LUẬN VĂN: Công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên
lượt xem 165
download
Hơn nửa thế kỷ đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác phòng ngừa tội phạm là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa chiến lược. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập chính quyền cách mạng non trẻ, trong Sắc lệnh số 23/SL ngày 21 tháng 2 năm 1946 của Chính phủ về việc hợp nhất Sở Cảnh sát, Sở Liêm phóng thành Việt Nam Công an vụ, tư tưởng về phòng ngừa tội phạm đã được Chủ tịch Hồ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên
- LUẬN VĂN: Công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên
- Mở Đầu 1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài Hơn nửa thế kỷ đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác phòng ngừa tội phạm là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa chiến lược. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập chính quyền cách mạng non trẻ, trong Sắc lệnh số 23/SL ngày 21 tháng 2 năm 1946 của Chính phủ về việc hợp nhất Sở Cảnh sát, Sở Liêm phóng thành Việt Nam Công an vụ, tư tưởng về phòng ngừa tội phạm đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "Đề nghị và thi hành các phương pháp đề phòng những sự hành động làm rối việc trị an và mất trật tự trong nước…". Trước tình hình hiện nay quốc tế và khu vực đang diễn ra hết sức phức tạp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta vẫn đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội, nhiều thời cơ thuận lợi mới nhưng xuất hiện cũng không ít những khó khăn, thách thức và cả những nguy cơ đan xen, nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội đã trở thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng, Nhà nước, toàn quân và toàn dân ta. Do vậy, để góp phần phục vụ thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chương trình hành động phòng chống tội phạm, trong đó có chương trình hành động phòng chống tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên. Thanh thiếu niên là nguồn nhân lực tương lai của đất nước, có vai trò quan trọng, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ là một trong những mối quan tâm hàng đầu, là vấn đề chiến lược của Đảng và Nhà nước ta; Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc làm rất quan trọng và cần thiết".
- Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế tri thức đang chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình phát triển đất nước thì lực lượng thanh, thiếu niên là những người đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung này. Tuy nhiên, bên cạnh lực lượng thanh, thiếu niên tích cực, còn một số thanh, thiếu niên không chịu học tập, lao động, không có ý chí vươn lên, có những nhận thức sai lệch, sa ngã vào các hoạt động tệ nạn xã hội, nguy hiểm hơn là đi vào con đường phạm tội, gây ra những hậu quả xấu cho xã hội và d ư luận không tốt trong nhân dân. Báo cáo kết quả công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội năm 2005 của lực lượng CSND nêu rõ: "Tội phạm trong lứa tuổi thanh thiếu niên (lứa tuổi từ 14 đến 30 tuổi) chiếm khoảng 70% tổng số đối tượng phạm tội". Trong đó tội phạm do người chưa thành niên (lứa tuổi từ 14 đến dưới 18) gây ra trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng và tập trung chủ yếu ở địa bàn thành phố, thị xã, thị trấn; tỷ lệ trung bình từ 8% đến 9,2% trong tổng số các vụ phạm tội xảy ra. Số tội phạm do người chưa thành niên gây ra tại địa bàn tỉnh Điện Biên chiếm tỷ lệ khá cao so với các địa phương trong cả nước; tỷ lệ trung bình hàng năm là 8% tổng số đối tượng phạm tội. Trước tình hình trên để ngăn chặn kịp thời tình trạng tội phạm do người chưa thành niên gây ra, nhằm giáo dục các em phát triển toàn diện về mọi mặt, trong Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP, ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ về tăng cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới và Quyết định 138/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm; đề án thứ tư đã chỉ rõ: "Đấu tranh phòng chống các loại tội xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên". Vì vậy, có thể khẳng định phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên là một nội dung quan trọng trong Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm. Cho đến nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu đề cập về vấn đề này như: TS. Đỗ Bá Cở: Người chưa thành niên phạm tội và các giải pháp phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong tình hình hiện nay- Đề tài khoa học cấp Bộ - Nxb CAND- Hà Nội, 2002; Bùi Ngọc Giáp: Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa và điều tra tội phạm hình sự do người chưa thành niên gây ra trên địa
- bàn tỉnh Thanh Hóa- Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả - Đề tài luận văn thạc sĩ năm 2003. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu khoa học đó tiếp cận và đề cập ở các phương diện, cấp độ khác nhau. Nhìn chung, các công trình khoa học đã đánh giá được thực trạng tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên gây ra ở nước ta trên các khía cạnh khác nhau, góc độ và địa bàn khác nhau, đưa ra các giải pháp phòng ngừa chung cho toàn xã hội và các giải pháp riêng cho lực lượng Công an nhân dân. Riêng địa bàn tỉnh Điện Biên là một trong những tỉnh miền núi phức tạp về ANTT, số vụ phạm tội xảy ra trên địa bàn chiếm một tỷ lệ đáng kể so với cả nước. Đặc biệt tình hình hoạt động của tội phạm do người chưa thành niên gây ra đang diễn biến phức tạp và chiếm một tỷ lệ lớn so với tổng số đối tượng phạm tội trên địa bàn. Công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra trong những năm qua của các lực lượng nghiệp vụ Công an tỉnh đã thu được những kết quả khả quan, góp phần quan trọng vào việc giữ vững và ổn định ANTT trên địa bàn, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác phòng ngừa loại tội phạm này vẫn bộc lộ những tồn tại nhất định. Mặt khác ở địa phương, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về hoạt động của lực lượng CSND trong phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra một cách toàn diện, có hệ thống. Chính vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: " Cụng tỏc phũng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên " là vấn đề có tính cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn: Đánh giá tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên từ năm 2001 đến tháng 6 năm 2006 từ đó rút ra những ưu điểm, nhược điểm, những sơ hở, thiếu sót và nguyên nhân của những tồn tại trong phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này. * Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn:
- - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra. - Khảo sát đánh giá thực trạng tình hình tội phạm hình sự do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Từ đó rút ra những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người chưa thành niên gây ra. - Đánh giá thực trạng công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra của lực lượng CSND Công an tỉnh Điện Biên. Những kết quả đạt được, tồn tại nguyên nhân cần khắc phục. - Dự báo về tình hình tội phạm do người chưa thành niên gây ra trong thời gian tới, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm do người chưa thành niên gây ra và hoạt động phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra của lực lượng CSND Công an tỉnh Điện Biên. * Phạm vi nghiên cứu: Đề tài luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra theo chức năng của lực lượng CSND từ năm 2001 đến tháng 6 năm 2006, trên địa bàn tỉnh Điện Biên. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước, phương châm, nguyên tắc hoạt động của lực lượng CAND trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ ANTT.
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tùy theo yêu cầu đặt ra của từng vấn đề nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: - Tổng kết thực tiễn công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra. - Thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu liên quan đến tội phạm do người chưa thành niên gây ra. - Nghiên cứu điển hình các trường hợp phạm tội cụ thể kết hợp các phương pháp tọa đàm, trao đổi với những cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong công tác phòng ngừa tội phạm này ở địa phương. - Phương pháp điều tra xã hội học khác. 5. Những điểm mới của đề tài luận văn - Bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học, luận văn đã phân tích đánh giá một cách tổng thể khách quan trên cả hai phương diện là lý luận và thực tiễn về phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra, chỉ rõ những ưu điểm, kết quả đã đạt được, tồn tại, nguyên nhân. Đây là căn cứ khoa học quan trọng, làm cơ sở để đề xuất, bổ sung hoàn thiện công tác này. - Quá trình khảo sát nghiên cứu luận văn làm rõ được những dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội phạm do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên và những nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội phạm do người chưa thành niên gây ra. - Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn đã đưa ra dự báo về tình hình tội phạm do người chưa thành niên gây ra trong thời gian tới. Căn cứ vào khả năng điều kiện trong công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra của lực lượng CSND tỉnh Điện Biên, từ đó đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa do người chưa thành niên gây ra. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: Kết quả của đề tài luận văn góp phần bổ sung lý luận, từng bước đổi mới hoàn thiện hệ thống lý luận về phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ ANTT trong thời gian tới. Về thực tiễn: Giúp cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng CSND nói chung, trước hết là lực lượng CSND Công an tỉnh Điện Biên nói riêng từng bước khắc phục những thiếu sót, tồn tại, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra, đồng thời là tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các trường CAND. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 9 tiết.
- Chương 1 Nhận thức về phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra 1.1. Nhận thức tội phạm do người chưa thành niên gây ra 1.1.1. Khái niệm về người chưa thành niên và tội phạm do người chưa thành niên gây ra * Người chưa thành niên và các đặc điểm nhận biết Theo cách gọi thông thường một chu kỳ sống của con người thường được chia thành nhiều giai đoạn lứa tuổi khác nhau: trẻ em, nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên, cao niên… còn theo cách gọi của thuật ngữ pháp lý thì được chia thành các tên gọi: trẻ em, người chưa thành niên và thành niên. Tuy nhiên việc phân định độ tuổi đến nay cũng chưa có một quy định nào thống nhất về lứa tuổi của trẻ em và người chưa thành niên. Cụ thể là: trong Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em (được Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 8 năm 1991) đã quy định: "Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Luật Lao động quy định trẻ em là người dưới 15 tuổi. Bộ luật Dân sự được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, tại Điều 20 quy định: "Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên". Trong Bộ luật Hình sự được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và được Chủ tịch nước ký lệnh số 01/L/CTN công bố ngày 04 tháng 01 năm 2000, tại Chương X, Điều 68 quy định việc áp dụng Bộ luật Hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội: "Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với những quy định của chương này". Từ những quy định trong các văn bản pháp luật, đã cho chúng ta khái quát sơ bộ được độ tuổi của trẻ em và người chưa thành niên:
- - Trẻ em là người chưa phát triển đầy đủ về tinh thần và thể chất, cần có sự bảo hộ của người lớn và ở độ tuổi dưới 16 tuổi. Việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cơ quan, nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. - Về thể chất: trẻ em phát triển rất nhanh về chiều cao và cơ thể, đặc biệt ở lứa tuổi 13 của các em gái và lứa tuổi 15 ở các em trai, các em phát triển về xương, cơ bắp và tăng nhanh trọng lượng cơ thể. Điều đáng lưu ý về mặt sinh lý phát triển trong giai đoạn này là khá hoàn chỉnh về giới tính. Điều này có ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của các em, là cơ sở gây ra tính mất cân đối chung, tính dễ kích thích, tính hiếu động, tính nổi nóng, đặc biệt trên lĩnh vực tình cảm. ở một góc độ nhất định, khái niệm về trẻ em và người chưa thành niên tương đối đồng nhất về độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi; như vậy khái niệm về người chưa thành niên bao gồm cả những người phát triển chưa đầy đủ và cả những người đã phát triển đầy đủ nhưng chưa hoàn thiện về mọi mặt. Do vậy cần có sự nhận thức, quan tâm, bảo vệ, giáo dục, tạo điều kiện để họ trở thành người có ích cho xã hội. Từ những đặc điểm đó, ta có thể rút ra khái niệm về người chưa thành niên: "Người chưa thành niên là người ở lứa tuổi dưới 18 và chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, kinh nghiệm sống và trình độ nhận thức của họ còn bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm…". * Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra Trong xã hội loài người, tội phạm là hiện tượng tiêu cực xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm được coi là một tất yếu khách quan không thể thiếu được của mọi nhà nước. Như mọi người đều biết, xã hội càng phát triển thì con người càng nhận thức rằng: tất cả mọi công việc dù giản đơn hay phức tạp đều phải suy nghĩ làm sao giải quyết công việc đó đạt hiệu quả nhanh nhất, chi phí ít nhất sức lao động của mình; những hành động để đạt kết quả đó không vi phạm pháp luật, không xâm phạm đến quyền lợi ích của nhà nước, của người khác thì được xem là mặt tích cực của xã hội và
- được Nhà nước khuyến khích, ngược lại những hành vi vi phạm phạm pháp luật, bất chấp thủ đoạn, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần… cho Nhà nước và nhân dân nhằm đạt mục đích có lợi cho bản thân thì được xem là mặt trái của xã hội và bị xã hội đấu tranh, lên án và nghiêm cấm; do đó những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hình sự nói riêng là những hành vi độc ác cần loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm có tính chất xã hội vì nó hình thành do chính hành vi của con người, nó chống lại toàn thể xã hội, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta xem tội phạm là một nhân tố bảo thủ và cản trở sự tiến bộ của loài người. Do vậy Nhà nước ta đã có quy định cụ thể về tội phạm, Điều 8 Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa X thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 quy định cụ thể như sau: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa". Như vậy với khái niệm trên, nhà làm luật đã đưa ra khái niệm tội phạm dựa trên cơ sở những đặc tính pháp lý của từng hành vi cụ thể hoặc nhóm hành vi do những cá nhân nhất định thực hiện một cách có ý thức. Chính phương pháp nghiên cứu này của khoa học luật hình sự đã đưa ra một mô hình pháp lý hay chính là những quy phạm pháp luật hoàn chỉnh về các mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và những hành vi ứng xử bắt buộc của con người. Do đó, đối tượng nghiên cứu của khoa học luật hình sự là hành vi của cá nhân con người. Vì vậy, phòng ngừa và điều tra tội phạm, trước hết là phòng ngừa những hành vi phạm tội và điều tra làm rõ quá trình diễn biến những hành vi phạm tội đã xảy ra để xác định có hay không có tội phạm xảy ra, người thực
- hiện hành vi phạm tội, trên cơ sở đó giúp cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp. Tuy nhiên, không phải bất kỳ hành vi nào gây ra nguy hiểm cho xã hội đều được coi là tội phạm, mà tại khoản 4 Điều 8 BLHS xác định: "Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác". Như vậy việc phân biệt một hành vi vi phạm pháp luật hình sự có phải là tội phạm hay không cần phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội có đáng kể hay không. Đối với người chưa thành niên phạm tội BLHS 1999 quy định về độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và chia ra hai độ tuổi khác nhau: - Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. - Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Về việc áp dụng BLHS đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 68 BLHS: Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định tại Chương X, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương X. Theo phân định ở hai mức độ tuổi được quy định cụ thể như trên cho thấy: độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi thì tâm sinh lý phát triển hơn, thể chất và tinh thần hoàn thiện hơn ở đội tuổi dưới 16, do đó việc quy định trên đã thể hiện quan điểm, chính sách xử lý đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo các chuyên gia nghiên cứu quy luật về sự phát triển của con người, thì giai đoạn từ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi là giai đoạn thay đổi phát triển về chiều cao, cơ thể và tính cách của con người, nhất là các em gái, các em phát triển về xương, cơ bắp, tăng trọng lượng cơ thể, đồng thời trong cơ thể lúc này nó xuất hiện hormone đặc biệt về cảm giác về tình cảm với người khác giới. Chính trong giai đoạn này là giai đoạn chuyển tiếp rất quan trọng trong việc bổ sung và hoàn thiện dần tính cách của các em,
- do đó trong công tác giáo dục của gia đình và nhà trường hết sức lưu ý để định hướng cho các em theo những chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra cũng có đầy đủ 4 dấu hiệu của tội phạm nhưng nó có điểm khác biệt cơ bản với tội phạm nói chung là chủ thể thực hiện tội phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra thì chủ thể có phạm vi hẹp hơn, đó là những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, đồng thời tương ứng với độ tuổi là tính chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này cũng khác. Căn cứ vào Điều 20 của Bộ luật Dân sự quy định: "Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên"; và quy định của BLHS có thể hiểu: chủ thể của tội phạm do người chưa thành niên thực hiện là những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi. Từ phân tích trên có thể hiểu tội phạm do người chưa thành niên gây ra như sau: Tội phạm do người chưa thành niên gây ra là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự do những người chưa thành niên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. 1.1.2. Đặc điểm về tội phạm do người chưa thành niên gây ra Từ khái niệm trên đã cho chúng ta định hình về độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội, là những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi. Người chưa thành niên là những người đang ở lứa tuổi phát triển về mọi mặt. Đây là lứa tuổi chưa có đủ khả năng nhận thức, chưa có đủ những kinh nghiệm trong cuộc sống, quá trình nhận thức bị hạn chế; chủ quan nông cạn khi phân tích, đánh giá hay nhìn nhận các sự việc, hiện tượng, dễ bị tác động bởi các yếu tố của môi trường sống. Mặt khác ở lứa tuổi này các em đang tò mò, tìm hiểu thế giới xung quanh, ham thích khai thác cái mới lạ; do đó sự tác động của thế giới khách quan tác động ngược trở lại là điều tất yếu, tác động trực tiếp đến sự phát triển tâm lý, nhận thức của người chưa thành niên. Vậy việc quan tâm, bảo vệ, chăm sóc của gia đình, nhà trường là hết sức quan trọng.
- Thực tế cho thấy đa số người chưa thành niên thực hiện tội phạm thường là những người có trình độ văn hóa thấp, ít hiểu biết về đạo đức, pháp luật, thường có quan niệm sai lệch về nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân, nên thường có những phản ứng sai lệch hoặc các hành vi vi phạm pháp luật. Nhiều trường hợp người chưa thành niên không ý thức được việc làm của mình là phạm tội, bởi vậy khi hiểu ra họ rất hối hận về việc làm của mình và lúc đó mới biết đó là hành vi phạm tội. Do vậy, chúng ta cần phải nhận biết các đặc điểm cụ thể về tội phạm do người chưa thành niên gây ra để có cơ sở phòng ngừa: + Trước hết chúng ta phải xác định được độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội. Bởi người chưa thành niên là những người đang ở lứa tuổi phát triển về mọi mặt. Đây là lứa tuổi chưa có đủ những kinh nghiệm trong cuộc sống, quá trình nhận thức bị hạn chế; chủ quan nông cạn khi phân tích, đánh giá hay nhìn nhận các sự việc, hiện tượng, dễ bị tác động bởi các yếu tố của môi trường sống. Do đó dễ bị bắt chước, làm theo, dễ bị lôi kéo vào các môi trường sống tiêu cực. Hơn nữa với đặc điểm tâm lý ở người chưa thành niên, các em dễ bị xúc động và hiếu động, có tính hiếu thắng, thích mạo hiểm và luôn tỏ ra mình là người can đảm, dũng cảm, không chịu thua kém bất cứ ai, xem thường các nội quy, yêu cầu đặt ra của gia đình, nhà trường và xã hội. Những đặc điểm này có quan hệ chặt chẽ với những nguyên nhân điều kiện thực hiện tội phạm của người chưa thành niên. + Đối với những người chưa thành niên gây ra các hành vi tội phạm nó cũng mang nhiều đặc điểm riêng biệt so với các lứa tuổi khác. Theo báo cáo Bộ Công an về tổng kết Đề án 4 cho thấy: song song với loại tội, nhóm tội, tính chất táo bạo của việc thực hiện hành vi phạm tội ở người chưa thành niên còn thể hiện cả ý thức phạm tội là có sự chuẩn bị trước; phạm tội có tổ chức hoặc có dấu hiệu phạm tội theo phe nhóm (2 người trở lên) và có người cầm đầu, tổ chức hoặc chỉ huy các nhóm để thực hiện tội phạm. Địa bàn gây án thường xảy ra phổ biến ở các thành phố, thị xã, thị trấn, nhất là các thành phố lớn. ở mỗi địa bàn khác nhau, tội phạm được thực hiện cũng có những đặc trưng khác nhau, nếu như ở các vùng nông thôn và miền núi, tội phạm chủ yếu và phổ biến là trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích và một số tội ít nghiêm trọng khác, thì ở các đô thị, thành phố, ngoài những tội trên, các tội rất đặc trưng còn là lừa đảo, cướp, cướp giật, gây rối trật tự công cộng và chống người thi hành công vụ. Khi thực hiện tội
- phạm thường là ở những chỗ đông người như các hội hè, các chợ, bến tầu, bến xe, nhà ga, công viên, rạp hát...Đối tượng xâm hại tập trung chủ yếu vào những đồ vật gọn nhẹ có giá trị cao, sau đến tiền mặt rồi đến sức khỏe và đến tính mạng, danh dự cũng như những quan hệ khác. Những thiệt hại của tội phạm do người chưa thành niên gây ra tuy không lớn so với tội phạm của người lớn, nhưng ảnh hưởng của nó về mặt xã hội thì không thể lường được, nó làm mất ổn định trật tự xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống yên vui, hạnh phúc của con người. Nhiều vụ phạm tội có sự chỉ huy của người lớn, hoạt động lưu động, gây án nhanh, tiêu thụ tẩu tán tài sản nhanh và lẩn trốn gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử. + Về năng lực chịu trách nhiệm hình sự, người chưa thành niên chỉ được coi là chủ thể của tội phạm khi người đó có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi, việc làm của mình, ý thức được việc làm đúng sai đối với luật pháp hình sự, do vậy năng lực chịu trách nhiệm hình sự phải đạt đến một độ tuổi nhất định và được pháp luật thừa nhận. Với độ tuổi của tội phạm do người chưa thành niên gây ra theo quy định của BLHS 1999 quy định là từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong độ tuổi đó lại được chia thành 2 độ tuổi để áp dụng các hình phạt khác nhau; tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, còn từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội. Những quy định đó đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật phải thực sự lưu ý đến người chưa thành niên khi họ làm trái pháp luật. 1.1.3. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội của pháp luật hình sự Việt Nam Người chưa thành niên phạm tội đã được BLHS năm 1999 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 68 là: từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy để xác định tội phạm có xảy ra hay không, quá trình điều tra làm rõ hành vi phạm tội cũng như chứng minh tội phạm của cơ quan điều tra; mặt khác, để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hình thức xử lý đối với người phạm tội nói chung,
- người chưa thành niên phạm tội nói riêng, phải căn cứ vào các nguyên tắc được quy định tại BLHS. Riêng đối với người chưa thành niên khi đã xác định họ phạm tội thì việc xử lý các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Có như vậy mới giúp họ nhận thức ra được lỗi lầm và sửa chữa để trở thành công dân có ích cho xã hội. Thể hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN, các biện pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được tính chất của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật, bản chất nhân đạo của các biện pháp áp dụng. - Khi xem xét hành vi của người chưa thành niên có phải là tội phạm hay không, thì nhất thiết phải lưu ý đến những dấu hiệu cơ bản của tội phạm được quy định tại Điều 8 của BLHS là: + Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS. + Do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý... + Xâm phạm đến những quan hệ xã hội được Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ. - Trách nhiệm pháp lý tội phạm của người chưa thành niên gây ra, luôn được Nhà nước ta quan tâm bởi đây là lứa tuổi chưa phát triển đầy đủ về nhận thức và hành vi; chính vì vậy, việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên được quy định rõ trong BLHS, vừa thể hiện tính nhân đạo của chế độ xã chủ nghĩa Việt Nam vừa phù hợp với tinh thần công ước của Liên Hiệp quốc đó là những nguyên tắc sau đây: + Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ để nhận ra khuyết điểm, sai lầm để kịp thời sửa chữa, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào thực hiện những biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội.
- + Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây nguy hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. + Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm đó là: Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu. Tội phạm đã thực hiện có tính chất nghiêm trọng. - Khi xét xử không được xử tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. - Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. - Không áp dụng hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm cư trú... đối với người chưa thành niên phạm tội. - án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. - Ngoài ra, khi xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ và xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt, thì áp dụng các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. - Tòa án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Đưa vào trường giáo dưỡng. Cùng với những quy định của BLHS về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Để phù hợp với những quy định trên cũng như mục đích của việc áp dụng hình phạt là giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã quy định thủ tục đặc biệt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội. 1.2. Phòng ngừa tội phạm hình sự do người chưa thành niên gây ra 1.2.1. Khái niệm phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra và vai trò công tác phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra * Khái niệm phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra Trong nhiều thập kỷ qua nhiệm vụ đấu tranh, chống tội phạm đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng trong đó nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm được đặt lên hàng đầu, có vị trí hết sức quan trọng trong chương trình phòng chống tội phạm của quốc gia, do vậy công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên đã được Đảng và Nhà nước quan tâm ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm quản lý nhà nước về an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội. Khi nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra cũng phải nhất quán quan điểm tiếp cận lịch sử, duy vật đối với quá trình phát triển của xã hội. Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, việc phòng ngừa và khắc phục tình hình tội phạm phải gắn với các nhiệm vụ biến đổi cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Đại hội I năm 1930 đã xác định nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm là đưa trở lại cuộc sống lao động những ai đã xa rời cuộc sống này. Theo phương châm này ở nước ta đã tiến hành thủ tiêu sự bóc lột người, sự áp bức dân tộc và xã hội, đói khổ, bần cùng của quần chúng, nạn thất nghiệp, nạn vô văn hóa mù chữ. Đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 8 đã thể hiện một sự quan tâm lớn đến công tác phòng ngừa tội phạm. Đại hội yêu cầu phải
- phòng ngừa tội phạm để không xảy các hiện tượng này. Đại hội đã yêu cầu phải xây dựng chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm. Theo Từ điển bách khoa CAND Việt Nam, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội - 2005 thì "Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của nhà nước và xã hội nhằm chủ động ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra, không để cho các thành viên của xã hội phải gánh chịu hậu quả tiêu cực do hành vi phạm tội gây nên. Nếu có tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát hiện, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tiến hành giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Phòng ngừa tội phạm mang tính hệ thống, đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân". Phòng ngừa tội phạm là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp để ngăn chặn không cho tội phạm phát sinh, phát triển nhằm xóa bỏ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, không để tội phạm xảy ra gây hậu quả thiệt hại cho con người và cho xã hội. Nghị quyết 31/NQ-BCT của Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ: Một trong những nguyên tắc chỉ đạo đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là: "Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp nhằm tích cực xây dựng, chủ động phòng ngừa, chủ động tấn công và tiến công liên tục làm tan rã bọn phản cách mạng và bọn tội phạm khác". Đề cập đến công tác phòng ngừa tội phạm, trước đây BLHS đặt nhiệm vụ chống tội phạm lên trên nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm nhưng trong giai đoạn hiện nay để nhằm ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất tội phạm xảy ra BLHS năm 1999 đã đặt nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm lên trên nhiệm vụ chống tội phạm. Quan điểm này cũng được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết 09/1998/NQ-CP của Chính phủ về tăng cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Tại Hội nghị toàn quốc triển khai Nghị quyết 09 của Chính phủ ngày 23 tháng 3 năm 1999 đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ (nay là Thủ tướng Chính phủ), Trưởng ban chỉ đạo Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm của Chính phủ đã chỉ rõ: "Thực tiễn công tác phòng chống tội phạm trong thời gian qua chỉ ra rằng không phải chỉ bắt giam nhiều và xử phạt tù với mức án cao, kế cả mức án cao nhất thì tội phạm sẽ giảm mà phải phát động cho được phong trào quần chúng đấu tranh phòng chống tội phạm, huy động cho
- được sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, của toàn xã hội, của từng hộ gia đình, của từng công dân tự giác tham gia và phải lấy phòng ngừa làm chính, lấy giáo dục cảm hóa lao động cải tạo làm chính thì mới là nhân tố, giải pháp cơ bản có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh phòng chống tội phạm"; Nghị quyết số 40-NQ/TW, ngày 08 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác công an trong tình hình mới cũng đã có quan điểm chỉ đạo lực lượng Công an nhân dân là "huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự....", "Trong đấu tranh chống các thế lực thù địch, các loại tội phạm, phải chủ động tấn công và tích cực phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ; lấy giữ vững bên trong là chính, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những nhân tố có thể dẫn đến những đột biến bất lợi; không để hình thành tổ chức chính trị phản động, không để xảy ra biến động chính trị - xã hội, bạo loạn"; Nghị quyết số 08 của Ban chấp hành trung VIII khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã chỉ đạo "Quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động tấn công với chủ động phòng ngừa giữa "xây" và "chống" trong đó lấy phòng ngừa là chính và xây dựng là chính. Từ ngày thành lập nước và đến nay công tác phòng ngừa tội phạm luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm và luôn xác định là giải pháp cơ bản và hữu hiệu trong đấu tranh chống tội phạm của lực lượng CAND Việt Nam. Đối với tội phạm do người chưa thành niên gây ra, thì phòng ngừa xã hội có đặc điểm riêng biệt, ngoài việc phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, thể thao, giải trí, các chính sách của Đảng, Nhà nước về chăm sóc, giáo dục thanh, thiếu niên còn phải phối kết hợp và huy động được các ban, ngành, đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, ủy ban Bảo vệ - chăm sóc trẻ em... tham gia. Vì vậy, lực lượng CSND trong quá trình tiến hành cần chú ý phối hợp với các cơ quan, ban ngành trên để tuyên truyền và giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân nói chung, người chưa thành niên nói riêng; trong đó cũng cần phải gắn và lồng ghép việc thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước về thanh, thiếu niên với việc vận động gia đình, nhà trường, xã hội tham gia vào công tác quản lý các em. Cũng qua đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi về nhiều mặt giúp các em yên tâm học hành, sinh hoạt, vui chơi giải trí... phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của các em.
- Tuy nhiên, để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm hình sự do người chưa thành niên gây ra một cách chủ động và tích cực, chúng ta phải biết kết hợp đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, từ phòng ngừa xã hội đến phòng ngừa nghiệp vụ. Vì đây là hai mức độ tạo thành hệ thống phòng ngừa tội phạm có mối quan hệ, tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Từ làm tốt công tác phòng ngừa xã hội, sẽ tạo cơ sở, nền tảng cho công tác phòng ngừa nghiệp vụ; ngược lại phòng ngừa nghiệp vụ tốt, giải quyết tốt các vấn đề cụ thể trong hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ sẽ giúp cho vấn đề phòng ngừa xã hội thuận lợi và có hiệu quả. Với cách thức tiếp cận những vấn đề trên, có thể đưa ra khái niệm về phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra: "Phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp để ngăn chặn không cho tội phạm phát sinh, phát triển nhằm xóa bỏ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, không để tội phạm do người chưa thành niên xảy ra gây hậu quả thiệt hại cho con người và cho xã hội". Từ khái niệm trên cho thấy những đặc trưng cơ bản về đối tượng của hoạt động phòng ngừa, chủ thể tham gia phòng ngừa, các biện pháp tiến hành và mục đích của công tác phòng ngừa tội phạm. - Về đối tượng của hoạt động phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội là những nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển tội phạm trong lứa tuổi ch ưa thành niên. - Chủ thể tham gia phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội là: cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân trong đó cơ quan công an là chủ thể trực tiếp và nòng cốt trong đấu tranh chống tội phạm do người chưa thành niên gây ra. - Biện pháp tiến hành hoạt động phòng ngừa là: pháp luật, nghiệp vụ, hành chính, tổ chức, giáo dục văn hóa, phẩm chất, đạo đức, thể chất, dạy nghề.v.v... - Mục đích của phòng ngừa là: hạn chế đến mức thấp nhất các em vi phạm pháp luật nói chung và phạm tội nói riêng.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn - Công tác tuyển dụng lao động tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Cơ điện Trần Phú
68 p | 477 | 201
-
Luận văn Công tác soạn thảo và quản lý văn bản tại Văn phòng UBND thành phố Pleiku
46 p | 595 | 69
-
Luận văn kế toán: Hoàn thiện công tác kế toán lưu chuyển hàng hóa tại công ty phát hành sách Hải Phòng
66 p | 190 | 42
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị văn phòng: Áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2008 trong công tác phòng tại công ty Cổ phần đầu tư xây dựng hạ tầng và Giao thông Intracom
81 p | 127 | 30
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội trong việc hỗ trợ kiến thức cho phụ nữ về Luật phòng chống bạo lực gia đình
21 p | 151 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Xã hội hóa nguồn tài chính cho công tác phòng cháy chữa cháy kinh nghiệm một số nước và bài học cho Việt Nam
163 p | 96 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước: Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác phòng, chống lãng phí giai đoạn hiện nay
208 p | 41 | 16
-
Luận văn tốt nghiệp: Công tác phòng chống môi trường đo hoạt động hàng hải khu vực thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu
100 p | 91 | 11
-
Luận văn Tổ chức công tác hạch toán nguyên vật liệu với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiêp 296 – công ty 319 Bộ quốc phòng
64 p | 136 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Lâm nghiệp: Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp góp phần cho công tác phòng cháy chữa cháy rừng tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng
79 p | 28 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Sơn La
88 p | 19 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Hỗ trợ nâng cao nhận thức phòng chống ma túy cho nhóm học sinh trung học phổ thông (Nghiên cứu tại trường THPT Nguyễn Trãi, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội)
30 p | 39 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội trong việc nâng cao vai trò của gia đình trong phòng ngừa trẻ vị thành niên phạm tội tại phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân thành phố Hải Phòng
41 p | 38 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý tài nguyên rừng: Nghiên cứu vai trò và sự tham gia của các bên liên quan trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng ở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
98 p | 30 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Vai trò công tác xã hội trong việc phòng chống thảm họa thiên tai tại xã Tiên Hưng huyện Tiên Lãng thành phố Hải Phòng
30 p | 40 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá tác động hỗ trợ tài chính đối với công tác phòng chống lây nhiễm HIV trong cộng đồng - Nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Tháp
70 p | 25 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội nhóm trong việc nâng cao hoạt động địa chỉ tin cậy ở cộng đồng phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
24 p | 32 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn