LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006
lượt xem 61
download
Các phương tiện thông tin đại chúng nói chung, báo chí nói riêng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Báo chí cung cấp thông tin, định hướng, tác động dư luận xã hội. Báo chí cách mạng là “người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể”, là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng Cộng sản. Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới báo chí nước ta đã có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng… ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006
- LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Các phương tiện thông tin đại chúng nói chung, báo chí nói riêng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Báo chí cung cấp thông tin, định hướng, tác động dư luận xã hội. Báo chí cách mạng là “người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể”, là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng Cộng sản. Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới báo chí nước ta đã có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng… Tuy nhiên, báo chí cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm chậm khắc phục như: một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hoá, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính xác, khuynh hướng tư nhân hoá, thương mại hoá báo chí. Năng lực, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí chưa theo kịp bước phát triển nhanh chóng, phức tạp của báo chí, đồng thời công tác quản lí báo chí còn buông lỏng, bị động, xử lí sai phạm thiếu kiên quyết, nể nang, né tránh kéo dài, vai trò trách nhiệm của cơ quan chủ quản báo chí còn thụ động chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực thông tin, văn hoá, để báo chí thực hiện đầy đủ chức năng của mình, phát triển đúng hướng, mạnh mẽ, vững chắc, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lí tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Từ thực tế đó, đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí để báo chí thật sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí, đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Trong quá trình quán triệt, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng đối với công tác báo chí có
- nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ thêm, nhất là nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí trong giai đoạn hiện nay. Với các lý do trên tác giả chọn đề tài: "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006" làm đề tài nghiên cứu chính là nhằm làm sáng tỏ tính khách quan, sự cần thiết và nội dung cơ bản sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các nước XHCN trước đây, nhất là Liên Xô đã xuất bản một số công trình khoa học nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Một số công trình, tài liệu đó đã được dịch và đăng trên sách, báo ở nước ta. Tuy nhiên, các quan điểm trong các tài liệu đó không còn hoặc ít phù hợp với đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn hiện nay. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo công tác báo chí như: Chỉ thị 22-CT/TW ngày 17-10- 1997 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Thông báo kết luận số 162-TB/TW ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị (khoá IX) về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay. Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị (khoá X) về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí. Thông báo kết luận số 68-TB/TW ngày 30-3-2007 của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục thực hiện thông báo số 41-TB/TW, ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá X (8/2007) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới… Trên phương diện quản lý nhà nước, vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí đã được thể chế hoá trong Luật Báo chí, các nghị định, Thông tư... của Chính phủ, của Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) "Quản lý Nhà nước về báo chí qua 8 năm thi hành Luật Báo chí" (Đỗ Quý Doãn - Chuyên san Nhà báo và Công luận, số 4 - 1998). Quyết định số 219/2005/QĐ-TTg ngày 09 tháng 09 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010... Đã có một số bài báo, tạp chí trong nước đề cập ở mức độ khác nhau đến vấn đề này như: "Chung quanh vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí" (Hà Xuân Trường - Báo chí, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia, H. 1997); "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước" (Nguyễn Trọng Phúc - Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1999); "Một số vấn đề về báo chí trong thời kỳ mới", "Tiếp tục phát huy sức mạnh của báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước" (Hữu Thọ - Nghĩ
- về nghề báo, Nxb Giáo dục, H. 1997). Ban Tuyên giáo Trung ương, tháng 6/2007 xuất bản cuốn sách "Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, tạo điều kiện để báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới" (Nxb Lý luận Chính trị, H. 2007);“Những quan điểm hàng đầu đối với công tác báo chí, xuất bản”, (Nguyễn Đức Bình - Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 5, tháng 9, 10/1997); "Khuynh hướng chính trị - tư tưởng trong báo chí" (Tạ Ngọc Tấn - Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 8 - 1996); "Vai trò của báo chí trong hệ thống công tác tư tưởng" (Nguyễn Đức Bình - Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 1 - 1995); "Chung quanh vấn đề đạo đức nghề nghiệp của người làm báo" (Nguyễn Phú Trọng - Tạp chí Cộng sản, số 7 - 1993); "Báo chí với nhiệm vụ tuyên truyền kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội do Đại hội VIII đề ra" (Phạm Quang Nghị - Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 6 - 1996); "Bước phát triển của báo chí trong quá trình đổi mới" (Phạm Quang Nghị - Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 6 - 1997); "Báo chí qua mấy năm đổi mới" (Phan Quang - Theo dòng thời cuộc, Nxb Văn hoá Thông tin, H. 1995); "Báo chí với sự nghiệp đổi mới đất nước" (Ngọc Đản - Nxb Lao động, H. 1995); "Sự nghiệp báo chí của Chủ tịch Hồ Chí Minh" (T.S Nguyễn Thành - Nxb Khoa học xã hội, 1988); "70 năm Đảng lãnh đạo báo chí với những vấn đề nóng hổi tính thời sự" (Tạ Ngọc Tấn - Tạp chí Cộng sản, số 12, tháng 6 - 2000)... Đó là những tài liệu tham khảo rất quan trọng cho luận văn để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn vấn đề rộng lớn và phức tạp này. Tuy nhiên, hầu hết các công trình trên mới chỉ dừng ở mức độ bài báo, tạp chí, đề cập các nguyên lý chung, giải quyết một số khía cạnh của các vấn đề lý luận cơ bản, một vài vấn đề cụ thể của báo chí. Chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, đầy đủ và toàn diện về quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí trong từng thời kỳ và nhất là từ năm 1996 đến nay. Tác giả cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống, tìm hiểu cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động công tác báo chí 10 năm gần đây (1996-2006), đề xuất một số kinh nghiệm bước đầu lãnh đạo công tác báo chí của Đảng nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và những năm tiếp theo. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Luận văn có mục đích nghiên cứu cơ sở khoa học, nội dung, phương thức quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006.
- Qua làm rõ kết quả của quá trình lãnh đạo đó để rút ra những kinh nghiệm bước đầu trong công tác lãnh đạo, quản lý báo chí của Đảng nhằm phát huy vai trò của báo chí trong giai đoạn cách mạng mới. Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm rõ căn cứ khoa học, nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo công tác báo chí. - Khái quát tình hình lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí 10 năm đầu đổi mới và những yêu cầu đặt ra cho sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí từ năm 1996 đến 2006. - Nghiên cứu, phân tích quá trình lãnh đạo của Đảng về công tác báo chí. Trên cơ sở đó đánh giá những thành tựu, hạn chế cần khắc phục và đề xuất một số kinh nghiệm bước đầu của Đảng trong lãnh đạo công tác báo chí nhằm phát huy cao độ vai trò của báo chí trong thời kỳ mới, thực hiện tốt chức năng là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn tin cậy của nhân dân 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: + Các văn kiện của Đảng, các văn bản của Nhà nước, các bài viết, bài nói của lãnh đạo Đảng và Nhà nước về báo chí. + Các công trình nghiên cứu, tổng kết về hoạt động báo chí + Thực tiễn hoạt động báo chí - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: + Báo chí bao gồm nhiều loại hình: Báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử...; có các báo, tạp chí chính trị - xã hội và các báo, tạp chí chuyên ngành; báo của Trung ương, báo của ngành, địa phương. Luận văn không nghiên cứu về hoạt động của báo chí đó + Công tác báo chí cũng có nhiều nội dung như: công tác toà soạn, ban biên tập, công tác phóng viên, công tác phát hành... Luận văn không đi vào công tác báo chí mà chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí. + Thời gian khảo sát từ sau Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đến nay. Đây là thời thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, đồng thời cũng là thời kỳ báo chí nước ta phát triển sôi động về số lượng, nội dung, hình thức... Do đó, rất cần có sự lãnh đạo của Đảng nhằm làm cho báo chí hoạt động đúng hướng, thực hiện tốt chức năng là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn tin cậy của nhân dân.
- 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu luận văn Nguồn tài liệu là các văn kiện của Đảng, các văn bản của Nhà nước, các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh đạo Đảng, Nhà nước về báo chí; kỷ yếu hội thảo khoa học về báo chí... cũng được sử dụng như các tư liệu khoa học của luận văn. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô gíc. Phương pháp lịch sử được sử dụng để làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo báo chí từ năm 1996 đến 2006, phương pháp lôgíc để khái quát kết quả, rút ra kinh nghiệm chủ yếu... Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, khái quát và tổng hợp trong từng chương, mục và toàn bộ luận văn. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn hệ thống hoá quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí 1996 - 2006 làm rõ thêm một lĩnh vực lãnh đạo của Đảng. Luận văn vừa là một chuyên đề Lịch sử Đảng, vừa làm rõ quá trình và nội dung Đảng lãnh đạo báo chí trong một thời kỳ; là một chương về lịch sử báo chí Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm xã hội của báo chí và nhà báo, đặc biệt nêu rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý Nhà nước đối với công tác báo chí trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận văn (khảo sát các văn kiện của Đảng, Nhà nước; các tác phẩm của các lãnh tụ Đảng, Nhà nước... về báo chí trong thời kỳ 1996 - 2006) có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng, lịch sử công tác tư tưởng, lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam. Luận văn có thể cung cấp nguồn tư liệu tham khảo tin cậy cho sinh viên, giáo viên, các nhà báo và người nghiên cứu về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ Đảng và các cơ quan chủ quản báo chí trong quá trình lãnh đạo, quản lý công tác báo chí hiện nay. Luận văn này được thực hiện trong khi toàn Đảng triển khai các Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá X (8/2007), trong đó có Nghị quyết về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí. Vì vậy, luận văn còn góp phần vào công tác nghiên
- cứu, tuyên truyền, giáo dục các nội dung cơ bản của nghị quyết, đưa nghị quyết vào cuộc sống. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
- Chương 1 Báo chí cách mạng Việt Nam và sự lãnh đạo của đảng đối với công tác báo chí 1.1. Một số khái niệm chung 1.1.1. Khái niệm về báo chí * Báo chí: “Báo và tạp chí; xuất bản phẩm định kỳ (nói khái quát)” [92, tr.54], là tên gọi chung đối với các loại hình báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử. “Báo chí nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân” [84, tr.7]. Báo chí được các nhà chuyên môn định nghĩa: là toàn bộ những ấn phẩm có tính chất định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. - Báo in: là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện bằng phương tiện in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn) - Báo nói: là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên sóng phát thanh (chương trình phát thanh). - Báo hình: là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên sóng truyền hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện khác nhau). - Báo điện tử: là tên gọi loại hình báo chí thực hiện trên mạng thông tin máy tính (Internet). - Số phụ: là ấn phẩm phụ định kỳ ngoài số báo chính gồm các loại: tuần, cuối tuần, tháng, cuối tháng. - Phụ trương: là trang tăng thêm ngoài số trang quy định của báo và được phát hành cùng số báo chính. - Đặc san: là ấn phẩm có tính chất báo chí xuất bản không định kỳ tập trung vào một sự kiện, một chủ đề. * Thông tin: là nội dung được thể hiện trên báo chí băng chữ viết, tiếng nói, âm thanh, hình ảnh hoặc đồ hoạ. * Cơ quan chủ quản báo chí: là tổ chức đứng tên xin cấp giấy phép hoạt động báo chí và trực tiếp quản lý cơ quan báo chí. Cơ quan chủ quản báo chí có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây.
- 1- Xác định, chỉ đạo thực hiện tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ và phạm vi phát hành chủ yếu, công suất, thời gian, tần số, phạm vi toả sóng, ngôn ngữ thể hiện được quy định trong giấy phép. 2- Chỉ đạo cơ quan báo chí thực hiện nhiệm vụ, phương hướng và kế hoạch hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí. 3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu cơ quan báo chí trực thuộc sau khi trao đổi ý kiến với cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí. 4- Kiểm tra hoạt động của cơ quan báo chí. 5- Tạo điều kiện cho cơ quan báo chí hoạt động. 6- Chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đối với các sai phạm của cơ quan báo chí trực thuộc[84, tr.14]. * Cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý về báo chí bao gồm: - Cơ quan chỉ đạo về báo chí ở Trung ương là Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương); cơ quan chỉ đạo về báo chí ở địa phương là Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ. - Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở Trung ương là Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông); cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương là Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 1.1.2. Khái niệm về lãnh đạo công tác báo chí * Lãnh đạo: là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện [92, tr.540]. *Lãnh đạo cơ quan báo chí: tổng biên tập, phó tổng biên tập, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc cơ quan báo chí. * Định hướng chính trị, tư tưởng trong nội dung thông tin trên báo chí: là hoạt động của cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí nhằm định hướng, chỉ đạo các cơ quan báo chí thông tin đúng đắn, chính xác, kịp thời các vấn đề chính trị, tư tưởng theo quy định của pháp luật và quy định của Đảng, phù hợp lợi ích của đất nước, của Đảng. * Quan điểm chỉ đạo của Đảng - Quan điểm: là điểm xuất phát quy định phương hướng suy nghĩ, cách xem xét và hiểu các hiện tượng, các vấn đề; là cách nhìn, cách suy nghĩ; ý kiến. - Chỉ đạo: Hướng dẫn cụ thể, theo một đường lối, chủ trương nhất định.
- Như vậy, các quan điểm chỉ đạo của Đảng về báo chí là cách nhìn, cách nghĩ có tính chất xuất phát điểm của Đảng về lĩnh vực báo chí, nhằm để hướng dẫn cụ thể công tác báo chí theo đường lối, chủ trương của Đảng trong từng thời kỳ. - Nội dung chỉ đạo: bao gồm chỉ đạo nhận thức, tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Về nhận thức, Đảng chỉ đạo các cấp uỷ, cán bộ, phóng viên và nhân dân nhận thức đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng, chức năng, nhiệm vụ của báo chí. Về tư tưởng, Đảng chỉ đạo thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân, quán triệt sâu sắc trong tất cả các hoạt động của báo chí cách mạng và nguyên tắc Đảng trực tiếp lãnh đạo báo chí. Về hoạt động thực tiễn, Đảng giao nhiệm vụ cho các cấp uỷ, các cơ quan chủ báo chí, cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí thực hiện và kiểm tra việc thực hiện sự chỉ đạo của Đảng đối với báo chí ở những định hướng cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể. * Phương thức lãnh đạo của Đảng Xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ cụ thể của Đảng và căn cứ vào bối cảnh trong nước và quốc tế, Đảng ta luôn có những phương thức lãnh đạo báo chí phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ đó. Phương thức là phương pháp và hình thức tiến hành; còn phương pháp là cách thức tiến hành công việc, hoạt động của con người và tổ chức do con người lập ra nhằm đạt hiệu quả cao. Khi điều kiện vật chất, bao gồm cả vật chất dưới dạng xã hội, hạ tầng cơ sở có sự thay đổi, thì phương thức tiến hành cũng có sự thay đổi. Với ý nghĩa đó phương thức lãnh đạo của Đảng là phương pháp và hình thức tiến hành lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng phụ thuộc trước hết vào vị trí của Đảng trong xã hội. Đồng thời luôn phát triển theo sự phát triển của hệ thống chính trị, sự tr ưởng thành của đội ngũ cán bộ trong mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể. Cùng với công tác tổ chức và cán bộ, phương thức lãnh đạo của Đảng hợp thành nội dung chủ yếu của công tác xây dựng Đảng. * Đảng lãnh đạo công tác báo chí Đảng lãnh đạo công tác báo chí là trực tiếp và toàn diện. Nhưng khái quát lại gồm ba nội dung cơ bản là các hoạt động vạch ra chiến lược phát triển và định hướng thông tin, tuyên truyền; công tác tổ chức cán bộ; hoạt động kiểm tra, uốn nắn kịp thời những sai lầm, lệch lạc.
- 1.2. Sự lãnh đạo của đảng đối với công tác báo chí 1.2.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là tất yếu khách quan Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí cách mạng, trước hết xuất phát từ vai trò của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng. Báo chí ra đời trước khi Đảng Cộng sản ra đời. Khi chuẩn bị thành lập Đảng, những nhóm cách mạng thường lập ra tờ báo để tuyên truyền chủ trương cách mạng của mình và tập hợp lực lượng dẫn đến sự ra đời của Đảng như: tờ báo Tia lửa ra đời 1902, đã tập hợp lực lượng để ra đời Đảng Xã hội Dân chủ Nga 1903. Tờ báo Thanh niên ra đời 6/1925 để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 2/1930. Sau khi Đảng Cộng sản ra đời, đã củng cố tờ báo vì đó là tiếng nói của Đảng, là sợi dây liên hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và là vũ khí đấu tranh đầu tiên của giai cấp vô sản trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, đối với mỗi Đảng vô sản thì việc lập ra tờ báo hàng ngày là mốc quan trọng đầu tiên để tiến lên phía trước. Từ trận địa ban đầu đó, Đảng sẽ tiến hành cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản. Là người sáng lập học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác và ăngghen cũng đã vạch ra quan hệ của báo chí với chính trị là sự gắn bó của báo chí với đường lối chính trị và tổ chức của Đảng vô sản. Báo chí cách mạng dứt khoát phải trung thành và thể hiện đường lối, quan điểm của Đảng, góp phần thực hiện có hiệu quả đường lối, quan điểm đó trong thực tiến cuộc sống, tư tưởng của Đảng thông qua báo chí biến thành tư tưởng của quần chúng. Theo Mác và Ăng-ghen “Nhiệm vụ của báo Đảng là gì? Trước tiên là tiến hành những cuộc thảo luận, chứng minh, phát triển và bảo vệ những đòi hỏi của Đảng, bác bỏ và lật đổ những tham vọng và những luận điểm của phe thù địch” [66, tr.77]. Báo chí phải làm sáng tỏ nguyên nhân sự áp bức của giai cấp t ư sản với giai cấp vô sản; Đảng phải tiến hành các phương pháp cách mạng như thế nào và Đảng phải liên hợp với các tổ chức khác ra sao trong cuộc đấu tranh đó? v.v.. Báo chí phải “sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ với nhân dân niềm hy vọng và sự lo lắng của họ, tình yêu và lòng c ăm thù của họ, niềm vui và nỗi buồn của họ” [65, tr.223]. Báo chí cách mạng phải hiểu sâu sắc cuộc sống của nhân dân, thể hiện đúng “những tư tưởng và tình cảm hàng ngày của nhân dân đang suy nghĩ thật sự theo cách của nhân dân” [65, tr.223].
- C. Mác đã phân tích bản chất của tự do báo chí thể hiện ở sự “dũng cảm, có lý tính, có đạo đức của tự do” [64, tr.79]; “nhưng bản thân tự do báo chí không bao giờ là sự hoàn thiện” [65, tr.56], “nếu tự do báo chí là tất cả sẽ làm cho tất cả những chức năng còn lại của nhân dân, thậm chí cả bản thân nhân dân nữa, sẽ trở nên thừa” [65, tr.56]. V.I. Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng đó của Mác-ăngghen. Người chỉ rõ: Điểm xuất phát của hoạt động, bước thực tiễn đầu tiên để tiến tới thành lập cái tổ chức mong muốn, và cuối cùng sợi dây chính mà nếu nắm được nó thì chúng ta sẽ có thể không ngừng phát triển, củng cố và mở rộng tổ chức ấy, phải là việc thành lập tờ báo chính trị toàn Nga. Chúng ta cần trước hết là tờ báo, không có nó thì không thể tiến hành được một cách có hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức có nguyên tắc và toàn diện [53, tr.10]. Báo chí góp phần thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, phương pháp hành động, thức tỉnh quần chúng nhằm đạt được mục đích, khắc phục những thiếu sót trong hoạt động của người cộng sản. V.I.Lênin cho rằng, tờ báo không chỉ có vai trò phổ biến tư tưởng, giáo dục chính trị, mà còn thu hút các đồng minh; tờ báo “không những là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể” [54, tr.210]. Đọc, phát hành rộng rãi các tờ báo cách mạng tức là đã ủng hộ cách mạng, tiếp thu tư tưởng của Đảng. Báo chí cách mạng càng phát hành rộng rãi càng chứng tỏ khả năng của một người tổ chức tập thể. Theo V.I.Lênin, muốn xây dựng các tổ chức chính trị mạnh mẽ thì không có phương tiện nào khác hơn là một tờ báo cho toàn nước Nga. Tờ báo là diễn đàn tư tưởng, dựa vào nó phong trào cách mạng không ngừng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Tờ báo “giống như bộ phận của cái bể khổng lồ thổi một tia lửa của cuộc đấu tranh giai cấp và của sự phẫn nộ trong nhân dân bùng lên thành một đám cháy chung” [54, tr.218]. Vai trò tổ chức của tờ báo không chỉ thể hiện tư tưởng chỉ đạo và các phương pháp tổ chức, mà ngay việc phát hành báo cũng là cơ sở tạo ra mối liên hệ giữa các địa phương, từ đó thúc đẩy công tác tổ chức của Đảng đạt tới quy mô ngày càng rộng lớn hơn, từ thành thị tới các vùng nông thôn. Trong điều kiện chưa có chính quyền, sự thống nhất trong Đảng và trong các tổ chức cách mạng về chính trị, tư tưởng và tổ chức giữ vai trò vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định đối với công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo của Đảng với phong trào cách mạng. Báo chí “là người lãnh đạo tư tưởng của Đảng, phát triển các chân lý về lý luận, các nguyên lý về sách lược các tư tưởng tổ chức chung, những nhiệm vụ chung của toàn Đảng trong một thời kỳ này hay một thời kỳ khác” [55, tr.8].
- V.I.Lênin cho rằng, trong thời kỳ đầu, báo chí là một cơ quan lãnh đạo, thậm chí là cơ quan lãnh đạo thứ nhất, cùng với Ban chấp hành trung ương - cơ quan lãnh đạo thứ hai, trong đó, “cơ quan thứ nhất phải lãnh đạo tư tưởng” [55, tr.8]. Sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, bắt đầu từ cơ quan báo chí của Đảng là điều kiện đầu tiên tiến tới thống nhất về mặt tổ chức. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, đối mặt với mạng lưới báo chí tư sản, báo chí vô sản không chỉ làm nhiệm vụ thông tin các sự kiện, mà qua đó hướng dẫn quần chúng tạo nên sự kiện có lợi cho cách mạng. Từ thông tin qua báo chí mà đoàn kết mọi lực lượng. Báo chí vô sản vừa truyền bá, vừa góp phần xây dựng và củng cố hệ t ư tưởng Mác-Lênin làm cho hệ tư tưởng đó giữ vai trò chủ đạo trong xã hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vai trò của báo chí tiếp tục tăng lên theo tiến trình phát triển của cách mạng. Báo chí vẫn tiếp tục thực hiện các chức năng tuyên truyền, cổ động và tổ chức, là vũ khí tư tưởng mạnh mẽ nhất của Đảng. Dù nội dung phản ánh, đối tượng tuyên truyền của báo chí có sự thay đổi nhưng báo chí phải trở thành cơ quan giáo dục chính trị và kinh tế cho quần chúng, là người tuyên truyền cái mới, tiên tiến nảy sinh từ sự sáng tạo của quần chúng. Phải làm công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo chí phải giới thiệu hết sức tỉ mỉ những thành công của công tác xã hội kiểu mẫu; phải nghiên cứu những nguyên nhân thành công, những phương pháp làm việc và quản lý của các công xã đó; mặt khác, báo chí đưa lên “bảng đen” những công xã nào cứ khư khư những “truyền thống của chủ nghĩa tư bản”, nghĩa là những truyền thống vô chính phủ, lười biếng, vô trật tự, đầu cơ…[59, tr.234]. Mỗi khi nhiệm vụ chính trị của cách mạng thay đổi, báo chí cũng phải thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ mới của cách mạng. Báo chí không chỉ dừng ở các vấn đề chính trị chung mà phải nói nhiều đến xây dựng đời sống mới, đến những sự việc luôn xảy ra trong lĩnh vực đó. Khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào xây dựng xã hội mới thì báo chí “có thể và cần phải nói rất ngắn gọn” [60, tr.107]. Từ vai trò của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng, chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: Đảng phải lãnh đạo báo chí; đó là nguyên tắc và gắn liền với tính đảng của báo chí cách mạng. Tính đảng của báo chí cách mạng do mục đích, chức năng và vai trò của báo chí cách mạng quy định. Tính đảng đòi hỏi báo chí cách mạng phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, xây dựng con người mới, văn hoá mới và phải đấu tranh kiên quyết chống các
- tư tưởng thù địch, phản động, đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Tính đảng của báo chí cách mạng thể hiện trước hết ở sự nghiệp báo chí phải là một bộ phận trong sự nghiệp của giai cấp vô sản, do đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo; bên cạnh đó, sự nghiệp báo chí phải thành một bộ phận khăng khít của công tác tổ chức, có kế hoạch thống nhất của Đảng, gắn bó mật thiết với công tác khác do Đảng lãnh đạo; mặt khác, các nhà báo nhất thiết phải tham gia các tổ chức của Đảng và do Đảng lãnh đạo. Báo chí phải trở thành các cơ quan của các tổ chức của Đảng. Các nhà văn nhất thiết phải tham gia các tổ chức của Đảng. Các nhà xuất bản và các kho sách, các hiệu sách và các phòng đọc sách, các thư viện và các nơi bán sách báo, tất cả những cái đó đều phải thành của Đảng, chịu trách nhiệm trước Đảng [58, tr.123 - 124]. Báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị của giai cấp vô sản, luôn gắn với tổ chức của Đảng. Báo chí cách mạng không bao giờ và không thể là phương tiện trong tay một cá nhân hoặc một nhóm người. Nó “không thể là sự nghiệp cá nhân độc lập với sự nghiệp chung của giai cấp vô sản”, nó “phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể giai cấp vô sản” [58, tr.123]. Theo V.I.Lênin: Mỗi cá nhân có quyền tự do viết và nói tất cả những gì họ muốn, không có một chút hạn chế nào. Nhưng mỗi đoàn thể tự do (trong số đó kể cả Đảng) cũng được tự do đuổi những phần tử lợi dụng chiêu bài Đảng để tuyên truyền quan điểm chống Đảng… Đảng là một khối tự nguyện, nếu như nó không tẩy sạch khỏi bản thân nó những đảng viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng, thì nó không thể tránh khỏi tan rã, trước tiêu tan rã vê tư tưởng, sau sẽ tan rã cả về vật chất [58, tr.125]. Trong xã hội có giai cấp, Lênin khẳng định, không thể có thứ tự do tuyệt đối như giai cấp tư sản thường rêu rao hòng lừa bịp quần chúng. Vấn đề đặt ra là: “Hãy xem đó là thứ tự do báo chí nào? để làm gì? cho giai cấp nào?” [63, tr.96]. Về cái gọi là tự do báo chí tư sản, Lênin vạch rõ: Trong các nước tư bản, tự do báo chí là tự do mua chuộc các nhà báo để tạo “dư luận” có lợi cho giai cấp tư sản. Trong điều kiện có chính quyền, nếu tự do báo chí không xuất phát từ tính Đảng Cộng sản thì chỉ đưa đến các hệ quả là “tăng cường lực lượng của giai cấp tư sản thế giới”, không những không giúp loại trừ
- khỏi Đảng các nhược điểm, các sai lầm, các tai hoạ, các bệnh tật; trái lại, “trở thành một vũ khí trong tay giai cấp tư sản” [63, tr.98]. Tính nhân dân của báo chí cách mạng biểu hiện ở mối liên hệ giữa báo chí với đông đảo tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động - người sáng tạo chân chính của lịch sử. Báo chí phải phản ánh, đánh giá các hiện tượng và sự kiện của đời sống theo lập trường của nhân dân lao động, đại diện và bảo vệ cho quyền lợi của nhân dân, trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân vì sự công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tính nhân dân không hề mâu thuẫn mà thống nhất với tính đảng của báo chí. Trong hoạt động báo chí, những tác phẩm thông tin, lý giải các sự kiện nóng hổi, những vấn đề sát sườn đặt ra từ đời sống dưới ánh sáng đường lối, quan điểm của Đảng vô sản, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân trở thành những tác phẩm gây được tiếng vang lớn, có hiệu quả cao, được đông đảo quần chúng lao động đồng tình. Tính nhân dân, tính đại chúng và bản chất dân chủ của báo chí thể hiện ở sự tham gia tích cực và thường xuyên của đông đảo nhân dân vào các hoạt động báo chí. Lênin quan niệm rằng: một tờ báo sống được và trở nên sinh động khi nó có chừng năm người viết và người biên tập chuyên nghiệp giỏi, nhưng đồng thời phải có năm trăm, thậm chí năm nghìn cộng tác viên không chuyên nghiệp. Chính sự tham gia đó của quần chúng nhân dân làm cho báo chí thực sự trở thành diễn đàn dân chủ để người dân phát biểu những tâm tư, nguyện vọng, cung cấp các sáng kiến, thực hành quyền dân chủ. Mặt khác, sự tham gia của quần chúng làm cho thông tin báo chí sinh động hơn, kịp thời và sát với cuộc sống hơn. Tính nhân dân còn thể hiện ở nghệ thuật biểu hiện của báo chí: báo chí cách mạng phải phù hợp với trình độ hiểu biết của quảng đại quần chúng nhân dân. Lênin coi việc biết viết, biết nói một cách giản dị, sáng sủa bằng ngôn ngữ của nhân dân, bỏ đi kiểu “thuật ngữ uyên thâm thời thượng”, những từ nước ngoài mà quần chúng không hiểu, những khẩu hiệu rỗng tuếch và xa lạ với quần chúng là đòi hỏi nghiêm ngặt đối với báo chí cách mạng. Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về báo chí vô sản, Hồ Chí Minh đã sáng lập ra báo chí cách mạng Việt Nam. Từ tờ báo đầu tiên - báo “Thanh niên” - Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho sự ra đời nền báo chí cách mạng Việt Nam và giúp báo chí cách mạng Việt Nam thể hiện đầy đủ các vai trò là người tuyên truyền, người cổ động tập thể và người tổ chức tập thể với tính thần chiến đấu rất cao.
- Người coi báo chí là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc bén trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân. Người làm báo là để làm cách mạng và để làm cách mạng Người đã trở thành một nhà báo. Theo Người, báo chí chúng ta chỉ có một đề tài xuyên suốt là: “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” [74, tr.419]. Ngoài ra, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Báo chí của ta thì cần phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hoà bình thế giới”. Do đó, báo chí của ta phải có đường lối chính trị đúng, vì có đường lối chính trị đúng thì các nội dung và hình thức thể hiện của báo chí mới đúng được. Trên cơ sở đường lối chính trị đúng, báo chí phải đi tiên phong trong đấu tranh không khoan nhượng với những gì đi ngược lại quy luật của lịch sử, vạch trần tính chất phản động, giả dối, bịp bợm của kẻ thù của dân tộc. “Đối với những người viết báo chúng ta, cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng” [76, tr.444]. Tính chiến đấu không chỉ nhằm tiến công vào kẻ thù của cách mạng, mà còn biểu dương những tấm gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao động để cổ vũ mọi người hăng hái tham gia cách mạng. Người đề nghị báo có mục “ý kiến bạn đọc”, coi ý kiến bạn đọc là những ý kiến đấu tranh. Cái mới đấu tranh với cái cũ, cái tốt đấu tranh với cái không tốt. Trong biểu dương, phải rút ra được kinh nghiệm có ý nghĩa phổ biến, phê bình phải cụ thể rõ ràng. Phê bình và tự phê bình là biện pháp tăng cường tính chiến đấu, vì “phê bình và tự phê bình là vũ khí rất cần thiết và rất sắc bén, giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm. Vì khéo lợi dụng nó mà Đảng ta và nhân dân ta ngày càng tiến bộ, đối với báo chí cũng vậy” [75, tr.614]. Khi có đường lối chính trị đúng, người làm báo là người thực hiện và là nhân tố chính đảm bảo tính chiến đấu của báo chí, vì “nói đến báo chí trước hết phải nói đến những người làm báo chí”[74, tr.412]. Đối với người làm báo cách mạng, “cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”, do đó họ là “chiến sĩ cách mạng” [75, tr.616]. Hồ Chí Minh đòi hỏi những người làm báo phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, trau dồi tư tưởng, học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động, phải luôn nâng cao trình độ văn hoá, rèn giũa nghiệp vụ, mài sắc ngòi bút của mình trong sự nghiệp cách mạng.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở những người làm báo, khi viết phải trả lời rõ: “Viết cho ai xem ? Viết để làm gì ?”[72, tr.545]; “Vì ai mà viết ? Mục đích viết làm gì ?”[70, tr.443]. Những câu hỏi Người đặt ra chính là đòi hỏi báo chí phải xác định rõ đối tượng tiếp nhận thông tin. Việc xác định đó nhằm hình thành phương pháp sáng tạo phù hợp cho nhà báo. Người chỉ rõ: “đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng”[70, tr.443]. Vì vậy, cách viết bài báo phải đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ phải trong sáng, tránh dùng từ nước ngoài… Việc xác định đúng đối tượng phục vụ của báo chí cũng có nghĩa là nhà báo phải biết chọn lựa những nội dung gì nên viết, cái gì không nên viết. Viết “phục vụ nhân dân” thì nhất định phải chọn cái gì có lợi cho dân và phục vụ cách mạng . Mặt khác, viết “phục vụ nhân dân” thì phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến nhân dân và học tập nhân dân. Đó là một tiền đề để thành công, bởi không riêng gì viết sách, viết báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân”[73, tr.661]. Báo chí vì cách mạng, vì nhân dân - đó vừa là mục đích, vừa là điều kiện, vừa là tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động báo chí; đó cũng là tính đảng của báo chí, là biểu hiện sự trung thành của báo chí đối với Đảng, là cống hiến của báo chí vào sự nghiệp vĩ đại của Đảng. Về phần mình, hướng dẫn để báo chí và đội ngũ các nhà báo thực hiện đắc lực cho cách mạng, phục vụ tốt nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân tức là Đảng đã làm tốt vai trò lãnh đạo báo chí. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Báo chí phục vụ ai ? Đằng sau lời chỉ dẫn của Người: báo chí của ta phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ cho đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho hoà bình thế giới là nguyên tắc: Đảng phải lãnh đạo báo chí. Đảng lãnh đạo báo chí, theo Người, quan trọng nhất là Đảng phải làm cho tất cả những người làm báo có “lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được”[72, tr.414]. Muốn có đóng góp tích cực nhất vào công cuộc phấn đấu của toàn dân tộc cho mục tiêu cao cả đó, báo chí phải tự giác phục tùng và tranh thủ tối đa sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó đảm bảo cho báo chí hoàn thành sứ mệnh của mình và bản thân Đảng càng trưởng thành hơn trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Báo chí chỉ đúng về chính trị khi nó được lãnh đạo của một đảng, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, một đảng mang bản chất của giai cấp công nhân và gắn bó mật thiết với dân tộc, với nhân dân.
- Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn đặt báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng và coi báo chí là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH. Ngay từ buổi đầu, Đảng ta đã nhận thức đúng đắn về vai trò của báo chí trong việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, báo chí luôn là thứ vũ khí, phương tiện vô cùng lợi hại trong việc truyền bá tư tưởng, tập hợp lực lượng, động viên, cổ vũ nhân dân tham gia đấu tranh cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930, Đảng ta đã nhận định: “Bây giờ phong trào cộng sản trong Đông Dương đã bắt đầu bành trướng, nhưng mục đích của Đảng chưa phổ thông trong quảng đại quần chúng, Đảng phải làm cho ngày càng đông đảo quần chúng biết mục đích của Đảng”[39, tr.127]. Phong trào xuất bản và lưu hành báo chí công khai thời kỳ 1936-1939 đã tổ chức được mặt trận đấu tranh công khai và rộng lớn trên lĩnh vực báo chí là một thắng lợi lớn của Đảng. Đặc biệt, sau Đề cương văn hoá năm 1943, Đảng luôn coi báo chí là phương tiện tiến hành công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, vũ khí sắc bén trong đấu tranh giải phóng dân tộc và góp phần to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975). Bước vào thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta càng nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của báo chí. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), xác định: Sách, báo là công cụ rất quan trọng trên mặt trận tư tưởng, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Do đó cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí và xuất bản. Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư (BBT) khoá VII về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí xuất bản nhấn mạnh: “Báo chí, xuất bản dù là cơ quan của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể quần chúng hay của tổ chức xã hội đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động theo pháp luật”[32, tr.2]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí mới có thể làm tròn trách nhiệm làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đồng thời báo chí thực hiện được vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân. Do vậy, báo chí phải hoạt động theo định hướng của Đảng, tham gia tích cực vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng và mục
- tiêu phấn đấu của Đảng, của nhân dân ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, báo chí là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hoá, là công cụ thông tin nhanh nhất, phổ cập nhất, là phương tiện thường xuyên tiếp xúc với nhân dân và giải đáp những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra, đấu tranh hàng ngày, hàng giờ chống những âm mưu, thủ đoạn đen tối của các thế lực thù địch, chống các khuynh hướng tư tưởng sai lầm, góp phần tổ chức, phát động phong trào hành động cách mạng của nhân dân. Đây vừa là vinh dự, vừa là trách nhiệm của báo chí. Để xứng đáng với vinh dự và làm tròn trách nhiệm đó, báo chí phải hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích của mình, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hoạt động báo chí phải hướng vào mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, từng bước xây dựng con người mới, lối sống mới, làm cho những nguyên lý cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Chỉ có hoàn thành chức năng trên, báo chí mới thật sự xứng đáng là đội quân xung kích trên mặt trận tư tưởng và văn hoá, là chỗ dựa tin cậy của Đảng và của nhân dân. Kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là đòi hỏi khách quan: Một là, từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Báo chí là vũ khí, phương tiện vô cùng lợi hại trong việc truyền bá tư tưởng, tập hợp lực lượng, động viên, cổ vũ nhân dân tham gia đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam có vai trò cực kỳ to lớn của công tác tư tưởng của Đảng, trong đó báo chí là một công cụ sắc bén, hữu hiệu. Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đạt được mục tiêu đó, công tác tư tưởng phải đi trước một bước, trong đó báo chí giữ vai trò xung kích. Báo chí phải góp phần đắc lực vào việc làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của cả xã hội; báo chí phải tích cực tham gia vào tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tin vào đường lối đổi mới, tin vào sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo báo chí là điều kiện quan trọng để báo chí
- khơi dậy được nhiệt tình cách mạng, sức sáng tạo và tiềm năng trí tuệ to lớn của nhân dân, tổng kết các kinh nghiệm phong phú, sinh động từ thực tiễn để góp phần hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng. Sự nghiệp đổi mới chỉ đạt được thắng lợi khi đông đảo quần chúng nhân dân giác ngộ và nhận thức đầy đủ đường lối của Đảng; sự huy động và tổ chức chặt chẽ các phong trào cách mạng phụ thuộc rất nhiều vào công tác tư tưởng của Đảng, trong đó báo chí giữ vai trò quan trọng. Đảng lãnh đạo báo chí chính là để phát huy vai trò đắc lực của một công cụ tư tưởng trong sự nghiệp cách mạng do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Cách mạng nước ta đang đứng trước cả những thời cơ và thách thức to lớn. Bốn nguy cơ đã được Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (1/1994), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định không những không giảm đi, mà có phần gay gắt hơn. Đặc biệt, gần đây các thế lực thù địch ngày một gia tăng thực hiện “diễn biến hoà bình”, hòng phá hoại sự ổn định chính trị, trật tự của xã hội ta, chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH và sự lãnh đạo của Đảng ta. Kinh nghiệm cho thấy, lợi dụng chiêu bài tự do báo chí, các thế lực phản động đã khuyến khích báo chí ở Liên Xô và các nước Đông Âu bắt đầu bằng phê phán lịch sử và phủ nhận hiện tại, tạo ra sự hoài nghi trong ý thức của quần chúng, hậu quả kết cục là chế độ XHCN sụp đổ. Bài học đó cho thấy rõ rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là nguyên tắc, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển xã hội. Hai là, Báo chí có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Nếu như trong quá trình tiến tới thành lập một chính đảng vô sản trước hết phải có một tờ báo, thì trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của Đảng, báo chí có trách nhiệm và có điều kiện góp phần nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và làm cho Đảng luôn trong sạch và vững mạnh. Thông qua việc phản ánh các vấn đề cần giải quyết, các sáng kiến của đảng viên và nhân dân, các kết quả nghiên cứu lý luận và khoa học xã hội, các kinh nghiệm nước ngoài, báo chí giúp Đảng “phát triển các chân lý về lý luận, các nguyên lý về sách lược, các tư tưởng tổ chức chung, những nhiệm vụ chung của toàn Đảng trong một thời kỳ này hay một thời kỳ khác”[55, tr.8]. Tiếp theo, việc phát hành rộng rãi báo chí tạo ra những mối liên hệ thực tế, trực tiếp giữa Đảng với các tầng lớp nhân dân, đảm bảo việc trao đổi ý kiến, kinh nghiệm giữa các tổ chức đảng và đảng viên. Chung quanh tờ báo sẽ là “một đạo
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên trong tình hình hiện nay
101 p | 767 | 192
-
LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối đối ngoại trong những năm đổi mới từ 1991 đến 2001
137 p | 483 | 118
-
LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới
148 p | 323 | 105
-
LUẬN VĂN:Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối đối
144 p | 194 | 53
-
LUẬN VĂN:Đảng Cộng sản Việt Nam lónh đạo cải cách nền hành chính nhà
126 p | 197 | 42
-
Luận văn Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển khoa học và công nghệ từ năm 1996 đến năm 2006
112 p | 137 | 22
-
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
35 p | 68 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1986 đến năm 2006
127 p | 65 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và sự vận dụng của tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay
250 p | 92 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1965 đến 1975
176 p | 18 | 12
-
Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục: Vận dụng phương pháp sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên các trường đại học Y tế khu vực phía Bắc
277 p | 15 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên - Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
217 p | 16 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa truyền thông của các tạp chí điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
200 p | 15 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên - Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
22 p | 10 | 5
-
Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Xây dựng Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay
27 p | 53 | 4
-
Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Lịch sử: Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016
27 p | 62 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1965 đến 1975
27 p | 6 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn