intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

429
lượt xem
120
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chỉ thị số 52CT/TƯ ngày 21/01/2002 của Bộ Chính trị khẳng định: kết nạp đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có tính qui luật trong công tác xây dựng Đảng nhằm tăng cường thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa phát triển của Đảng. Đảng là một cơ thể chính trị - xã hội sống, có quá trình hình thành, phát triển và đào thải riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chỉ thị số 52CT/TƯ ngày 21/01/2002 của Bộ Chính trị khẳng định: kết nạp đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có tính qui luật trong công tác xây dựng Đảng nhằm tăng cường thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa phát triển của Đảng. Đảng là một cơ thể chính trị - xã hội sống, có quá trình hình thành, phát triển và đào thải riêng. Vì vậy, sự phát triển của Đảng là đòi hỏi tự nhiên, là qui luật tất yếu, nhằm để bù đắp số lượng giảm đi và tạo thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hóa Đảng, bảo đảm sự kế thừa, tạo thêm nhân tố mới trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên (ĐNĐV). Thanh niên là lực lượng "rường cột của nước nhà" và Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là đội hậu bị tin cậy của Đảng, là đội quân xung kích cách mạng, là trường học xã hội chủ nghĩa (XHCN) của thanh niên. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, thanh niên càng có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự phát triển đi lên của cả dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Là cấp cơ sở trong hệ thống chính trị, phường là địa bàn mà ở đó các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được hiện thực hóa. Nằm trên địa bàn đô thị, phường là nơi diễn ra những hoạt động sản xuất kinh doanh, sinh hoạt chính trị, xã hội sôi động nhất. Những tác động tích cực cũng như tiêu cực đều diễn ra ở đây. Điều đó đã tác động một cách trực tiếp đến lý t ưởng, động cơ, lối sống của thanh niên thành phố. Hiện nay, ở Đà Nẵng đảng viên đang sinh hoạt tại các Đảng bộ phường rất đa dạng và không đồng đều, xét theo nhiều khía cạnh. Số đảng viên "đương chức" (trong đó có số trẻ) làm nòng cốt của các Đảng bộ đang giữ trọng trách tại các cấp ủy Đảng, ủy ban nhân dân phường, trường học, đồn công an, trạm xá, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ lệ ít (và chất lượng cũng còn nhiều hạn chế). Còn lại là các đảng viên đã nghỉ
  3. hưu hoặc mất sức lao động. Chính vì vậy, làm tốt công tác phát triển đảng viên (CTPTĐV) trong thanh niên ở cấp phường để góp phần trẻ hóa, tăng thêm sinh lực, trí tuệ cho các Đảng bộ phường bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của phường là một vấn đề rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay" làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình, bài báo nghiên cứu về CTPTĐV của Đảng, về giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng cho thanh niên như: "Xây dựng đội ngũ đảng viên là thanh niên sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội", luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Mỹ Trang, 2001; về công tác phát triển Đảng có các công trình "Phát triển đảng viên trong sinh viên các trường đại học công an nhân dân ở phía Bắc trong giai đoạn hiện nay", luận văn thạc sĩ của Vũ Thế Kỳ, 2001; "Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên mới trong học viên hệ đào tạo sĩ quan ở các nhà trường thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân trong thời kỳ mới", luận văn thạc sĩ của Lê Văn Lương, 2002; "Công tác phát triển đảng viên mới trong sinh viên đại học ở Đà Nẵng hiện nay", luận văn thạc sĩ của Lê Thưởng, 2001; và "Công tác phát triển Đảng trong sinh viên một số trường đại học ở Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp", luận văn thạc sĩ của Dương Trung ý, 2001. Riêng về CTPTĐV trong thanh niên ở Đà Nẵng đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào. Cũng tương tự như vậy, vấn đề phát triển đảng viên ở phường trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chưa được nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng là việc làm cần thiết và cấp bách. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích
  4. Góp phần đẩy mạnh CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng trong giai đoạn mới và phục vụ công tác giảng dạy của bản thân ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên. * Nhiệm vụ - Làm rõ vai trò của thanh niên nói chung, thanh niên trên địa bàn phường nói riêng trong sự nghiệp CNH, HĐH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta. - Phân tích, đánh giá thực trạng thanh niên trên địa bàn phường và CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay. Từ đó, rút ra nguyên nhân của thực trạng, đề xuất một số giải pháp để làm tốt CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Là CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn phường của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay. * Phạm vi nghiên cứu CTPTĐV là vấn đề rất rộng, có thể nghiên cứu ở nhiều giai đoạn, đối tượng khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu CTPTĐV trong thanh niên (sống và làm việc ở phường, gắn bó chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể phường - gọi tắt là thanh niên trên địa bàn phường) của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng và xây dựng CNXH. - Luận văn sử dụng phương pháp luận mác xít, trong đó đặc biệt chú ý các phương pháp như: phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê và lý luận gắn liền với thực tiễn.
  5. 6. ý nghĩa và đóng góp của luận văn * ý nghĩa Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và chỉ đạo thực tiễn CTPTĐV của các Đảng bộ phường. * Đóng góp của luận văn - Hệ thống, khái quát thực trạng CTPTĐV trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng từ 1997 đến nay (2003). - Đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh, đổi mới CTPTĐV trong thanh niên ở Đảng bộ phường tại Đà Nẵng thời kỳ mới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
  6. Chương 1 Công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các đảng bộ phường ở thành phố Đà Nẵng - một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn 1.1. Công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường ở Thành phố Đà Nẵng - Quan niệm, vai trò và ý nghĩa 1.1.1. Quan niệm của Đảng bộ phường ở Đà Nẵng về công tác phát triển đảng viên trong thanh niên Lịch sử tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) chứng minh rằng, Đảng luôn luôn chú trọng phát triển đảng trong thanh niên. Đây là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ đối với tuổi trẻ Việt Nam mà còn liên quan đến sinh mệnh và sức sống của Đảng. Trong bối cảnh mới đầy biến động và phức tạp trên thế giới, những thời cơ và thách thức của đất nước ta hiện nay, ĐCSVN vẫn giữ vững được trọng trách lãnh đạo toàn xã hội vươn lên. Bản thân Đảng đã tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm với nhiệm vụ quan trọng của thời cuộc đặt ra. Vì vậy, CTPTĐV trong thanh niên nhằm: Tăng thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hóa đội ngũ, bảo đảm sự kế thừa và phát triển của Đảng. Làm tốt công tác tạo nguồn để lựa chọn, bồi dưỡng, kết nạp những người ưu tú có đủ tiêu chuẩn, trong Đoàn thanh niên, trong công nhân, nông dân, trí thức, chiến sĩ các lực lượng vũ trang...chú ý những cơ sở trọng yếu, những nơi còn ít và chưa có đảng viên. Coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc, đồng thời không định kiến, hẹp hòi... phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Đặt CTPTĐV trong thanh niên thành chương trình, kế hoạch cụ thể và tổ chức chỉ đạo chặt chẽ, mang lại kết quả thiết thực [6, tr. 39].
  7. Trong quá trình đấu tranh, trưởng thành, lãnh đạo nhân dân trước đây và đổi mới hiện nay, các cấp ủy Đảng ở Thành phố Đà Nẵng nói chung, ở các Đảng bộ phường nói riêng đều nhận thức và quan niệm rằng: Thứ nhất, trong sự tồn tại và phát triển của mình, Đảng phải thường xuyên bổ sung vào ĐNĐV những lực lượng mới, ưu tú trong phong trào quần chúng. Đó là qui luật trong quá trình trưởng thành và là một nội dung quan trọng trong công tác đảng viên của Đảng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, CTPTĐV càng trở nên có ý nghĩa đối với việc nâng cao chất lượng ĐNĐV của Đảng. Có thể nói, trong các phạm vi vận động thanh niên hiện nay thì địa bàn dân cư là phạm vi khó nhất, đang gặp nhiều lúng túng nhất. Thực tiễn ở Đà Nẵng đặt ra: Thanh niên trên địa bàn dân cư, họ là những ai? Có thể phân ra bốn loại thanh niên trên địa bàn dân cư. Một loại đã được tập hợp trong tổ chức Đoàn, Hội ngoài phường, tạm gọi là loại thứ nhất; loại đã được tập hợp trong tổ chức Đoàn, hội ở phường, tạm gọi là loại thứ hai; loại đã được tập hợp trong tổ chức thanh niên không phải là Đoàn, Hội, tạm gọi là loại thứ ba và loại chưa được tập hợp trong tổ chức thanh niên nào, tạm gọi là loại thứ tư. (Xin nói rằng, việc phân loại ở đây chỉ là thao tác trừu xuất trong nghiên cứu và quản lý, hoàn toàn không mang ý nghĩa phân biệt, đối xử - một điều tối kỵ trong quá trình đoàn kết, tập hợp, giáo dục thanh niên). Nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở loại thứ hai, thứ ba, thứ tư và tạm gọi là thanh niên trên địa bàn dân cư. Thứ hai, trước thực trạng ĐNĐV hiện nay, bên cạnh số đông có phẩm chất và đạo đức tốt, có một bộ phận không nhỏ đảng viên thoái hóa, biến chất về chính trị, t ư tưởng, phẩm chất đạo đức và năng lực yếu, không tỏ rõ vai trò của mình đối với tổ chức Đảng và với quần chúng. Cho nên, việc nâng cao chất lượng đảng viên theo phương châm: chặt chẽ hơn nữa "đầu vào", xử lý chính xác "đầu ra", nâng cao chất lượng đội ngũ hiện có và CTPTĐV phải kết hợp gắn chặt với việc chỉnh đốn, sàng lọc ĐNĐV. Thứ ba, về nguyên tắc, Đảng chỉ kết nạp những người ưu tú, có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thực hiện các nhiệm vụ của Đảng. Trong khi kết nạp đảng viên mới phải đặc biệt chú trọng thực hiện phương châm coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng đơn thuần.
  8. Bảo đảm chất lượng là yêu cầu xuyên suốt quá trình phát triển đảng viên mới. Đây là một chuỗi các công đoạn đòi hỏi tổ chức Đảng mà trực tiếp là các cơ sở đảng và các chi bộ phải quan tâm chỉ đạo công phu, chu đáo ngay từ khi tạo nguồn như tuyên truyền, giáo dục, lựa chọn đến các khâu kết nạp và giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức. Quá trình đó phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ theo đúng Điều lệ Đảng và hướng dẫn của Trung ương. Trong CTPTĐV phải luôn coi trọng chất lượng, lấy tiêu chuẩn đảng viên làm cơ sở, phải có kế hoạch, biện pháp cụ thể, không hạ thấp yêu cầu về chất lượng, chạy theo số lượng, nhưng cũng không có thái độ hẹp hòi, định kiến, bảo thủ, cầu toàn, không tích cực tạo điều kiện phát triển đảng viên mới. Lênin cho rằng: "Chúng ta cần có những đảng viên mới không phải là để quảng cáo mà là để làm việc thật sự. Những người đó, chúng ta kêu gọi họ vào hàng ngũ của chúng ta, đảng ta mở rộng cửa để đón những người lao động" [11, tr. 256]. Sức mạnh của Đảng phụ thuộc vào chất lượng đảng viên. Người được xét kết nạp vào Đảng phải có đủ tiêu chuẩn đảng viên, số lượng chỉ có ý nghĩa khi bảo đảm chất lượng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay khi cơ cấu, thành phần và độ tuổi của ĐNĐV còn mất cân đối thì Đảng cần có một số lượng đảng viên phù hợp để hoàn thiện tổ chức, thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng. Với ý nghĩa đó, số lượng đảng viên có quan hệ chặt chẽ với chất lượng đảng viên. Giải quyết mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng chung trong toàn Đảng đã là khó khăn, phức tạp, lâu dài thì đối với các đảng bộ phường (nói chung) ở Đà Nẵng nói riêng lại càng nan giải. Bởi vì, do lịch sử để lại nhiều đảng viên giai đoạn cách mạng trước tiên phong, gương mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nay chuyển sang giai đoạn cách mạng mới nhiều đảng viên do điều kiện hoàn cảnh mới, đòi hỏi năng lực mới, không phát huy được vai trò của mình. Thậm chí có một bộ phận tụt hậu. Bộ phận này cũng đã được các cấp ủy Đảng giải quyết dần dần bằng nhiều cách hợp lý, hợp tình. Nhưng dù có giải quyết thế nào thì theo qui luật 10 đến 15 năm nữa số này sẽ hết. Trong khi đó hướng kết nạp đảng viên mới hiện nay là chú trọng vào đối tượng nam, nữ thanh niên ưu tú để "trẻ hóa" ĐNĐV thì ở phường lại gặp rất nhiều khó khăn cả về số lượng lẫn chất lượng. Do vậy, một vấn đề đặt ra đối với các cấp đảng bộ phường ở Đà Nẵng là trên cơ sở nắm vững những yêu cầu về tiêu chuẩn đảng viên, coi trọng chất lượng nhưng cần vận dụng linh hoạt trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Không đòi hỏi thực hiện một
  9. cách máy móc, cứng nhắc các tiêu chuẩn ở những địa bàn dân cư chưa có đảng viên hoặc ít đảng viên mà rất cần có sự lãnh đạo trực tiếp của người đảng viên. Nếu làm tốt việc phát triển đảng viên trẻ thì chất lượng ĐNĐV sẽ được tăng cường, sau khoảng 10, 15 năm nữa các đảng bộ phường sẽ có một ĐNĐV trong sạch vững mạnh, đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và các thời kỳ tiếp theo trên địa bàn phường. Thứ tư, xét duyệt đúng tiêu chuẩn, đúng nguyên tắc, đúng trình tự, đúng thủ tục. Đồng thời không định kiến, hẹp hòi, không "thành phần chủ nghĩa". 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của công tác phát triển đảng viên trong thanh niên 1.1.2.1. Vai trò của thanh niên Thanh niên có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng và tương lai của dân tộc. Theo C.Mác, giai cấp công nhân chỉ được hình thành với tư cách là một giai cấp khi ý thức được địa vị và tương lai của mình. Những công nhân tiên tiến nhất hoàn toàn hiểu rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương lai của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên [17, tr. 263]. Cuối thế kỷ XIX trong bối cảnh xã hội tư bản, Mác cho rằng, cần phải giải thoát cho thanh niên, thiếu niên khỏi sự tác động có tính chất phá hoại của hệ thống hiện đại. Chính Mác đã gọi thanh niên là cội nguồn của sự sống của dân tộc và giai cấp công nhân, là bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc. Khi đánh giá vai trò của thanh niên trong đấu tranh cách mạng, các quan điểm mácxít đã chỉ ra, chỉ có cách mạng vô sản và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới thực sự làm cho thế hệ thanh niên phát huy được vai trò to lớn của mình một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Do vậy, giáo dục thanh niên được coi là nhiệm vụ hàng đầu để có con người mới XHCN. Ph. Ăngghen nêu rõ: Thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, chính hiện thực cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị. Chính Ăngghen là người đầu tiên đưa ra các quan niệm như: "Đội quân xung kích quyết định của đạo quân vô sản", "đội hậu bị của đảng" để gắn với thanh niên. Vào năm 1853, khi "đảng của Mác"
  10. đã khẳng định được vị trí của mình trên vũ đài chính trị, trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại đạo luật đặc biệt của Bítxmác, Ăngghen đã viết: Chính thế hệ trẻ là nguồn bổ sung dồi dào nhất cho đảng. Luận thuyết của Mác - Ăngghen luôn khẳng định lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo cần được tập hợp, tổ chức và giáo dục, sao cho những biến đổi tư tưởng của họ bắt kịp với thời đại, đi đúng quỹ đạo của dòng thác cách mạng đang cuộn chảy. Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã coi thanh niên là "nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng". Người chỉ rõ: "Há chẳng phải trong đảng cách mạng của chúng tôi, thanh niên chiếm ưu thế tuyệt đối là một điều tự nhiên sao? Chúng tôi là đảng của những người đổi mới, mà thanh niên luôn đi theo đổi mới. Chúng tôi là đảng đấu tranh chống chế độ cũ thối nát mà thanh niên luôn đi đầu" [12, tr. 210]. Có thể nói, đây là luận điểm thể hiện rõ nhất, trực tiếp nhất vai trò của thanh niên trong đấu tranh cách mạng. Với quan điểm này Lênin khẳng định, thanh niên là một bộ phận quan trọng, hùng hậu của cách mạng, là đội hậu bị của Đảng cộng sản, là đội quân xung kích trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, là thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước và các thế hệ thanh niên sẽ nối tiếp nhau xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Lênin khẳng định: Chúng ta biết rằng, hiện giờ có hàng chục, hàng trăm ngàn quân hậu bị là thanh niên công nông..., hoàn cảnh của chúng ta càng khó khăn, thì họ càng xích gần lại với chúng ta đông đảo hơn, với tinh thần hy sinh quên mình cao hơn. Những quân hậu bị đó làm cho chúng ta hoàn toàn tin chắc rằng...chúng ta đã có được nguồn lực lượng hậu bị mà chúng ta có thể khai thác lâu dài, với qui mô to lớn [15, tr. 338]. Lênin tin tưởng việc tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước trong chế độ mới sẽ có lực lượng thanh niên. Họ sẽ hoạt động với cách thức mới hơn và hiệu quả cao hơn. Người viết: "Nếu chúng tôi làm việc không quá gấp, thì trong vài năm nữa chúng tôi sẽ có một số thanh niên đông đảo có khả năng làm thay đổi bộ máy của chúng tôi" [16. tr. 360-363]. Đó chính là sự thể hiện cao nhất vai trò, vị trí, sự đóng góp của thanh niên trong quản lý xã hội và xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Người khẳng định rõ lập
  11. trường của những người cộng sản chân chính là cần phải giáo dục cộng sản cho thế hệ trẻ và kết hợp việc giáo dục ấy với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Kế thừa những di sản quí báu của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển một cách sáng tạo những luận điểm mác xít về vị trí, vai trò của thanh niên trong xã hội; về nhiệm vụ giáo dục thanh niên, về Đoàn thanh niên cộng sản trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Nếu như trước đó C.Mác. Ph. Ăngghen, V.I.Lênin luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân, với đảng tiên phong của nó, thì đến Hồ Chí Minh đã có sự phát triển vượt bậc, cụ thể. Thanh niên không những gắn với giai cấp công nhân mà còn gắn với dân tộc, với Đảng cộng sản. Do đó, muốn "hồi sinh" dân tộc, trước hết phải "hồi sinh" thanh niên. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, phần phụ lục "gửi thanh niên Việt Nam" Người tha thiết kêu gọi "Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên sớm già của Người không sớm hồi sinh" [18, tr. 133]. Bác nhận thấy "thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc", "người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già; đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai". "Thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ". Trong mọi công việc thanh niên là người có khả năng thực hiện khẩu hiệu "đâu cần thanh niên có, việc khó thanh niên làm" [7, tr. 96]. Người tổng kết: "Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc" [7, tr. 96]. Việc thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (với hạt nhân là cộng sản Đoàn) để chuẩn bị cho việc thành lập ĐCSVN và sáng lập từ báo cách mạng mang tên Thanh niên chứng tỏ Hồ Chí Minh có một tầm nhìn chiến lược, khi Người biết rằng chỉ có thanh niên mới có thể "nắm vai trò là những người châm ngòi lửa đầu tiên cho cách mạng nước ta". Người thấy rõ sự thịnh suy, mạnh yếu của một dân tộc phần lớn tùy thuộc vào thanh niên. Coi thanh niên là đầu tàu của lực lượng cách mạng, thức tỉnh thanh niên để thức tỉnh một dân tộc là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong các tác phẩm, các buổi nói chuyện, Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều đến việc giáo dục đạo đức, đến những mục tiêu, phương hướng, hình thức, biện pháp thiết thực để
  12. giáo dục thanh niên nhằm biến nguồn sinh lực dồi dào của tuổi trẻ dưới dạng tiềm năng trở thành hiện thực. Theo Người, giáo dục thanh niên không thể tách rời với những cuộc đấu tranh cải tạo, xây dựng xã hội. Nhiệm vụ của thanh niên to lớn, vai trò càng vẻ vang thì phẩm chất, năng lực càng phải cao. Phẩm chất và năng lực đó nhất thiết phải thông qua con đường giáo dục và rèn luyện mới có. Bác nhắc nhở: giáo dục và rèn luyện thanh niên là trách nhiệm của Đảng, Chính phủ, các tổ chức của thanh niên, của gia đình và toàn xã hội. Trong đó, Đoàn thanh niên là tổ chức chính trị của thanh niên do Đảng lập ra, là người đại diện cho thanh niên, là hạt nhân đoàn kết, giáo dục và phát huy vai trò xung kích của thanh niên. Đoàn thay mặt Đảng tập hợp và rèn luyện thanh niên, tổ chức thanh niên đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mối quan hệ giữa Đoàn với Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng về đường lối chính trị thì thanh niên theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì thanh niên độc lập; trong mọi công việc, đảng viên và đoàn viên thanh niên phải gương mẫu để lôi cuốn nhân dân cùng tiến bộ; mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm. Trong di chúc để lại, Người nêu bật vấn đề thanh niên với những đánh giá và căn dặn của mình: Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết [21, tr. 498]. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. Điều đó được công nhận ngay từ Đại hội Đảng lần thứ nhất (28/3/1935): "Thanh niên lao động Đông Dương là một lực lượng cách mạng rất lớn, vị trí thanh niên trong các phong trào dân tộc giải phóng trước năm 1930 rất quan trọng. Trong thời kỳ cao trào 1930-1931, thanh niên lao động rất hăng hái tham gia các cuộc bãi công, biểu tình vũ trang, bạo động, thiết lập chính quyền Xô viết" [2, tr. 253]. Trong các thời kỳ khó khăn của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định: "Một Đảng cách mạng bao giờ cũng tuyển đội ngũ xung phong của mình trong các giới thanh
  13. niên". Năm 1968, Nghị quyết 181 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác vận động thanh niên đã khẳng định vai trò của Đoàn thanh niên lao động Việt Nam là: Đội quân xung kích cách mạng thực hiện mọi nhiệm vụ của Đảng, tham gia xây dựng Đảng, kiện toàn Đảng, đào tạo lực lượng hậu bị cho Đảng. Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, trước những biến động phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, diễn biến tâm lý, tư tưởng của thanh niên đang có nhiều vấn đề đặt ra phải được suy nghĩ nghiêm túc. Sự phân tầng về nghề nghiệp và thu nhập trong thanh niên ngày càng rõ nét do tác động của cơ chế kinh tế thị trường, những chuẩn mực truyền thống và những định hướng giá trị tốt đẹp đang có xu hướng biến đổi. Do vậy, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về công tác thanh niên, khẳng định sự quan tâm đặc biệt đến thanh niên và công tác thanh niên. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) đặt vấn đề: tập hợp thanh niên một cách rộng rãi bằng nhiều loại hình thức tổ chức linh hoạt khác nhau theo đối tượng, nhu cầu và sở thích để làm những việc có ích cho xã hội và cho tuổi trẻ. Chú ý thích đáng những đặc điểm của nữ thanh niên, của thanh niên các dân tộc, các tôn giáo, thanh niên quân đội, thanh niên học sinh, thanh niên các vùng khác nhau của đất nước. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa VI) chỉ rõ: Đảng cần hướng dẫn sự đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể và tổ chức quần chúng vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên cùng nhau chăm lo lợi ích thiết thực của mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng và ở các cơ sở, đoàn thể cần coi trọng việc tập hợp quần chúng (trong và ngoài đoàn thể) bằng những hình thức linh hoạt (nhóm, tổ, câu lạc bộ...) hoạt động theo những nội dung thích hợp. Tiếp theo tinh thần đó, Nghị quyết 25 của Bộ Chính trị (khóa VI) một lần nữa khẳng định rằng Đảng, Nhà nước và toàn dân ta phải hết lòng bồi dưỡng, phát huy tiềm năng và vai trò chủ động của thanh niên trên mọi lĩnh vực của công cuộc đổi mới, coi đó là nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược con người. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) "Về công tác thanh niên trong thời kỳ mới" đã đánh giá về thanh niên một cách toàn diện hơn. Đảng ta chỉ rõ: "Thanh niên ngày nay là lực lượng xã hội to lớn, có tiềm năng
  14. hùng hậu" [5, tr. 80], "Thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng" [5, tr. 82]. Trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc ta, thanh niên Việt Nam đã thể hiện vai trò cực kỳ to lớn của mình. Có biết bao thanh niên đã xả thân vì nước, góp phần làm nên những kỳ tích trong lịch sử đấu tranh gìn giữ nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Họ luôn có mặt trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc yêu cầu theo lời dạy của Bác Hồ: "không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí cũng làm nên" [18, tr. 95]. Trong thực tế cuộc sống hiện nay, thanh niên là những người góp phần tạo ra cục diện mới của đất nước. "Quân đội bảo vệ Tổ quốc là từ thanh niên, lực lượng lao động và phát triển đất nước cũng là thanh niên; trong lao động sáng tạo, tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ mới, thanh niên đóng vai trò chủ lực" [22, tr. 37]. "Thành công và phát triển hay để đất nước tiếp tục trì trệ trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chủ yếu là do thanh niên quyết định" [22, tr. 40]. Tóm lại, trong lịch sử và hiện tại giành, giữ chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhấn mạnh và đánh giá cao vai trò của thanh niên. Đồng thời cũng luôn chỉ rõ con đường duy nhất để thanh niên xứng đáng với vai trò vẻ vang của mình là phải không ngừng học tập và rèn luyện đạo đức cách mạng, tức là thanh niên phải phấn đấu trở thành người cộng sản chân chính. 1.1.2.2. ý nghĩa công tác phát triển trong thanh niên ở các Đảng bộ phường Phát triển ĐNĐV trẻ về tuổi đời, có trí tuệ cao phẩm chất tốt, dồi dào về thể lực, trong sáng về đạo đức là nhiệm vụ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng: Một là, là nền tảng của Đảng, các Đảng bộ phường trực tiếp đưa đường lối của Đảng đến với quần chúng và lãnh đạo, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối ấy. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới các Đảng bộ phường cần phải tăng thêm số đảng viên trẻ, thông qua đó Đảng hoạt động "ăn sâu", "bám chắc" rộng rãi trong các khu dân cư, nắm bắt thông tin, dư luận, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của quần chúng để phản ánh và tham gia cùng cấp ủy Đảng, chính quyền cấp trên kịp thời điều chỉnh, bổ
  15. sung, hoàn thiện, thúc đẩy các phong trào của phường, của thành phố và cả nước. Đồng thời, trực tiếp tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động, giáo dục, thuyết phục, tổ chức quần chúng quán triệt, thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các chương trình, kế hoạch công tác của cấp trên và của cấp mình nhằm mục tiêu ổn định chính trị - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, nâng cao đời sống các tầng lớp nhân dân trên địa bàn phường. Hai là, làm tốt CTPTĐV trong thanh niên sẽ góp phần trẻ hóa Đảng, khắc phục sự bất hợp lý trong kết cấu độ tuổi và năng lực lãnh đạo của ĐNĐV đang sinh hoạt và làm việc tại phường. Mặt khác, việc chú trọng CTPTĐV trong thanh niên ở phường, ở tổ dân phố sẽ tạo ra được những hạt nhân cho phong trào quần chúng ở cơ sở. Sự tiếp cận và chà xát của đời sống thị trường sẽ tạo cho Đảng những cán bộ có đủ năng lực và tính nhạy bén để hiểu được tâm tư nguyện vọng của quần chúng, cũng như giúp Đảng tìm được phương sách tốt nhất để hiện thực hóa chủ trương, đường lối của mình. Làm được như vậy thì sẽ khắc phục được tình trạng xa dân, xa thực tế mà nhiều chi bộ, đảng bộ ở phường đang mắc phải. Ba là, tăng cường CTPTĐV trong thanh niên ở phường sẽ nâng cao trình độ trí tuệ cho Đảng bộ phường và góp phần củng cố khối liên minh công - nông - trí thức đang công tác, sinh hoạt, nghỉ hưu tại phường. Xu thế của thời đại ngày nay là phát triển mạnh về khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Lực lượng sản xuất ngày càng chứa đựng hàm lượng trí tuệ cao, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 (khóa VIII) chỉ rõ: chỉ bằng con đường CNH, HĐH, phát triển khoa học - công nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh, văn minh. Giai cấp công nhân muốn thực hiện được sứ mệnh của mình trong điều kiện hiện nay tất yếu phải được trí tuệ hóa. ĐCSVN với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của xã hội cần phải được nâng cao năng lực trí tuệ. Nhiệm vụ hàng đầu của Đảng hiện nay là lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Quá trình này đòi hỏi một cách khách quan Đảng phải nâng cao trình độ trí tuệ từ trung ương đến cơ sở. Vì thế, ĐNĐV ở phường - những tế bào của Đảng không chỉ có đạo đức trong sáng mà còn phải có tri
  16. thức, trí tuệ cao, thể lực dồi dào. Có như vậy quần chúng và cán bộ ở cơ sở mới thực sự yên tâm và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ. Bốn là, làm tốt CTPTĐV trong thanh niên trên địa bàn dân cư sẽ có cơ sở tạo nguồn cán bộ cho Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở phường. Làm tốt CTPTĐV ở các Đảng bộ phường là quá trình xây dựng một lực lượng kế tục sự nghiệp vẻ vang của Đảng và bảo đảm chắc chắn cho sự thành công của cách mạng nước ta. Quá trình đó sẽ làm cho Đảng ta trưởng thành về mọi mặt nâng cao sức chiến đấu, làm cho Đảng luôn phát triển, tăng cường ảnh hưởng của Đảng đến các đối tượng dân cư ở phường vốn đa dạng, phức tạp hiện nay. 1.2. Những yếu tố tác động đến công tác phát triển đảng viên của các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng 1.2.1. Tình hình, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội các phường ở Đà Nẵng và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ phường hiện nay 1.2.1.1. Tình hình, đặc điểm các phường Là một trọng điểm của vùng kinh tế miền Trung, Đà Nẵng liền kề với khu kinh tế mở Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quất. Với lợi thế về cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, nhà ga, bệnh viện, trường học... tương đối tốt; có cảng nước sâu tiếp nhận tàu vận tải và tàu du lịch cỡ lớn, có sân bay quốc tế, quốc lộ 14 B với cảng Tiên Sa, đầu mối của đường xuyên á, nối liền biển Đông nước ta với Lào, Thái Lan và các nước Đông Nam á. Đà Nẵng lại nằm giữa quần thể di sản văn hóa thế giới gồm cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu di tích Mỹ Sơn, nên có nhiều lợi thế so sánh và điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển công nghiệp, cảng biển, thương mại dịch vụ, du lịch và nhiều ngành nghề truyền thống khác. Ngày 1/1/1997 Đà Nẵng đi vào hoạt động theo cơ chế mới trực thuộc Trung ương, tiếp đó ngày 23/10/1997, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Điều 1 của Quyết định đã xác định rõ mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2010:
  17. Thành phố Đà Nẵng là một trong những trung tâm vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và của cả nước. Từng bước phát triển thành phố trở thành hiện đại, liên kết chặt chẽ về qui hoạch, kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội với các tỉnh miền Trung để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH và bảo vệ môi trường, góp phần cùng cả nước mở rộng hợp tác, nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế nước ta trên thị trường khu vực và quốc tế. Thành phố Đà Nẵng gồm 33 phường, 14 xã, số phường nhiều gấp 2,5 lần số xã. Theo số liệu thống kê dân số đến năm 2000 là 730.000 người, phân bố không đều giữa năm quận nội thành. Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố. Một số phường ở Đà Nẵng được nâng cấp từ xã lên, có phường dân số động, diện tích hẹp, mật độ dân số cao (phường Hải Châu 2 mật độ dân số 43.866 người/km2). Dân số, ngành nghề ở phường thường xuyên biến động do sự thay đổi, di dân, di chuyển, công tác... các phường ở trung tâm thành phố là nơi tập trung nhân lực, cơ sở vật chất, các loại hình văn hóa, xã hội, an ninh, chính trị tương đối phức tạp. Về kinh tế 33 phường ở Đà Nẵng là nơi tập trung các hoạt động thương mại, kinh doanh, dịch vụ, văn hóa xã hội... nên tốc độ phát triển kinh tế nhanh. Những năm qua, nhờ xác định đúng cơ cấu kinh tế là công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đoàn kết một lòng vượt qua khó khăn, phát huy tiềm năng, lợi thế nên đã đạt được bước phát triển tương đối toàn diện. Về chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng, ý thức được sự ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới; nền tảng để duy trì ổn định chính trị - xã hội là tập trung phát triển kinh tế, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, Đảng bộ các phường ở Đà Nẵng chú trọng và dành nhiều công sức cho sự phát triển các lĩnh vực xã hội đã tạo nên bước chuyển mới trên các mặt: Thành phố hoàn thành sớm việc phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, là địa phương thứ hai sau Hà Nội được công nhận đạt chuẩn quốc gia phổ cập trung học c ơ sở. Số học sinh các cấp học, ngành học tăng nhanh hàng năm, nhất là ở trung học cơ sở và phổ thông trung học. Hiện nay thành
  18. phố đã có 33/33 phường được công nhận chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu học, xóa mù chữ và phổ cập trung học cơ sở. Bằng nhiều hình thức và phương cách, trong 5 năm qua thành phố đã tạo việc làm cho 7.780 vạn người, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm ổn định cho 1,55 vạn lao động trong các thành phần kinh tế. Năm 2001, thành phố đã cơ bản xóa hộ đói, và giảm số hộ nghèo xuống còn 5,1% (theo chuẩn mới), đời sống dân cư thành thị được nâng lên đáng kể, đặc biệt là các hộ chính sách có mức sống trung bình so với khu vực. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" được các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng và đạt kết quả tốt. Công tác vận động quần chúng, cải cách hành chính, xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng thường xuyên được tăng cường. Qui chế dân chủ được triển khai đến các loại hình cơ sở; thực hiện cơ chế "một cửa" trong các dịch vụ bước đầu đạt kết quả tốt. Việc tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được tổ chức tốt (không có tồn đọng). Vai trò, chất lượng và hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp được nâng cao. Những thành tựu đổi mới của Đà Nẵng trong gần 6 năm qua là kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố, đã và đang tạo ra thế và lực mới để Đà Nẵng tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển đó chỉ mới bước đầu, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Đà Nẵng. Muốn trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại dịch vụ, du lịch, văn hóa, khoa học kỹ thuật của miền Trung, các Đảng bộ phường Đà Nẵng phải giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau: 1.2.1.2. Nhiệm vụ chính trị của các Đảng bộ phường Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XVIII (tháng 2 năm 2001) đề ra phương hướng chung là: Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quán triệt phương châm "phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt", tăng cường khối đoàn kết thống nhất, phát huy cao độ nội lực kết hợp khai thác mọi nguồn lực bên ngoài, tận dụng mọi
  19. thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu về kinh tế, phát triển về văn hóa và khoa học công nghệ, đảm bảo quốc phòng - an ninh, hệ thống chính trị vững mạnh, dân trí ngày càng được nâng cao, cảnh quan thiên nhiên, môi trường đô thị lành mạnh, sạch đẹp, vươn lên xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ của miền Trung và cả nước [3, tr. 41]. Từ phương hướng chung và mục tiêu cụ thể từ năm 2001 đến năm 2005, 33 Đảng bộ có những nhiệm vụ cụ thể như sau: Một là, xác định chủ trương, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng...và lãnh đạo thực hiện các chủ trương đó ở phường trên cơ sở quán triệt, chấp hành nghiêm chỉnh các nghị quyết, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Hai là, làm tốt công tác giáo dục tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân, phát huy truyền thống yêu quê hương, đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần làm chủ, đoàn kết, gắn bó yêu thương giúp đỡ nhau trong cộng đồng dân cư. Làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của thành phố, quận và phường. Ba là, lãnh đạo xây dựng tổ chức chính quyền, đoàn thể nhân dân, đơn vị kinh tế sự nghiệp ở phường; xây dựng và thực hiện qui hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tổ chức đó. Cấp ủy phường quyết định các vấn đề về tổ chức Đảng và quản lý cán bộ theo phân cấp. Bốn là, Đảng bộ phường lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo điều lệ của mỗi đoàn thể, phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trước hết là những chủ trương, chính sách về xây dựng và quản lý đô thị, giải quyết việc làm và các chính sách xã hội khác. Năm là, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Thường xuyên làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên mới đúng tiêu chuẩn, nguyên tắc, thủ tục, coi trọng chất lượng, bảo đảm số
  20. lượng. Chú trọng phát triển đảng trong đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nhất là những đoàn viên ưu tú đang công tác, sinh hoạt tại cụm dân cư, tổ dân phố. 1.2.2. Đặc điểm các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng Một là, Đảng bộ phường ở Đà Nẵng là sự đa dạng về loại hình các chi bộ, trong đó chiếm số đông là chi bộ tổ dân phố. Các Đảng bộ phường ở Đà Nẵng phân bố không đều giữa 5 quận nội thành. Biểu 1.1: Phân bố Đảng bộ, chi bộ và số đảng viên ở các quận trong thành phố Tổng số Đảng Tổng số Tổng số Quận bộ cơ sở Chi bộ đảng viên (phường) 1. Hải Châu 12 211 4.498 2. Sơn Trà. 7 98 1.574 3. Thanh Khê. 8 121 2.373 4. Liên Chiểu. 3 49 882 5. Ngũ Hành Sơn 3 54 898 Tổng cộng 33 533 10.222 Nguồn: Ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng. Theo số liệu thống kê đến tháng 12/2002 cho thấy, số lượng đảng bộ cơ sở và chi bộ giữa các quận chênh nhau đáng kể, chủ yếu tập trung ở trung tâm thành phố, còn những địa bàn mới thành lập thì tổ chức Đảng còn ít, nhất là hai quận Liên Chiểu và Ngũ Hành Sơn. Đảng bộ phường ở Đà Nẵng bao gồm nhiều loại chi bộ, nhưng có thể phân ra thành hai loại. Loại thứ nhất là những chi bộ được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn như: công an, khối ủy ban nhân dân và văn phòng, trường học (mẫu giáo, tiểu học và trung học cơ sở), hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ... Đây là những chi bộ quan trọng nhất, đa số đảng viên còn trẻ, đang tham gia công tác trên các lĩnh vực của phường và thường giữ các cương vị chủ chốt. Loại thứ hai là những chi bộ gồm đa số đảng viên đã về hưu hoặc mất sức lao động. Toàn thành phố Đà Nẵng hiện có 261 khối phố, 2275 tổ dân phố, tất cả các phường đều thành lập theo khối phố. Trong đó: + Khối phố có 1 chi bộ: 226 khối phố.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2