intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

289
lượt xem
130
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lĩnh vực Đầu tư xây dựng cơ bản đã và đang khẳng định vai trò quan trọng, có tính quyết định đối với quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước thông qua quá trình tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế-xã hội. Chúng ta quản lý hoạt động này thông qua việc hình thành và liên tục hoàn thiện một cơ chế quản lý- cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng. Là lĩnh vực hoạt động đòi hỏi phải hy sinh một lượng rất lớn nguồn lực và chi phí xã...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB

  1. LUẬN VĂN: Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB
  2. Lời nói đầu Lĩnh vực Đầu tư xây dựng cơ bản đã và đang khẳng định vai trò quan trọng, có tính quyết định đối với quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước thông qua quá trình tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế-xã hội. Chúng ta quản lý hoạt động này thông qua việc hình thành và liên tục hoàn thiện một cơ chế quản lý- cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng. Là lĩnh vực hoạt động đòi hỏi phải hy sinh một lượng rất lớn nguồn lực và chi phí xã hội, đồng thời do ảnh hưởng và tầm quan hệ rộng lớn cũng như tính chất phức tạp trong quản lý, cho nên không phảI lúc nào việc hy sinh những nguồn lực, những chi phí này cũng đem lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế-xã hội. Thực tế đang đặt ra bàI toán phảI giảI quyết, đó là bàI toán về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB. Nói cách khác, cơ chế quản lý đ ầu tư và xây dựng của chúng ta đang đặt ra yêu cầu phảI hoàn thiện. Và việc hoàn thiện này là một quá trình liên tục. Mỗi cơ chế quản lý được hoàn thiện, nhưng ngay sau đó việc áp dụng vào thực tế lại phát sinh những mâu thuẫn mới. GiảI quyết những mâu thuẫn này sẽ đưa cơ chế hoàn thiện thêm một bước nữa, cứ như vậy, cơ chế luôn vận động, đổi mới, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Trong lĩnh vực đầu tư XDCB, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB chính là mục tiêu mà cơ chế quản lý đầu tư xây dựng hướng tới, cũng như là tiêu thức quan trọng đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế này. Hai vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau. Việc giả quyết vấn đề này là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội. Với lý do như vậy, em đã chọn đề tài: “Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB”.
  3. Chương I: Lý luận chung về đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản-cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng. =======*======= I. đầu tư phát triển: 1. Đầu tư-khái niệm và vai trò: Đầu tư, hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó, nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Đầu tư, là một định nghĩa, một phạm trù, một hành động, nó thể hiện các mối quan hệ nhân quả tồn tại phổ biến trong hiện thực. Những mối quan hệ này là tất yếu do bản chất hoạt động đầu tư, do mối quan hệ tất yếu giữa tính mục đích và sự hy sinh các nguồn lực, do bản thân quá trình thu hút các nguồn lực cũng như thực hiện để đạt được mục đích. Mối quan hệ này là tất yếu trong tính toàn diện, phổ quát của hoạt động đầu tư. Định nghĩa đầu tư trên, như vậy, là định nghĩa có nội hàm hẹp nhất mà ở nhiều giác độ, nhiều tiêu thức khác nhau, bằng cách làm phong phú thêm nội hàm, ta có thể xác định được nhiều hoạt động khác nhau mang bản chất là hoạt động đầu tư, ví dụ như: đầu tư tăng trưởng, đầu tư phát triển, đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu...Các hoạt động đầu tư cần thiết phải hy sinh các nguồn lực, và các kết quả nhất định sẽ được tạo ra. Nguồn lực dùng để tiến hành hoạt động đầu tư có thể là những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, thiết bị, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại...Các doanh nghiệp còn có thể đầu tư bằng cổ phần, trái phiếu, các quyền sở hữu tài sản khác như quyền thế chấp, cầm cố hoặc các quyền có giá trị về mặt kinh
  4. tế như các quyền thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên... các nguồn lực này được kết hợp với nhau trong quá trình đầu tư nhằm tạo ra các tài sản, những giá trị, những kết quả mong đợi, tức là mục tiêu đầu tư nói chung. Những kết quả, những giá trị này có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất chất lượng cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả đó, và do đó là cách thức tiến hành hoạt động đầu tư đáp ứng được các mục tiêu của chủ thể đầu tư và xã hội đến đâu là tiêu chí quan trọng đánh giá tính hiệu quả, hợp lý và đúng đắn của quyết định đầu tư và quá trình đầu tư. Đầu tư là một hoạt động kinh tế quan trọng ở cấp độ vi mô các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp cũng như ở cấp độ vĩ mô, ở phạm vi nền kinh tế-xã hội. Đối với một doanh nghiệp, hoạt động đầu tư là công việc khởi đầu quan trọng nhất và cũng là khó khăn nhất của quá trình sản xuất, kinh doanh. Những quyết định của ngày hôm nay về lĩnh vực, quy mô, hình thức, thời điểm đầu tư sẽ chi phối quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó, chất lượng của các quyết định đầu tư sẽ quyết định sự thịnh vượng hay xuống dốc của doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế nói chung, toàn bộ việc đầu tư được tiến hành ở một thời kỳ nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền kinh tế, tạo ra sản phẩm, dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm, đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế-xã hội thời kỳ tiếp theo. Xét về lâu dài, khối lượng đầu tư của ngày hôm nay sẽ quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ và chất lượng của tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cũng như mức độ cải thiện đời sống trong tương lai. Vai trò này của đầu tư hay mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng có thể được biểu hiện qua mô hình tăng trưởng nền kinh tế đơn giản sau đây (mô hình Harrod-Domar): I (1) ICOR= ΔGDP Trong đó: ICOR là tỉ lệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế;
  5. I là vốn đầu tư;  GDP là mức tăng tổng sản phẩm quốc gia. Từ (1) có thể viết: (2) I=ICOR×ΔGDP I ΔGDP (3) =ICOR× GDP GDP Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi thì tỉ lệ vốn đầu tư so với GDP sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tỉ lệ đầu tư càng cao thì tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao và ngược lại. 2. Đầu tư phát triển: 2 .1/ Khái ni ệm: Hoạt động đầu tư phát triển (còn gọi là đầu tư phát triển) là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. 2 .2/ Đ ặc đ iểm:  Đầu tư phát triển thường đòi hỏi lượng vốn lớn và vốn này nằm khê đọng không vận động trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Do đặc điểm này, cần phải tính toán kỹ khi tiến hành công cuộc đầu tư, tránh những thiệt hại hay tổn thất mà công cuộc đầu tư có thể gặp phải và cần phải bổ vốn theo tiến độ phù hợp đảm bảo tính liên tục và giảm lượng vốn khê đọng.  Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài, thể hiện: - Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Trong quá trình đó những tác động của môi trường đầu tư có thể làm những dự đoán của chủ
  6. thể đầu tư bị sai lệch do vậy cần phải quản lý một cách nghiêm ngặt và có sự điều chỉnh kịp thời quá trình đầu tư. - Thời gian để vận hành các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn hoặc cho đến khi thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra thường cũng kéo dài nhiều năm tháng, có dự án thời gian tồn tại các kết quả mà đầu tư tạo ra là vĩnh viễn (như các công trình văn hoá, kiến trúc lớn ở nước ta cũng như trên thế giới...).  Quá trình đầu tư, cũng như kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định theo thời gian và của điều kiện không gian tự nhiên, kinh tế-xã hội.  Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà chúng được tạo dựng nên do đó các điều kiện về địa lý, địa hình sẽ ảnh hưởng không chỉ tới quá trình thực hiện đầu tư mà còn ảnh hưởng tới sự hoạt động và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư sau này.  Đầu tư phát triển, do bản chất của nó, là hoạt động chịu tác động của nhiều yếu tố rủi ro: do đó cần có cá c biện pháp để hạn chế cũng như ngăn ngừa rủi ro, nh ư nhận diện các yếu tố của rủi ro có thể ảnh hưởng tới dự án, phân tán rủi ro đó bằng các hình thức như bảo hiểm,... và quản lý chặt chẽ các rủi ro, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. 2 .3/. Vai trò c ủa đ ầu t ư phát tri ển: 2 .3.1/ Đối với nền kinh tế.  Đầu tư vừa tác dụng đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế: Về mặt cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế (thường chiếm khoảng từ 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới-số liệu của WB). Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn, khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo
  7. sản lượng cân bằng tăng theo và dẫn đến giá và các đầu vào của đầu tư cũng tăng theo. Điểm cân bằng cung-cầu dịch chuyển đi lên. Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm n ăng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.  Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế: Sự tác động không đông thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng sẽ tăng công ăn việc làm dẫn đến giảm thất nghiệp, nâng cao đời sống của nhân dân, do đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội... Nhưng bên cạnh đó thì do tăng đầu tư đến mức nào đó sẽ dẫn đến lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Giảm đầu tư: hạn chế được lạm phát, đời sống nhân dân ổn định, nhưng việc giảm đầu tư, ngược lại cũng làm giảm công ăn việc làm, tình trạng thất nghiệp tăng, làm ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Vì vậy trong quản lý cần thấy hết tác động hai mặt này để đ ưa ra các chính sách nhằm hạn chế tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.  Đầu tư tác động tới tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế: Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-25% so với GDP, tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. Hệ số ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay
  8. đổi theo trình độ phát triển kinh tế, phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế, vào hiệu quả đầu tư trong các nghành, các vùng lãnh thổ cũng nh ư hiệu quả của cơ chế chính sách kinh tế của nước đó nói chung. Như công thức (3) ở trên thì, nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đ ầu tư.  Đầu tư ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với qui luật phát triển, với chiến lược phát triển kinh tế xã h ội trong từng giai đoạn. Từ đó đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. - Tạo ra được sự cân đối trong phát triển kinh tế-xã hội giữa các ngành các vùng, các lĩnh vực. - Phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng vùng, từng ngành.  Đầu tư tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước: Công ngh ệ về nội dung gồm 4 yếu tố: trang thiết bị, kỹ năng của con người, thông tin, tổ chức thể chế. Do đó xét về nội dung thì để tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước cần phải đầu tư mua sắm trang thiết bị, thu thập thông tin, đào tạo nguồn nhân lực... Xét về phương thức để có công nghệ chúng ta cũng thấy có hai cách đó là tự nghiên cứu triển khai hoặc đi mua, cả hai cách đều phải yêu cầu có vốn để đầu tư. Như vậy, đầu tư có quan hệ chặt chẽ đối với quá trình cải tạo, đổi mới, tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của lực lượng sản xuất xã hội, của đất nước. 2 .3.2/ Đ ối với các c ơ s ở sản xuất kinh doanh dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đầu tư, trước hết có vai trò tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào-vị lợi hay vô vị lợi. Trong quá trình hoạt động các cơ sở vật chất-kỹ thuật này bị hao mòn, hư hỏng và phải đổi mới để duy trì sự tồn tại và hoạt động bình thường, đồng thời phải luôn đổi mới cho thích ứng với sự tiến bộ của khoa học-kỹ thuật, chống lại những hao
  9. mòn vô hình, đáp ứng lại những nhu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội. Câu trả lời là tiến hành đầu tư. Đầu tư trong các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ là một công cụ cạnh tranh và hơn thế nữa quyết định sự thành bại của c ơ sở. Đầu tư làm tăng hiệu quả sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận cho đơn vị. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động công ích, không vì mục tiêu lợi nhuận), việc tiến hành đầu tư là tất yếu để duy trì và tăng cường các cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ cho mục tiêu hoạt động bình thường của mình. II. đầu tư xây dựng cơ bản: 1. Khái niệm và vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản: 1 .1/ Khái ni ệm: Đầu tư xây dựng cơ bản ( XDCB ) là hoạt động sử dụng vốn đầu tư để tiến hành thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế thông qua các hình thức: xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá và khôi phục các tài sản cố định. Đầu tư XDCB là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư phát triển nói riêng. Đó là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản (từ việc khảo sát, quy hoạch đầu tư, thiết kế và xây dựng cho đến khi lắp đặt thiết bị để hoàn thiện việc tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật) nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế. Như vậy, đầu tư XDCB không phải là hoạt đ ộng sản xuất vật chất mà là phạm trù kinh tế tài chính xuất hiện trong quá trình tái sản xuất các tài sản cố định. Nhưng, XDCB là một nghành sản xuất vật chất, tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho xã hội, nó quyết định đến sự phát triển đất nước và quy mô sản xuất của các nghành có liên quan. 1 .2/ Vai trò: Đối với bất kỳ một phương th ức sản xuất xã hội nào, ở mọi thời kỳ phát triển đều tương ứng với một cơ sở vật chất-kỹ thuật nhất định và dựa trên cơ
  10. sở vật chất-kỹ thuật ấy. Sự hiện đại hoá liên tục cơ sở vật chất-kỹ thuật là điều kiện ban đầu, là cơ sở của mọi biến chuyển kinh tế-xã hội. Quá trình hiện đại hoá cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền sản xuất xã hội có được nhờ việc tiến hành các hoạt động đầu tư XDCB. Đầu tư XDCB dù ở lĩnh vực nào, ở nước ta hay trên thế giới, tốc độ và tỷ lệ đầu tư XDCB ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong đầu tư. Quá trình đầu tư XDCB vô cùng phức tạp, liên nghành, do đó đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các cơ quan chức năng, ban nghành và của nhiều lĩnh vực. Sản phẩm đầu tư XDCB và quá trình đầu tư, do bản chất là hoạt động đầu tư phát triển nên có tác dụng làm thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường đổi mới công nghệ, tạo ra và liên tục hiện đại hoá cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất xã hội. Những thành quả của đầu tư XDCB làm tăng năng lực sản xuất, tạo điều kiện áp dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật và công nghệ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, tạo công ăn việc làm, đáp ứng các yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước; tạo điều kiện tăng cường hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư XDCB còn là điều kiện để tạo ra một sự đổi mới trong cơ chế quản lý nền kinh tế-xã hội thích hợp với từng giai đoạn phát triển, và nói chung, đầu tư XDCB còn là một trong những nhân tố quan trọng nhất của quá trình chuyển biến phương thức sản xuất cũng như hình thái kinh tế-xã hội của xã hội. 2. Quá trình hình thành công trình xây dựng và các lực lượng tham gia có liên quan: 2 .1/ Quá trình hình thành công trình xây d ựng theo n gh ĩa rộng: Theo nghĩa rộng, quá trình hình thành công trình xây dựng được bắt đầu từ giai đoạn lập chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ đến giai đoạn đưa công trình vào vận hành, sử dụng. Quá trình này bao gồm các giai đoạn sau:
  11.  Nhà nước tiến hành lập chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ cho các mục đích sản xuất-kinh doanh, dịch vụ và các mục đích sinh hoạt xã hội khác.  Trên cơ sở quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ, Nhà nước tiến hành quy hoạch tổng thể về mặt xây dựng các công trình trên toàn lãnh thổ, bao gồm các khu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, các cụm đô thị và nông thôn, các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế và văn hoá-xã hội…  Dựa trên chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ, quy hoạch tổng thể về mặt xây dựng, nhu cầu thị trường và khả năng, thực lực của Nhà nước, của các doanh nghiệp cũng như của các tầng lớp dân cư sẽ hình thành nên các dự án đầu tư xây dựng của Nhà nước, của các doanh nghiệp và dân cư. Như vậy, theo nghĩa rộng, quá trình hình thành công trình xây dựng có thể được mô tả như sau:
  12. Sơ đ ồ: Quá trình hình thành công trình xây dựng theo nghĩa rộng. Nhà nước lập chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ. Nhà nước lập quy hoạch tổng thể về mặt xây dựng Hình thành các Khả năng đầu tư Nhu cầu của dự án đầu tư của Nhà nước, thị trường, và xây dựng cơ các doanh nghiệp Nhà nước và xã bản và xã hội hội Chuẩn bị Thực hiện đầu Kết thúc xây đầu tư tư (xây dựng dựng đưa công công trình) trình vào sử dụng 2 .2/ Quá trình hình thà nh công trình xây d ựng theo nghĩa hẹp: Theo nghĩa hẹp, quá trình hình thành công trình xây dựng bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư xây dựng và đưa công trình vào vận hành, sử dụng. Theo ” Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” hiện hành thì quá trình đầu tư xây dựng gồm các giai đoạn sau: ( trình tự, thủ tục đầu tư và xây dựng) 2.2.1/ Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, các nhiệm vụ phải thực hiện như sau: - Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
  13. - Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước hoặc ngoài n ước để tìm nguồn cung ứng vật tư, thiết bị, nơi tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh, xem xét các khả năng có thể huy động các nguồn vốn đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư. - Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng. - Lập dự án đầu tư. - Thẩm đinh dự án để quyết định đầu tư. - Gửi hồ sơ dự án đến nơi quy định. 2.2.2/ Giai đoạn thực hiện đầu tư, bao gồm các nhiệm vụ: - Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước (đối với các dự án có sử dụng đất). - Xin giấy phép xây dựng (nếu cần phải có giấy phép xây dựng) và giấy phép khai thác tàI nguyên (nếu có). - Tổ chức đền bù giảI phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch di dân, phục hồi và chuẩn bị mặt bằng xây dựng (nếu có). - Mua sắm thiết bị và công nghệ. - Thực hiện khảo sát, thiết kế xây dựng. - Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán công trình. - Tiến hành thi công, xây lắp công trình. - Theo dõi, kiểm tra và thực hiện các hợp đồng. - Quản lý kĩ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng. - Vận hành thử nghiệm, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư, bàn giao và thực hiện bảo hành sản phẩm. 2.2.3/ Giai đoạn kết thúc xây dựng và đưa dự án vào khai thác, sử dụng:
  14. - Nghiệm thu, bàn giao công trình. - Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình. - Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình. - Bảo hành công trình. - Quyết toán vốn đầu tư. - Phê duyệt quyết toán. Đối với dự án xây dựng các khu tập trung, dự án BOT, BT, BTO, ngoàI các bước trên thì chủ đầu tư còn phảI làm thủ tục `chuyển giao sau khi kết thúc xây dựng hoặc sau khi hết thời gian khai thác sử dụng theo hợp đồng kinh doanh. 2 .3/ Các l ực lư ợng tham gia vào quá trình hình thành công trình xây d ựng: Có các lực lượng sau đây tham gia vào quá trình hình thành công trình xây dựng: - Chủ đầu tư (đóng vai trò chính). - Các doanh nghiệp tư vấn. - Các doanh nghiệp xây lắp. - Các doanh nghiệp cung ứng thiết bị và vật tư cho dự án. - Các tổ chức tài trợ, ngân hàng. - Các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng. - Các tổ chức khác... 3. Phân biệt một số kháI niệm về các lĩnh vực và các nghành có liên quan đến đầu tư và xây dựng:
  15. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu các vấn đ ề kinh tế và quản lý xây dựng cơ bản, cần phảI phân biệt một số kháI niệm về các lĩnh vực và các nghành có liên quan đến đầu tư và xây dựng sau đây: 3 .1/ L ĩnh vực đ ầu t ư và xây d ựng: Lĩnh vực đầu tư xây dựng là một lĩnh vực hoạt động liên nghành, bao gồm tất cả các bộ phận có liên quan đến việc lập và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, trong đó bao gồm các lực lượng tham gia chủ yếu như: chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn đầu tư xây dựng, các nhà thầu xây dựng, các tổ chức cung ứng vật tư, thiết bị cho dự án, các tổ chức ngân hàng và tài trợ cho dự án, các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng. 3 .2/ Nghành công ngh iệp xây dựng: Nghành công nghiệp xây dựng bao gồm các doanh nghiệp xây dựng chuyên nhận thầu thi công xây dựng cho các chủ đầu tư xây dựng ở mọi lĩnh vực. ở Việt Nam hiện nay nghành công nghiệp xây dựng bị phân tán và do nhiều nghành và Bộ sản xuất quản lý, trong đó Bộ Xây dựng được Nhà nước giao cho nhiệm vụ quản lý chủ yếu. 3 .3/ Nghành tư v ấn đ ầu t ư và xây d ựng: Nghành tư vấn đầu tư và xây d ựng chuyên nhận thầu thực hiện các công việc của chủ đầu tư giao như lập dự án đầu tư xây dựng, khảo sát, thiết kế, giám sát công việc xây dựng...Đây cũng là một lĩnh vực đòi hỏi những kiến thức chuyên nghành tổng hợp. 3 .4/ Các nghành s ản xuất cung cấp đ ầu vào cho dự án đ ầu t ư xây d ựng: Các nghành sản xuất cung cấp đầu vào cho dự án đầu tư xây dựng bao gồm các nghành chủ yếu sau: 3.4.1/ Nghành công nghiệp vật liệu xây dựng: Có nhiệm vụ chuyên sản xuất các loại vật liệu xây dựng, bán thành phẩm và cấu kiện xây dựng để bán cho nghành công
  16. nghiệp xây dựng. Về bản chất nghành này phải được coi là một nghành sản xuất riêng biệt. ở Việt Nam, nghành này hiện còn được quan lý chung với nghành công nghiệp xây dựng. 3.4.2/ Nghành cơ khí xây dựng: Có nhiệm vụ sản xuất các máy móc và thiết bị xây dựng (bao gồm cả công việc sủa chữa máy móc xây dựng) để cung cấp cho nghành công nghiệp xây dựng. 3.4.3/ Các nghành cung ứng vật tư, thiết bị cho dự án đầu tư xây dựng: ở đây phải kể đến các nghành tài chính, ngân hàng, thông tin, đào tạo phục vụ đầu tư xây dựng. 4. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và sản xuất xây dựng: 4 .1/ Đ ặc đ iểm của sản p h ẩm xây dựng: Trước hết ta phân biệt các kháI niệm có liên quan sau đây đến sản phẩm xây dựng: 4.1.1/ Sản phẩm đầu tư xây d ựng: Sản phẩm đầu tư xây dựng là các công trình đã hào chỉnh (bao gồm cả việc lắp đặt thiết bị, công nghệ ở bên trong). Sản phẩm đầu tư xây d ựng là kết tinh của các thành quả khoa học-công nghệ và tổ chức sản xuất của xã hội ở một thời kỳ nhất định. Nó là một sản phẩm có tính chất liên nghành, trong đó có những lực lượng tham gia tạo thành sản phẩm chủ yếu: chủ đầu tư; các doanh nghiệp nhận thầu xây lắp; các doanh nghiệp tư vấn đầu tư xây dựng; các doanh nghiệp sản xuất các yếu tố đầu vào cho dự án như thiết bị công nghệ, vật tư thiết bị xây dựng; các tổ chức tổ chức dịch vụ ngân hàng và tàI chính; các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. 4.1.2/ Sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng: Sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng chỉ bao gồm phần kiến tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng bao che, nâng đỡ và phần lắp đặt các thiết bị, máy móc cần thiết của công trình để đưa chúng vào hoạt động.
  17. Trong khi đơn vị đo của sản phẩm đầu tư xây dựng là tổng vốn đầu tư thực hiện (nếu tính theo giá trị) hoặc là công suất sản xuất hay năng lực dịch vụ hoặc phục vụ đã đưa vào sử dụng (nếu tính theo hiện vật), thì đơn vị đ o của sản phẩ m xây d ựng của doanh nghiệp xây dựng là giá trị dự toán xây lắp đã hoàn thành bàn giao (nếu tính theo giá trị) hoặc là số m2 hay m3 khối tích xây dựng (nếu tính theo hiện vật) đã hoàn thành và bàn giao. Vì các công trình xây dựng thường rất lớn và phảI xây dựng trong nhiều năm, nên để phù hợp với công việc thanh, quyết toán và cấp vốn người ta phân ra sản phẩm xây dựng trung gian và sản phẩm xây dựng cuối cùng. Sản phẩm xây dựng trung gian có thể là các gói công việc xây dựng, các giai đoạn hay đợt xây dựng đã hoàn thành, đã bàn giao thanh toán. Sản phẩm xây dựng cuối cùng là các công trình xây dựng hay hạng mục công trình xây dựng đã hoàn thành và có thể bàn giao đưa vào sử dụng. Để phản ánh thực chất và nỗ lực đóng góp của bản thân các doanh nghiệp xây dựng, sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng còn được tính theo chỉ tiêu giá trị sản phẩm thuần tuý của các doanh nghiệp này, tức là đem giá trị dự toán xây lắp trừ đI chi phí vật liệu, năng lượng và khấu hao ở tất cả các khoản mục của giá trị dự toán xây lắp. 4.1.3/ Công trình xây dựng: Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ xây lắp, được tạo thành bởi vật liệu xây dựng, thiết bị công nghệ, lao động và gắn liền với đất, khoảng không, mặt nước, mặt biển hay thềm lục địa. 4.1.4/ Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng: Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng lớn đến phương thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế trong nghành xây dựng, làm cho các công việc này có nhiều đặc điểm khác biệt so với các nghành khác. Sản phẩm xây dựng với tư cách là các công trình xây dựng hàon chỉnh thường có các đặc điểm sau:
  18.  Sản phẩm xây dựng là những công trình, nhà cửa được xây dựng và sử dụng tại chỗ và phân bố tản mạn ở nhiều nơi trên lãnh thổ. Điều này làm cho sản xuất xây dựng có tính lưu động cao và thiếu ổn định.  Sản phẩm xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện địa phương nơI đặt công trình xây dựng. Do đó, nó có tính đa dạng và cá biệt cao về công dụng, cách cấu tạo và cách chế tạo.  Sản phẩm xây dựng thường có kích thước và chi phí lớn, có thời gian kiến tạo và thời gian sử dụng lâu dài. Do đó, những sai lầm về xây dựng có thể gây nên các lãng phí lớn, tồn tại lâu dàI và khó sửa chữa.  Sản phẩm xây dựng thuộc phần kết cấu xây dựng chủ yếu đóng vai trò nâng đỡ và bao che, không tác động trực tiếp lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất, trừ một số loại công trình đặc biệt như đường ống, công trình thuỷ lực, lò luyện gang thép…  Sản phẩm xây dựng liên quan đến nhiều nghành cả về phương diện cung cấp các yếu tố đầu vào, thiết kế và chế tạo sản phẩm, cả về phương diện sử dụng sản phẩm của xây dựng làm ra.  Sản phẩm xây dựng có liên quan nhiều đến cảnh quan và môI tr ường tự nhiên, do đó liên quan nhiều đến lợi ích của cộng đồng, nhất là đến dân cư địa phương nơI dặt công trình.  Sản phẩm xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá nghệ thuật và quốc phòng. Tuy nhiên lại mang tính cá biệt về ý t ưởng thiết kế, giá thành… 4 .2/ Đ ặc đ iểm của sản xuất xây dựng:  Sản xuất xây dựng thiếu tính ổn định, có tính lưu động cao theo vùng lãnh thổ: vì trong xây dựng, khác với nhiều nghành khác, con người và công cụ lao động luôn phảI di chuyển theo các công trường, còn sản phẩm xây dựng thì cố định một nơi.
  19.  Vì sản phẩm xây dựng có tính đa dạng, cá biệt cao, có chi phí lớn, nên sản xuất xây dựng phảI tiến hành theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu cho từng công trình một.  Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường dài.  Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp đòi hỏi phảI có nhiều lực lượng hợp tác tham gia thực hiện. Khác với nhiều nghành khác, trong nghành xây dựng, các đơn vị tham gia xây dựng công trình phảI cùng nhau đến công trường với một diện tích làm việc thường là bị hạn chế để thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian.  Sản xuất xây dựng phảI tiến hành ngoàI trời và chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết và các điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội nơI diễn ra quá trình thi công xây dựng.  Sản xuất xây dựng chịu ảnh h ưởng của lợi nhuận chênh lệch do địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một công trình xây dựng nhưng nếu tiến hành xây dựng ở những nơI có sẵn nguồn vật liệu xây dựng, nhân công và các cơ sở cho thuê may xây dựng thì nhà thầu trong trường hợp này có cơ hội cao hơn để thu được lợi nhuận so với các địa điểm xây dựng khác.  Công nghệ xây lắp chủ yếu là quá trình áp dụng các quá trình cơ học để giảI quyết vấn đề vận chuyển ngang và vận chuyển lên cao, hoặc để xâm nhạp vào trong lòng đất. Việc áp dụng tự động hoá qúa trình xây lắp phát triển chậm, tỷ lệ lao động thủ công chiếm cao.  Những đặc điểm của sản xuất xây dựng trong điều kiện tự nhiên và xã hội của Việt Nam: - Về điều kiện tự nhiên: Sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩ m, điều kiện địa chất, thuỷ văn phức tạp, đất nước dàI, hẹp và còn nhiều nơI chưa được khai phá, có một số nguồn vật liệu xây dựng phong phú. Do đó, các giảI pháp xây dựng ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh của các yếu tố này.
  20. - Về điều kiện kinh tế: Sản xuất xây d ựng ở Việt Nam đ ược tiến hành trong điều kiện của một nền kinh tế đang phát triển, còn nhiều mặt yếu kém so với các nước trên thế giới. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế hiện nay, nghành xây dựng của Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có nhiều nguy cơ và thách thức. - Đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang quyết định phương hướng và tiến độ phát triển của nghành xây dựng Việt Nam. III. vốn đầu tư xây dựng cơ bản: 1. Khái niệm vốn đầu tư XDCB : Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm: Chi phí cho việc khảo sát, qui hoạch xây dựng, chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí cho thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt máy móc, thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán. Vốn đầu tư XDCB được vật hoá để hình thành nên cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế, là điều kiện của tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế, có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng c ần lưu ý rằng, có một số công tác mà xét về tính chất lẫn nội dung kinh tế thì thuộc về hoạt động XDCB, nhưng chi phí của chúng thì lại không được tính vào vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đó là các hoạt động sau đây:  Hoạt động sửa chữa lớn nhà cửa, vật chất kiến trúc.  Các chi phí khảo sát thăm dò tài nguyên, địa chất nói chung trong nền kinh tế...mà không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng công trình cụ thể nào cả. Mặt khác có một số khoản mục, tuy không làm tăng giá trị tài sản cố định nhưng chi phí của chúng vẫn được tính vào vốn đầu tư XDCB:  Chi phí cho việc mua sắm công cụ, dụng cụ không đủ tiêu chuẩn là TSCĐ.  Chi phí đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0