intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:148

324
lượt xem
105
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo chí - xuất bản ở nước ta là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu trong đời sống của xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và là diễn đàn của nhân dân. Báo chí - xuất bản là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong công tác tư tưởng văn hóa của Đảng. Thông qua việc sản xuất, phổ biến những ấn phẩm báo chí - xuất bản, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới

  1. LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới Mở đầu
  2. 1. Tính cấp thiết của đề tài Báo chí - xuất bản ở nước ta là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu trong đời sống của xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và là diễn đàn của nhân dân. Báo chí - xuất bản là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng. Thông qua việc sản xuất, phổ biến những ấn phẩm báo chí - xuất bản, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng đa dạng và phong phú của nhân dân, xây dựng văn hóa đạo đức lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, đấu tranh chống mọi hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, báo chí - xuất bản luôn luôn là công cụ, là vũ khí đấu tranh giai cấp, gắn liền với lợi ích của giai cấp thống trị, được sử dụng để tuyên truyền, vận động xã hội bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị. ở nước ta, Đảng lãnh đạo trực tiếp và toàn diện đối với báo chí - xuất bản là một nguyên tắc bất di bất dịch trong công tác lãnh đạo của Đảng. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản đã được chứng minh qua các thời kỳ lịch sử của cách mạng Việt Nam từ trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành chính quyền về tay nhân dân, qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đến thời kỳ hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và trong công cuộc đổi mới do Đại hội lần thứ VI của Đảng khởi xướng và lãnh đạo, vì mục tiêu "Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh" tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Hơn 20 năm qua báo chí - xuất bản nước ta đã có sự phát triển nhanh về số lượng, quy mô và loại hình, về nội dung và hình thức, về đội ngũ người làm báo chí - xuất bản và bạn đọc, về cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ in ấn, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Tuy nhiên báo chí - xuất bản cũng bộc lộ không ít thiếu sót, khuyết điểm, chất lượng nhiều sản phẩm còn thấp, chưa kịp thời phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống
  3. đặt ra, khuynh hướng tư nhân hóa, thương mại hóa, cho tư nhân núp bóng để ấn hành xuất bản phẩm ngày càng tăng. Một số cơ quan báo chí, xuất bản thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính xác. Công tác chỉ đạo, quản lý báo chí - xuất bản còn nhiều hạn chế... Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí - xuất bản trong thời gian tới. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản để báo chí - xuất bản thực hiện tốt chức n ăng cao cả của mình, thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, là diễn đàn của nhân dân, củng cố vững chắc h ơn những mặt tích cực, nhất là vai trò cung cấp thông tin, định hướng dư luận, nâng cao tri thức, h ướng dẫn thị hiếu, ủng hộ, cổ vũ công cuộc đổi mới, kiên quyết và dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, mất dân chủ và các biểu hiện tiêu cực khác, đồng thời hạn chế khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm mà có mặt, có lúc, có nơi còn trầm trọng, chống xu hướng xa rời tôn chỉ mục đích, tư nhân hóa, thương mại hóa báo chí - xuất bản, xây dựng và phát triển nền báo chí - xuất bản Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Trước yêu cầu của sự nghiệp đ ẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ thì sự lãnh đạo chặt chẽ và thường xuyên đổi mới của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho báo chí - xuất bản tiếp tục phát triển đúng định hướng chính trị tư tưởng của Đảng và Nhà nước, đ ồng thời thực sự là diễn đ àn c ủa nhân dân. Việc nghiên cứu đề tài: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, góp phần vào việc nhận thức rõ hơn những giá trị phổ biến, khách quan về vai trò lãnh đạo, nội dung và phương thức lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay, đánh giá những thành tựu và những hạn chế yếu kém
  4. trong công tác này, đồng thời đề xuất những giải pháp góp phần đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Có thể nhận thấy một số nội dung nghiên cứu có liên quan đến đề tài: Thứ nhất là: Các Văn kiện của Đảng về lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. Ngoài các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về lãnh đạo báo chí - xuất bản như: Chỉ thị 08 CT/TW ngày 31 tháng 3 năm 1992 của Ban Bí thư (khóa VII) Về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí - xuất bản. Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 17 tháng 10 năm 1997 c ủa BCT (khóa VIII) Về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí - xuất bản. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa VIII (1998) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Chỉ thị số 20/CT-TW ngày 27 tháng 01 năm 2003 của Ban Bí thư khóa IX Về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành sách lý luận chính trị trong tình hình mới. Kết luận của Hội nghị lần thứ mười BCHTW Đảng khóa IX ngày 20 tháng 7 năm 2004 Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc" trong những năm sắp tới. Chỉ thị số 42/CT-TW ngày 25 tháng 8 năm 2004 của Ban Bí thư khóa IX Về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản. Thông báo số 162-TB/TW ngày 01 tháng 12 năm 2004 Kết luận của BCT Về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa X (2007) Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới. v.v..
  5. Các Văn kiện của Đảng đã khẳng định vai trò của báo chí - xuất bản trong sự nghiệp đổi mới; đánh giá ưu điểm và khuyết điểm trong hoạt động báo chí - xuất bản thời gian qua và xác định rõ các quan điểm và định hướng lớn trong hoạt động báo chí - xuất bản. Thứ hai là: Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quản lý báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới. Thể chế hóa các quan điểm và định hướng lớn của Đảng về công tác báo chí - xuất bản, Nhà nước đã ban hành các bộ Luật và nghị định, thông tư, hướng dẫn về quản lý báo chí - xuất bản, tiêu biểu là: Luật Báo chí đã được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1989 và Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí ngày 12 tháng 6 năm 1999. Luật Xuất bản được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 7 tháng 7 năm 1993 và Luật Xuất bản được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004 (thay cho Luật Xuất bản công bố năm 1993). Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí. Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản. Thông tư số 30/2006/TT-BVHTT ngày 22 tháng 2 năm 2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thi hành Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26-8-2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản v.v.. Thứ ba là: Các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài giới báo chí - xuất bản, các cơ quan chức năng về báo chí - xuất bản nước ta về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới. Tiêu biểu là Hà Xuân Trường: Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, Tạp chí Cộng sản, số 3-1991; BTT- VHTW: Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác báo chí - xuất bản, Nxb Tư tưởng Văn hóa, Hà Nội, 1992; Vũ Mạnh Chu: Đổi mới hoàn thiện pháp luật xuất bản theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997; Trần Văn Phượng: Vì sự nghiệp xuất bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Tạ
  6. Ngọc Tấn: Báo chí - từ lý luận đến thực tiễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999; Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; 70 năm Đảng lãnh đạo báo chí, những vấn đề nóng hổi tính thời sự, Tạp chí Cộng sản số 6, 2000; Chu Thái Thành: Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm tự do và sức sáng tạo cho đội ngũ nhà báo nước ta, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 6, 1998; Hà Minh Đức (Chủ biên): Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 1997; Vũ Đình Hòe (Chủ biên): Truyền thông đại chúng và công tác lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Văn Dững (Chủ biên): Báo chí, những điểm nhìn từ thực tiễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000; Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang: Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2004; Trần Quang Nhiếp: Định hướng báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Hữu Thọ: Bình luận báo chí thời kỳ đổi mới - một số vấn đề tư tưởng văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000; Nguyễn Viết Chức - Nguyễn Duy Bắc: Thông tin đại chúng và phát triển văn hóa - Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng (dùng cho hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Nguyễn Duy Bắc: Phát triển văn học nghệ thuật và thông tin đại chúng trong công cuộc đổi mới - Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng cho hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Hà Đăng: Nâng cao năng lực và phẩm chất của phóng viên nhà báo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Nguyễn Vũ Tiến: Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2002; Hoàng Yến: Sự phát triển của báo chí và vấn đề quản lý Nhà nước đối với báo chí, Tạp chí Cộng sản, số 5-2003; BTT-VHTW: Tình hình phát triển và quản lý báo chí qua 20 năm đổi mới, Hà Nội, 2004; BTT- VHTW - BVH-TT: Kỷ yếu Hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện Chỉ thị 22 của BCT về báo chí - xuất bản, Hà Nội, 2001; Lê Thanh Bình: Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Đinh Xuân Dũng: Xuất bản trong cuộc hành trình lớn của dân tộc, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 10/2005; Lê Doãn Hợp: Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 6/2007; Trần Đăng Tuấn: Một số vấn đề của lãnh đạo, quản lý báo chí trong tình
  7. hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 6/2007 v.v.. Các công trình nghiên cứu nêu trên từ nhiều cách tiếp cận khác nhau đã khảo sát, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển của báo chí - xuất bản nước ta trong thời kỳ đổi mới, khẳng định những thành tựu và nêu lên những hạn chế, yếu kém của hoạt động báo chí - xuất bản. Các công trình nghiên cứu trên đã khẳng định và kiến nghị cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí - xuất bản trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển văn hóa và con người... hiện nay. Thứ tư là: Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, cử nhân chính trị, cao cấp chính trị... đề cập đến vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí - xuất bản. Tiêu biểu như: Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ lịch sử chuyên ngành xây dựng Đảng của Nguyễn Vũ Tiến, Học viện Chính t rị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003; Các quan điểm chỉ đạo của Đảng về báo chí thời kỳ đổi mới (1986 - 1999), Luận văn thạc sĩ báo chí của Trần Bá Dung, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2000; Vấn đề tự do báo chí và Đảng lãnh đạo báo chí hiện nay, Luận văn thạc sĩ báo chí của Hoàng Tiến Phúc, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2000; Báo chí trong việc thực thi quyền lực chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, Luận văn thạc sĩ báo chí của Trần Hùng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2001; Chính sách quản lý báo chí của Nhà nước Việt Nam từ năm 1996 đến hết năm 2001, Luận văn thạc sĩ báo chí của Chử Kim Hoa, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2003; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với báo chí trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ báo chí của Nhữ Văn Khánh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2004; Hoạt động báo chí trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận văn thạc sĩ văn hóa học của Vũ Đình Thường, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004; Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng của Trương Thị Văn, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2007; Đảng lãnh đạo báo chí trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Luận văn thạc sĩ văn
  8. hóa học của Tô Quang Phán, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008 v.v.. Tác giả của các luận án, luận văn nêu trên đã khảo sát, phân tích những tác động của bối cảnh trong nước và quốc tế đối với sự phát triển của báo chí - xuất bản nước ta, đồng thời khảo sát công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới, từ đó kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với báo chí - xuất bản. * * * Nhìn chung những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nêu trên đã có những đóng góp nhất định đối với khoa học báo chí - xuất bản và công tác tư tưởng lý luận báo chí - xuất bản của Đảng, là cơ sở để chúng tôi kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ dừng lại ở việc xác định yêu cầu cấp thiết về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản; về sự lãnh đ ạo báo chí - xuất bản của Đ ảng trong điều kiện xây dựng kinh tế thị tr ường định hướng xã hội chủ nghĩa; về sự lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đ ảng thời kỳ từ 1986 đến năm 2003-2004... Nhiều vấn đ ề về nội dung lãnh đạo báo chí - xuất bản, phương thức lãnh đạo báo chí - x uất bản; sự lãnh đ ạo của Đảng về báo chí - xuất bản trong bối cảnh t oàn c ầu hóa và cách mạng công nghệ thông tin; sự lãnh đạo của Đ ảng về báo chí - xuất bản thời kỳ nước ta gia nhập Tổ chức Th ương mại thế giới (WTO) và hội nhập quốc tế... ch ưa được đặt ra đúng mức. Th ực trạng công tác xu ất bản và sự lãnh đạo của Đảng về công tác xuất bản trong thời kỳ đ ổi mới từ 1986 đến nay còn chưa được chú ý nghiên cứu thỏa đ áng. Việc thực hiện đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới một mặt kế thừa những thành quả nghiên cứu của những ng ười đi trước mặt khác sẽ tiếp tục phát triển, bổ sung thêm những kết quả nghiên cứu mới về lý luận và thực tiễn tiến trình, nội dung, ph ương thức và bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đ ạo của Đản g đối với báo chí - x uất bản trong thời kỳ đ ổi mới. 3. Mục tiêu của đề tài Việc thực hiện đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới nhằm mục tiêu sau đây:
  9. - Làm rõ sự vận dụng, tiếp thu và phát triển sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta về báo chí - xuất bản và sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản. - Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. - Khẳng định, làm rõ các quan điểm đổi mới về báo chí - xuất bản của Đảng, phân tích những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân và các bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong những năm đổi mới và những vấn đề đặt ra trong công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng ta hiện nay. - Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ mới. 4. Nội dung nghiên cứu Kết quả nghiên cứu của đề tài được thể hiện qua các nội dung chính sau đây: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản và công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng Cộng sản Việt Nam 1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản 1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí - xuất bản 1.3. Về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản Chương 2: Thực trạng công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong thời kỳ đổi mới 2.1. Thực trạng hoạt động báo chí - x uất bản nước ta trong thời kỳ đổi mới 2.2. Những đổi mới trong sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản thời gian qua 2.3. Một số vấn đề đặt ra từ sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản thời gian qua Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới 3.1. Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với hoạt động báo chí - xuất bản nước ta trong giai đoạn mới
  10. 3.2. Phương hướng và các nhiệm vụ chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng về báo chí - xuất bản 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong giai đoạn mới 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối đổi mới báo chí - xuất bản của Đảng và Nhà nước và vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu lý thuyết: Đề tài nghiên cứu các quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí - xuất bản. - Phương pháp phân tích: Được đề tài sử dụng để phân tích thực trạng báo chí - xuất bản, thực trạng công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng trong thời kỳ đổi mới, những thành tựu và hạn chế trong ho ạt động báo chí - xuất bản và công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng ta thời kỳ đổi mới. - Phương pháp thống kê - so sánh: Đề tài sử dụng các số liệu thống kê để hệ thống hóa, khái quát hóa, phân loại, so sánh nhằm đưa ra kết luận về thực trạng lãnh đạo báo chí - xuất bản và giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới. - Phương pháp chuyên gia: Đề tài sẽ tìm kiếm các ý kiến phân tích, đánh giá của các chuyên gia về nội dung nghiên cứu của đề tài thông qua các chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu, các hội thảo và tọa đàm khoa học được tổ chức trong quá trình thực hiện đề tài. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn là: Thứ nhất, đề tài góp phần nâng cao trình độ nghiên cứu, năng lực phân tích và hoạch định chính sách của các cán bộ nghiên cứu và cộng tác viên tham gia đề tài.
  11. Thứ hai, đ ề tài xây dựng đ ược hệ thống lý luận khoa học về nội dung và phương thức lãnh đ ạo báo chí - x uất bản của Đảng trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay; khẳng định, làm rõ các quan đ iểm cơ bản, phê phán các nhận thức lệch lạc, sai trái về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xuất bản; phân tích những tiến bộ và hạn chế, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm trong sự lã nh đạo của Đ ảng đối với báo chí - xuất bản trong những n ăm đổi mới; đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể nhằm t ăng cư ờng sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí - xu ất bản trong thời kỳ mới. Thứ ba, kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí - xuất bản của Đảng và Nhà nước, các nhà quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, các tổ chức và cá nhân hữu quan. Đây cũng là tư liệu tốt cho học viên hệ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chính trị và học viên cao học và n ghiên cứu sinh các chuyên ngành Văn hóa học, Chính trị học, Xây dựng Đảng, Lịch sử Đảng, Báo chí, Xuất bản v.v.. 7. Lực lượng nghiên cứu đề tài a. Cơ quan phối hợp - Viện Lịch sử Đảng - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh. - Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh. - Ban Tuyên giáo Trung ương. b. Cộng tác viên chính 1. PGS, TS. Nguyễn Duy Bắc, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh 2. PGS, TS. Phạm Duy Đức, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh 3. ThS. Vũ Thị Phương Hậu, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh 4. TS. Lê Trung Kiên, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh 5. TS. Nguyễn Thế Kỷ, Ban Tuyên giáo Trung ương 6. ThS. Tô Quang Phán, Báo Lao Động 7. TS. Nguyễn Danh Tiên, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
  12. 8. TS. Nguyễn Vũ Tiến, Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh 9. ThS. Phạm Thị Thúy, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh 8. Sản phẩm của đề tài - Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài: 158 trang - Bản kiến nghị của đề tài: 18 trang - Đĩa CD ghi toàn bộ kết quả nghiên cứu đề tài.
  13. Chương 1 Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản và công tác lãnh đạo báo chí - xuất bản của Đảng Cộng sản Việt Nam 1.1. Một số vấn đề lý luận về báo chí - xuất bản 1.1.1. Về báo chí Báo chí là một trong những sản phẩm phổ biến và tiêu biểu nhất của xã hội công nghiệp, hiện đại. Về lịch sử, nó gắn liền với sinh hoạt, phát triển của nền văn minh phương Tây từ đầu thế kỷ XVII, nhưng từ nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nó mới trở thành một ngành công nghiệp lớn, sức tiêu thụ mở rộng ra toàn xã hội, nhất là ở các nước đã công nghiệp hóa. Đọc báo đã trở thành một thói quen, là một hình thái sinh hoạt văn hóa - xã hội và báo chí là sản phẩm không thể thiếu của một cộng đồng, phần nào là thước đo trình độ phát triển của một quốc gia trong thế giới đương đại. Ba thế kỷ qua, báo chí gần như đã hoàn thiện được việc sản xuất, không ngừng mở rộng số lượng người đọc, nghe, nhìn. Sự phát triển của báo chí gắn liền với những tiến bộ của khoa học - công nghệ (máy in, kỹ thuật truyền tin, ảnh, quang học…), sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, dân tộc;xu thế toàn cầu hóa và đặc biệt là quá trình dân chủ hóa đời sống nhân loại… Báo chí vừa được coi như một sản phẩm của đại công nghiệp lại vừa được coi như một sản phẩm của sự sáng tạo văn hóa. Là sản phẩm của đại công nghiệp, nó phải tuân theo quy luật của sản xuất công nghiệp - kỹ thuật, của kinh tế thị trường, phải chú trọng đến việc cải tiến quản lý xí nghiệp, kỹ thuật giấy, mực, in ấn, nghiên cứu khách hàng và coi trọng việc phát hành nhằm bảo toàn, thu hồi vốn và có lãi. Là sản phẩm của văn hóa, nó chú trọng đến thị hiếu người đọc, đến nội dung và hình thức diễn đạt và trình bày. Chức năng xã hội của báo chí cũng rất đa dạng. Qua việc truyền đạt thông tin, báo chí giúp cho độc giả có vốn tri thức về nhiều mặt; giáo dục công chúng; thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, giao tiếp và giải trí của công chúng; tổ chức thời gian sinh hoạt giúp cho cá nhân hòa nhập hơn vào cộng đồng xã hội và các quốc gia, dân tộc tăng cường giao lưu tiếp xúc với nhau…
  14. Báo chí luôn gắn bó chặt chẽ với đời sống chính trị, văn hóa của quốc gia, dân tộc. Do sự phân cực hiện nay trên thế giới mà lĩnh vực truyền thông đại chúng đã hình thành trật tự không bình đẳng. Nhiều nước phát triển có nền công nghiệp truyền thông mạnh có tham vọng độc quyền thông tin, chiếm lĩnh thị trường văn hóa - thông tin nước khác, nhất là các nước kém phát triển. Vì thế, khi tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, các nước kém phát triển phải có chính sách bảo vệ, củng cố bản sắc văn hóa dân tộc nhằm loại bỏ các yếu tố độc hại, không phù hợp với truyền thống văn hóa và thể chế nhà nước của quốc gia, dân tộc mình. Cuộc đấu tranh của từng nước để bảo vệ độc lập tự chủ, củng cố bản sắc văn hóa dân tộc trở thành vấn đề cấp bách trước sự xâm nhập ồ ạt của các sản phẩm báo chí và truyền thông ngoại lai. Trong từng nước và trong từng doanh nghiệp báo chí, vấn đề trước mắt là làm sao xử lý được khối lượng thông tin đồ sộ từng ngày từng phút đổ dồn đến, nhất là thông tin kinh tế. Vấn đề khác nữa là mối đe dọa của ngành truyền hình đang làm cho người ta ngày càng ngại đọc báo in, nghĩa là "lười" động não. Cuối cùng có thể nhìn mọi sự vật, hiện tượng bằng “đôi mắt” của kẻ khác chứ không phải bằng “đôi mắt” của mình. Báo in nói riêng và các lo ại hình khác thuộc các phương tiện thông tin đại chúng (mass media) nói chung đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội của mỗi đất nước và cộng đồng quốc tế. Sự ra đời báo chí do nhiều nhân tố thúc đẩy như nhu cầu đòi hỏi thông tin trong xã hội, trình độ văn minh của xã hội, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, các yếu tố chính trị - kinh tế… Các nhà nghiên cứu cho rằng: Trong tiến trình lịch sử nhân loại, sự phát triển của báo chí chủ yếu gắn liền với sự phát triển của văn minh phương Tây từ đầu thế kỷ XVII, nhưng báo chí thực sự hoạt động như là một lĩnh vực nghề nghiệp, một ngành mang tính kỹ nghệ được phổ biến đều đặn, rộng rãi trong xã hội, tác động mạnh đến công chúng thì phải tính từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đến nay. Báo chí đơn giản đã xuất hiện ở các nước châu á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản… rất sớm nhưng không phải là báo chí theo cách hiểu ngày nay là phải gắn với máy in, ra định kỳ, phát hành công khai, rộng rãi….
  15. Nhìn chung, báo chí của mỗi quốc gia phát triển theo hướng vừa chịu ảnh hưởng, tác động của dòng chảy báo chí thế giới với những kinh nghiệm bề dày nền văn minh nhân loại, vừa mang những đặc điểm riêng của quốc gia và dân tộc mình. Đồng thời, mỗi cơ quan báo chí nói riêng đều là nơi đại diện, người phát ngôn, phản ánh quyền lợi của một hay một số tổ chức, lực lượng nào đó. Ví dụ: các đảng phái chính trị, các tổ chức kinh tế - xã hội, các hội thương mại, hiệp hội nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, v.v… Báo chí chịu sự chi phối của các nguyên tắc nhất định, gọi là các nguyên tắc báo chí như tính khuynh hướng (tính đảng), tính khách quan (trung thực), tính nhân dân (đại chúng), tính nhân bản, tính dân tộc và tính quốc tế, tính thời đại. Báo chí có các chức năng chính là: chức năng tư tưởng (nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng cho công chúng và cộng đồng; định hướng dư luận xã hội đúng hướng, lành mạnh, hợp quy luật); chức năng giáo dục văn hóa, hình thành nhân cách, truyền bá hệ tư tưởng thống trị và truyền thống văn hóa dân tộc; chức năng quản lý, giám sát xã hội, tổ chức liên kết hành động công chúng rộng rãi, giám sát và phản biện xã hội; chức năng giải trí; chức năng dự báo... Thực tiễn cho thấy: xuất hiện từ thế kỷ XVII, nhưng phải đến giữa thế kỷ XIX, do nhu cầu cung cấp thông tin cho các báo về tin tức thị trường, nhờ có sự phát minh về điện tín cùng các tiến bộ khác về khoa học - công nghệ, các hãng thông tấn chuyên lo thu thập tin tức đã ra đời; hình thức, nội dung báo chí liên tục được hoàn thiện; quảng cáo ngày càng thâm nhập rộng rãi trên các media nói chung và báo chí nói riêng… để đáp ứng nhu cầu cho thị trường thông tin. Có thể nói, thế kỷ XX và XXI là thời đại bùng nổ thông tin, nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển, nhiều loại hình báo chí mới xuất hiện nhưng báo in vẫn có vị trí quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội… Có thể nhận thấy một số xu hướng đang diễn ra đối với hoạt động báo chí hiện nay là: Xu hướng khu vực hóa, địa phương hóa báo ngày, sự nâng cao vị trí báo cuối tuần và báo chủ nhật, đa dạng hóa báo định kỳ; Xu hướng đa phương tiện của báo chí(báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử…) nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú về loại hình, phương tiện và nội dung thông tin của công chúng; Xu hướng đa dạng hóa thông tin đồng thời với sự chuyên biệt hóa đối tượng. Sự mở rộng các quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao..., kéo theo việc mở rộng
  16. khai thác, trao đổi thông tin ở tầm quốc gia và quốc tế khiến thông tin trở nên rất đa dạng. Đồng thời với từng sản phẩm báo chí lại hình thành những đối tượng ngày càng chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng khác nhau 1.1.2. Về xuất bản Thuật ngữ "publication" trong tiếng Anh và "publicate" trong tiếng Pháp đều có nghĩa là xuất bản phẩm, thường được dùng trong các lĩnh vực xuất bản - in ấn, thông tin, tư liệu, thư viện. Xuất bản phẩm là các sản phẩm về các lĩnh vực đời sống như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản không định kỳ; được in, nhân bản bằng các chất liệu và ph ương tiện kỹ thuật khác nhau, nhằm phổ biến rộng rãi. Trong xuất bản phẩm thì sách là ấn phẩm quan trọng nhất, đã xuất hiện lâu đời, trước cả báo chí và có những bước tiến dài. Mặc dù thời đại mới có Internet, "siêu lộ" thông tin, multi media... nhưng sách vẫn là phương tiện trao đổi kiến thức thông tin cơ bản trong xã hội. Theo tính toán của các nhà chuyên môn, đầu những năm 2000, số đầu sách khác nhau được xuất bản trên thế giới hàng năm là xấp xỉ 900.000 (chưa kể có hơn 9.000 nhật báo và hơn 20.000 kỳ báo chuyên về khoa học và học thuật). Ngành xuất bản sẽ vẫn có vị trí to lớn trong đời sống văn hóa, giáo dục, trí tuệ của mỗi quốc gia và cả trong việc giao lưu phát triển trí tuệ quốc tế. Xét về bản chất, xuất bản là sự phối hợp nhiều hoạt động cần thiết để sản xuất sách. Nhưng, chuyên môn chính của nhà xuất bản là chọn lựa và biên tập các bản thảo, lên kế hoạch và giám sát quá trình biến một bản thảo thành một cuốn sách (dĩ nhiên là nhà xuất bản lớn, tập đoàn xuất bản thường có đủ cả dây chuyền từ khâu làm bản thảo, in, phân phối phát hành...); sau đó, đảm bảo cho ấn phẩm - sách đến được thị trường mà nhà xuất bản đã lập kế hoạch. Tiếp cận thị trường và bán được sách là nhân tố, mắt xích thiết yếu của dây chuyền xuất bản. Xã hội hiện đại cho phép việc phân phối sách khá dễ dàng. Hạ tầng cơ sở đối với việc phát hành sách như phát hành qua hiệu sách, gửi bưu kiện trực tiếp, qua các tổ chức giáo dục và các tổ chức tương tự. Vốn đầu tư để sản xuất ra sách không lớn nên có thể bỏ vốn để in số bản nhất định và phục vụ cả cho những nhóm độc giả ít ỏi, kể cả in bằng ngôn ngữ ít người sử dụng, in bằng các ký tự đặc biệt (tuy lợi nhuận ít và có thể lỗ, nhưng thường là khu vực này cũng vẫn chấp
  17. nhận để phục vụ những đối tượng chính sách, ví dụ như dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa). Về kinh tế, ngày nay, kể cả tại các n ước công nghiệp phát triển, tổng doanh thu ngành xuất bản thường ít hơn các ngành công nghiệp tiêu dùng, giải trí, nhưng về mặt văn hóa - xã hội và giáo dục, xuất bản lại là nhân tố trọng tâm trong việc tạo các mối liên hệ trong những ngành công nghiệp văn hóa, nhất là ở thế kỷ XXI, nó càng có vai trò to lớn đối với xã hội hậu công nghiệp. Có một số nước, ví dụ như Thụy Điển, nhà xuất bản và tác giả được tính tiền tái quyền trên cơ sở việc sử dụng sách ở thư viện nhiều hay ít. Ngày nay, các nước Âu - Mỹ phát triển có kỹ thuật in ấn, xuất bản rất hiện đại. Nhà nước quản lý lĩnh vực xuất bản bằng luật pháp, điều tiết hoạt động xuất bản qua thuế. Khu vực xuất bản đã hình thành các tập đoàn xuất bản khổng lồ, liên quan đến các lĩnh vực họ hàng như báo chí, in ấn, phát thanh, truyền hình. Có nhiều nhà xuất bản hiện nay rất nổi tiếng cả về quy mô hoạt động, đầu sách xuất bản cũng như chất lượng và lợi nhuận... Các cường quốc về xuất bản là Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc, Nga... ấn Độ là nước đứng thứ tám về sách in trên thế giới, mỗi năm nước này có khoảng hơn 20.000 đầu sách. Hiện ấn Độ có hơn 3.000 nhà xuất bản, trong đó có hơn 100 nhà xuất bản loại lớn, mỗi năm xuất bản hơn 500 đầu sách. Đa số các nhà xuất bản thuộc khu vực tư nhân và có hơn 450 công ty thuộc khu vực công hoạt động trong lĩnh vực xuất bản. Sách ấn Độ in bằng nhiều ngôn ngữ và việc dùng tiếng Anh không bất lợi mà còn góp phần tích cực cho sự phát triển, làm phong phú thêm sức biểu hiện của các tiếng nói chính (ngôn ngữ chính) của ấn Độ. Nước này hiện đứng thứ ba trên thế giới chỉ sau Mỹ và Anh về số lượng sách xuất bản bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, số lượng cách trung bình tính theo đầu người của ấn Độ vẫn thấp so với mức trung bình của thế giới. Mức tiêu thụ sách tính theo đầu người của ấn Độ là khoảng gần 35 trang sách một năm, trong khi con số này ở các nước công nghiệp là hơn 2.000 trang/năm. Sách in bằng các thứ tiếng ấn Độ chỉ xấp xỉ 1.000 bản mỗi đầu sách, còn sách in bằng tiếng Anh thì từ 1.000 đến 2.000 bản mỗi đầu sách. Tại Nhật Bản, các công dân và các tổ chức được tự do xuất bản sách báo và những xuất bản phẩm đó được tự do in ấn,
  18. đăng tải,phổ biến nếu không vi phạm luật hình sự và những luật khác... Trong những năm cuối thế kỷ XX, tổng số đầu sách xuất bản ở Nhật hàng năm đều vượt con số 40.000. Trong danh sách các tác giả nộp thuế cao nhất (do Chính phủ công bố hàng năm) thì vị trí hàng đầu là các tác giả truyện trinh thám. Trong nửa cuối thế kỷ XX, tại châu Âu và Bắc Mỹ, sự hình thành các hãng truyền thông đa quốc gia đã biến đổi cơ cấu ngành xuất bản truyền thống. Tính đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hơn 50% các nhà xuất bản ở châu Âu và Bắc Mỹ thuộc sở hữu của các công ty cổ phần quốc tế cỡ lớn. Tuy nhiên, quá trình hợp nhất giữa các ngành truyền thông, điện tử với xuất bản đã xảy ra ở Mỹ từ những năm 60 (đó là thời kỳ các tập đoàn CBS, ABC, ITT, Xerox, Raytheon đua nhau mua các nhà xuất bản sách). Nhưng sách và truyền thông - điện tử là hai lĩnh vực, hai vùng đất khác nhau, không tương đồng, nên sau một thời gian hoạt động, các công ty truyền thông, điện tử lại tự rời bỏ địa bàn sách và quyền kiểm soát nhà xuất bản thường lại rơi vào các tập đoàn xuất bản truyền thống đã phát triển lớn hơn (do các nhà xuất bản cũng hợp lại để chống sự thôn tính của truyền thông - điện tử và phải tập trung để có lợi thế cạnh tranh). Ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX, các cuộc kết hợp giữa ngành xuất bản và ngành công nghiệp giải trí như phim ảnh, video đã thúc đẩy quá trình tập trung hóa các công ty tại Mỹ. Công ty Warrner sáp nhập với Time; General Cinema mua Harcourt Brace Jovanovich; Paramomunt sáp nhập với Simon và Schuster... Quá trình tập trung hóa trong ngành xuất bản từ năm 1960 đến năm 1990 ban đầu chỉ là hiện tượng có tính quốc gia. Trong nửa đầu của thế kỷ XX, các nhà xuất bản hàng đầu của Anh như Collins, Macmillan, Longman, Oxford University Press, Butter Worth... đã hoạt động như hoạt động của các tập đoàn xuất bản đa quốc gia (các nhà xuất bản đó đều có chi nhánh ở Mỹ, Canada, Australia, Nam Phi, ấn Độ, Newzeland. Đầu tiên các chi nhánh đó là những đại lý bán hàng, sau trở thành các nhà xuất bản khu vực. Họ thích đưa sách của chính quốc Anh vào hơn là sản xuất các bản thảo nội địa và hoạt động mạnh tại thị trường sách giáo khoa và sách dạy học tiếng Anh...). Hình thức xuất bản đa quốc gia khác được chính các nhà xuất bản sách khoa học - kỹ thuật, y tế hình thành. Các nhà xuất bản lớn như Springer (Đức), Elsevier (Hà
  19. Lan) là những nhà xuất bản đầu tiên của châu Âu vươn cánh tay vào một hay cả hai nước Anh, Mỹ. Nhờ sự hỗ trợ kỹ thuật cao từ các nhà xuất bản châu Âu khác sau Chiến tranh thế giới thứ hai và thông qua truyền bá sách thương mại, sự nở rộ nghiên cứu sách thương mại trong thời kỳ chiến tranh lạnh đã cho ra đời những cuốn sách, tuyển tập về thương mại mang tính xuyên quốc gia. Rõ ràng là ấn phẩm chuyên khảo và tạp chí khoa học là những tác động quan trọng đầu tiên dẫn đến xu hướng đa quốc gia hóa ngành xuất bản. Một tác động quan trọng khác là giáo trình đại học Mỹ - một nơi được coi là có nền giáo trình đại học tốt. Các nhà xuất bản sách đại học lớn ở Mỹ như: Mc Graw - Hill, Prentice Hall, Addison - Wesley đã thiết lập các chi nhánh phân phối sách ở các nước nói tiếng Anh, sau mở rộng sang châu Âu, châu á, Mỹ Latinh. Có nhiều quốc gia chống lại sự xâm nhập của xuất bản nước ngoài. Ví dụ như Canada đã ban hành luật chống người nước ngoài sở hữu xuất bản của Canada và hỗ trợ cho các nhà xuất bản của Canada. Nhiều nước ở châu Phi, Mêhicô ở Mỹ Latinh... đều có chính sách bảo trợ xuất bản trong nước, chống lại sức mạnh tài chính và chuyên môn của tài phiệt xuất bản nước ngoài. Trên thực tế, quá trình tăng trưởng, phát triển của các tập đoàn đa quốc gia từ năm 1960 đến năm 1990 đã có những ảnh hưởng tích cực đối với lợi ích của xuất bản sách. Chính xuất bản sách (đặc biệt là sách chuyên môn có thị trường liên quan đến các loại tạp chí học tập, sách tham khảo, tài liệu rời, từ điển bách khoa thư...) đem lại sự ổn định kinh doanh cho các tập đoàn truyền thống xuất bản quốc gia, trong khi truyền hình - báo chí do lệ thuộc vào quảng cáo nên thu nhập không ổn định. Tuy nhiên, có rất ít tập đoàn xuất bản đa quốc gia cỡ thế giới mang tính đa ngành. Các tập đoàn xuất bản đa quốc gia chỉ thường nắm các lĩnh vực chính thuộc xuất bản, truyền thông, giải trí và giáo dục. Nếu so sánh tốc độ tăng trưởng trong thập niên cuối thế kỷ XX (và dự báo cả trong thập niên đầu thế kỷ XXI) thì các công ty độc lập xuất bản sách có tuổi đời trẻ, quy mô vừa, nhỏ với công nghệ hiện đại sẽ có mức tăng trưởng nhanh hơn các tập đoàn đa quốc gia nói trên, vì họ dễ đổi mới liên tục đề tài sách, công nghệ, thị trường... Đối với các tập đoàn xuất bản đa quốc gia cần phân biệt rõ những bộ phận kinh doanh quốc gia và những bộ phận xuyên quốc gia. Ví dụ xuất bản sách cho trường
  20. học, pháp lý, báo chí khu vực về bản chất thuộc bộ phận thứ nhất. Bộ phận xuyên quốc gia gồm xuất bản sách cho du lịch, tài chính, khoa học, kỹ thuật, y tế... (do tiềm lực hùng hậu nên họ chú trọng cạnh tranh với các nhà xuất bản quốc gia trong các lĩnh vực này). Từ khi công nghệ photocopy ra đời đã đánh dấu cuộc cách mạng trong lĩnh vực xuất bản. Sự ra đời của máy tính đã tác động toàn diện đến mọi công đoạn như sản xuất, phân phối và nhất là ảnh hưởng đến tính chất của việc lưu trữ và phục chế các sản phẩm trí tuệ. Công nghệ photocopy - công nghệ nhân bản cho phép in sách với số lượng nhỏ cho đối tượng chuyên biệt, kể cả bằng những ngôn ngữ ít người dùng. Các tiến bộ nhân bản tiếp theo cùng với khả năng sắp chữ bằng máy tính giúp việc in sách với số lượng ít có thể nhanh,rẻ; hơn nữa có thể in từng bản cho từng người sử dụng. Ngành xuất bản truyền thống lúc trước cho rằng, việc nhân bản là thách thức; nhưng đến nay, toàn ngành xuất bản đã tương đối thích nghi, đã kết hợp công nghệ nhân bản với công đoạn in ấn để giảm giá thành, tiết kiệm thời gian, nhân công (chính các quốc gia, các khu vực có thị trường nhỏ hẹp, xuất bản chưa phát triển có thể sử dụng lợi thế này). Để giải quyết thách thức về hệ thống bản quyền, các quốc gia đã liên tục tăng cường hoàn thiện luật bản quyền để hạn chế, kiểm soát việc sao chép, in ấn lậu, phi pháp. Xuất bản điện tử, xuất bản màn hình là các khái niệm xuất hiện thời công nghệ mới. Các nhà xuất bản đã có khả năng hình thành, hoàn thiện một cuốn sách từ bản thảo đến bản can hoàn chỉnh ngay trên máy tính (kể cả khâu thiết kế, trình bày bìa và ruột sách) để sẵn sàng cho việc in ấn thành sản phẩm sách. Máy tính còn làm biến đổi các quy trình kinh doanh liên quan đến các mặt như: quản lý hàng lưu kho, lập hóa đơn, theo dõi biến động thị trường tiêu thụ sách nói chung và của mỗi đầu sách cụ thể nói riêng, đồng thời giúp việc thực hiện quảng cáo chuyên biệt, bán sách qua máy tính, qua thư điện tử... Tóm lại, nhờ máy tính mà nhiều khâu trong quy trình xuất bản được giảm thiểu, chi phí giảm và các nhà xuất bản nhỏ cũng hoạt động hiệu quả. Việc nối máy tính vào mạng Internet và sử dụng phối hợp các phương tiện phát chuyển tài liệu hiện đại khác đã ảnh hưởng đến hoạt động xuất bản, phát hành (và cả thư viện, hiệu sách nữa). Sử dụng thư điện tử qua mạng Internet có thể chuyển tài liệu,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0