LUẬN VĂN:Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
lượt xem 19
download
LUẬN VĂN: Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay .mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là một công cụ quan trọng là lực lượng vật chất để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN:Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
- LUẬN VĂN: Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay
- mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là một công cụ quan trọng là lực lượng vật chất để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn bộc lộ những tồn tại yếu kém, chưa tương xứng với yêu cầu đòi hỏi và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: Trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế thực hiện tốt các chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp của Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [5]. Từ thực tế những mặt tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua và phương hướng, mục tiêu đổi mới phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Do vậy việc chọn đề tài: "Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp
- xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay" là một vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa về lý luận đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, sự cần thiết phải đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng như các hình thức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Phân tích, đánh giá thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình trong những năm vừa qua. Xác định phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn không đề cập toàn bộ những vấn đề về sắp xếp, đổi mới trong các doanh nghiệp nói chung mà chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sắp xếp, đổi mới đối với doanh nghiệp nhà nước. Với thực tiễn quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 1998 - 2003 để minh họa cho những vấn đề lý luận được đề cập trong luận văn. 4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, vai trò doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xu thế tất yếu của việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và sắp xếp đổi mới của doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua. Từ đó, rút ra ưu điểm tồn tại, chỉ rõ nguyên nhân của các tồn tại đó.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế. Chương 2: Thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua. Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để góp phần nâng cao hiệu quả doanh n ghiệp nhà nước ở Quảng Bình hiện nay.
- Chương 1 Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế Nhiều thành phần và hội nhập Quốc tế 1.1. Lý luận chung về Doanh nghiệp nhà nước 1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kinh tế nhà nước, quan trọng nhất nhưng không phải đồng nhất và đồng nghĩa với kinh tế nhà nước. Do vậy phải điểm lại các quan niệm về doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Trên thế giới, khi nghiên cứu hoặc đề xuất phương án cải cách doanh nghiệp nhà nước, các học giả có quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà n ước, các định nghĩa pháp lý và học thuật về doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau. ở nước ta quan niệm về doanh nghiệp nhà nước qua các thời kỳ đổi mới quản lý cũng đã thay đổi rất nhiều và rất nhiều học giả, nhà quản lý đôi khi lẫn lộn giữa khái niệm doanh nghiệp nhà nước với các khái niệm gần nghĩa khác dẫn đến hiểu sai lệch về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà n ước và cuối cùng dẫn đến cách thức tổ chức quản lý, đổi mới doanh nghiệp nhà nước có sự khác nhau giữa các ngành, các địa phương. Trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà nước (trước đây gọi là xí nghiệp quốc doanh) chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế, đó là những doanh nghiệp hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ, bao cấp (Trung Quốc gọi là cơ chế ăn nồi cơm chung, Liên Xô cũ gọi là cơ chế chi phí). Về mặt sở hữu, đó là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn 100%, trực tiếp quản lý. Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc chuyển đổi (cải cách, đổi mới) cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước luôn là vấn đề trung tâm. Kết quả là các doanh nghiệp nhà nước không những thay đổi về nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý và hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển một số
- hình thức đan xen sở hữu hoàn toàn mới. Chính vì vậy, Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày 20/4/1995 (lần đầu tiên ở Việt Nam) đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về doanh nghiệp nhà nước như sau: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý [1]. Qua gần 10 năm thực hiện, Luật đã có một vai trò rất quan trọng trong việc củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước, góp phần tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua còn nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh yếu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như những yếu kém về trình độ quản lý, công nghệ thiết bị lạc hậu... trong đó, có một nguyên nhân quan trọng là những vướng mắc về thể chế, chính sách tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước làm cho khu vực doanh nghiệp này thiếu tính năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, sau khi Luật doanh nghiệp nhà nước có hiệu lực thi hành, đã có nhiều văn bản liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung được ban hành như Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật thương mại... Trong đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp được đổi mới hơn so với doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và tiến tới hình thành một mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp nhà nước đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004, khẳng định: "Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn" [15].
- 1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu: Xét theo mức độ sở hữu, doanh nghiệp nhà nước có hai loại: Loại doanh nghiệp nhà nước chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là Nhà nước; loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước nắm giữ một phần sở hữu nhất định. Xét theo mục tiêu kinh tế - xã hội, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động công ích); doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (hoạt động kinh doanh) [8], [7]. Căn cứ vào sự khác nhau về địa vị pháp luật, doanh nghiệp nhà nước có thể chia thành ba loại: - Doanh nghiệp nhà nước do chính phủ trực tiếp quản lý, không có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập: loại doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn từ ngân sách của các cơ quan chủ quản thuộc chính phủ và các đại biểu chính phủ tham gia vận hành kinh tế mà chủ yếu là các xí nghiệp liên quan đến quốc kế dân sinh như y tế, giao thông công cộng, điện nước, bưu chính, đường sắt, sản xuất vũ khí... Hiện nay, loại doanh nghiệp nhà nước này không còn thấy nhiều ở các nước. - Doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ pháp nhân và toàn bộ tài sản thuộc về nhà nước: Đây là các doanh nghiệp nhà mà toàn bộ tài sản do nhà nước đầu tư và có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập. ở các nước trên thế giới loại hình doanh nghiệp này thường thuộc các lĩnh vực công cộng, lấy việc phục vụ xã hội làm mục tiêu cơ bản, như: đường sắt, bưu chính, điện, khí, ga, nước sạch... Loại doanh nghiệp nhà nước này là những thực thể kinh tế được lập ra và kinh doanh dựa vào một pháp quy cụ thể nào đó của nhà nước, đồng thời lệ thuộc vào cơ quan quản lý của nhà nước, tuy có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập, đồng thời có quyền tự chủ kinh doanh nhất định trong phạm vi đã xác định nhưng các doanh nghiệp này đều phải lấy một mục tiêu nào đó của Nhà nước làm tôn chỉ hoạt động kinh doanh và chấp hành sự điều tiết kinh tế và quản lý nhất định của Chính phủ.
- - Doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và Nhà nước nắm quyền sở hữu một phần tài sản: phần lớn ở các nước tư bản, doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp là hình thức chủ yếu nhất trong mọi loại hình doanh nghiệp nhà nước. Đặc điểm lớn nhất của loại doanh nghiệp nhà nước này là nhà nước tham dự cổ phần, nhờ đó có thể khống chế chúng. Nhưng doanh nghiệp nhà nước loại này hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc của doanh nghiệp tư nhân, thu lợi nhuận kinh doanh qua cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, đồng thời, bằng chế độ tham dự, nhà nước có thể triển khai các hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước bao gồm những công trình cơ sở hạ tầng như ngân hàng, đường sắt, đường bộ, vận tải biển và cũng có thể triển khai mở rộng vào các ngành công nghiệp mới. Doanh nghiệp nhà n ước theo chế độ nhà nước tham dự ngày càng tỏ ra là loại hình doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả nhất [9], [10]. Dựa theo cấp độ quản lý, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: - Doanh nghiệp nhà nước địa phương (doanh nghiệp địa phương): là những doanh nghiệp chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh. - Doanh nghiệp nhà nước Trung ương (doanh nghiệp Trung ương): là những doanh nghiệp vừa chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh cũng đồng thời chịu sự quản lý và chi phối trực tiếp trực tiếp của các cơ quan quản lý cấp trên theo ngành dọc như các Tổng công ty (Tổng công ty Điện lực), các liên hiệp xí nghiệp (liên hiệp xí nghiệp đường sắt), các Cục, Tổng cục… 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước và hệ thống thể chế kinh tế vĩ mô luôn được xác định là hai công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân, dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế văn hóa, đô thị mới, trang bị lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng để phát triển đất nước. Nhờ liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước nói riêng và kinh tế nhà nước nói chung, đã bước đầu hình thành đòn bẩy thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế khác liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày một tốt hơn. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân, như điện, xi măng, sắt thép, phân bón, xăng dầu, giấy viết... là lực lượng chủ yếu thực hiện các chính sách xã hội thông qua các doanh nghiệp công ích, nhờ có doanh nghiệp nhà nước và lực lượng vũ trang mà chúng ta có khả năng ứng phó có kết quả trong việc khắc phục ảnh hưởng và hậu quả của thiên tai. Doanh nghiệp nhà nước góp phần điều tiết cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển mạnh của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành công nghiệp, dịch vụ góp phần tăng nhanh tỷ trọng GDP của các ngành này trong nền kinh tế; các ngành thuộc cơ sở hạ tầng như: giao thông. năng lượng, bưu chính viễn thông đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà n ước được thành lập ở vùng núi, vùng có nhiều khó khăn góp phần thay đổi kinh tế vùng lãnh thổ. Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hóa cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách nhà nước.
- Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn định kinh tế - xã hội, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho yêu cầu từng bước hình thành chế độ mới. Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn giữ được vai trò quan trọng trong nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 1.1.4. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường Là một loại hình trong cộng đồng các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước có các đặc trưng chung như mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như: - Là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định nhằm thực hiện các mục đích hoạt động kinh doanh. - Chức năng của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, trao đổi, hợp tác và tiêu thụ sản phẩm. - Mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi ích kinh tế, trước hết là mục đích sinh lợi. - Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp là điều kiện cơ bản, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngoài những đặc điểm chung kể trên, các doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc điểm riêng, đó là: - Chủ sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhà nước là Nhà nước dưới hình thức sở hữu toàn dân. Do vậy, các doanh nghiệp nhà n ước thường phải chịu áp lực quản lý hoặc điều tiết của Chính phủ như giá bán, nguồn cung cấp nguyên liệu, họ không được chủ động hoàn toàn trong việc lựa chọn các mặt hàng kinh doanh và ph ương án đầu tư. Hơn thế, các doanh nghiệp nhà nước thường chịu sự chi phối của không chỉ một cơ quan chủ quản, mỗi cơ quan lại có một yêu cầu riêng về quản lý, vì vậy một quyết định có tính chiến
- lược kinh doanh thường được triển khai chậm, có khi còn mất cả cơ hội do phải trình duyệt qua nhiều cửa, nhiều cấp quản lý. - Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngoài mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vẫn có một số trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu cơ bản quan trọng nhất (như đối với doanh nghiệp hoạt động công ích). Vì ngoài việc đầu tư phát triển để thu được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp nhà nước đôi khi còn phải đầu tư vào các chương trình phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc hy sinh lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu xã hội. - Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò then chốt để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo và ổn định nền kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò tích cực như cung cấp những dịch vụ, cơ sở vật chất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, gánh lấy những rủi ro trong sự phát triển kinh tế; giải quyết một loạt các vấn đề kinh tế - xã hội, đồng thời tiến hành các chức năng đặc biệt như an ninh, quốc phòng… Các đặc điểm nêu trên không những có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến công tác hoạch định cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước mà còn ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước. 1.2. Sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 1.2.1. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cần được khắc phục Thực hiện đường lối đổi mới, hơn 10 năm qua khu vực doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, những mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ những yếu kém, tồn tại, chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là: - Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước có biểu hiện giảm dần, nợ khó đòi ngày càng lớn.
- Về hiệu quả kinh doanh, mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía Nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ được hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của Đảng và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước dành cho. Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do Bộ Tài chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi và trích lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu báo cáo năm 2003 của Bộ Tài chính, trong tổng số 4.800 doanh nghiệp nhà nước thì số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 77,2% (nếu tính theo chỉ tiêu hiệu quả chỉ chiếm 56%); số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 13,5% (nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn), số còn lại là những doanh nghiệp nhà nước chưa có hiệu quả, nằm trong tình trạng khi lỗ, khi lãi và nếu có lãi cũng chỉ là tượng trưng. Về khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp nhà nước rất yếu kém, biểu hiện rõ nhất là chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh yếu kém ngay tại thị trường nội địa, có nhiều ngành, sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước đang được bảo hộ tuyết đối (ưu đãi, độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế…) nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. Theo số liệu nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng, kính xây dựng, sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ... đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế từ 10-50% tùy mặt hàng. Khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước thể hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài
- và khu vực ngoài quốc doanh, khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện Việt Nam đã và đang thực hiện cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình Nhà nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng công nợ của doanh nghiệp nhà nước hiện nay là khá nghiêm trọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi có xu hướng ngày càng tăng. Trong số 15,1% nợ quá hạn ngân hàng thương mại thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 64,8%, gây khó khăn lớn đến hoạt động của ngân hàng. Theo Báo cáo của Bộ Tài chính đến hết năm 2003, tổng số nợ phải trả lên tới 207.778 tỷ đồng (tăng 10% so với năm 2002), trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó đòi là 2.748 tỷ đồng, tỷ lệ nợ này không phải là cao so với các nước trên thế giới nhưng khả năng thanh toán lại rất thấp. Thêm vào đó theo thống kê của Bộ Tài chính, ước tính lượng hàng hóa tồn kho tại các doanh nghiệp nhà nước hiện lên tới 45.600 tỷ đồng, bằng 12,7% tổng giá trị tài sản của khối doanh nghiệp nhà nước và 26,2% tổng giá trị tài sản lưu động, trong số hàng tồn kho trên có khoảng 1.155 tỷ đồng hàng hóa thuộc diện ứ đọng không cần dùng. Ngoài ra, lượng hàng hóa tồn kho lâu ngày bị kém, bị mất phẩm chất cũng lên tới 445 tỷ đồng. Do hầu hết hàng hóa tồn kho là vật tư, nguyên liệu có từ thời bao cấp, lỗi thời, không tiêu thụ được và để lâu, chất lượng giảm, kỹ thuật lạc hậu nên các doanh nghiệp cứ để treo chờ Nhà nước có biện pháp xử lý, điều này làm tăng gánh nặng cho chi phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn. Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước còn nhiều về số lượng, nhưng lại nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và lãnh thổ, địa phương nên dẫn đến tình trạng manh mún, hạn chế sự tích tụ, tập trung sản xuất. Đến tháng 12/2003 cả nước có 4.800 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước 139.293 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 29 tỷ đồng. Số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tới 42,45%, trong khi đó số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 29,89%; số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp tại 51 tỉnh, trong đó tại 14 tỉnh số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm trên 75%, cũng tại các địa phương này, hơn 30% số doanh nghiệp
- nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng. Đặc biệt có 6 tỉnh con số này là hơn 50% (Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Kon Tum, Hà Tây, Nam Định và Hà Nam) [2]. Nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cơ quan quản lý và trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong khu vực doanh nghiệp nhà nước với nhau. Hiện nay trên một sân bay có đến 4 - 5 doanh nghiệp của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Cục Hàng không cùng kinh doanh, vừa chồng chéo vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau, điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng; sự kết hợp, hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn lỏng lẻo và chưa thành nề nếp. Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm trong khi thị tr ường còn chưa được phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Đầu tư dàn trải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối. Thứ ba, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, đầu tư đổi mới công nghệ chậm đã hạn chế khả năng cạnh tranh và hội nhập của các doanh nghiệp. Theo thống kê của Bộ Công nghiệp thì các doanh nghiệp nhà nước được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau (26% của Liên Xô cũ, 25% của các nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là các nước khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%) và thuộc các thế hệ khác nhau. Theo kết quả khảo sát 727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện Khoa học Bảo hộ lao động thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiến hành gần đây thì đến 76% thiết bị máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50 - 60, trên 70% đã hết khấu hao, gần 50% được tân trang lại. Theo tài liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường qua khảo sát nhiều doanh nghiệp thuộc 7 ngành thì máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 20 đến 30 năm, trình độ cơ khí hóa, tự động hóa dưới 10%, mức độ hao mòn hữu
- hình từ 30 đến 50%; có 38% tài sản cố định ở dạng thanh lý; 52% qua bảo dưỡng, sửa chữa, hậu quả là chưa tạo ra được các sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Một số mặt hàng như cơ khí, sắt thép, xi măng, phân bón, kính xây dựng... có mức giá cao hơn hàng nhập cùng loại từ 20 đến 40% [6], [3]. Thứ tư, tình trạng thiếu việc làm và lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước đang là một khó khăn lớn, ảnh hưởng đến việc đẩy nhanh quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì hiện nay số lao động không có việc làm trong doanh nghiệp nhà nước khoảng 6% nhưng trong thực tế nhiều doanh nghiệp nhà nước có số lao động quá lớn so với yêu cầu như ở Tổng Công ty Than Việt Nam, Công ty Gang Thép Thái Nguyên, các nhà máy xi măng địa phương… Số lao động không có việc làm ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao hơn, tiếp đến là ở các Bộ, ngành trung ương. Các địa phương có số lao động không có việc làm đặc biệt cao là Hải Dương (33%), Nam Định (27%), Hà Tĩnh (23%), Nghệ An (16%), Hải Phòng (15%). Tổng Công ty Than dôi dư lao động 30%, Tổng Công ty Lương thực miền Bắc dôi dư lao động 28%. Tổng Công ty Thép Việt Nam dôi dư lao động 12%. Bên cạnh đó phần lớn người lao động không qua đào tạo hoặc đào tạo rất hạn chế nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ của doanh nghiệp thì Nhà nước chưa có cơ chế giám sát về tuyển dụng lao động, trả công lao động và gắn với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều doanh nghiệp còn rất tùy tiện. Mặt khác, cơ chế chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp giảm được số lao động dôi dư. Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp nhà nước ở ta đều được hình thành từ cơ chế tập trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh của chế độ cũ. Trong giai đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới đã cho phép các cơ quan, trường học, quận huyện được thành lập doanh nghiệp nhà nước để "tự cứu" nên hầu hết không đủ những điều kiện tối thiểu, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng, trang bị quá đơn sơ, đội ngũ giám đốc và công nhân không được đào tạo có hệ thống, phương hướng sản xuất kinh doanh
- không gắn với yêu cầu lâu dài của thị trường. Mặt khác, kinh tế tư nhân còn quá non yếu nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể điều chỉnh cơ cấu thật mạnh theo hướng tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Thứ năm, tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp khá phổ biến. Các doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn Nhà nước cấp không đủ ở mức tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Có gần 60% số doanh nghiệp nhà nước không có đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP của Chính phủ. Vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh, trong đó các Tổng Công ty là 75%, các doanh nghiệp do Bộ, ngành quản lý là 45%; các doanh n ghiệp do địa phương quản lý là gần 50%. Trên 50% doanh nghiệp chưa có đủ vốn lưu động cần thiết. Trong số vốn lưu động hiện có cũng chỉ huy động được cho kinh doanh khoảng 50%, còn lại dưới dạng vật tư mất phẩm chất, kém phẩm chất hoặc các khoản công nợ không có khả năng thu hồi, khoản lỗ chưa được bù đắp… Những mặt hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể khái quát một số nguyên nhân chủ yếu sau: * Nguyên nhân khách quan Những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình thành, cơ chế cũ chưa được xóa bỏ triệt để và nhiều vấn đề do lịch sử để lại nặng nề không thể giải quyết được trong một sớm một chiều. Trừ một phần nhỏ số doanh nghiệp được thành lập trong giai đoạn đổi mới, còn đa phần các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam là kế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu, không có nguồn thay thế. Nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách nhà nước những năm trước đây. Lao động vừa thiếu (thiếu lao động lành nghề), vừa thừa (thừa lao động không đáp ứng yêu cầu công việc) song chưa có cơ chế giải quyết. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề...
- Để thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con người trông cậy vào đây mà chỉ có thể dùng biện pháp gỡ rối dần dần, vừa cải tổ, vừa ổn định kinh tế và xã hội, chính vì thế hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp nhà nước chưa thể cải thiện nhanh. * Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, chưa nhận thức thống nhất và đầy đủ nội dung đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước; trong tổ chức thực hiện thiếu kiên quyết, không triệt để và chưa có giải pháp, chính sách cụ thể phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vị trí quan trọng của doanh nghiệp nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ và thống nhất đã gây khó khăn lúng túng khi định hướng và thực hiện các biện pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhất là các biện pháp về sắp xếp, đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Quá trình sắp xếp vẫn còn mang tính chất hành chính, chưa gắn với cơ chế điều chỉnh của thị trường, với Luật phá sản, chưa quan tâm đầy đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và khả năng hội nhập nên kết quả còn nhiều hạn chế. Ttrong khi không đủ khả năng bảo đảm vốn tối thiểu cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động nhưng nhiều ngành, địa phương cho rằng vị trí của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua số lượng lớn, tỷ trọng cao nên vẫn muốn duy trì nhiều doanh nghiệp nhà nước dẫn đến đầu tư quá phân tán và còn thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước, trong cổ phần hóa vẫn muốn Nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần chi phối… Một hiện tượng không bình thường là gần đây trong khi việc sắp xếp doanh nghiệp, thu gọn đầu mối, giải quyết những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, khắc phục tình trạng thiếu vốn còn đang phải đẩy mạnh thì một số doanh nghiệp nhà nước lại được thành lập chỉ dựa vào các dự án vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cơ quan sáng lập doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại không đảm bảo đủ vốn tối thiểu ban đầu cho doanh nghiệp nhà nước và không nghiên cứu kỹ thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó nhiều doanh nghiệp vừa mới bắt đầu hoạt động đã lâm vào tình trạng nợ nần, sản phẩm không
- tiêu thụ được, năng suất lao động thấp, nổi bật là trong các lĩnh vực xi măng lò đứng, mía đường, gạch Tuy-nen. Thứ hai, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp nhà n ước còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ. Chính sách tài chính tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với loại hình doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn cho đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Đặc biệt vốn ban đầu, doanh nghiệp nhà nước nói chung không được Nhà nước đầu tư đầy đủ mà chỉ đầu tư vào tài sản cố định. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp không đảm bảo được vốn lưu động tối thiểu. Nguyên nhân là Nhà nước thiếu vốn nhưng lại đầu tư dàn trải, đồng thời pháp luật cũng không quy định rõ mức vốn Nhà nước phải đầu tư vào doanh nghiệp, không phân biệt rõ tính chất vốn điều lệ, vốn đầu tư dẫn đến trách nhiệm về đầu tư vốn của chủ sở hữu nhà nước không rõ ràng và đầy đủ. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và bắt buộc doanh nghiệp nhà nước hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo được động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động; chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi, chẳng hạn như: quỹ dự phòng rủi ro, quỹ dự phòng thất nghiệp… Về quản lý nhà nước, chưa phân định rõ ràng các loại quyền như: quyền quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là
- chủ sở hữu; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp đối với doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, cơ chế thực thi sở hữu nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do một mặt, chúng ta thừa nhận quyền tự chủ khá rộng rãi của doanh nghiệp, nhưng mặt khác vẫn còn tồn tại chế độ chủ quản hành chính trước kia như: duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra theo chức năng của cơ quan chủ quản… đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý nhà nước vẫn thích can thiệp quá nhiều vào công việc của doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra, cải cách hành chính còn tiến hành chậm, ch ưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn của tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn hạn chế, còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường. Thứ ba, sự chậm trễ trong việc thực hiện chủ trương đa dạng hóa sở hữu và cổ phần hóa, chưa tạo được cơ chế quản lý năng động có hiệu quả và đã làm hạn chế các kênh huy động vốn của xã hội cho yêu cầu bù đắp phần thiếu hụt vốn đầu tư của Nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước và chậm khắc phục có hiệu quả tình trạng trì trệ và thiếu trác h nhiệm trong lao động, quản lý sử dụng vốn của nhà nước. Thứ tư, trình độ năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhất là đội ngũ giám đốc doanh nghiệp và cán bộ chủ chốt có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động doanh nghiệp nhưng do cơ chế theo dõi, tuyển chọn và đào tạo còn nhiều yếu kém, bất cập do đó một bộ phận không nhỏ cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, kém năng lực phẩm chất và thiếu trách nhiệm, trong khi đó việc bãi nhiệm, thay thế lại hết sức khó khăn. Từ những phân tích trên cho thấy, việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vừa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, vừa
- là một tất yếu khách quan để các doanh nghiệp có thể giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế và chuẩn bị cho quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. 1.2.2. Phương hướng và mục tiêu sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI, VII, VIII và các Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương về đổi mới và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn 10 năm qua Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những tồn tại, yếu kém và cũng còn nhiều vướng mắc cần được tiếp tục xử lý, tháo gỡ để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ các vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng Công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không nhất thiết nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [5].
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: Một số giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
29 p | 839 | 319
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Các giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam
106 p | 211 | 67
-
Luận văn:Phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu mặt hàng vali, túi xách của công ty PungKook Sai Gon II vào thị trường Mỹ và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu đến năm 2020
0 p | 194 | 51
-
Luận văn: Giải pháp thúc đẩy bán các mặt hàng thuộc nhãn hiệu Chinsu foods của Công ty Cổ phần Thực phẩm Masan trên thị trường miền Bắc
57 p | 149 | 44
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Các giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam
106 p | 128 | 35
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp của Việt Nam sang các nước Đông Nam Á
136 p | 138 | 31
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp thúc đẩy sự phát triển của các loại hình tổ chức bán lẻ hiện đại tại Việt Nam
138 p | 186 | 29
-
Khóa luận tốt nghiệp: Các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang thị trường EU từ nay đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
110 p | 146 | 27
-
LUẬN VĂN: Các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp
73 p | 160 | 22
-
Luận văn tốt nghiệp: Hiệp định thương mại Việt Mỹ và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường Mỹ
57 p | 138 | 19
-
Luận văn các giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình tiêu thu của công ty cơ khí ô tô – 1
21 p | 117 | 18
-
LUẬN VĂN: Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt nam sang thị trường Mỹ
51 p | 119 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam
103 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Đề xuất các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm tại Tổng Công ty CP Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội
98 p | 88 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp thúc đẩy tiến độ dự án tại Công ty Điện thoại Hà Nội 1
105 p | 80 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Kinh doanh Ô tô Thủ Đô
123 p | 14 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp thúc đẩy hoạt động bán hàng dịch vụ di động tại trung tâm kinh doanh VNPT Quảng Trị
26 p | 49 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn