Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1986 đến năm 2006
lượt xem 17
download
Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên trong 20 năm đầu của thời kỳ đổi mới. Rút ra một số kinh nghiệm lịch sử có ý nghĩa tham khảo đối với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1986 đến năm 2006
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --------------- NGÔ THỊ KHÁNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2006 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số : 60 22 56 Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH XUÂN LÝ HÀ NỘI - 2007
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò, khả năng cách mạng to lớn của thanh niên. Người khẳng định: thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Trước lúc ra đi, Người còn dặn lại trong Di chúc rằng: bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần thiết. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định thanh niên là đội dự bị tin cậy của Đảng, là lực lượng nòng cốt xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, Đảng luôn coi công tác thanh niên là bộ phận không thể tách rời công tác xây dựng Đảng, coi việc xây dựng tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản cũng quan trọng như xây dựng tổ chức Đảng. Vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” 18, tr.82. Sự quan tâm của Đảng đối với thế hệ trẻ được thể hiện trong các chủ trương, chính sách đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ thanh niên làm cho lực lượng này trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) nêu rõ nhiệm vụ: “đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề 1
- nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 27, tr.126. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào thanh niên đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn của thời kỳ đổi mới. Hiện nay, đất nước đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, có nhiều yếu tố trong nước và quốc tế tác động mạnh mẽ đến thanh niên như: xã hội thông tin, xu thế toàn cầu hoá, giao lưu văn hoá và cùng với các quá trình đó có cả âm mưu “diễn biến hoà bình” của các lực lượng thù địch... Chính vì vậy, những chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng đối với công tác thanh niên có vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong 20 năm đổi mới từ đó rút ra những kinh nghiệm nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả lãnh đạo công tác thanh niên của Đảng trong thời kỳ mới là một việc cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy tôi chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 1986 đến năm 2006” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu Đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên, đã có một số công trình liên quan như: - “Lịch sử Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên Việt Nam (1925 - 1999)”, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2000. Nội dung công trình làm rõ sự ra đời, trưởng thành của Đoàn thanh niên và những đóng góp của thanh niên trong tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. 2
- - “Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, 70 năm xây dựng và trưởng thành”, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2001. Cuốn sách đề cập đến những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về công tác vận động thanh niên, những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và công tác thanh niên; nhiệm vụ của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với việc giáo dục, đoàn kết, tập hợp thanh niên… - Trần Văn Miều, “Phong trào thanh niên với việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ”, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2001. Nội dung đề cập đến việc Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát động phong trào thanh niên và những nhiệm vụ của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. - Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, “Tổng quan tình hình thanh niên công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi” (1997 - 2002). Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2002, đã đề cập đến tình hình thanh niên, các đối tượng thanh niên và công tác Đoàn, phong trào thanh thiếu nhi cả nước nhiệm kỳ 1997 - 2002. Đồng thời đưa ra những dự báo tình hình thanh niên và những giải pháp đẩy mạnh công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên giai đoạn 2002 - 2007… - Nguyễn Hữu Đức chủ biên, “Giáo dục rèn luyện thanh niên theo Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003. Công trình đã làm rõ sự quan tâm của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam với thanh niên và công tác thanh niên trong thời đại Hồ Chí Minh. - Ngoài các công trình đã nêu trên, vào năm 2002, tác giả Tô Thành Phát đã bảo vệ thành công Luận văn thạc sỹ lịch sử, đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới từ 1991 - 2001”. 3
- Nội dung luận văn đã góp phần làm rõ sự lãnh đạo của Đảng về công tác thanh niên và những chương trình hành động của thanh niên từ 1991 đến 2001. Nhìn chung đến nay chưa có công trình nào được công bố nghiên cứu một cách hệ thống về lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên từ năm 1986 đến năm 2006. 4
- 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích nghiên cứu - Góp phần làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên trong 20 năm đầu của thời kỳ đổi mới. - Rút ra một số kinh nghiệm lịch sử có ý nghĩa tham khảo đối với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay. * Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ thực trạng phong trào thanh niên và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đối với công tác thanh niên. - Phân tích hệ thống chủ trương của Đảng về công tác thanh niên từ năm 1986 đến năm 2006. - Trình bày những chương trình hành động và kết quả của phong trào thanh niên cả nước dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. - Rút ra một số kinh nghiệm về lãnh đạo công tác thanh niên. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. * Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác thanh niên và các giải pháp, biện pháp chỉ đạo thực hiện của Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về công tác thanh niên từ năm 1986 đến năm 2006. * Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: chủ yếu nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng và quá trình Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quán triệt chủ trương của Đảng trong chỉ đạo công tác thanh niên; thực tiễn phong trào thanh niên trong thời kỳ đổi mới. 5
- - Về thời gian: luận văn nghiên cứu các vấn đề trên từ năm 1986 đến năm 2006. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, logic, đồng thời kết hợp các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh phù hợp với yêu cầu của từng nội dung của luận văn. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hoá tư liệu lịch sử về quan điểm, chủ trương của Đảng đối với công tác thanh niên và phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ cả nước qua 20 năm đổi mới. - Góp phần làm rõ công tác vận động thanh niên thời kỳ đổi mới. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy môn lịch sử Đảng, lịch sử Đoàn và công tác thanh niên tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam và các cơ sở đào tạo có liên quan đến công tác thanh niên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu thời, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết: Chương 1: Đảng lãnh đạo công tác thanh niên trong 10 năm đầu của sự nghiệp đổi mới (1986 - 1996). Chương 2: Đảng lãnh đạo công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1996 - 2006). Chương 3: Kết quả và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên (1986 - 2006) 6
- Chƣơng 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN TRONG 10 NĂM ĐẦU CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI (1986 - 1996) 1.1. Khái quát phong trào thanh niên trƣớc 1986 1.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên Ngay từ khi vừa mới ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định vai trò, vị trí đặc biệt của thanh niên và Đoàn thanh niên Cộng sản. Quan điểm của Đảng về Đoàn thanh niên Cộng sản là: “một tổ chức của những thanh niên Cộng sản, thừa nhận và thi hành chương trình, điều lệ của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên về đường tổ chức, thanh niên phải có một đoàn thể độc lập, có cơ quan chỉ huy riêng của họ” [25, tr.169] và việc xây dựng Thanh niên Cộng sản Đoàn là một việc cần kíp, quan trọng như là việc Đảng vậy. Đồng thời, Đảng chủ trương “mỗi chi bộ của Đảng phải phụ trách tổ chức ra một chi bộ của Đoàn” [25, tr.171]. Trên cơ sở đó, “các đoàn thể của Cộng sản thanh niên Đoàn sẽ theo chương trình, Điều lệ của Đảng Cộng sản mà làm việc và phải tham gia hết thảy những cuộc tranh đấu, phải hết sức giúp cho Đảng” [25, tr.171]. Những quan điểm cơ bản đầu tiên trên đây của Đảng đã đặt nền móng cho công tác vận động thanh niên ở nước ta, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của phong trào yêu nước trong thanh niên đang phát triển mạnh mẽ và đã thực sự 7
- tạo nên những chuyển biến đối với công tác xây dựng Đoàn thanh niên Cộng sản, tổ chức thanh niên kiểu mới ở nước ta. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, các chủ trương của Đảng về công tác thanh niên đã từng bước được bổ sung cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Dưới ánh sáng các Nghị quyết về công tác thanh niên của Đảng, phong trào thanh niên cả nước phát triển ngày càng vững chắc, tổ chức Đoàn lớn mạnh trong cả nước, góp phần đào tạo, bồi dưỡng nên một thế hệ thanh niên mới đủ năng lực và phẩm chất kế tục một cách trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Đảng và của dân tộc. Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV của Đảng (12/1976) chỉ rõ: phải tích cực đào tạo, bồi dưỡng thanh niên về văn hoá, khoa học và kỹ thuật, về quản lý và nghề nghiệp; quan tâm đến quyền lợi của tuổi trẻ, điều kiện lao động, học tập, hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao… của thanh niên. Chủ trương của Đại hội IV tiếp tục được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982) quán triệt sâu sắc hơn thông qua việc xác định: công tác vận động thanh niên có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề chiến lược của cách mạng, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Những chủ trương trên đây đã thể hiện nhận thức đúng đắn của Đảng về công tác thanh niên khi cách mạng cả nước chuyển sang giai đoạn mới. Ngày 4/7/1985, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 26 - NQ/TW về “Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên”. Nghị quyết nêu rõ: “vận động thanh niên là một nhiệm vụ chính trị rất quan trọng của Đảng, làm tốt công tác thanh niên là bảo đảm sự kế tục và phát triển không ngừng của chế độ ta, bảo đảm hiện tại cũng như tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng”[62, tr.7]. Đồng thời Nghị quyết 8
- cũng chỉ ra rằng, trong thời gian qua, nhiều cấp uỷ Đảng và chính quyền chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng chiến lược của công tác vận động thanh niên cho nên coi thường và buông lỏng công tác này, mất cảnh giác với kẻ thù. Nhiều cán bộ Đảng viên thiếu ý thức trách nhiệm, có thái độ hẹp hòi, không đánh giá đúng bản chất của thanh niên... “Đảng chưa chỉ đạo tốt sự phân công và phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản để chăm sóc và bồi dưỡng thế hệ trẻ, chưa phát huy đầy đủ vai trò chính trị của tổ chức Đoàn” [62, tr.9]. Từ nhận định trên, Nghị quyết 26 của Bộ chính trị đã xác định phương hướng công tác thanh niên là: tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng, nâng cao trách nhiệm của hệ thống chính trị với công tác thanh niên; nâng cao lòng yêu nước và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, bồi dưỡng đạo đức cách mạng; xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và nâng cao thể lực, phát triển khả năng sáng tạo của tuổi trẻ; thông qua lao động, chiến đấu học tập và hoạt động xã hội mà đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ nước ta thành lớp người mới xã hội chủ nghĩa, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc… Đối với việc xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn, Nghị quyết 26 đề ra những giải pháp quan trọng nhằm ngăn chặn sự suy giảm về số lượng, chất lượng Đoàn viên, đó là: Các cấp uỷ Đảng phải trực tiếp chăm lo xây dựng Đoàn, có kế hoạch và biện pháp xây dựng, củng cố Đoàn mà trước hết là chọn thanh niên tiên tiến kết nạp vào Đoàn, tăng nhanh số lượng Đoàn viên, tr.ước hết là ở địa bàn xung yếu; bồi dưỡng Đoàn viên ưu tú để kết nạp vào Đảng; cần tạo dựng đội ngũ cán bộ Đoàn hăng hái, nhiệt tình, nắm bắt được đường lối, chính sách của Đảng, được tuổi trẻ tin yêu, mến phục; Ban tổ chức Đảng các cấp phải có quy hoạch lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo và luân chuyển cán 9
- bộ Đoàn để vừa xây dựng bộ máy của Đoàn vừa tăng cường lực lượng trẻ cho Đảng. Các trường Đảng cần có chương trình giảng dạy về công tác thanh niên và dành một tỷ lệ thích đáng đào tạo cán bộ Đoàn. Xây dựng hệ thống trường Đoàn các cấp, nâng cao chất lượng đào tạo trường Đoàn cao cấp trung ương, trường Đoàn trung cấp ở tỉnh và sơ cấp ở huyện. Nghị quyết 26 yêu cầu xây dựng chế độ và nề nếp lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên, theo đó Đảng đưa công tác thanh niên vào chương trình làm việc thường xuyên của mình; thường vụ cấp uỷ có chế độ định kỳ làm việc với tập thể Ban chấp hành Đoàn, chọn cán bộ tốt, có năng lực được thanh niên quý mến thực sự làm bí thư Đoàn và bồi dưỡng đưa vào cấp uỷ; Đảng viên phải gương mẫu cho thanh niên noi theo, Đảng viên ở độ tuổi thanh niên phải tham gia sinh hoạt Đoàn, làm nhiệm vụ đoàn viên và phải là đoàn viên tiên tiến... Nghị quyết 26 của Bộ chính trị được phổ biến đến các chi bộ Đảng trong cả nước. Đồng thời Ban Bí thư Trung ương Đảng có chỉ thị hướng dẫn thực hiện Nghị quyết. Trong điều kiện đất nước đang khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, Nghị quyết 26 của Bộ chính trị đã từng bước đi vào cuộc sống và giải quyết được một số vấn đề thiết thực cho công tác vận động thanh niên của Đảng. 1.1.2. Thực trạng công tác thanh niên và phong trào thanh niên Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với phong trào tòng quân, giết giặc lập công; tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; đi dân công phục vụ tiền tuyến và phong trào đấu tranh trong vùng địch tạm chiếm... Thanh niên Việt Nam đã góp phần tích cực xây dựng chế độ mới và là lực lượng quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đoàn thanh niên ở Miền Bắc đã tổ chức nhiều hình thức hoạt động, trong đó có các phong trào 10
- “Thanh niên tích cực lao động xã hội chủ nghĩa”, phong trào “Xung phong tình nguyện vƣợt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất” và phong trào “Ba sẵn sàng”. Các phong trào đã thu hút được đông đảo các đối tượng thanh niên tham gia, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Miền Bắc. Cùng thời gian này, tuổi trẻ miền Nam đã tích cực đấu tranh chính trị, diệt ác, phá kìm kẹp, tiến tới động khởi giành quyền làm chủ về tay nhân dân. Thanh niên nông thôn, thanh niên công nhân, đô thị đều tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống Mỹ- Diệm, đặc biệt là cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên có bước phát triển mới. Tiêu biểu thời kỳ này là phong trào “Năm xung phong” của thanh niên Miền Nam đã động viên sức trẻ sẵn sàng xung phong góp phần cùng cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất kỳ tình huống nào với lẽ sống: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1930 - 1975, do điều kiện đất nước còn có chiến tranh, Đoàn thanh niên còn nhiều bất cập trong công tác tổ chức. Giữa tổ chức Đoàn và Liên Đoàn thanh niên Việt Nam (sau này là Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam) thiếu sự gắn bó và phối hợp trong hoạt động; có những thời điểm việc kết nạp đoàn viên có nơi làm ồ ạt, chạy theo số lượng; công tác phát triển đoàn viên và xây dựng Đoàn trong các lực lượng vũ trang và trong công nhân còn chậm, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đoàn chưa được quan tâm đúng mức. Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt nam chuyển sang một giai đoạn mới: cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thế hệ trẻ Việt nam đã phát huy vai trò xung kích cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ. 11
- Trong hai năm 1976 - 1977, công tác Đoàn và phong trào thanh niên đã đạt nhiều thành tích: Phong trào lao động tình nguyện xây dựng Tổ quốc đã phát triển mạnh mẽ. Tại các vùng mới giải phóng, hàng triệu đoàn viên, thanh niên đã xung phong đi xây dựng các vùng kinh tế mới, tham gia tháo dỡ bom, mìn, khai hoang phục hoá, làm thuỷ lợi, tham gia cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, cải tạo nông nghiệp. Phong trào thanh niên xung phong xây dựng khu kinh tế mới đã thu được những thành tích xuất sắc. Chỉ trong năm 1976 đã có 53.700 đoàn viên thanh niên các thành phố, thị xã đã xung phong đi xây dựng các vùng kinh tế mới [54, tr.548]. Phong trào thi đua tiết kiệm, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật được đông đảo thanh niên tham gia sôi nổi. Tại 27 tỉnh, thành Đoàn trực thuộc, Đoàn viên, thanh niên đã phát huy gần 20.000 sáng kiến, trongđó có 6.900 sáng kiến có giá trị đã được áp dụng vào sản xuất [54, tr.549]. Phong trào thi đua quyết thắng trong thanh niên các lực lượng vũ trang được đẩy mạnh, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng quân đội chính quy hiện đại, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng kinh tế. Qua phong trào thi đua, hàng chục nghìn Đoàn viên, thanh niên quân đội đã đạt danh hiệu quyết thắng. Thông qua những phong trào hành động cách mạng, tổ chức Đoàn đã được củng cố. Hệ thống tổ chức Đoàn được xây dựng trong tất cả các tỉnh, thành, quận, huyện và cơ sở. Năm 1976, trên phạm vi cả nước đã phát triển 190.000 đoàn viên mới, đưa số đoàn viên toàn quốc lên 2.884.000 người [54, tr.554]. 12
- Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 25 Ban chấp hành Trung ương Đoàn khoá III (1/1978), thanh niên cả nước đã tích cực tham gia phong trào “Ba xung kích làm chủ tập thể” với nhiệm vụ chính là lao động sản xuất, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc; học tập, rèn luyện và xây dựng cuộc sống mới. Thông qua các phong trào hoạt động, nhiều tập thể và cá nhân thanh niên đã trưởng thành. Được sự chỉ đạo của các cấp bộ Đoàn, chương trình học tập, rèn luyện xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa được triển khai mạnh mẽ. Nhiều địa phương đã tổ chức chương trình giáo dục lý luận cơ bản và tổ chức giáo dục truyền thống cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Thông qua những chương trình giáo dục cơ bản, các hoạt động cụ thể, thiết thực, đặc biệt là “Cuộc hành quân theo bƣớc chân những ngƣời anh hùng” đã nâng cao nhận thức của thanh thiếu niên về truyền thống cách mạng vẻ vang, về lịch sử chiến đấu anh hùng của Đảng và nhân dân ta, bồi dưỡng lòng yêu nước, làm cho tuổi trẻ nhận thức rõ sứ mệnh của mình đối với đất nước. Các phong trào hành động cách mạng được đoàn viên, thanh niên cả nước hăng hái tham gia, góp phần hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế xã hội. Cụ thể là: Thực hiện chương trình “Tuổi trẻ xung kích đẩy mạnh sản xuất lƣơng thực và phát triển nông nghiệp”, thanh niên nông thôn đã tỏ rõ vai trò của mình trên lĩnh vực khoa học kỹ thuật, thực hiện thâm canh tăng năng suất lao động. Các cơ sở Đoàn trong nông nghiệp đã tổ chức hơn 2.700 tổ, ban khoa học kỹ thuật trẻ. Đến giữa năm 1983 đã có 5.537 đội bảo vệ thực vật với 107.186 đoàn viên thanh niên tham gia [54, tr.568]. Đồng thời đoàn viên thanh niên đã hăng hái phấn khởi thực hiện khoán mới và thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng trong nông nghiệp. 13
- Trong lĩnh vực công nghiệp, thanh niên công nhân đã hăng hái thi đua lao động đạt năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều. Phong trào học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật nghiệp vụ, Hội thi tuổi trẻ sáng tạo được mở rộng ra nhiều ngành nghề ở các địa phương. Đặc biệt, hình thức “công trình thanh niên Cộng sản” được mở rộng ngày càng nhiều. Bên cạnh các công trình thanh niên Cộng sản có quy mô toàn quốc, như “công trình thanh niên Cộng sản xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình” và “công trình thanh niên Cộng sản xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại”. Ở các cơ sở cũng phát triển mạnh hình thức công trình thanh niên Cộng sản. Đến cuối 1983, trong 16 tỉnh, thành phố đã có hơn 11.000 công trình thanh niên Cộng sản cấp xí nghiệp [54, tr.570]. Thực hiện chương trình “Tuổi trẻ xung kích trên mặt trận an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc”, phong trào thanh niên có bước phát triển mới với những nội dung và hình thức phong phú. Cả nước đã thành lập 23.000 đội thanh niên xung kích an ninh, đội thanh niên kiểm tra với hơn 584 nghìn đội viên [45, tr.570]. Tóm lại, trong 10 năm (1975 - 1985) mặc dù đất nước phải đương đầu với nhiều khó khăn to lớn, phức tạp, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua các chương trình hành động cách mạng, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và tuổi trẻ Việt Nam đã thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, phẩm chất chính trị cao đẹp, tài năng sáng tạo và nghị lực kiên cường, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao cho, góp phần xứng đáng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên và xây dựng tổ chức Đoàn, Hội ở giai đoạn này cũng còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Một số nơi, công tác thanh niên còn chưa đi sâu vào các đối tượng, các hình thức hoạt động chưa thật phù hợp với các tầng 14
- lớp thanh niên. Các tổ chức Đoàn và Chi hội Liên hiệp thanh niên ở cơ sở phát triển chậm; nội dung và hình thức hoạt động còn lúng túng, nghèo nàn và thiếu hấp dẫn thanh niên; công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ Đoàn, Hội chưa được quan tâm . 1.2. Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đối với thanh niên và chủ trƣơng của Đảng về công tác thanh niên giai đoạn 1986 – 1996 1.2.1. Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đối với thanh niên Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội với một xuất phát điểm rất thấp, từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ nông nghiệp là chủ yếu; hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề trên cả nước còn chưa khắc phục được. Cùng lúc đó, chúng ta mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, vi phạm quy luật khách quan. Trong bối cảnh đó, nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây cấm vận, đồng thời xảy ra hai cuộc chiến tranh biên giới (Tây Nam và phía Bắc). Do đó, nền kinh tế nước ta phát triển chậm, sản xuất trì trệ, nạn thất nghiệp tràn lan, phân phối lưu thông rối ren, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Nhằm khắc phục thực trạng nói trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách lãnh đạo. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội VI đã phân tích sâu sắc những thành tựu và hạn chế trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nghiêm khắc tự phê bình sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước, coi đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. 15
- Đại hội VI khẳng định: thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lâu dài, khó khăn, phải trải qua nhiều chặng đường và nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đại hội đề ra nhiệm vụ chung cho cả chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên do Đại hội đề ra là: “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” [31, tr.376]. Trên cơ sở đó, Đảng đề ra các mục tiêu cụ thể: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực, thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đảng coi đây là nội dung chính của công nghiệp hoá trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, tiếp tục tập trung cho nông nghiệp, phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới; tạo chuyển biến tốt về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, kỷ cương phép nước; đảm bảo nhu cầu quốc phòng và an ninh. Để ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, tạo tiền đề cho chặng đường sau, nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường mới là: giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế xã hội; tạo môi trường quốc tế thuận lợi, phá thế bao vây cấm vận; xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới… Sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu. Đó là: chính trị ổn định, nền kinh tế chuyển 16
- biến tích cực, dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm, từng bước phá thế bao vây cấm vận. Tuy nhiên, đất nước vẫn chưa vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhiều vấn đề kinh tế xã hội nóng bỏng vẫn chưa được giải quyết, công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, tình hình khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô; sự chống phá của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin và Đảng Cộng sản, đã gây nên nhiều khó khăn cho sự nghiệp cách mạng nước ta. Trước thực tế đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) xác định những nhiệm vụ chủ yếu của đất nước là: ổn định và phát triển kinh tế, tập trung mọi nỗ lực giải quyết các vấn đề cấp bách nhất về kinh tế, xã hội, tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế; kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển sự nghiệp khoa học giáo dục, văn hoá nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại và xâm lược của kẻ thù; giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân; đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng… 17
- Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng Việt nam trong thời kỳ mới, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải phát huy tối đa sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó quan tâm chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ là một trong những chiến lược quan trọng. Yêu cầu của sự nghiệp cách mạng đặt ra cho thế hệ trẻ trách nhiệm hết sức nặng nề. Thứ nhất là: phải tích cực rèn luyện phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, trau dồi lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa, tr.ung thành với Đảng, với công cuộc đổi mới và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là một lực lượng to lớn và năng động của xã hội, thanh niên phải phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc, khắc phục khó khăn, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Thứ hai là: với tư cách đội quân xung kích, thế hệ trẻ Việt Nam phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề để trở thành những cán bộ khoa học trình độ cao, những nhà quản lý, kinh doanh giỏi, những người công nhân lành nghề, những người hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao tầm cỡ. Mỗi người phải đặt mục tiêu phấn đấu cho mình, cho gia đình có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ, có đời sống vật chất và tinh thần cao. Mỗi thanh niên dù hoạt động ở lĩnh vực nào cũng cần xác định rõ thái độ và trách nhiệm đúng đắn của mình đối với Tổ quốc. Thứ ba là: trong giai đoạn mới, thanh niên phải tiếp tục rèn luyện sức khoẻ, tr.au dồi học vấn và văn hoá để thật sự trở thành những con người mang cốt cách tâm hồn Việt Nam, mang truyền thống vị tha, nhân ái, yêu nước, thương dân, đồng thời phải vươn lên theo tầm thời đại đủ sức làm chủ xã hội hiện tại và tương lai. 18
- Trong thời kỳ đổi mới, thanh niên cần sẵn sàng nắm bắt thời cơ, vượt qua mọi thách thức đang đặt ra gay gắt với một ý thức chính trị rõ ràng và bằng những hành động cách mạng cụ thể. Để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước, công tác thanh niên phải gắn bó mật thiết với quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng và Nhà nước cần có chính sách đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho thanh niên phấn đấu để hình thành một thế hệ con người mới có lý tưởng cao đẹp, có tri thức, có sức khoẻ, sống có văn hoá và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước. Chính sách đó phải nhằm vừa phát huy tiềm năng và trí sáng tạo của tuổi trẻ, vừa tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để thanh niên cống hiến tốt nhất, nhiều nhất và trưởng thành nhanh nhất. 1.2.2. Chủ trương của Đảng về công tác thanh niên Bước vào thời kỳ đổi mới, để tạo điều kiện cho thanh niên thực hiện tốt vai trò, vị trí là lực lượng xung kích, Đảng ta đề ra chủ trương: thanh niên phải được đảm bảo việc làm, phải được quan tâm giáo dục về nhân cách, bản lĩnh và lý tưởng theo phương châm: “Sống, chiến đấu và học tập theo gƣơng Bác Hồ vĩ đại”. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng yêu cầu các cấp phải nhận thức đầy đủ rằng chính thanh niên là lớp người có sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Mạnh dạn giao trách nhiệm cho thanh niên và thông qua các hoạt động xã hội mà đào tạo và bồi dưỡng họ. Quan điểm này thể hiện niềm tin và sự quan tâm của Đảng với thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước những diễn biễn phức tạp của tình hình thế giới, các thế lực đế quốc và phản động triệt để khai thác những khó khăn của chủ nghĩa xã hội để tăng cường can thiệp, phá hoại, thực hiện “diễn biến hoà bình”, trong đó có việc truyền bá tư tưởng văn hoá, độc hại, tác động tiêu cực đến một bộ phận 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 175 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 199 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 146 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 167 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 197 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 170 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 17 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn