếng Anh như  một ngoại ngữ, người   Việt, cũng như nhiều cộng đồng phi bản ngữ khác, đã dùng tiếng  Anh để thể hiện tư tưởng, ý kiến, văn hóa, v.v. của mình khi giao   tiếp với người nước ngoài.   Điều đó có nghĩa là cách sử  dụng   tiếng Anh của người phi bản ngữ, trong đó có người Việt, chắc   chắn   có   những   khác   biệt   với   tiếng   Anh   của   người   bản   ngữ.   Những khác biệt đó là gì là vấn đề  cần được nghiên cứu.  Vì vậy,  chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng tiêu   cực của khác biệt ngữ pháp giữa tiếng Việt và tiếng Anh đến diễn   đạt tiếng Anh trong luận văn của học viên cao học Việt Nam”.  2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu và khảo sát của luận án là các  ảnh   hưởng tiêu cực của khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh, cụ thể  là trên một số khía cạnh ngữ pháp (cách diễn đạt ý nghĩa số, quán  từ, cách dùng thì)  tới cách diễn đạt tiếng Anh của người Việt.  Phạm vi của luận án tập trung vào phân tích các luận văn viết   bằng tiếng Anh của học viên cao học Việt Nam với trình độ tiếng  Anh từ B2 trở lên.  3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án Mục đích của luận án là: (1) Luận án tổng kết một số điểm  khác biệt cơ bản trên bình diện ngữ pháp giữa hai hệ  thống ngôn  ngữ; (2) Trên cơ  sở  những khác biệt ngữ  pháp giữa tiếng Việt và   tiếng Anh, luận án hướng vào việc nghiên cứu những  ảnh hưởng   1
  5. của tiêu cực từ những khác biệt đó đối với việc diễn đạt ngôn ngữ  thứ hai trong các luận văn của học viên cao học Việt Nam. Nhiệm vụ của luận án được xác định như sau: (1) Hệ thống  hóa những vấn đề  lý thuyết trong tiếng Việt và tiếng Anh có liên   quan đến ba khía cạnh ngữ pháp mà luận án tập trung vào nghiên   cứu (cách diễn đạt ý nghĩa số, quán từ, cách dùng thì); (2)  Xác định  những khác biệt ngữ  pháp trên cơ  sở  so sánh đối chiếu giữa các  yếu tố liên quan giữa tiếng Anh và tiếng Việt; (3) Khảo sát những  lỗi sai cơ bản mà học viên Việt Nam mắc phải trong các luận văn   viết bằng tiếng Anh. Từ đó chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực từ sự  khác biệt đó tới cách diễn đạt tiếng Anh của người Việt.  4. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu Luận án sử  dụng các phương pháp và thủ  pháp nghiên cứu  như: so sánh – đối chiếu, thống kê (suy luận và mô tả), phân tích   lỗi, bài tập kiểm tra.  5. Y nghia ly luân va th ́ ̃ ́ ̣ ̀ ực tiên cua luân an ̃ ̉ ̣ ́ Về  mặt lí luận, luận án là công trình đầu tiên  ở  Việt Nam   chỉ ra những  ảnh hưởng tiêu cực tới cách diễn đạt tiếng Anh của   người Việt dựa trên việc tổng kết và phân tích những khác biệt cơ  bản của một số khía cạnh ngữ pháp giữa tiếng Việt và tiếng Anh.  Về  mặt thực tiễn,  với nghiên cứu này, chúng tôi hi vọng sẽ  giúp  cho việc dạy – học tiếng Anh hiệu quả hơn.   6. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở  đâu, Kêt luân, Tài li ̀ ́ ̣ ệu tham khảo và Phụ  lục, luận án gôm 4 ch ̀ ương: Chương 1: Tổng quan và cơ  sở  lý  luận;  Chương 2: Ảnh hưởng tiêu cực của khác biệt ngữ pháp giữa   tiếng Việt và tiếng Anh tới cách biểu đạt ý nghĩa số  của danh từ  trong tiếng Anh; Chương 3: Ảnh hưởng tiêu cực của khác biệt ngữ  pháp giữa tiếng Việt và tiếng Anh tới cách dùng quán từ  trong   2
  6. tiếng Anh; Chương 4: Ảnh hưởng tiêu cực của khác biệt ngữ pháp   giữa tiếng Việt và tiếng Anh tới cách biểu đạt thì trong tiếng Anh.  CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài  Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu được tiến hành để  thảo luận về  ảnh hưởng tiêu cực của khác biệt giữa tiếng mẹ đẻ  và ngôn ngữ đích tới việc học một ngôn ngữ thứ hai. Đầu tiên, về  biến thể từ vựng, tác giả tiêu biểu nhất là Butler (1999). Trên bình  diện ngữ pháp, có thể thấy rằng tại châu Á, vấn đề này xuất hiện  trong những luận án, luận văn, hoặc công bố  khoa học từ  những  năm   1960,   điển   hình   như   Siew   Yue   Killingley   (1967),   Elaine  Wijesuria   (1972),   Irene   Wong   (1981),   S.N.   Sridhar   (1996),   Silke  Schubert (2002),v.v. Trên bình diện ngữ  âm, hai nhà nghiên cứu  điển hình là Pandey (1994) và Agnihotri (1999).   1.1.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả Việt Nam Chúng tôi nhận thấy chưa có một nghiên cứu nào đi sâu vào  về  sự   ảnh hưởng tiêu cực của sự khác biệt giữa tiếng mẹ  đẻ  và  ngôn ngữ đích tới một phương diện ngôn ngữ  cụ  thể. Các nghiên  cứu hoặc chỉ  đề  cập tới tiếp xúc ngôn ngữ  nói chung như  nghiên  cứu “Tiếp xúc ngôn ngữ   ở  Đông Nam Á” của tác giả  Phan Ngọc   (1983); hoặc chỉ dừng lại  ở việc so sánh đối chiếu giữa cách dùng  trong tiếng Anh và tiếng Việt trên một bình diện ngôn ngữ nào đó.   Có thể kể đến một số luận án tiến sĩ so sánh đối chiếu về một số  khía cạnh ngữ  pháp như  “Nghiên cứu đối chiếu trật tự  từ  Anh –   Việt trên một số  cấu trúc cú pháp cơ  bản”   (Vũ Ngọc Tú, 1996),  “Phân tích đối chiếu câu phủ  định tiếng Anh và tiếng Việt trên   bình diện cấu trúc – ngữ nghĩa” (Trần Văn Phước, 2000), v.v.  1.2. Cơ sở lý luận về vấn đề lỗi  3
  7. 1.2.1. Cơ sở lý luận về vấn đề lỗi  Năm 1967, Corder đưa ra một cách nhìn mới đối với lỗi của   người học ngôn ngữ đích. Tác giả coi lỗi là một nhân tố có lợi cho  giáo viên, nhà nghiên cứu, và bản thân người học. Đến năm 1988,  Doff đã khẳng định một cách thuyết phục rằng lỗi sai chính là một   bước tích cực cho người học tiến bộ.  Qua một vài tổng kết trên, chúng tôi thống nhất một quan   niệm về  lỗi theo quan điểm của Corder (1967) như  sau: lỗi của   người học ngôn ngữ đich không chỉ là không thể tránh khỏi mà lỗi  là một bộ  phận cần thiết, tích cực của quá trình học ngôn ngữ  đích.  1.2.2. Khái quát về  ý nghĩa số  của danh từ  trong tiếng Anh và   tiếng Việt 1.2.2.1.   Những   khác   biệt   tri   nhận   về   tính  đếm  được   của   danh từ trong tiếng Anh và tiếng Việt  (i) Tri nhận về tính đếm được của danh từ trong tiếng Anh Theo đường hướng tri nhận, các nhà ngôn ngữ học cho rằng   việc dùng danh từ đếm được hay danh từ khối để  chỉ một số khía  cạnh thực tế của một người sẽ phụ thuộc vào người đó giải nghĩa  đối tượng sở  chỉ  là một thực thể  cá nhân hay là một thực thể  phi   cá thể  hóa (ví dụ: Bloom 1994, 1996; Bloom & Kelemen, 1995;   Imai, 1999; Langacker, 1987; Wierzbicka, 1988; Wisniewski, Imai,  & Casey, 1996). Ví dụ, Wisniewski et al. (2003) cho rằng, những   thực thể  có tính phân lập sẽ  có khả  năng cá thể  hóa, trong khi đó   những thực thể phi cá thể hóa thường có tính liên tục, phi giới hạn.  (ii) Tri nhận về tính đếm được của danh từ trong tiếng Việt Nếu trong ngôn ngữ  Ấn­Âu như  tiếng Anh, sự từ  vựng hóa   khá tương  ứng với thế  giới thực: Danh từ  đếm được chỉ  “vật”,   danh từ không đếm được “chỉ chất”, thì trong tiếng Việt, danh từ  đếm được thường là danh từ  chỉ  đơn vị, còn danh từ  không đếm   4
  8. được bao gồm cả  danh từ  chỉ  “vật” như  sách, bút, bò … và chỉ  “chất” như  muối, dầu, vàng… (Lý Toàn Thắng, 1997). Như  vậy,   loại từ  tiếng Việt thuộc về  một bộ phận đơn vị  ngôn ngữ  mang   tính phổ  quát trong mọi ngôn ngữ: danh từ hình thức thuần túy và  có những danh từ đòi hỏi loại từ một cách bắt buộc như vậy là vì   các danh từ đó không có “vật tính” (Cao Xuân Hạo, 1999).  1.2.2.2. Những khác biệt về  cách thể  hiện ý nghĩa số  của   danh từ trong tiếng Anh và tiếng Việt  (i) Khái quát về ý nghĩa số của danh từ trong tiếng Anh Ý nghĩa số của danh từ biểu thị số lượng của sự vật.  Ở các  ngôn ngữ Ấn­Âu như tiếng Anh, ý nghĩa số được thể hiện bằng sự  thay đổi hình thái của danh từ.  Thứ  nhất, danh từ  đếm được và  không đếm được trong tiếng Anh phân biệt nhau bởi sự  có mặt  của quán từ a/an hoặc số từ đằng trước. Tiếp theo, trong khi danh   từ không đếm được không có dạng thức số nhiều thì danh từ đếm  được có thể  tạo dạng thức số  nhiều bằng cách thêm hậu tố  “s”   vào cuối danh từ. Ngoài ra, danh từ  đếm được đi với lượng từ  many và a (few), nhưng danh từ  không đếm được lại đi với much  và a (little). Bên cạnh đó, danh từ đếm được số  nhiều và danh từ  không đếm được đều đi được với một số lượng từ như some, any,   a lot of, no. (ii) Khái quát về ý nghĩa số trong tiếng Việt Ở các ngôn ngữ đơn lập không biến hình như tiếng Việt, thì   ý nghĩa số  được thể  hiện bằng việc thêm số  từ, chẳng hạn:  một   quyển sách, hai quyển sách, nhiều quyển sách, những quyển sách.  Đặc trưng này được gọi là khả  năng kết hợp. Một số  quan điểm   của các nhà ngôn ngữ học về khả năng kết hợp của danh từ tiếng   Việt có thể  kể  đến  Lê Văn Lý (1948), Nguyễn Tài Cẩn (1975),  Đinh Văn Đức (2015).  1.2.3. Khái quát về quán từ trong tiếng Anh và tiếng Việt 5
  9. 1.2.3.1. Khái quát về quán từ tiếng Anh Trong nghiên cứu này, chúng tôi phân loại quán từ tiếng Anh   dựa trên quan điểm của Quirk và cộng sự  (1985) và quan điểm tri  nhận của Langacker (1991). Nhìn chung, các quán từ  được phân  loại thành hai nhóm chính: xác định và không xác định. Thứ  nhất,  trong nhóm quán từ xác định, có ba tiểu mục danh từ: tên (tên riêng,   tên đại diện chỉ loại, tên các nhóm), một loại (thành viên của một  loại   hệ   thống   phân   cấp,   danh   từ   đóng   vai   trò   toàn   cầu/   địa  phương), và trường hợp riêng biệt (nhận thức trực tiếp, nhận thức   gián tiếp, nhận thức dựa trên bối cảnh vật lý). Thứ hai, trong nhóm   quán từ  không xác định, cũng có ba tiểu mục: trường hợp không   riêng biệt, trường hợp bất kỳ, và trường hợp quy chiếu. 1.2.3.2. Khái quát về quán từ tiếng Việt Trong giới Việt ngữ  học, liên quan đến việc xác định vị  trí  của quán từ trong hệ thống từ loại, mỗi nhà nghiên cứu ngữ  pháp  có một cách nhìn nhận và giải thích khác nhau, hiện đang tồn tại  hai quan niêm  ̣ như  sau. Thứ nhất, có một số nhà nghiên cứu hoặc  không nói gì đến vấn đề quán từ (Lê Văn Lý 1948, Emeneau 1951,   Trương Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê 1963). Thứ  hai, phần lớn   giới Việt ngữ  học đều nhất trí cho rằng tiếng Việt có quán từ  (Nguyễn  Tài   Cẩn  1975,   Phan  Ngọc   1983,   Đinh  Văn  Đức   1986,  Diệp Quang Ban 1996 v.v.). Trong khuôn khổ  của luận án này,  chúng tôi xác định hệ  thống quán từ  tiếng Việt gồm có:  những,   các, một  và quán từ  zero – quan niệm mang tính toàn diện nhất   hiện nay trong tiếng Việt, để  xác định được điểm khác biệt giữa   hệ thống quán từ tiếng Việt và tiếng Anh. 1.2.4. Khái quát về  cách biểu đạt thì trong tiếng Anh và tiếng   Việt 1.2.4.1. Khái quát về cách biểu đạt thì trong tiếng Anh Trong các ngôn ngữ biến hình, dù ý nghĩa thời gian có cụ thể, hiển   6
  10. nhiên tới mức nào đi chăng nữa thì động từ vẫn bắt buộc phải chia theo   quy tắc thì nhất định. Căn cứ vào mối quan hệ  giữa thời điểm diễn  ra sự  kiện với thời điểm quy chiếu, các nhà nghiên cứu đã phân  chia thì thành hai loại: thì tuyệt đối (absolute tense) và thì tương  đối (relative tense). Cách phân loại này là khá đồng nhất giữa các nhà   nghiên cứu như Cornie (1985), Frawley (1992), Kasevich (1998), v.v.  1.2.4.2. Khái quát về cách biểu đạt thì trong tiếng Việt Trong giai đoạn trước những năm 1960, những nghiên cứu về cách  diễn đạt thì trong tiếng Việt chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ học châu Âu  với một số nhà nghiên cứu tiêu biểu là là Trương Vĩnh Ký (1883), Bùi  Đức Tịnh (1952). Trong giai đoạn sau những năm 1960, các nhà Việt ngữ  học đã có nhiều công trình không còn chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ học   châu Âu, với những nhà nghiên cứu tiêu biểu như  Nguyễn Kim Thản   (1977), Lê Quang Thiêm (1989), Nguyễn Minh Thuyết (1995), v.v.   Để  biểu đạt ý nghĩa ngữ pháp của thì, tiếng Việt không sử dụng một phương   thức ngữ pháp cố định mang tính hệ thống và theo quy tắc như trong ngôn  ngữ Ấn­Âu mà biểu đạt thì thông qua các cách sử dụng như từ, hư từ  hoặc trật tự từ. 1.3. Tiểu kết chương 1 Trong chương 1, luân an tâp trung trinh bay nôi dung c ̣ ́ ̣ ̀ ̀ ̣ ơ sở lý  ̣ thuyêt co liên quan đên đê tai. Cu thê,  ́ ́ ́ ̀ ̀ ̉ trong phần thứ  nhất, chúng  tôi hệ thống hóa nhưng công trình, bài vi ̃ ết đã được công bố, kể cả  các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ (kể  cả  trong và ngoài nước)   liên quan mật thiết đến đề  tài luận án. Trong phần thứ hai, chúng   tôi tập trung vào phân tích cơ  sở lý thuyết của đề  tài, nêu và phân  tích các giả thuyết nghiên cứu và xác định làm rõ một số khái niệm  cơ bản liên quan đến đề tài.  Chương 2. ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA KHÁC BIỆT  NGỮ PHÁP GIỮA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH  7
  11. ĐẾN CÁCH BIỂU ĐẠT Ý NGHĨA SỐ CỦA DANH TỪ  TRONG TIẾNG ANH 2.1. Khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh về cách biểu đạt ý  nghĩa số của danh từ 2.1.1. Khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh về  cấu trúc danh   ngữ 2.1.1.1. Khác biệt ở danh từ trung tâm  Trong khi tiếng Anh cần những hình vị  như  “­s” hoặc “­es”   để  biểu đạt dạng thức số  nhiều của danh từ, thì danh từ  tiếng   Việt không biến đổi hình thái cho dù danh từ  đó chỉ  số  ít hay số  nhiều. Ví dụ: một con mèo (one cat), hai con mèo (two cats).  2.1.1.2.   Sự   tham   gia   của   chỉ   tố   tiêu   điểm   (focus   marker)   “cái” trong danh ngữ tiếng Việt  Ngôn ngữ  tiếng Anh không có thành phần chỉ  tố  tiêu điểm  (focus marker) “cái” như  trong tiếng Việt. Tuy nhiên, “cái” trong   tiếng Việt thường gắn liền với những từ chỉ xuất (demonstratives)   ấy, nọ, kia, này, mà tương đương với những từ   this, that, these,   those trong tiếng Anh.   2.1.1.3. Khác biệt ở trật tự các thành phần cấu tạo của danh   ngữ Trong cấu trúc danh ngữ  tiếng Anh, từ  chỉ  xuất và tính từ  thường xuất hiện phía bên trái của danh từ  chính. Trong khi đó,  trong cấu trúc danh ngữ tiếng Việt, từ chỉ xuất và tính từ lại đứng   phía bên phải của danh từ chính.  2.1.2. Khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh về cách biểu đạt ý   nghĩa số 2.1.2.1. Khác biệt về loại hình ngôn ngữ  Trong   tiếng   Việt,   “những”,   “các”   thường   được   thêm   vào  đằng trước các danh từ  đếm được để  chỉ  ý nghĩa số  nhiều, trong  8
  12. khi đó tiếng Anh lại thường thay đổi hình vị của các danh từ bằng   cách thêm s/es vào cuối danh từ. 2.1.2.2. Khác biệt trong vai trò của loại từ đối với việc biểu   đạt ý nghĩa số  Có thể  thấy cả  tiếng Việt và tiếng Anh đều dùng danh từ  đơn vị. Nhưng tiếng Anh thường dùng danh từ đơn vị với các danh  từ chỉ chất liệu, trong khi đó do trong tiếng Việt, danh từ không có  ý nghĩa chỉ  đơn vị  sự  vật, nên để  đo lường những danh từ  có ý  nghĩa chỉ  chủng loại, người Việt phải đưa những danh từ  đơn vị  đặt trước những danh từ khối đi sau nó.  2.1.2.3. Khác biệt về cách sử dụng định ngữ  Trong tiếng Việt, từ hạn định “này” có thể được dùng với cả  danh từ  số  ít và danh từ  số  nhiều (con mèo này, những cái nhà  này…), nhưng trong tiếng Anh, danh từ  số  ít đi với từ  hạn định  “this” và danh từ số nhiều đi với từ hạn định “these”.  2.1.2.4. Khác biệt về  cách biểu đạt ý nghĩa số trong một số   trường hợp về danh từ tập hợp Trong   tiếng   Anh,   danh   từ   tập   hợp   như   “team”,   “family”,   “staff”, “group”,… có thể được sử dụng vừa là danh từ số ít, vừa là  danh từ số nhiều, tùy thuộc vào hàm ý của người viết. Tuy nhiên,   danh từ tập hợp trong tiếng Việt lại hoàn toàn khác biệt. danh từ  tập hợp tiếng Việt không thể đứng ngay sau các số từ. Tuy nhiên,   chúng sẽ  trở  thành các danh từ  đếm được nếu đứng sau các danh  từ chỉ đơn vị hoặc các loại từ thích hợp. 2.1.2.5. Khác biệt về  cách biểu đạt ý nghĩa số  trong những   tình huống tùy thuộc vào ngữ cảnh Cả  tiếng Việt và tiếng Anh đều có những tình huống mà  cùng một từ vừa có thể là danh từ đếm được vừa có thể là danh từ  không đếm được, tùy thuộc vào ngữ cảnh. Tuy vậy, những danh từ  9
  13. trong hai ngôn ngữ lại không trùng nhau. Ví dụ, trong tiếng Anh có  những từ như: hair (sợi tóc/mái tóc), glass (cái cốc/kính), v.v.  2.2. Những lỗi sai cơ  bản về  cách biểu đạt ý nghĩa số  của   danh từ trong tiếng Anh của học viên Việt Nam 2.2.1. Mô tả  lỗi sai về  cách biểu đạt ý nghĩa số  trong các luận   văn cao học Dựa trên việc phân tích 146 luận văn của học viên cao học,   chúng tôi quan sát được là một số  danh từ không đếm được trong  tiếng Anh đã được học viên người Việt sử dụng như danh từ đếm  được.  Đây được gọi là  cá thể  hóa danh từ  (individuation), tức là  để chỉ  các hiện tượng số ít hóa và số  nhiều hóa của một danh từ  không đếm được khi người Việt sử dụng tiếng Anh. 2.2.2. Thảo luận những nguyên nhân chính gây ra lỗi sai về   cách biểu đạt ý nghĩa số của danh từ trong tiếng Anh 2.2.2.1.  Ảnh hưởng tiêu cực từ  sự  khác biệt về  loại hình   ngôn ngữ  Khác với tiếng Anh, có thể  thấy, trong tiếng Việt sự  phân  loại ngữ  pháp được thực hiện bằng cách thêm các từ  (ví dụ, từ  “những” trong “những bông hoa” thay vì thêm hậu tố “s” như trong   tiếng Anh trong “these flowers”). Hơn nữa, trong tiếng Việt cho dù  danh từ  có tri giác hay không thì vẫn có thể  đi được với các định  ngữ  chỉ  lượng như  “các, những..” (những con vật, những đồ  nội   thất, các đồ trang sức,…). Suy nghĩ này đã được áp dụng khi người  Việt   dùng   những   danh   từ   tương   đương   trong   tiếng   Anh.   Nếu  những danh từ  tập hợp như  “người, gia súc, cảnh sát..”   (people,  cattle, police..) có thể  đi được với những định ngữ  hay đại từ  chỉ  xuất như  “these, those” thì đương nhiên những danh từ  tập hợp   khác như  “furniture, jewelry..” cũng có thể  dùng tương tự. Thậm   chí người sử  dụng có thể  rút ra kết luận xa hơn là khi các thành   viên cấu thành của các danh từ  tập hợp như  furniture (nội thất),   10
  14. jewelry   (trang   sức),..   có   thể   đếm   được   như   “these   chairs,   those  rings..”   (những   chiếc   ghế   này,   những   cái   nhẫn  kia..)   thì   những   danh từ tập hợp trên cũng sẽ đếm được. 2.2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực từ sự khác biệt trong quan niệm   về  quan hệ  thượng hạ  danh trong nghĩa học giữa tiếng Anh và   tiếng Việt  Có   thể   nhận  thấy,   các  danh  từ   có   quan  hệ   bao  nghĩa   mà  người Việt hay sử dụng sang dạng thức số nhiều là những danh từ  có quan hệ  bao nghĩa hơi đặc biệt khi có đơn vị  thượng danh là  một đơn vị  tập hợp, khác biệt với các đơn vị  thượng danh đếm   được thông thường như  “animal, flower, insect” (động vật, hoa,   côn trùng). Đây được coi là quan hệ  bao nghĩa mang tính tập hợp  (collective  hyponymy)  chứ  không phải  quan hệ   bao  nghĩa  thông  thường theo quy tắc tiếng Anh. Tuy nhiên, khi người Việt sử dụng  những từ  này lại coi đơn vị  hạ  danh (hyponym) và đơn vị  thượng  danh (hypernym) là như nhau. Do đó người Việt coi những danh từ  tập hợp này hoàn toàn đếm được và có thể  được số  nhiều hóa.  Đây có thể  được coi là sự  đơn giản hóa khi tiếng Anh được sử  dụng tại Việt Nam. Ví dụ như từ “furniture” (nội thất) có thể định   lượng hóa và số nhiều hóa dựa trên cơ sở  là từ “table” (bàn) cũng   có những yếu tố tương tự. 2.2.2.3.  Ảnh hưởng từ những tình huống phụ  thuộc vào ngữ   cảnh xảy ra ở cả tiếng Anh và tiếng Việt Như  đã phân tích trong phần 2.1.2.5, một nguyên nhân nữa  cũng gây nên sự bối rối cho người Việt khi phải xác định danh từ  đếm được và không đếm được trong tiếng Anh là do cả tiếng Việt  và tiếng Anh đều có những tình huống mà cùng một từ vừa có thể  là danh từ đếm được vừa có thể  là danh từ  không đếm được, tùy   thuộc  vào  ngữ   cảnh.   Chúng   tôi   nhận  thấy,   học   viên  Việt   Nam   thường dùng một số  danh từ   ở  dạng thức số nhiều nhưng không   11
  15. hề nhận ra là khi  ở  dạng thức này thì danh từ đó mang một nghĩa  khác. 2.2.2.4. Ảnh hưởng tiêu cực từ sự khác biệt trong cách dùng   danh từ chỉ vật chất của người Việt Chúng tôi nhận thấy, bên cạnh những danh từ đã nêu ở trên,  còn có một số  trường hợp danh từ  “soap, chalk, wood, toast” (xà  phòng, phấn, gỗ, bánh mì nướng) mang ý nghĩa vật chất. Trong  tiếng   Anh,   những   danh   từ   trên   được   coi   là   không   đếm   được.   Người Việt khi sử dụng các danh từ này thường dùng ở dạng thức   số nhiều, nhưng lại để chỉ những vật được làm từ những chất này. 2.3. Tiểu kết chương 2 Trong chương này, chúng tôi tập trung khảo sát một số vấn   đề  liên quan đến những điểm khác biệt về  cách biểu đạt ý nghĩa  số giữa tiếng Anh và tiếng Việt, và những ảnh hưởng tiêu cực gây  ra từ những khác biệt đó tới cách biểu đạt ý nghĩa số của danh từ  tiếng Anh trong luận văn của học viên cao học Việt Nam. Chương 3. ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA KHÁC BIỆT  NGỮ PHÁP GIỮA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH  ĐẾN CÁCH DÙNG QUÁN TỪ TRONG TIẾNG ANH  3.1. Khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh về cách dùng quán  từ 3.1.1. “Một” trong tiếng Việt và cách dùng tương đương trong   tiếng Anh Mặc dù từ  một trong tiếng Việt có cách sử dụng khá tương  đương với quán từ  a  trong tiếng Anh, nhưng nó không được sử  dụng tương đương với quán từ  a  trong kết cấu danh tính làm vị  ngữ và cách dùng chỉ chủng loại.  12
  16. 3.1.2. Quán từ  zero và hình thức bỏ  trống trước loại từ  (null   article) và cách dùng tương đương trong tiếng Anh Với hầu hết những danh từ  mang nghĩa nội chỉ  (tức là đã  được đề cập trong câu trước đó) thì trong tiếng Anh sẽ phải đi với   the khi xuất hiện trong vế sau, nhưng trong tiếng Việt, sau khi một   danh từ đếm được được nhắc tới thì một danh từ không đếm được  có thể  được sử  dụng khi nhắc lại. Trong trường hợp đó, quán từ  zero sẽ được sử dụng.  3.1.3. “Những, các” trong tiếng Việt và cách dùng tương đương   trong tiếng Anh Cách sử  dụng  những  và  các  trong tiếng Việt tương đương  với hầu hết các trường hợp sử dụng quán từ  the trong tiếng Anh,  nhưng vẫn có những trường hợp ngoại lệ không sử dụng the. 3.2.  Những lỗi sai cơ  bản về  cách dùng quán từ  trong tiếng   Anh của học viên Việt Nam 3.2.1. Mô tả lỗi sai về cách dùng quán từ trong các luận văn cao   học Những câu chứa quán từ  trong các luận văn được phân loại   thành 6 nhóm lỗi sai dựa trên các loại danh từ khác nhau bao gồm:   danh từ  chỉ  tên, danh từ  chỉ  một loại  đơn nhất, danh từ  là một  trường hợp duy nhất được xác định, danh từ  là một trường hợp  thực tế, danh từ là một trường hợp bất kỳ, danh từ là một trường   hợp quy chiếu theo số đông.  3.2.2.  Thảo luận những nguyên nhân chính gây ra lỗi sai về   cách dùng quán từ trong tiếng Anh 3.2.2.1.   Nhóm   lỗi   sai   về   quán   từ   đi   với   danh   từ   chỉ   tên   (Names) Trong những trường hợp danh từ chỉ tên là bí danh, thay vì sử  dụng quán từ  the, học viên thường sử  dụng hình thức bỏ  trống  trước loại từ (null), có khả năng bởi học viên nhận ra các bí danh   13
  17. là các danh từ chỉ tên, nhưng lại không biết loại danh từ chỉ tên nào  là đi với  the  (Ví dụ:  University of Hồng Bàng, nhưng lại là  The  University of Technology…). Tóm lại, đối với nhóm danh từ  chỉ  tên, học viên Việt Nam hay có xu hướng sử  dụng hình thức bỏ  trống trước loại từ  (null) và gặp khó khăn trong việc nhận diện   các trường hợp ngoại lệ. 3.2.2.2. Nhóm lỗi sai về quán từ đi với danh từ chỉ một loại   đơn nhất (unique type) Trong trường hợp này, hầu hết các học viên sử  dụng hình  thức bỏ  trống trước loại từ  (null) cho các danh từ  chỉ  chủng loại  (generic sense) hoặc danh từ mang nghĩa chung (general sense), thay  vì sử dụng quán từ the theo đúng quy tắc chuẩn. Trong tiếng Việt,   hình thức bỏ  trống trước loại từ  (null) thường được dùng trước  một danh từ  đếm được với nghĩa xác định, tức là người sử  dụng  phải biết rõ danh từ đó là về đối tượng nào (Cao Xuân Hạo, 1999).   Đặc điểm này lại trùng hợp với nhóm danh từ là các thể loại riêng   biệt khi các danh từ  này thường là danh từ  số  ít và là thành viên  của một hệ thống phân cấp hoặc mang tính địa phương/ toàn cầu.   Ví dụ: the lion, the computer, the pope, the supermarket…. Chính vì  học viên Việt Nam nhận ra được các đặc điểm này của danh từ  (đếm được, nghĩa xác định) nên đã áp dụng đúng quy tắc trong  tiếng Việt là không sử  dụng quán từ  phía trước các danh từ  đó,   thay vì phải sử  dụng quán từ  xác định  the  để  chỉ  một loại thuộc  một hệ thống phân cấp.  3.2.2.3. Nhóm lỗi sai về quán từ đi với danh từ là một trường   hợp duy nhất được xác định (uniquely identified instance) Qua khảo sát số  liệu thực tế, trong trường hợp   nhận thức   trực tiếp, hầu hết học viên đều sử dụng the, một số ít sử dụng a,  và rất ít sử dụng quán từ zero và null. Tuy nhiên, trong trường hợp  nhận thức gián tiếp và nhận thức dựa trên bối cảnh thì số  lượng  14
  18. học viên chọn các quán từ a, zero, null tăng lên nhiều hơn qua việc  phân tích các câu trong một số luận văn cao học. Theo ý kiến của  chúng tôi, nguyên nhân có thể  là học viên có thể  nhận ra tính xác   định của danh từ, và sử dụng quán từ zero hoặc hình thức bỏ trống   trước loại từ (null) như trong tiếng Việt. 3.2.2.4. Nhóm lỗi sai về quán từ đi với danh từ là một trường   hợp thực tế (actual instance) Đối   với   những   danh   từ   số   ít   đếm   được   trong   nhóm   này,  chúng tôi nhận thấy có một số  học viên hay có xu hướng không  dùng quán từ.   Nguyên nhân có thể  là do với một câu tiếng Anh  như  “He is an engineer” thông thường người Việt sẽ có cách dịch  tương đương là “Anh  ấy là kỹ sư” chứ không hay nói “Anh  ấy là  một kỹ sư”. Chính vì lối tư duy này nên cũng có một số  học viên   vẫn không sử  dụng quán từ  như  trường hợp trên, mặc dù con số  này không nhiều. Đối với danh từ khối trong trường hợp thực tế, hầu hết học   viên đều sử  dụng chính xác quán từ   zero, nhưng cũng có một số  dùng quán từ a. Theo ý kiến của chúng tôi, lỗi sai này bắt nguồn từ  việc các học viên gặp khó khăn trong việc xác định tính đếm được   của danh từ. Đối   với   danh   từ   số   nhiều  trong   trường   hợp   thực   tế,   qua   bảng số liệu thu được từ các luận văn, chúng tôi nhận thấy thay vì   sử  dụng quán từ  đúng là  some  hoặc  zero  thì người  Việt lại có  khuynh hướng sử  dụng quán từ  the. Nguyên nhân của hiện tượng  này có thể  bắt nguồn từ  sự   ảnh hưởng của việc dùng quán từ  những và các trong tiếng Việt. 3.2.2.5. Nhóm lỗi sai về quán từ đi với danh từ là một trường   hợp bất kỳ (arbitrary instance) Trong  trường  hợp   bất   kỳ   (arbitrary  instances),   học   viên  ít   mắc lỗi sai vì các danh từ cũng tương đối rõ ràng. Nếu một danh  15
  19. từ  là danh từ  số  ít, nó sẽ  đi kèm với quán từ   a, nếu không sẽ  đi  cùng với quán từ zero hoặc hình thức bỏ trống trước loại từ (null). 3.2.2.6. Nhóm lỗi sai về quán từ đi với danh từ là một trường   hợp quy chiếu theo số đông (reference mass) Trong nhóm câu chứa những danh từ là một trường hợp quy  chiếu theo số đông, hầu hết số câu sai đều sử dụng quán từ a hoặc  the tương  ứng lần lượt với hai nhóm danh từ  khối và danh từ  số  nhiều thay vì quán từ zero theo đúng quy tắc ngữ pháp. Theo chúng   tôi, thói quen sử dụng quán từ the cho nhóm danh từ số nhiều cũng  xuất phát từ   ảnh hưởng của cách dùng  những  và  các  trong tiếng  Việt như chúng tôi đã phân tích ở trên. Ngoài ra, lỗi sai này có thể  bắt nguồn từ việc học viên gặp khó khăn trong việc phân biệt giữa   tính bất định và tính xác định của danh từ, cũng như  không phân  biệt được tính đếm được của danh từ 3.3. Tiểu kết chương 3 Trong chương này, chúng tôi tập trung khảo sát một số vấn   đề liên quan đến những điểm khác biệt về cách dùng quán từ giữa   tiếng Anh và tiếng Việt, và những  ảnh hưởng tiêu cực gây ra từ  những khác biệt đó tới cách dùng quán từ tiếng Anh trong luận văn  của học viên cao học Việt Nam. Chương 4. ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA KHÁC BIỆT  NGỮ PHÁP GIỮA TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH  ĐẾN CÁCH BIỂU ĐẠT THÌ TRONG TIẾNG ANH  4.1. Khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh về  cách biểu đạt  thì 4.1.1. Tính không bắt buộc của “đã, đang, sẽ” trong việc biểu đạt thì   quá khứ, hiện tại, tương lai trong tiếng Việt  16
  20. Tiếng Việt là một ngôn ngữ có tính phân tích rất mạnh,   nên từ  không có hình thái diễn đạt phạm trù ngữ pháp theo lối bắt buộc bên trong   từ; động từ không bắt buộc chia thì như nhóm ngôn ngữ Ấn­Âu. Do vậy,  có thể thấy rõ không có sự bắt buộc ngữ pháp về thì trong tiếng Việt như  trong ngôn ngữ Ấn­Âu. 4.1.2. Tính đa tầng nghĩa của “đã, đang, sẽ” trong việc biểu đạt thì   trong tiếng Việt  Chúng tôi nhận thấy mặc dù đã, đang, sẽ có chứa nét nghĩa biểu  đạt thì quá khứ, hiện tại, tương lai, nhưng ba từ này còn được chứng   minh là mang tính đa tầng nghĩa. Tức là bên cạnh việc mang nét nghĩa  biểu đạt thì, ba từ này còn mang nghĩa tình thái, nghĩa về thể, và còn nhiều   trường hợp ngoại lệ xảy ra trong tiếng Việt.  4.2. Những lỗi sai cơ bản về cách biểu đạt thì trong tiếng Anh   của học viên Việt Nam 4.2.1. Mô tả lỗi sai về cách dùng thì trong các luận văn cao học Khảo sát những ảnh hưởng tiêu cực của khác biệt ngữ pháp  giữa tiếng Việt và tiếng Anh đến cách biểu đạt thì trong tiếng Anh   thông qua 146 luận văn, luận án đã tổng hợp được 4 nhóm lỗi sai   chính liên quan đến cách dùng thì của học viên Việt Nam gồm:  (a)  Nhóm lỗi dùng thì tương lai thay cho thì quá khứ; (b) Nhóm lỗi   dùng thì hiện tại thay cho thì tương lai; (c) Nhóm lỗi dùng thì hiện  tại thay cho thì quá khứ hoặc hiện tại hoàn thành; (d) Nhóm lỗi sai   dùng thì hiện tại tiếp diễn thay cho thì hiện tại đơn với các vị  từ  tĩnh trong tiếng Anh. Trong 4 nhóm lỗi sai, thì nhóm lỗi cuối cùng  liên quan tới cách dùng vị  từ  tĩnh  ở  thể  tiếp diễn chiếm tỉ  lệ  cao   nổi bật với số  lượng câu chưa chuẩn  ở  loại này chiếm hơn một  nửa trên tổng số câu sai. 4.2.2.  Thảo luận những nguyên nhân chính gây ra lỗi sai về   cách biểu đạt thì trong tiếng Anh 4.2.2.1. Nhóm lỗi dùng thì tương lai thay cho thì quá khứ 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0