intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kì 2000 - 2010

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

120
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những vấn đề lí luận chung về công nghiệp và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân I-/ Công nghiệp và sự phân loại sản xuất công nghiệp. 1.Công nghiệp và những đặc trưng chủ yếu của sản xuất công nghiệp. 1.1. Khái niệm công nghiệp. Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản, là khu vực chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ, sản xuất và chế...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kì 2000 - 2010

  1. LUẬN VĂN: Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kì 2000 - 2010
  2. Chương I Những vấn đề lí luận chung về công nghiệp và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân I-/ Công nghiệp và sự phân loại sản xuất công nghiệp. 1.Công nghiệp và những đặc trưng chủ yếu của sản xuất công nghiệp. 1.1. Khái niệm công nghiệp. Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản, là khu vực chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ, sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội, khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt. Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó dưới sự tác động của phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân hình thành hệ thống các ngành công nghiệp: khai thác tài nguyên khoáng sản, động, thực vật; các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm và các ngành công nghiệp dịch vụ sửa chữa: - Hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Nó cắt đứt các đối tượng ra khỏi môi trường tự nhiên. - Chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liêu nguyên thuỷ, để tạo ra sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến để tạo ra sản phẩm cuối cùng. - Sửa chữa là một hoạt động không thể thiếu được nhằm khôi phục, kéo dài tuổi thọ của các tư liệu lao động trong các ngành sản xuất. Từ những nội dung đã trình bày trên có thể hiểu công nghiệp là một ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp, mỗi ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình thức khác nhau. Trên góc độ trình
  3. độ kĩ thuật và hình thức tổ chức sản xuất,công nghiệp còn được cụ thể hoá bằng các khái niệm khác nhau như: công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp lớn và công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp nằm trong nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, công nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh... 1.2. Đặc trưng của sản xuất công nghiệp. a) Các đặc trưng về mặt kĩ thuật-sản xuất của công nghiệp - Đặc trưng về công nghệ sản xuất: Trong công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ lí hoá của con người làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người. Khác với nông nghiệp quá trình tác động chủ yếu là bằng phương pháp sinh học, các tác động cơ, lí, hoá trong nông nghiệp chỉ là những tác động tạo điều kiện môi trường sinh thái để cây trồng, vật nuôi có thể phát triển. Nghiên cứu đặc trưng về công nghệ sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ thích ứng với mỗi ngành. Trong công nghiệp ngày nay phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãi đặc biệt là công nghiệp thực phẩm. - Đặc trưng về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kì sản xuất: Các đối tượng lao động của trình sản xuất công nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này chuyển sang các sản phẩm có công dụng cụ thể hoàn toàn khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau. Trong khi đó đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu. Nghiên cứu đặc trưng này của sản xuất công nghiệp có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn trong việc tổ chức quá trình sản xuất và chế biến, trong việc khai thác và tổng hợp nguyên liệu. - Đặc trưng về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội. Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất duy nhất tạo ra các sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế. Đặc trưng này cho thấy vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất
  4. của quá trình sản xuất đó. b) Đặc trưng về kinh tế xã hội của sản xuất. - Do các đặc điểm về mặt kĩ thuật của sản xuất trong quá trình phát triển, công nghiệp luôn là ngành có điều kiện phát triển về mặt kĩ thuật, tổ chức sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn. - Cũng do đặc điểm kĩ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất công nghiệp đào tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỉ luật cao, có tác phong lao động "công nghiệp". - Cũng do đặc trưng kĩ thuật sản xuất về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao động, trong công nghiêp có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu tạo điều kiện, tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hoá ở trình độ cao. Nghiên cứu các đặc trưng về kinh tế-xã hội có ý nghĩa thiết thực trong tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với các ngành kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia 2. Các phương pháp phân loại sản xuất công nghiệp. Một trong những nội dung quan trọng của tổ chức quản lí ngành công nghiệp là tổ chức sắp xếp hoạt động sản xuất công nghiệp thành các lĩnh vực các loại hình sở hữu và thành các ngành có đặc trưng chuyên môn hoá để hình thành các đối tượng quản lí có đặc trưng khác nhau, từ đó tổ chức hợp lí và có hiệu quả quá trình chuyên môn hoá trong hoạt động quản lí. Để thực hiện được điều này cần phải có phương pháp phân loại sản xuất dựa trên những căn cứ khoa học nhất định. 2.1.Phân loại công nghiệp thành hai ngành sản xuất: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. - Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm, phương hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng. người ta chia công nghiệp thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất
  5. và các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Các sản phẩm có chức năng là tư liệu sản xuất thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B. Vận dụng phương pháp phân loại này để sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào hai nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp của các đơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu sản xuất, đặc biệt là tư liệu lao động. Còn ngành công nghiệp nhẹ là tổng hợp các đợn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng trong sinh hoạt là chủ yếu. - Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong việc vận dụng quy luật tái sản xuất mở rộng để xây dựng mô hình cơ cấu công nghiệp phù hợp cho đất nước trong mỗi thời kì phát triển của nền kinh tế. 2.2. Phân loại công nghiệp thành ba nhóm ngành: khai thác, chế biến, điện ga và nước. - Đặc điểm của công nghiệp khai thác, chế biến, điện ga và nước. Công nghiệp khai thác có nhiệm vụ cắt đứt đối tượng lao động khỏi môi trường tự nhiên, tạo thành các loại nguyên liệu nguyên thuỷ. Công nghiệp chế biến làm thay đổi về chất của các đối tượng lao động là nguyên liệu nguyên thuỷ thành các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng. Cùng với quá trình phát triển của công nghiệp thì điện, ga và nước cũng được tách ra thành một phân ngành độc lập với công nghiệp khai thác và chế biến. Việc tách công nghiệp điện, ga và nước ra thành một ngành chuyên môn hoá độc lập vừa phù hợp với quá trình phát triển công nghiệp, khẳng định vai trò của công nghiệp điện, ga và nước; đồng thời làm cho sự phân loại trở nên chính xác hơn. - Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa vào tính chất khác nhau của sự biến đổi đối tượng lao động, sự tác động của lao động và công dụng sản phẩm của các hoạt động trên. - Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện cân đối trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, cân đối giữa nguồn nguyên liệu và chế biến nguyên liệu, xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế cân đối giữa khai thác tài nguyên và chế
  6. biến tài nguyên trong nền kinh tế quốc dân. 2.3. Phân loại công nghiệp thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp. - Ngành chuyên môn hoá hẹp là tổng hợp các xí nghiệp mà hoạt động sản xuất chủ yếu của chúng có những đặc trưng kĩ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau: + Cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự (cơ, lí, hoá hoặc sinh học). + Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại. + Sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau. Trong ba đặc trưng này thì đặc trưng về công dụng cụ thể là quan trọng nhất. -Căn cứ của phương pháp phân loại này được dựa vào các đặc trưng kĩ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau để sắp xếp các đơn vị sản xuất kinh doanh thành các ngành chuyên môn hoá. Phân loại theo phương pháp này có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng các mô hình cơ cấu cân đối liên ngành, đặc biệt đối với các sản phẩm chủ yếu, quan trọng của công nghiệp trong việc lựa chọn các hình thức tổ chức mối liên hệ sản xuất giữa các ngành. 2.4. Phân loại công nghiệp dựa và sự khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức sản xuất xã hội và trình độ kĩ thuật của sản xuất công nghiệp. -Theo phương pháp này, hình thành các loại hình công nghiệp như: công nghiệp quốc doanh, công nghiệp ngoài quốc doanh với các loại hình sở hữu khác nhau, công nghiệp lớn vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và đại công nghiệp.... -Các phương pháp phân loại này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong việc tổ chức và đầu tư vào việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong công nghiệp.
  7. II-/ Vị trí, vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. 1.- Vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế. Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vị trí đó xuất phát từ các lí do chủ yếu sau: - Công nghiệp là một bộ phận hợp thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp -dịch vụ. Do những đặc điểm vốn có của nó, trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn, công nghiệp phát triển từ vị trí thứ yếu trở thành ngành có vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế đó. - Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, công nghiệp là ngành không những chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thuỷ được khai thác và chế biến từ các loại tài nguyên khoáng sản, động thực vật thành các sản phẩm trung gian, để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người. - Sự phát triển của công nghiệp là một yếu tố có tính quyết định để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn, tuỳ theo trình độ phát triển của công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ những đặc điểm và điều kiện cụ thể của đất nước trong mỗi thời kì cần phải xác định đúng vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, hình thành phương án cơ cấu công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ và định hướng từ chuyển dịch cơ cấu đó một cách có hiệu quả. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. 2.- Vai trò và tác động của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế. 2.1. Vai trò của công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế -Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan đó xuất phát từ
  8. bản chất và những đặc điểm vốn có của sản xuất công nghiệp. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được hiểu là: trong quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp là ngành có khả năng tạo ra động lực và định hướng sự phát triển các ngành kinh tế khác lên nền sản xuất lớn. Vai trò chủ đạo đó dược thể hiện trên các mặt sau: - Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp có điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và điều kiện sản xuất hoàn thiện. Nhờ đó lực lượng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do quy luật "quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất", trong công nghiệp có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện về các mô hình tổ chức sản xuất đã làm cho công nghiệp có khă năng định hướng cho các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất đi lên nền sản xuất lớn theo "hình mẫu", theo "kiểu" công nghiệp. - Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc điểm về công nghệ sản xuất, đặc điểm về công dụng sản phẩm công nghiệp, công nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế, từ đó mà công nghiệp có vai trò quyết định trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào để xây dựng cơ sở vất chất cho toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân. - Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất- kĩ thuật, và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỉ luật và trình độ kĩ thuật cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất, công nghiệp là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ vốn để phát triển nền kinh tế, từ đó công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế như: tạo việc làm; xoá bỏ cách biệt thành thị nông thôn, giữa miền xuôi với miền núi... - Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng có chủ trương "coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu" giải quyết vấn đề cơ bản về lương thực cung cấp nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp. Để thực hiện được những nhiệm vụ
  9. cơ bản đó, công nghiệp có vai trò quan trọng cung cấp các yếu tố đầu vào và giải quyết đầu ra đưa nông nghiệp lên nền sản xuất hàng hoá. 2.2. Những tác động của phát triển công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế. 2.2.1. Phát triển công nghiệp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Phát triển công nghiệp là chìa khoá để phát triển kinh tế bởi năng xuất lao động cao trong công nghiệp sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trưòng hàng tiêu dùng và dịch vụ. Đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế biến.Vì đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả và cũng là ngành có khả năng tăng xuất khẩu, giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, cải thiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội. Thúc đẩy phát triển kinh tế. 2.2.2. Phát triển công nghiệp với quá trình đô thị hoá. Thông qua phân bố công nghiệp mà phân bố lại dân cư ở các vùng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng, thực hiện quá trình đô thị hoá đất nước. Quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá thường diễn ra song song bởi các lí do sau: a) Các yếu tố có tính chất tiết kiệm. - Dân số đông sẽ giảm được chi phí tuyển dụng nhân công vào làm công nghiệp, đặc biệt là cán bộ giỏi, công nhân lành nghề. - Không phải tăng thêm chi phí xã hội trong việc xây dựng thêm kết cấu hạ tầng. - Dịch vụ y tế giáo dục đã được và có điều kiện phát triển cao ở thành phố. b) Hiệu quả kinh tế của việc hôi tụ nhiều công ty của nhiều ngành vào gần nhau. -Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu sẽ giảm chi phí vận chuyển và cung cấp kịp thời. - Gần các dịch vụ sửa chữa giảm chi phí. - Tài chính ngân hàng cũng tập trung ở thành phố thuận lợi cho hoạt động công
  10. nghiệp. - Có điều kiện tốt cập nhật thông tin trong nước và quốc tế. c) Tiện nghi ở thành phố tốt hơn dễ thu hút mọi người. Trong xã hội công nghiệp nhu cầu về tiện nghi sinh hoạt rất cao và ở khu vực thành thị có khả năng đáp ứng tốt hơn, thu hút được mọi người và chính lực lượng này sẽ đóng vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp 2.2.3. Phát triển công nghiệp với giải quyết việc làm. Ngoài việc tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kĩ thuật cho các ngành là cơ sở vất chất cho các ngành tạo ra việc làm thì quá trình phát triển công nghiệp cũng yêu cầu một lực lượng lớn lao động mà đặc biệt là lao động có trình độ cao cho quá trình phát triển. Công nghiệp càng phát triển thì yêu cầu về lao dộng càng cao, giải quyết được việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. 2.2.4. Phát triển công nghiệp với những mối liên kết trong nền kinh tế. Quá trình phát triển công nghiệp đòi hỏi sự liên kết ngược từ các ngành khác với công nghiệp cũng như giữa các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng. - Trước hết nông nghiệp có ảnh hưởng qua lại rất lớn đối với phát triển công nghiệp. Nâng cao năng xuất lao động trong nông nghiệp giúp cho công nghiệp phát triển thuận lợi hơn và ngược lại. Mối quan hệ được thể hiện ở các mặt sau: + Thu nhập cao của nông dân sẽ làm tăng cầu về hàng hoá công nghiệp. + Năng xuất lao động nông nghiệp tăng sẽ làm tăng nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp. + Năng xuất lao động nông nghiệp tăng sẽ tăng nhanh lượng nông sản xuất khẩu, thu ngoại tệ tăng tạo điều kiện nhập khẩu nguyên vật liệu làm đầu vào cho công nghiệp.
  11. + Thu nhập của nông dân tăng sẽ tăng khả năng tiết kiệm, tăng khả năng đầu tư phát triển kinh tế. + Năng xuất lao động nông nghiệp tăng lên cho phép rút bớt lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp. Đây là lực lượng lao động bổ sung cho công nghiệp. + Công nghiệp cung cấp đầu vào và giải quyết đầu ra cho nông nghiệp, công nghiệp phát triển thu nhập người dân tăng kích thích giá nông sản tăng có lợi cho nông dân, kích thích mở rộng sản xuất nông nghiệp, tăng năng xuất cây trồng vật nuôi... -Sự liên kết ngược từ những ngành công nghiệp chủ yếu sản xuất hàng hoá tiêu dùng qua các ngành công nghiệp sản xuất tư liẹu sản xuất. Sự liên kết ngược trực tiếp cho bất kì một ngành công nghiệp j nào đó được xác định như sau: Lbj= aij Trong đó: Lbj là chỉ số liên kết ngược. aij là hệ số leontief (hệ số đầu vào-đầu ra) Công thức trên cho ta cách tính sự liên kết ngược một cách đơn giản bằng cách công các hiệu số đầu vào trong nước của nó. Ví dụ: Nếu ngành công nghiệp dệt tăng giá trị sản lượng lên 30% và nhập khẩu tương đương 15% giá trị sản phẩm thì chỉ số liên kết ngược Lbj sẽ là 55% bằng phần chi phí mua nguyên liệu trong nước: (100%-30%-15%=55%). Chỉ số này chỉ nói lên mối liên kết ngược trực tiếp. Nhưng nếu ngành dệt khuyến khích trồng bông thì liệu việc trồng bông có tác dụng kích thích lại sản phẩm phân bón và thuốc trừ sâu không? Ta có thể xác định sự tác động gián tiếp này bằng cách cộng những hệ số gián tiếp và hệ số trực tiếp của phần đảo ma trận của Leontief kí hiệu hệ số Rij, ta có: Ltj = Rij .
  12. Trong đó: Ltj = hệ số trực tiếp cộng hệ số gián tiếp, hay là toàn bộ liên kết ngược từ ngành công nghiệp j. Phương pháp đơn giản để xác định những liên kết thuận, trực tiếp: Lft = j Xij / Zi . Trong đó: Lft là hệ số liên kết thuận cho ngành công nghiệp i. Xij là sản phẩm của ngành công nghiệp thứ i có được bởi ngành công nghiệp sử dụng thứ j (dãy thống kê bảng đầu ra-đầu vào). Zi là sản phẩm i cho khâu sử dụng trung gian và khâu sử dụng cuối cùng. 2.2.5. Phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên. a) Một số hậu quả của quá trình phát triển công nghiệp tới môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên có vai trò quan trọng đối với phát triển công nghiệp. Từ khí quyển, thuỷ quyển, địa quyển đều có những tác động lớn nhỏ tới phát triển công nghiệp. Môi trường tự nhiên cung cấp và đảm bảo không gian cần thiết, cũng như các loại tài nguyên làm nguyên liệu đầu vào cho phát triển công nghiệp. Sản xuất công nghiệp là quá trình biến đổi vất chất từ dạng tự nhiên của nó thành dạng vật chất có giá trị sử dụng khác nhau đáp ứng nhu cầu của con người, đồng thời làm biến đổi môi trường tự nhiên. Toàn bộ chu trình biến đổi mà công nghiệp tác đông vào môi trường có thể thấy rõ qua sơ đồ: Môi trường tự nhiênSản xuất công nghiệpChất thải công nghiệp  Sản phẩm có ích
  13.  Quá trình tiêu dùng  Chất thải  Cùng với quá trình phát triển công nghiệp, mức độ tác động của nó tới môi trường tự nhiên cũng tăng lên. Những thành tựu của khoa học kĩ thuật được nhanh chóng đưa vào phát triển sản xuất công nghiệp và cùng với quá trình này công nghiệp phát triển nhanh chóng tăng cả về quy mô, phạm vi, tốc độ, cơ cấu đã tác động rất mạnh đển môi trường, làm biến đổi môi trường. Sự phong phú đa dạng của hoạt động sản xuất công nghiệp với một hệ thống ngành nghề ngày càng tăng, đã tạo ra hàng loạt những sự tác động khác nhau vào môi trường tự nhiên. Con người thông qua sản xuất công nghiệp trở thành nhân tố tác động mạnh mẽ nhất đến môi trường tự nhiên, làm cho môi trường không chỉ đơn thuần vận động theo quy luật tự nhiên nữa. Thể hiện ở các mặt sau: Quy mô của sản xuất công nghiệp tăng không ngừng và với tốc độ nhanh hàng loạt các ngành công nghiệp mới ra đời, đã khai thác sử dụng tài nguyên với một khối lượng lớn hơn trước rất nhiều, làm cho nguồn tài nguyên trở nên cạn kiệt. Hậu quả tất yếu không thể tránh khỏi là diện tích đất đai dành cho nông nghiệp và nguồn động, thực vật giảm đi nhanh chóng, phá vỡ thảm thực vật bao phủ bề mặt trái đất, làm giảm độ màu mỡ gây bạc màu chua mặn.... Tốc độ khai thác, sử dụng các loại tài nguyên động, thực vật dùng cho chế biến công nghiệp nhanh hơn rất nhiều lần khả năng tự tái sinh của thế giới động thực vật, đã làm giảm màu xanh trên trái đất. Tình trạng khai thác rừng ồ ạt với quy mô tốc độ lớn đã làm giảm tài nguyên rừng nghiêm trọng. Nhiều loại động, thực vật trên thế giới bị diệt chủng, khoảng 60000 loài động, thực vật đang trong tình trạng suy thoái. Đây là nguy cơ dẫn đến hậu quả khôn lường do môi trường tự nhiên tác động trở lại. Công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản phát triển nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến đã tác động trực tiếp to lớn đến môi trường, phá huỷ bề
  14. mặt trái đất làm thay đổi địa hình nhiều nguồn tài nguyên bị sử dụng lãng phí. Một lượng chất thải lớn hàng năm được trả lại môi trường dưới các dạng lí hoá tính khác nhau. Tất cả những tác động đó của phát triển công nghiệp dẫn đến những hậu quả to lớn đối với môi trường cụ thể là: + Hiệu ứng nhà kính, do tăng lượng khí CO dẫn đến tăng nhiệt độ môi 2 trường. + Phá vỡ tâng ôzôn. + Bão từ. + Ô nhiễm đất, nguồn nước, không khí. Lượng ôxi và nguồn nước giảm trong khi đó các loại khí độc như NH4, CO2... tăng rất nhanh. b) Những biện pháp phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường. - Lựa chọn công nghệ thích hợp vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển công nghiệp hợp lí vừa đảm bảo các tiêu chí bảo vệ môi trường. - Hoàn thiện hệ thống tổ chức sản xuất công nghiệp theo hướng kết hợp phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên. - Tổ chức công tác sử lí chất thải công nghiệp tăng cường vai trò và hoàn thiện các công cụ quản lí của Nhà nước, nhằm hạn chế tác động tiêu cực của phát triển công nghiệp tới môi trường. - Tiến hành thực hiện một số biện pháp bảo vệ môi trường theo cơ chế thị trường: + Đánh thuế ô nhiễm. + Cấp giấy phép ô nhiễm chuyển nhượng. + Thành lập quỹ bảo vệ môi trường.
  15. 2.2.6. Phát triển công nghiệp với nâng cao chất lượng cuộc sống. Một câu hỏi được đặt ra là: Công nghiệp hoá có thực sự nâng cao chất lượng cuộc sống hay không? Câu hỏi này được đặt ra bởi vì kết quả tăng trưởng kinh tế do công nghiệp mang lại thường dẫn đến sự tắc nghẽn giao thông, sự đi lại nơi làm việc ngày càng xa, gia tăng tội phạm, ô nhiễm môi trường. Nghĩa là tạo ra các yếu tố làm giảm chất lượng cuộc sống. Đó là một thực tế nhưng để đánh giá chất lượng cuộc sống thì có rất nhiều cách thức và rất nhiều yếu tố để đánh giá rất khó có thể đưa ra được kết luận đúng trên mọi giác độ. .Ngày nay phổ biến người ta dùng ba yếu tố cơ bản là: tuổi thọ bình quân, mức độ biết chữ, sức mua thực tế của người dân. Nhưng các yếu tố phản ánh chất lượng cuộc sống này đều phụ thuộc vào mức thu nhập quốc dân (GDP) trên đầu người. Tính quy luật là khi thu nhập quốc dân theo đầu người tăng lên thì tỉ lệ dân đô thị tăng lên, tỉ lệ học sinh tăng, tỉ lệ thầy thuốc trên 1000 dân tăng, tỉ lệ người dưới mức nghèo khổ giảm, tuổi thọ trung bình tăng....Những xu hướng trên khăng định rằng phát triển công nghiệp đã dẫn đến sự thay đổi căn bản về mức sống của dân cư, cải thiện chất lượng cuộc sống. 3.- Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển công nghiệp. Phát triển công nghiệp là sự chuyển đổi căn bản cả về chất và lượng của công nghiệp trên cơ sở đổi mới công nghệ, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động làm nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Kết quả của quá trình phát triển công nghiệp là sự chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao. Quá trình phát triển công nghiệp được thể hiện ở các chỉ tiêu sau: 3.1. Quy mô và tốc độ phát triển. Trong qúa trình phát triển của công ngiệp thì quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp không ngừng tăng lên. Để đánh giá quy mô của công nghiệp người ta sử dụng các chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tổng sản lượng, giá trị gia tăng hàng năm, số lượng lao động trong công nghiệp....Để đánh giá tốc độ tăng trưởng hàng năm của công nghiệp người ta
  16. thường dùng các chỉ tiêu: Tốc độ tăng của giá trị tổng sản sản lượng công nghiệp và tốc độ tăng của GDP công nghiệp. Trong quá trình phát triển của công nghiệp thì các chỉ tiêu này phải được duy trì ở tốc độ cao. Nhưng khi công nghiệp đã phát triển, nghĩa là giá trị tổng sản lượng và GDP công nghiệp lớn thì việc tạo ra được 1% giá trị gia tăng sẽ khó khăn hơn. 3.2. Cơ cấu công nghiệp chuyển đổi theo hướng hiện đại hoá. Chuyển đổi cơ cấu ngành. Chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp biểu hiện dưới mặt lượng là sự thay đổi mối tương quan tỉ lệ của mỗi phân ngành trong công nghiệp. Sự thay đổi đó biểu hiện ở một trong hai yếu tố: Số lượng ngành thay đổi hoặc mối tương quan tốc độ phát triển giữa các ngành có sự thay đổi. Về mặt chất sự chuyển đổi cơ cấu ngành thể hiện ở sự thay đổi phương án bố trí các ngành trong chiến lược phát triển và vị trí từng phân ngành trong c ơ cấu làm thay đổi tính cân đối cũ để chuyển sang một trạng thái cân đối mới ở trình độ cao hơn. Chuyển đổi cơ cấu theo thành phần kinh tế. Không có một lí thuyết chung đánh giá sự chuyển đổi cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế trong quá trình phát triển công nghiệp, bởi xác định cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế bị phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố chủ quan. Tuy nhiên ở nước ta trong quá trình phát triển công nghiệp thì cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế cần được chuyển đổi theo hướng tăng cường vị trí, vai trò của khu vực phi quốc doanh. Thực tế cho thấy trong những năm qua khu vực kinh tế quốc doanh ở trong tình trạng trì trệ kém phát triển và đã bộc lộ nhiều hạn chế về công nghệ, trình độ quản lí, trình độ lao động và “sức ỳ” trong khu vực quốc daonh là rất lớn. Như vậy tăng cường vị trí vai trò của khu vực phi quốc doanh trong quá trình phát triển là biểu hiện của sự chuyển đổi cơ cấu theo thành phần kinh tế trong quá trình phát triển công nghiệp. Tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ Tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ là sự phân công sản xuất sản phẩm giữa
  17. các vùng lãnh thổ để hình thành phương án sản xuất sản phẩm và bố trí các đơn vị sản xuất, các tổng hợp thể sản xuất trên phạm vi không gian lãnh thổ. Trên cơ sở nhận thức, vận dụng các quy luật tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định. Tổ chức sản xuất theo lãnh thổ là một hoạt động nhằm xác định phương án cơ cấu sản xuất theo ngành trên mỗi vùng lãnh thổ kết hợp giữa chuyên môn hoá với đa dạng hoá các ngành sản xuất trên mỗi vùng lãnh thổ trên cơ sở phát huy lợi thế của mỗi vùng để định hướng chuyên môn hoá sản xuất giữa các vùng, nhờ đó nâng cao trình độ sản xuất giữa các đơn vị lãnh thổ trên vùng và giữa các vùng trong quá trình phát triển. Cơ cấu công nghiệp trong nước và nước ngoài. Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới thì khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể. Với một nền kinh tế nhỏ bé và ngành công nghiệp phần nào còn non trẻ của Việt Nam thì đầu tư nước ngoài đóng một vai trò hết sức quan trọng. Việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trong nước và nước ngoài ở Việt Nam hiện nay cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát triển của công nghiệp. Kể từ sau khủng hoảng kinh tế khu vực cho đến nay vấn đè đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang làm cho các nhà hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phải suy nghĩ, bởi đầu tư nước ngoài liên tục giảm trong những năm gần đây. Trong thời gian tới chúng ta cần phải có những biện pháp thích hợp để thu hút trở lại nguồn vốn này như trong giai đoạn đầu những năm 90. 3.3. Mức độ tập trung hoá. Sự ra đời và phát triển của các ngành sản xuất vật chất gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Trong quá trình ấy trình độ tập trung hoá sản xuất của chúng cũng không ngừng được nâng cao. Thực chất của tập trung hoá sản xuất là quá trình tập trung lao động và các yếu tố vật chất vào một ngành chuyên môn hoá nhờ đó làm tăng GDP của ngành. Mức độ tập trung hoá được xác định như sau: GDPi Li k GDPtn Ltn Trong đó: k là mức độ tập trung hoá.
  18. GDPi là GDP ngành i. GDPtn là GDP toàn ngành công nghiệp Li là lao động ngành i Ltn là lao động toàn ngành công nghiệp Công thức này cho ta cách tính mức độ tập trung hoá của công nghiệp. Mức độ tập trung hoá của ngành càng cao thể hiện ngành đó càng phát triển. 3.4. Sự phát triển của một số ngành sản phẩm chủ yếu. Sẽ là nhầm lẫn khi nói rằng để phát triển công nghiệp chúng ta tiến hành đầu tư phát triên tất cả các ngành sản phẩm công nghiệp . Điều này là không thể thực hiện được với các quốc gia đang phát triển và đồng thời thì nó cũng sẽ không đúng dưới cả góc độ lí thuyết là chúng ta luôn luôn giải bài toán kinh tế trong điều kiện khan hiếm nguồn lực. Chính vì vậy việc hình thành lên một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu làm mũi nhọn cho sự phát triển chung của toàn ngành công nghiệp là đúng đắn và cần thiết. Trên cơ sở tất cả các lợi thế so sánh, căn cứ vào nhu cầu thị trườngvà căn cứ vào chiến lược phát triển của công nghiệp thì trên mỗi vùng và trên toàn bộ lãnh thổ sẽ hình thành lên các sản phẩm chủ lực cho mình. Sự hình thành lên các sản phẩm chủ lực sẽ giải quyết được bài toán khan hiếm về nguồn lực và đồng thời sẽ tạo ra sự phát triển chung cho toàn ngành công nghiệp cũng như sự phát triển của nền kinh tế và đây là một tiêu chí đẻ đánh giá sự phát triển chung của công nghiệp . Trong thời gian qua ở Việt Nam cũng như vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã hình thành lên được một số sản phẩm quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Nhưng cho đến nay một số sản phẩm quan trọng như sản xuất đường, ximăng, sản xuất và lắp ráp ôtô, xe máy đang đứng trước những khó khăn lớn, sản phẩm tồn kho rất cao và chưa có thị trường tiêu thụ. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số giải pháp kinh cầu và cho đến nay cũng đã có một số kết qủa đáng kể. Nhưng nhìn chung thì các giải pháp đó cũng chưa đủ mạnh để giải quyết tình trạng “trì trệ” trong phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay. III-/ Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng
  19. điểm Bắc Bộ quá trình phát triển công nghiệp như đã phân tích ở trên ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt của nền kinh tế trên cả hai phương diện tiêu cực và tích cực. Nhưng đồng thời với quá trình đó thì công nghiệp cũng chịu tác động của nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các yếu tố đó cụ thể như sau:
  20. 1.- Các điều kiện tự nhiên. -Vị trí địa lí đây là một nguồn lực cần được xem xét khi xác định cơ cấu công nghiệp để phát triển. Đó là một tất yếu trong quá trình xây dựng nền kinh tế mở tăng cường và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào đời sống kinh tế của quốc gia, khu vực và thế giới. Vị trí địa lí thuận lợi là đầu mối giao lưu kinh tế quốc tế, sẽ tạo thành lợi thế so sánh với các vùng khác. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có một vị trí địa lí hết sức thuận lợi, nếu tận dụng được lợi thế này thì đây là một yếu tố tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế nói chung và tới phát triển công nghiệp nói riêng. - Các loại tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản) và các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục địa...) tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển công nghiệp của vùng. Các yếu tố này hoặc trở thành đối tượng lao động để phát triển các ngành khai thác và chế biến, hoặc trở thành điều kiện để xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng lớn, điều kiện khai thác thuận lợi sẽ cho phép xây dựng c ơ cấu công nghiệp gồm nhiều ngành với nền tảng vững chắc để phát triển. Cần chú ý rằng các nguồn lợi tự nhiên trên có loại ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển công nghiệp có loại ảnh hưởng gián tiếp đến cơ cấu công nghiệp qua sự ảnh hưởng đến phát triển các ngành kinh tế khác (nông, lâm, ngư nghiệp, kết cấu hạ tầng kĩ thuật...). Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ không phải là vùng giầu tài nguyên nhất so với các vùng khác trong cả nước. Tuy vậy vùng có một số loại tài nguyên với trữ lượng lớn, quan trọng và một số chiếm tỉ trọng lớn so với cả nước. Địa bàn trọng điểm cần phải tận dụng tiềm năng này để tiềm năng có thể trở thành lợi thế so sánh cho phát triển công nghiệp. 2.- Các điều kiện về kinh tế xã hội. 2.1. Các điều kiện về lịch sử xã hội của vùng. Mỗi vùng đều có những ngành nghề truyền thống, kinh nghiệm, kĩ năng truyền thống và những tập quán sản xuất. Tất cả những yếu tố lịch sử xã hội của vùng là những nhân tố tác động tới phương án tổ chức sản xuất trên vùng, tới sự phát triển công nghiệp của vùng. Sự phát triển lâu đời còn tạo ra những mối quan hệ trong sản xuất cũng như
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2