intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn đề tài: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

147
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn đề tài: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, vừa là bản chất và đặc trưng của chế độ mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình". Trong quá trình xây dựng đất nước, quyền dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước trước hết và chủ yếu thông qua các cơ quan dân cử. Trong những năm 80 - 90 của thế kỷ XX tình hình vi phạm quyền dân chủ, tệ quan liêu tham nhũng diễn ra trầm trọng dẫn đến tình trạng khiếu kiện tập thể, sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân, làm giảm mạnh lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hóa một bước Chỉ thị này, ngày 15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/NĐ-CP ban hành kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và đã được sửa đổi, bổ sung thay thế bằng Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003. Đây là những văn bản quan trọng do Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, chuyên quyền độc đoán, hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ trong nhân dân, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngoài những mặt tích cực đạt được đã bộc lộ những điểm chưa hoàn chỉnh như: Tính dân chủ hóa, công khai hóa trong việc cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến đời sống hằng
  3. ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế. Việc thực hiện chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương chính sách của chính quyền còn mang tính hình thức, kém hiệu quả, chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền trong việc thực hiện Quy chế dân chủ. Còn thiếu các phương thức cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một nội dung quan trọng của việc thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở. Nhiều địa phương và người dân còn xem nhẹ nghĩa vụ phải thực hiện các nội dung của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã; chưa có những chế tài cụ thể đối với những hành vi cản trở hoặc không thực hiện các nội dung của quy chế. Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển khai nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay" là việc làm cần thiết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ nói chung được rất nhiều nhà khoa học và các tác giả khác quan tâm nghiên cứu, điển hình như: VI. Lênin: Bàn về dân chủ trong quản lý xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo, cuốn: Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991; Hoàng Chí Bảo: Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Thông tin lý luận số 9/1992; Nguyễn Đăng Quang: Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ, Tạp chí Thông tin lý luận số 9/1992; PGS.TS Vũ Minh Giang: Thiết chế làng xã cổ truyền và quá trình dân chủ hóa hiện nay ở nước ta, Tạp chí Thông tin lý luận số 9/1992; Lê Văn Tuấn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ, Tạp chí Thông tin lý luận số 9/1992; TS.Đỗ Trung Hiếu: Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Đào Trí úc: Củng cố các hình thức dân chủ và sự vững mạnh của nhà nước ta, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/1998; Nguyễn Đăng Dung: “Dân chủ” làng xã - Những vấn đề cần phải đặt ra nghiên cứu, Tạp chí Cộng sản số 6/1998; Lê Minh Thông: Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước ta trong giai đoạn
  4. hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2000; Lê Hồng Hạnh: Bàn về các đảm bảo pháp lý của dân chủ, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 4 (51) - 2000; Trần Thị Băng Thanh: Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ Triết học bảo vệ năm 2002 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, các bài viết, công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở chỗ: Tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Đánh giá, tổng kết những thành tựu và những khó khăn sau hơn 6 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã như: Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã một số vấn đề lý luận và thực tiễn (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 do PGS. TS. Dương Xuân Ngọc chủ biên; sách chuyên khảo của tác giả TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông (đồng chủ biên): Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; cuốn: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn do PGS. TS Nguyễn Cúc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; cuốn : Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay do TS KH. Phan Xuân Sơn (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; PGS.TS. Vũ Văn Hiền (chủ biên): Phát huy dân chủ ở xã, phường và cuốn Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm của Thuỵ Điển và Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay (Đề tài cấp bộ năm 2002 - 2003) do Viện chủ nghĩa xã hội khoa học Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì). Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết đăng trên các báo, tạp chí về tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của các địa phương trong cả nước như: Trương Quang Được: Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 12/2002; Phạm Gia Khiêm: Thực hiện Quy chế dân chủ với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 9/2000; Lê Khả Phiêu: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 4/1998; Đỗ Mười: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản số
  5. 20/1998; Trần Quang Nhiếp: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở sau 2 năm nhìn lại, Tạp chí Cộng sản số 11/2000...; Phạm Quang Nghị: Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Hà Nam, Tạp chí Cộng sản số 5/2000; Nhật Tân: Hà Nội sau 5 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 32/2003; Nguyễn Đại Khởn: Kết quả và kinh nghiệm bước đầu sau 5 năm triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Nam Định, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 7/2004; Lê Kim Việt: Qua 3 năm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở nông thôn, Tạp chí cộng sản số 18/2002... Nhìn chung các bài viết đã lý giải về tính tất yếu phải xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, qua thực tiễn khảo sát việc thực hiện quy chế ở các địa phương, vùng miền trong cả nước để đưa ra những thành tựu đã đạt được của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã cũng như rút ra những bất cập, hạn chế, vướng mắc của Quy chế, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và hoàn thiện pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, những tài liệu nêu trên có giá trị tham khảo tốt cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn. 3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, bao gồm nhiều loại như: Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (phường, thị trấn), quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp... Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (được ban hành kèm theo Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ, đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003). Trong đó, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thực trạng quy chế và thi hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã từ năm 1998 đến nay. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã trong điều kiện mới. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân chủ và Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, từ thực trạng Quy chế và thi hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số phương hướng và các giải pháp pháp lý cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã trong thời kỳ mới.
  6. - Từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: + Đưa ra khái niệm, phạm vi điều chỉnh và vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã; xác định các tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. + Phân tích, đánh giá thực trạng Quy chế và thi hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở Việt Nam hiện nay. + Đối chiếu, liên hệ với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, bước đầu đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng nền dân chủ XHCN, về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch sử - cụ thể; phân tích - tổng hợp, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: Thống kê, so sánh, điều tra xã hội học. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn nghiên cứu xác định khái niệm, tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. - Phân tích, đánh giá một cách tương đối có hệ thống toàn diện thực trạng và những nguyên nhân tồn tại của Quy chế và thực thi Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp pháp lý cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở Việt Nam hiện nay và hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan trong điều kiện mới. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay đang đặt ra đối với hoạt động thực hiện quyền dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
  7. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy trong các trường chính trị, pháp lý cũng như nghiên cứu hoàn thiện pháp luật thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam trong thời gian tới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  8. Chương 1 Cơ sở lý luận về hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã 1.1. khái quát về dân chủ và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa 1.1.1. Dân chủ và quyền dân chủ trong học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 1.1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa a) Dân chủ trong học thuyết Mác - Lênin Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do 2 từ hợp thành Demos (dân chúng) và Cratos (quyền lực hay cai trị). Như vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự cai trị của nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định [61, tr.653]. Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân là một trong những hình thức tổ chức chính trị nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Dân chủ XHCN là một hình thức dân chủ do nhân dân lao động chủ động thiết lập trong tiến trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thông qua đội chính trị tiên phong của nó, là Đảng Cộng sản. Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" C.Mác và Ph. Ăng - ghen đã cho rằng: "Trước hết giai cấp công nhân phải tự mình tổ chức thành giai cấp thống trị và giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp của nó là giành lấy quyền lực nhà n ước". Như vậy dân chủ XHCN có mục đích tự thân, giành lấy dân chủ là để tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vì mục tiêu đem lại hạnh phúc, ấm no, tự do, bình đẳng cho mọi người lao động. C.Mác đã dự báo điều đó rằng: "Thay cho xã hội tư bản cũ với những giai cấp và đối kháng, giai cấp của nó sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của
  9. mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [34, tr.628]. Sau này, Lênin tiếp tục phát triển tư tưởng ấy trong điều kiện mới. Theo Lênin thì dân chủ gắn bó hữu cơ, mật thiết với CNXH. Người viết: Không có chế độ dân chủ thì CNXH không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây: 1. Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng XHCN nếu họ không chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. 2. Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không đưa được nhân loại đi đến thủ tiêu Nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ [31, tr.628]. Thứ nhất: Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện và phát triển với tư cách là sản phẩm, là kết quả trực tiếp của đời sống chính trị, của sự vận động chính trị của các giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề quyền lực thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Chế độ dân chủ của một xã hội thường tìm thấy phương thức biểu hiện phổ biến của nó ở chế độ nhà nước. Nhà nước như là một thiết chế chính trị để thực hiện dân chủ tuy không phải bất cứ chế độ nhà nước nào cũng là chế độ dân chủ. Lịch sử đã từng biết tới các hình thức nhà nước chuyên chế, quân chủ (dưới các triều đại và chế độ phong kiến) cũng như Nhà nước phát xít, các khuynh hướng độc tài và phát xít hóa Nhà nước trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Đó là những chế độ Nhà nước phản dân chủ, xung đột gay gắt với quyền dân chủ của công dân và xã hội nói chung. Sự trùng hợp giữa dân chủ với Nhà nước đòi hỏi tổ chức và bộ máy nhà nước được xây dựng nên cùng với công cụ của nó là pháp luật phải ít nhiều mang tính chất tiến bộ, đáp ứng được những mức độ nào đó của lợi ích nhân dân và nhu cầu xã hội. Do vậy các cuộc đấu tranh cho dân chủ diễn ra trong lịch sử bao giờ cũng phản ánh và gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh xã hội. Nó đụng chạm trực tiếp tới những cải cách hoặc phá bỏ chế độ nhà nước này hay chế độ nhà nước khác. Quyền thống trị của giai cấp này hay giai cấp khác. Xét trên bình diện xã hội và quản lý xã hội, giải quyết vấn đề dân chủ có nội dung căn bản của nó ở chỗ giải quyết vấn đề Nhà nước. Lênin viết: …Dân chủ là sự thống trị của đa số. Chừng nào mà ý chí của đa số vẫn còn mờ tối, chừng nào mà người ta vẫn có thể, dù chỉ là hơi giống như thế
  10. thôi, cho ý chí đó là còn mờ tối, thì chừng đó người ta vẫn còn đưa ra cho nhân dân một Chính phủ của bọn tư sản phản cách mạng dưới chiêu bài Chính phủ "dân chủ". Nhưng tình trạng đó không thể kéo dài được. Trong vài tháng đã trôi qua kể từ ngày 27/2 trở đi, ý chí của đa số công nhân và nông dân, tức là tuyệt đại đa số dân cư trong nước, đã thể hiện ra rõ rệt. nhưng không phải chỉ dưới một hình thức chung mà thôi. ý chí đó đã biểu hiện rõ trong các tổ chức có tính chất quần chúng - các Xô - Viết đại biểu công nhân, binh sĩ và nông dân. Vậy làm sao người ta lại có thể phản đối việc chuyển toàn bộ chính quyền nhà nước về tay các Xô - Viết ấy được? Như thế không có nghĩa khác hơn là từ bỏ dân chủ [29, tr.515-516]. Xét từ góc độ lợi ích trong xã hội đã phân chia thành giai cấp và hình thành Nhà nước thì không thể có dân chủ thuần tuý, dân chủ tuyệt đối và dân chủ chung cho tất cả mọi người không phân biệt giai cấp. Tính chất giai cấp của dân chủ đã và sẽ còn tồn tại chừng nào xã hội còn tồn tại giai cấp và Nhà nước. Dân chủ chủ nô trong chế độ chiếm hữu nô lệ, dân chủ tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dân chủ XHCN trong CNXH là những hình thức và trình độ khác nhau của sự phát triển dân chủ trong lịch sử. Dân chủ của ai, quyền lực thuộc về giai cấp hay lực lượng xã hội nào, giải quyết vấn đề lợi ích và quyền lực trên lập trường giai cấp nào trong những điều kiện lịch sử - cụ thể của một chế độ xã hội… Tính xác định có trong những câu hỏi đó cho thấy không thể có câu trả lời trừu tượng, phi lịch sử, thoát ly khỏi những giới hạn và ràng buộc giai cấp trong vấn đề dân chủ. Điều này chứng tỏ rằng, mọi nghiên cứu về dân chủ nếu không tựa vững chắc trên cơ sở kinh tế - xã hội và có sự nhất quán về quan điểm chính trị, tính thống nhất và sự chi phối lẫn nhau giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của một giai cấp xác định thì không thể chỉ ra bản chất của dân chủ. Lý luận về tính giai cấp của dân chủ, vì lẽ đó là yếu tố quan trọng nhất, là điểm xuất phát dẫn tới các vấn đề khác có trong lý thuyết và tư tưởng về dân chủ. Thứ hai: Dân chủ không chỉ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm của sự vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tế xã hội mà
  11. dân chủ còn là thành tựu của nền văn hóa nhân loại, là thước đo về trình độ giải phóng con người và xã hội mà loài người đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử. Mỗi bước tiến của dân chủ và mỗi trình độ phát triển của dân chủ là những nấc thang khác nhau của tiến bộ xã hội. Phản ánh những kết quả khác nhau theo xu h ướng ngày càng cao hơn và hoàn thiện hơn của tổ chức xã hội, của quản lý nhà nước và quản lý xã hội nói chung. Sự phát triển của dân chủ đồng thời là nhân tố kích thích và cũng là kết quả sự mở rộng và nâng cao tính tích cực chính trị của quần chúng. Việc quần chúng nhận được nhiều hay ít những khả năng và điều kiện để tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, các công việc quản lý xã hội, các hoạt động chính trị, điều đó phụ thuộc vào mức độ phát triển thực tế của dân chủ xã hội. Của pháp luật dân chủ và tiến bộ xã hội. Với dân chủ, con người chuyển từ thế bị động, lệ thuộc bởi giai cấp bóc lột, thống trị tới chỗ xác lập vai trò chủ thể, tích cực trong xã hội mà mình trở thành người chủ. Việc nhân dân lao động giành lấy dân chủ thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội để thay thế chế độ xã hội cũ bằng chế độ xã hội mới tiên tiến hơn, dân chủ hơn có ý nghĩa tích cực về chính trị và văn hóa. Để có quan niệm đúng đắn và toàn diện về bản chất của dân chủ XHCN cần phải khắc phục tính chất phiến diện trước đây thường dẫn tới đồng nhất giản đơn giữa dân chủ với Nhà nước, với chế độ nhà nước và từ đó quan niệm rằng sự tiêu vong của Nhà nước (đến một lúc nào đó trong tiến trình phát triển của lịch sử) cũng đồng thời là sự tiêu vong của dân chủ. Điều đó đem lại cảm giác rằng, dường như dân chủ là một vấn đề tạm thời, vấn đề quyền lực của giai cấp thống trị gắn liền với tổ chức và bộ máy nhà nước. Cũng do đó, trong quan niệm truyền thống dân chủ chỉ được xem như một phạm trù lịch sử. Phương pháp tiếp cận hệ thống khắc phục tình trạng ấy bằng cách xác định một tập hợp các yếu tố nổi bật và quan trọng nhất dưới đây: - Dân chủ được xét với tư cách là hình thức tổ chức xã hội, là phương thức quản lý và điều hành xã hội được xây dựng thành các thiết chế, Quy chế, chế độ được bảo đảm về mặt pháp lý và được biểu hiện thành trật tự của tổ chức, bộ máy nhà nước. Dân chủ trở thành một hình thức tổ chức nhà nước, thông qua tổ chức và quản lý để thực hiện quyền lực đối với xã hội. Lẽ đương nhiên, chủ thể trực tiếp của quyền lực đó trước hết thuộc về
  12. một giai cấp hoặc lực lượng xã hội nào nắm quyền điều khiển, chi phối xã hội. Trong mối tương quan với quyền lực nhà nước và chế độ nhà nước, dân chủ ở đây được hiểu là chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Với ý nghĩa này và trong mối quan hệ giữa chế độ dân chủ với chế độ nhà nước thì dân chủ mới là một phạm trù lịch sử. Nói cách khác dân chủ chỉ là phạm trù lịch sử và chỉ tiêu vong với nghĩa dân chủ được xây dựng thành chế độ quyền lực và được tổ chức thành chế độ nhà nước. Sự tiêu vong của Nhà nước chỉ làm mất đi các hình thái biểu hiện quyền lực bằng Nhà nước của dân chủ chứ không làm mất đi nhu cầu xã hội của dân chủ mà thực chất của nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn đề của chính bản thân họ. Nó cũng không làm mất đi các giá trị của dân chủ mà trung tâm của các giá trị này là tự do, là thành quả đấu tranh xã hội để giành lấy tự do cho con người, con người trở thành tự do, làm chủ và sáng tạo. Nền dân chủ, chế độ dân chủ từng xuất hiện từ thời cổ đại và sẽ còn tồn tại lâu dài trong lịch sử. Theo dự kiến của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ đến khi chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi hoàn toàn, khi ấy Nhà nước trở nên thừa, nó sẽ tự tiêu vong, lúc ấy mới có thể đi tới sự tiêu vong của chế độ dân chủ. Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", Lênin đã nhấn mạnh rằng: Trong những nhận định thông thường về Nhà nước, người ta luôn luôn phạm một sai lầm mà Ăng ghen đã căn dặn phải đề phòng ở đây… Sai lầm ấy là: Người ta luôn quên rằng thủ tiêu Nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ và Nhà nước tiêu vong cũng là chế độ dân chủ tiêu vong… và chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của Nhà nước…. chế độ dân chủ càng hoàn bị bao nhiêu thì nó càng gần đến lúc trở thành thừa bấy nhiêu [30, tr.101]. - Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Dân chủ với tư cách quyền lực của nhân dân được coi như một giá trị đứng ngang hàng với các giá trị cơ bản khác của con người, như tự do, bình đẳng, tôn trọng phẩm giá con người. Giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần
  13. chúng nhân dân. Sự kết hợp tất yếu và tự nhiên giữa dân chủ và CNXH là ở đó. CNXH tìm thấy dân chủ một thuộc tính bản chất, một trong những động lực phát triển nội tại của mình. Dân chủ trên con đường tiến hóa và phát triển tìm thấy ở hình thức tổ chức xã hội XHCN những khả năng và điều kiện tốt nhất để bộc lộ đầy đủ tiềm lực, sức mạnh bản chất, chân giá trị của mình. b) Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, kế thừa và phát triển những tư tưởng của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng tiến bộ của phương Đông, phương Tây kết hợp với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Người đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân và giá trị của dân chủ đối với cách mạng. Người cho rằng: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân" [40, tr.705]. "Nước lấy dân làm gốc" toàn bộ sự nghiệp cách mạng là vì dân, do dân tiến hành. Dân là chủ thể, là lực lượng của cách mạng, dân phải được chăm lo chu đáo về vật chất và tinh thần. Người xác định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Theo tư tưởng Hồ Chí Minh dân chủ phải được thực hiện đồng thời trên ba mặt gắn bó hữu cơ với nhau: Nâng cao dân trí, thực hiện dân quyền và bảo đảm dân sinh. Dưới sự lãnh đạo của Người, những tư tưởng đó đã dần đi vào cuộc sống thông qua việc thực hiện những đường lối, chủ trưởng, chính sách của Đảng và Chính phủ được thể hiện như sau: * Nâng cao dân trí: Với hoàn cảnh kinh tế xã hội đương thời, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với hơn 95% số dân mù chữ, với những tàn dư, nếp sống, thói quen lạc hậu, Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp dân chủ hóa ở n ước ta phải được bắt đầu từ việc thực hiện chủ trương diệt giặc dốt. Người nói: Nay chúng ta đã giành được độc lập; một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí" và "Mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ [36, tr.29].
  14. Nhờ chủ trương đúng đắn này và với sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân mà chỉ sau một thời gian ngắn dưới chế độ mới đa số nhân dân ta đã có thể tự tay viết lá phiếu bầu những Đại biểu xứng đáng vào Quốc hội đầu tiên của một nước độc lập. Chủ trương của Hồ Chí Minh về "diệt giặc dốt", xóa nạn mù chữ là nhất quán và xuyên suốt trong quá trình thực hành dân chủ, khi bắt đầu cách mạng XHCN ở miền Bắc Người khẳng định: "Dốt thì dại, dại thì hèn. Vì không chịu dại, chịu hèn cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ mới" [39, tr.237]. Trong những năm cuối đời Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm đến vấn đề này. Người thường xuyên đến thăm hỏi, khen ngợi những đơn vị, những địa phương làm tốt công tác xóa mù chữ, nhắc nhở, động viên, hướng dẫn những nơi làm chưa tốt. Bản thân việc xóa nạn mù chữ không phải là mục đích cuối cùng. Xóa nạn mù chữ là một bước để tiến tới việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân. Người nói: Thanh toán nạn mù chữ là bước đầu nâng cao trình độ văn hóa. Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh [39, tr.551]. Vì vậy Hồ Chí Minh cùng với Đảng và Chính phủ luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nhân dân về kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật và cả về giáo dục chính trị, tư tưởng. Giáo dục kiến thức văn hóa - khoa học kỹ thuật có tác dụng tạo ra cơ sở cho việc thực hiện dân chủ. Người lao động có trình độ văn hóa, trình độ khoa học và kỹ thuật mới làm chủ được sản xuất, làm chủ xí nghiệp, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để cải tiến sản xuất, cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, làm cho kinh tế phát triển. Trên cơ sở đó mới có thể nâng cao đời sống nhân dân, mặt khác, giáo dục văn hóa còn có tác dụng nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân. Có trình độ văn hóa ngày càng cao nhân dân mới có thể hiểu được và thực hiện đúng đường lối chính sách của Đảng, hiểu và tuân thủ pháp luật, các quy tắc sinh hoạt xã hội, thấm nhuần và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, biết cái gì đúng,
  15. cái gì sai, cái gì hợp đạo lý, không hợp đạo lý. Mục tiêu của giáo dục văn hóa là: "Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm" [42, tr.508]. Giáo dục chính trị, tư tưởng có tác dụng nâng cao ý thức làm chủ của nhân dân. Đây là một vấn đề quan trọng, bởi vì nhân dân ta lúc này còn ch ưa ý thức được đầy đủ vai trò, địa vị của người làm chủ, cũng như các quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân. Muốn làm chủ trong quá trình cách mạng. Thì nhân dân phải được giác ngộ, tập hợp, đoàn kết thành sức mạnh. Để thực hiện quyền làm chủ nhân dân không những phải có quyền mà điều quan trọng phải có năng lực làm chủ. Người cho rằng "Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà" [36, tr.29]. * Thực hiện dân quyền Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dân chủ không phải là cái gì cao siêu cả, mà rất rõ ràng, cụ thể. Người chỉ rõ: "Có việc gì, thì ai cũng được bàn, khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn là được. ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi thì giao cho hội ủy viên làm, khi ấy thì tất cả hội viên phải theo mệnh lệnh hội ấy. ấy là tập trung". Trong quá trình hoạt động cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dặn dò, nhắc nhở phải trân trọng và bảo đảm quyền của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân lao động. Đó là quyền góp ý, thảo luận, phê bình, kiểm tra, giám sát, tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Với chủ trương xây dựng một nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật. Người đã chỉ đạo việc xây dựng hai bản Hiến pháp 1946 và 1959, trực tiếp ký 16 đạo luật, 300 văn bản dưới luật. Tinh thần của các bản Hiến pháp do Hồ Chí Minh xây dựng là: Bảo đảm được các quyền tự do, dân chủ cho các tầng lớp nhân dân trên cơ sở công nông liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng. Chính người đã chỉ ra rằng: Công dân nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa: Có quyền làm việc. Có quyền nghỉ ngơi. Có quyền học tập.
  16. Có quyền tự do thân thể. Có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình. Có quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Có quyền bầu cử, ứng cử… [40, tr.567]. Và các quyền đó phải đi đôi với nghĩa vụ: Tuân theo hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội - công dân có nghĩa vụ tôn trọng tài sản công cộng, đóng thuế theo luật pháp, làm nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc [40, tr.586]. Để bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân, để bảo đảm công bằng và bình đẳng giữa các công dân, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc xây dựng hệ thống luật pháp. Hiến pháp và pháp luật có tác dụng giáo dục, thuyết phục là chính nhưng cũng "Thẳng tay trừng trị kẻ bất lương, bất kỳ người ấy ở đơn vị nào, làm nghề gì" [37, tr.245]. Tuy nhiên, Người cũng không có ảo tưởng rằng khi đã có luật là đã có thể sống và làm việc theo luật một cách đầy đủ và ngay lập tức, vì tư tưởng cũ, tập quán cũ đã ăn sâu bén rễ trong nhân dân. Vì vậy, khi công bố một đạo luật "Chưa phải là mọi việc đã xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện tốt" [40, tr.499]. Để có thể làm trọn chức năng của dân, do dân, vì dân, ngoài việc xây dựng và thi hành Hiến pháp và luật, Nhà nước cần phải tạo ra các điều kiện vật chất và tinh thần giúp nhân dân thực hiện các quyền dân chủ, hướng dẫn nhân dân phát huy các quyền làm chủ của mình. Người nói: "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tính cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước" [40, tr.563]. Không những thiết lập và điều hành Nhà nước, Hồ Chí Minh còn luôn quan tâm đến hoạt động của bộ máy Nhà nước các cấp, đặc biệt quan tâm đến những khuyết tật có thể có của bộ máy nhà nước, đó là bệnh quan liêu, xa rời nhân dân và sự thoái hóa, biến chất về phẩm chất đạo đức của người cán bộ. Người cho rằng, đối với một nhà nước dân chủ có 3 điều phải chống là "Nạn tham ô, nạn lãng phí, bênh quan liêu" và "Tham ô, lãng
  17. phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng" [38, tr.205-207]. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra cách chữa bệnh quan liêu: "Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều: - Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết. - Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. - Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. - Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. - Sẵn sàng học hỏi nhân dân. - Tự mình phải làm gương cần, kiệm liêm chính để nhân dân noi theo [38, tr.113]. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân gắn với công bằng xã hội, được thực hiện trong thực tế, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với nhiều cấp độ khác nhau, được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Dân chủ là một mặt của quá trình hoàn thiện thể chế quản lý xã hội. Đó là Nhà nước pháp quyền dựa trên một nền dân chủ phát triển. Dân chủ bao gồm cả 2 mặt: Quyền lợi và nghĩa vụ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. * Bảo đảm dân sinh Hồ Chí Minh thường dùng câu châm ngôn "Có thực mới vực được đạo" để chỉ rõ mối quan hệ của các quá trình vật chất và tinh thần. Ngay những ngày đầu của chính quyền cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp, Người thường nêu khẩu hiệu "Chống giặc đói" lên hàng đầu. Suốt cuộc đời Người thường mong muốn và phấn đấu thực hiện để mọi người Việt Nam được no ấm, đời sống của nhân dân ngày một được nâng cao. Không thể nói đến dân chủ và thực hành dân chủ khi dân không có cơm ăn, áo mặc. Không thể có dân chủ trong đói nghèo, lạc hậu và không thể phát triển dân chủ nếu đời sống của nhân dân không được nâng cao. Hồ Chí Minh cho rằng, điều quan trọng bậc nhất của các kế hoạch kinh tế là nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân và "Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là hai việc cần thiết nhất để phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội" [39, tr.623]. Mặt khác, người nhắc nhở: "Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực
  18. sự" [39, tr.4]. Hồ Chí Minh đã triển khai tư tưởng này trong thực tế, người luôn quan tâm đến việc làm sao để tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, cải tiến quản lý, hợp lý hóa sản xuất; chăm lo giáo dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, việc làm cho nhân dân và thực hiện cải cách xã hội khác nhằm làm cho đời sống của nhân dân ngày một nâng cao, góp phần thực hiện dân chủ thực sự. Luận điểm này còn có giá trị phương pháp luận, nó khẳng định rằng mọi biện pháp, bước đi, con đường xây dựng đất nước, mọi đường lối, chủ trương, cải cách, cải tạo, cải tiến, đổi mới là đúng đắn và có kết quả nếu thoả mãn được 2 yêu cầu: Đời sống và dân chủ cho nhân dân. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, nguồn gốc của mọi thắng lợi là sức mạnh của nhân dân. Thực tiễn ngày càng khẳng định quan điểm khoa học, cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Dân chủ là bản chất của chế độ, của Nhà nước ta. Quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong ý tưởng, qua lời nói mà được ghi nhận trong Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật. Đặc biệt trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội, nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhờ đó, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. 1.1.1.2. Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa Nếu hiểu dân chủ là quyền lực nhà nước thuộc về người dân, nhân dân làm chủ xã hội và tham gia vào việc quản lý xã hội, thì quyền dân chủ là tất cả những quyền năng nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước của người dân được luật pháp ghi nhận. Đó là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và các chủ thể khác trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nó bao gồm các quyền về dân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Như vậy khi nói tới quyền dân chủ hay các giá trị dân chủ được thể chế hóa trước hết phải xác định nguồn gốc của nó là do pháp luật thừa nhận và quy định phù hợp với
  19. điều kiện kinh tế, chính trị của xã hội trong từng thời kỳ. Sau đó Nhà nước bảo đảm cho các giá trị đó được thực hiện trên thực tế. Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà n ước XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện, bao gồm các quy định về quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và các chủ thể khác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… bảo đảm cho nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quyền dân chủ XHCN được thể hiện trong các lĩnh vực: - Quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị: Đây là nhóm quyền quan trọng và trước hết đối với người dân của bất kỳ một quốc gia nào. Nó xác định tư cách hay địa vị của công dân trong xã hội. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị, theo Lênin: áp dụng chế độ dân chủ Xô Viết, tức là chế độ dân chủ vô sản một cách cụ thể nhất… trước hết các cử tri đều phải là quần chúng cần lao và bị bóc lột… Hai là: Mọi thủ tục và những hạn chế có tính quan liêu đều bị xóa bỏ, quần chúng tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu cử, hoàn toàn có quyền tự do bãi miễn những người mà họ bầu ra [28, tr.343]. ở Việt Nam, nhân dân là chủ thể chân chính và duy nhất của quyền lực xã hội; Nhà nước, pháp luật và các thiết chế công quyền chỉ là đại diện thừa hành, hay công cụ tiện dụng của nhân dân, nhằm thực hiện quyền lực ấy một cách có tổ chức và hiệu quả. Quyền chính trị là các quyền xác định khả năng của công dân vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bao gồm: Quyền có quốc tịch, quyền được sống trong một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; các quyền bầu cử là quyền được lựa chọn hay bãi nhiệm những đại biểu đại diện cho mình để thiết lập nên các cơ quan đại diện (cơ quan quyền lực nhà nước), hay tự mình ứng cử để tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích chính đáng của công dân; các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, lập hội, hội họp, biểu tình. - Quyền dân chủ trong lĩnh vực dân sự, kinh tế:
  20. + Quyền dân sự là các quyền tự nhiên, gắn liền với mỗi con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ bao gồm: Các quyền nhân thân (quyền đối với họ, tên, hình ảnh, quyền đối với quốc tịch, nơi cư trú, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, bí mật đời tư, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đi lại…); các quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự… Quyền dân sự cho phép con người bảo vệ được cá tính là chính mình trong quan hệ với nhà n ước và người khác. Các quyền dân sự là tiền đề để xây dựng một chế độ Nhà nước dân chủ. + Quyền kinh tế: Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức, tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Các quyền kinh tế gắn liền với việc bảo đảm cho cá nhân tự do sử dụng các đồ dùng và các yếu tố cơ bản của hoạt động sản xuất - các điều kiện sản xuất và sức lao động là một trong các điều kiện quan trọng nhất cho sự tồn tại của xã hội công dân với tư cách là cơ sở xã hội của chế độ dân chủ và cho sự bảo đảm tự do của cá nhân. Các quyền kinh tế ngày càng được mở rộng cho cá nhân, đó là việc nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, các cá nhân có quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh trong cơ chế bình đẳng, công bằng, công khai giữa các thành phần kinh tế. - Các quyền dân chủ trong lĩnh vực xã hội, văn hóa: Các quyền xã hội, văn hóa và sinh thái bao gồm quyền được bảo đảm có các điều kiện vật chất, tinh thần và môi trường trong sạch cho sự tự do và cuộc sống xứng đáng của mỗi người. Việc thực hiện các quyền này của nhân dân không chỉ bằng pháp luật và sự bảo vệ của nhà nước, mà còn đòi hỏi phải tạo ra hàng loạt các phúc lợi xã hội khác. Nhóm các quyền này quy định nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho mỗi người những điều kiện sinh tồn xứng đáng, những phúc lợi và dịch vụ vật chất tối thiểu để duy trì cuộc sống của con
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0