LUẬN VĂN: Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
lượt xem 19
download
Trong lịch sử cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, luôn nêu cao bản chất cách mạng, là giai cấp lónh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ rừ: Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- LUẬN VĂN: Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, luôn nêu cao bản chất cách mạng, là giai cấp lónh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ rừ: Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đó là người lónh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam [36, tr.9]. Trải qua trên 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta lónh đạo, giai cấp công nhân nước ta đang có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, thực sự là lực lượng to lớn, không ngừng khẳng định và củng cố bản chất giai cấp, nêu cao ý thức, trỏch nhiệm, giữ vững vị trớ lónh đạo, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy vậy, khi bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, giai cấp công nhân đang đứng trước những vấn đề bất cập: trước hết, cơ cấu, trỡnh độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cũn thấp. í thức tổ chức kỷ luật lao động cũn nhiều hạn chế nờn chưa đáp ứng đũi hỏi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đúng như Hội nghị Trung ương sáu khoá X đã nhận định: Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trỡnh độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, cụng nhõn lành nghề; tỏc phong cụng nghiệp và kỷ luật lao
- động cũn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống [15, tr.45]. Để tiếp tục làm trũn sứ mệnh lịch sử vẻ vang, lónh đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới, xứng đáng là lực lượng cách mạng tiên phong của toàn dân tộc thỡ việc xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng là yêu cầu cấp bách hiện nay. Nằm ở phía tây nam của đất nước, thuộc đồng bằng sông Cửu Long tỉnh Kiên Giang có diện tích tự nhiên 629.905ha, hơn 200 km đường bờ biển với diện tích vùng biển là 63.000km2, có đường biên giới trên bộ với Campuchia, biên giới trên biển với Campuchia, Thái lan, Malaysia; hơn nữa, Kiên Giang là địa phương có nguồn tài nguyên - khoáng sản phong phú chủ yếu là các loại mỏ đá vôi vì vậy có tiềm năng to lớn để phát triển mạnh nông nghiệp và nhiều ngành công nghiệp nhất là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa và đóng mới tàu thuyền, công nghiệp chế biến thuỷ sản… cũng nh ư các ngành nghề dịch vụ - du lịch. Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lónh đạo, kinh tế trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đó cú những chuyển biến theo hướng tích cực; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đó cú sự tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là lực lượng có vai trũ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh. Tuy nhiên, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang cũn hạn chế về nhiều mặt: trỡnh độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề cũn thấp; tỡnh trạng thừa lao động giản đơn, thiếu lao động có trỡnh độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi; toàn tỉnh lao động qua đào tạo nghề mới đạt 13%; lũng say mờ nghề nghiệp, ý thức tổ chức, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp cũn yếu. Tỷ lệ đảng viên, đoàn viên công đoàn, đoàn viên thanh niên trong công nhân cũn thấp, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh; chưa phát huy vai trũ nũng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức nên chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Kiên Giang .
- Từ những vấn đề nêu trên việc nghiên cứu đề tài: “Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” cú ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn gúp phần nõng cao chất lượng đội ngũ công nhân nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. 2. Tỡnh hỡnh nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây ở Việt Nam, vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó đó thu hỳt được quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và vấn đề này đã được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Tiêu biểu có các công trình: * Các văn bản của Đảng Cộng sản Việt Nam: - Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1994): Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2008): Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. * Một số cụng trỡnh đó in thành sỏch: - Viện công nhân và công đoàn - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2001): Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, Hà Nội. - PGS, TS. Dương Xuân Ngọc (2004): Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - PGS, TS. Nguyễn Đăng Thành (2007), Góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực trạng công nhân Thành phố Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Nxb Lao động, Hà Nội.
- - PGS, TS. Tạ Ngọc Tấn. GS, TS. Trương Giang Long. Ths. Trần Văn Lợi (2008), Thực trạng đời sống văn hoá - tinh thần của công nhân ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vấn đề đặt ra. Nxb công an nhân dân, Hà Nội. * Các bài báo khoa học: - PGS, TS. Phan Thanh Khôi (2006), Đại hội X của Đảng với vấn đề liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Tạp chí Lao động và công đoàn, số 370 tháng 12 (kỳ 2), tr 4-5-35. - TS. Dương Văn Sao (2007), Xõy dựng, phỏt huy vai trũ giai cấp cụng nhõn, nhõn tố quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tạp chí Lao động và công đoàn, số 376 (kỳ 2), tr 2-3-35. * Các luận văn, luận án: - Nguyễn Văn Năm (1995), Cụng nhõn Hải Phũng trong cụng cuộc đổi mới những vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết. Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xó hội khoa học. - Trần Ngọc Sơn (2001), Sự phỏt triển của giai cấp cụng nhõn Việt Nam và vai trũ của nú trong sự nghiệp cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hóa đất nước. Luận án tiến sĩ triết học, chuyờn ngành chủ nghĩa xó hội khoa học. - Phạm Hồng Hải (2002), Xây dựng đội ngũ công nhân Đồng Nai đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xó hội khoa học. - Nguyễn Thị Hường (2005), Đội ngũ cụng nhõn Thỏi Nguyờn với quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xó hội khoa học. Kết quả nổi bật của các công trình nghiên cứu nêu trên đây thể hiện ở các nội dung như sau: - Đi sâu phân tích khái niệm giai cấp công nhân; những đặc trưng, vai trũ và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- - Thực trạng và xu hướng biến đổi cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội. - Một số chủ trương, biện pháp cơ bản và cấp bách nhằm xây dựng giai cấp công nhân ngang tầm nhiệm vụ mới. Mặc dù vậy, cho đến nay, vấn đề công nhân vẫn cũn nhiều vấn đề cần được tiếp tục triển khai nghiên cứu, làm rừ: khẳng định giai cấp công nhân vừa là chủ thể của nền sản xuất công nghiệp đồng thời cũng là sản phẩm của nền sản xuất này nhưng môĩ một tỉnh, thành phố đều có các điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xó hội riêng, khác biệt với các tỉnh, thành phố khác nên đặc điểm đội ngũ công nhân ở mỗi địa phương là không giống nhau nhưng trên thực tế sự khác biệt giữa đội ngũ công nhân tại các địa phương chưa được làm rừ; chỉ mới nêu được những đặc trưng cơ bản của đội ngũ công nhân nói chung mà chưa chỉ ra được đặc trưng, nét đặc thù đội ngũ công nhân ở từng ngành nghề, từng tỉnh, địa phương, đặc biệt là đội ngũ công nhân mới hỡnh thành tại các tỉnh đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ và các giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân vẫn dừng lại ở những giải pháp mang tính phương hướng chung, chưa đưa ra được những giải pháp đột phá phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng địa phương, từng ngành nghề cụ thể. Chính vì vậy, việc triển khai đề tài: “Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” sẽ góp một phần khắc phục những hạn chế nêu trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở khái quát về giai cấp công nhân và quá trỡnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Kiên Giang, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang, luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh nhà. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rừ đặc điểm, số lượng, chất lượng, vai trò, những nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- - Đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tập trung nghiên cứu đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó đặt trọng tâm vào đội ngũ những công nhân trực tiếp sản xuất và tham gia phục vụ trong các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang từ năm 2001 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1.Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về giai cấp công nhân và công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Đồng thời, luận văn có kế thừa và sử dụng kết quả nghiờn cứu của một số cụng trỡnh khoa học cú liờn quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như là phương pháp luận chung. Ngoài ra, luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: khảo sát, điều tra xó hội học, thống kờ, phõn tớch- tổng hợp... để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Khẳng định đặc điểm nổi bật của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang là có quá trỡnh ra đời sớm nhưng tính chất lao động công nghiệp vẫn đang trong quá trỡnh mới hỡnh thành, và đội ngũ công nhân của tỉnh chủ yếu là lao động phổ thông sản xuất trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác, chế biến thuỷ, hải sản là cơ sở làm rừ thực trạng và vai trũ của đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
- - Nhấn mạnh việc giáo dục, đào tạo nghề thông qua việc liên doanh, liên kết giữa các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp của tỉnh và của trung ương là một trong các giải pháp chủ yếu nhằm từng bước xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Kiên Giang đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá. 7. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy, học tập ở trường chính trị, các cơ quan, tổ chức làm công tác công đoàn trong tỉnh Kiên Giang. Đồng thời là cơ sở cho việc hoạch định chính sách, đề ra kế hoạch, giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Kiên Giang. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
- Chương 1 THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH KIÊN GIANG TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 1.1. KHÁI QUÁT VỀ GIAI CẤP CễNG NHÂN VÀ QUÁ TRèNH CễNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TỈNH KIÊN GIANG 1.1.1. Về khái niệm giai cấp công nhân Trong từ điển tiếng Việt thuật ngữ công nhân được hiểu là những người lao động chân tay làm việc ăn lương [49, tr.202]. Đây là cách hiểu khái quát, phù hợp với các quan niệm thường ngày của người dân trong xó hội mà chưa phải là một quan niệm khoa học. Bởi lẽ, quan niệm này có hạn chế là chưa nêu bật được bản chất, nguồn gốc ra đời giai cấp công nhân, chưa phân biệt sự đồng nhất và khác biệt giữa giai cấp cụng nhõn trong xó hội tư bản và trong xó hội xó hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nếu quan niệm công nhân chỉ là những người lao động chân tay để phân biệt với những người trí thức vốn là tầng lớp những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn hoá thỡ cũng chưa thật sự đúng bởi người công nhân giờ đây không phải chí có lao động chân tay mà đó lao động bằng máy móc, đồng thời họ cũng là những người công nhân được “trí thức hoá”, có trí tuệ. Từ thực tiễn lịch sử cho thấy quan niệm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân vẫn là những quan niệm khách quan , khoa học và đúng đắn, bởi bản thân các ông không chỉ là người đó sống và làm việc trong xó hội tư bản chủ nghĩa mà cũn là những người đó dành trọn cuộc đời để nghiên cứu về bản chất, nguồn gốc ra đời, các xu hướng vận động phát triển của hiện tượng xó hội phức tạp này cũng như đó phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người thủ tiêu giai cấp tư sản và xây dựng thành cụng chủ nghĩa xó hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong rất nhiều tỏc phẩm của mỡnh, C.Mỏc và Ph.Ăngghen đó xem xột khỏi niệm giai cấp cụng nhõn trờn tất cả cỏc khía cạnh, các dấu hiệu đặc trưng và các thuộc tính bản chất nhất của nó. Ngay từ năm 1845, khi bắt tay vào nghiên cứu giai cấp công nhân trong tác phẩm “Gia đỡnh thần thỏnh” C.Mỏc đó đặt câu hỏi:
- Vấn đề không phải ở chỗ hiện nay người vô sản nào đó, thậm chí toàn bộ giai cấp vô sản, coi cái gì là mục đích của mình. Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử. Mục đích của nó và nhiệm vụ lịch sử của nó được tình hình sinh hoạt của bản thân nó cũng như toàn bộ tổ chức của xã hội tư sản hiện đại, chỉ ra từ trước một cách rõ rệt nhất và không thể cối cãi được [28, tr.56]. Xác định đúng giai cấp vô sản là gỡ và nhiệm vụ lịch sử của giai cấp đó do điều kiện khách quan như tỡnh hỡnh sinh hoạt, cũng như toàn bộ tổ chức của xó hội tư sản hiện đại là đóng góp to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen. Thực vậy trong cỏc tỏc phẩm của mỡnh, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn gắn khái niệm giai cấp công nhân trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể. Các ông đã dùng nhiều thuật ngữ đồng nghĩa để chỉ giai cấp công nhân như: “giai cấp vô sản”, “giai cấp công nhân”, “giai cấp công nhân đại công nghiệp”, “giai cấp công nhân hiện đại”. Đồng thời, các ông đều đề cập đến mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và nền công nghiệp hiện đại, khẳng định giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, không ngừng lớn mạnh về số lượng, chất lượng, cơ cấu gắn với sự phát triển của nền sản xuất hiện đại, mang tính chất xã hội hoá rộng lớn. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nói đến giai cấp công nhân là nói đến một cộng đồng người chứ không phải là một cá nhân nào; hơn nữa, đề cập đến giai cấp công nhân không phải là khu biệt nó mà phải xem xét trong mối quan hệ với lực lượng sản xuất xó hội, tức là xác định vị trí của giai cấp công nhân trong lực l ượng sản xuất. Giai cấp công nhân, theo các ông là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xó hội hoỏ, quốc tế hoỏ cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác viết: “Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mỡnh, cũn trong cụng x ưởng thỡ người công nhân phải phục tùng máy móc” [32, tr.605]. Như vậy, nói đến giai cấp công nhân là nói đến những tập đoàn người
- bao gồm những công nhân công x ưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, cũn giai cấp vụ sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [28, tr.610] hay “công nhân là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy…Công nhân Anh là đứa con đầu lũng của nền công nghiệp hiện đại…” [31, tr.11]. Như vậy, giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của đại công nghiệp. Chính vỡ thế, giai cấp cụng nhõn là hiện thõn của lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại, và mang trong mỡnh những đặc trưng riêng có mà không một giai tầng nào có được đó là tinh thần cách mạng triệt để, ý thức tổ chức kỷ luật, tỡnh đoàn kết giai cấp quốc tế vô sảnM ặt khác, khi giai cấp công nhân ch ưa giành được chính quyền thỡ thõn phận của họ là thõn phận của những ng ười làm thuê. Điều này đ ó diễn ra trong thế kỷ X IX khi giai cấp công nhân - giai cấp những người làm thuê, do không có tư li ệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà t ư bản và bị nhà t ư bản bóc lột giá trị thặng dư. Chính vỡ vậy, C.Mỏc và Ph. Ăngghen đó gọi giai cấp cụng nhõn là giai cấp vụ sản. Và chớnh đi ều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp t ư s ản: Giai cấp t ư s ản, tức là t ư bản, mà lớn lên giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - t ức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm đ ược việc làm, và ch ỉ kiếm đ ược việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mỡnh đ ể kiếm ăn t ừng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như b ất cứ món hàng nào khác; vỡ thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lờn xuống của thị trường [30, tr.605]. Phát triển học thuyết mới của C.Mác và Ph. Ăngghen trong thời đại mới, thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại chủ nghĩa xó hội hiện thực. Lờnin đó bổ sung, phỏt triển những thuộc tớnh mới của giai cấp công nhân. Theo Ông, giai cấp cụng nhõn: “Là giai cấp thống trị về chớnh trị, giai cấp lónh đạo toàn xó hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xó hội mới, trong toàn bộ cuộc
- đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu hướng phát triển của giai cấp vô sản là đi tới chỗ tự thủ tiêu mỡnh với tư cách là giai cấp vô sản” [21, tr.34]. C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã viết: Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp [30. tr.610]. Về sau, trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, C.Mác tiếp tục khẳng định: “giai cấp vô sản là một giai cấp cách mạng so với giai cấp t ư sản, bởi vì bản thân nó, tuy lớn lên trên miếng đất của đại công nghiệp, nhưng lại muốn làm cho nền sản xuất trút bỏ các tính chất tư bản chủ nghĩa mà giai cấp tư sản đang cố duy trì vĩnh viễn [32, tr.38]. Vì vậy, giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, hiện đại, đại biểu cho một phương thức sản xuất tiên tiến. Như vậy là, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, giai cấp thực sự cách mạng, có khả năng tổ chức, lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa để thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa trên phạm vi từng nước và trên phạm vi toàn thế giới không phải là ý muốn chủ quan, một sự áp đặt khiên cưỡng mà do những điều kiện khách quan từ địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân gắn với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, mang tính chất xã hội hoá quy định. Thực tế là, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng mạnh mẽ thì mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực l- ượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá rộng lớn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản ngày cang diễn ra gay gắt. Việc chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, với mọi thủ đoạn bóc lột công nhân đã dẫn đến kết cục là: “giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí để giết nó, nó còn sinh ra những người sử dụng vũ khí ấy - những người công nhân hiện đại, những người vô sản” [30, tr.695] Sức thuyết phục trong việc luận giải bản chất, nguồn gốc và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân của C.Mác và Ph.Ăngghen thể hiện ở chỗ các ông luôn
- gắn giai cấp vô sản - giai cấp công nhân “trên quy mô của lịch sử thế giới”. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, hai ông đã từng nêu rõ vấn đề này: “Như vậy là giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới, cũng như chủ nghĩa cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được với tư cách là một tồn tại “có tính lịch sử thế giới” [29, tr.51]. Vận dụng sáng tạo, phát triển sáng tạo học thuyết Mác trong điều kiện mới, V.I.Lênin tiếp tục phân tích và khẳng định “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân”, rằng “giai cấp công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất” [20, tr.430]. Mặt khác, quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân còn được phân tích, luận giải trong mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng Cộng sản- là điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân có thể thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình tr ước hết từ quan hệ lợi ích. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nờu rừ vấn đề này: Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Họ không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vô sản theo những nguyên tắc ấy [30, tr.614]. Từ đó đã chỉ rõ: “về mặt thực tiễn, những người vô sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” [30, tr.614]. Như vậy, trong các tác phẩm của mình C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin tuỳ từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể cũn sử dụng một số hỡnh thức diễn đạt khác như: “lao động làm thuê”, “giai cấp xó hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của mỡnh”, “giai cấp của những người hoàn toàn không có của”, “giai cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX” để biểu đạt khái niệm giai cấp công nhân.
- Cũng trong tỏc phẩm của mỡnh, C.Mác, Ph.Ăngghen đó phân biệt: Những người công nhân đứng máy vốn là những người có trách nhiệm trông coi máy phát động, nghĩa là cho nó ăn than, dầu, và những người giúp việc hầu hết là trẻ em cho những công nhân c ơ khí đó. Trên một mức độ nhiều hay ít, tất cả những feeders (những người chỉ nạp nguyên liệu cho máy móc) đều là những người giúp việc. Bên cạnh những loại thợ chính đó cũn cú những người, với một số lượng không đáng kể, làm công việc kiểm tra toàn bộ máy móc và thường xuyên sửa chữa máy móc như kỹ sư, thợ máy, thợ mộc… Đó là lớp công nhân cao cấp, một phần có tri thức khoa học, một phần có tính thủ công, đứng ngoài giới công nhân công xưởng và chỉ được kết hợp với những công nhân này thôi. Sự phân công lao động đó có tính chất thuần tuý cụng nghệ [28, tr.602]. Từ thực tiễn hoạt động trong phong trào cộng sản các ông đó hiểu rừ hơn ai hết xu hướng vận động biến đổi của phong trào công nhân tất yếu dẫn đến có sự đổi thay trong một bộ phận công nhân. Đó là cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều những người công nhân cách mạng thỡ cũng đó xuất hiện một bộ phận cụng nhõn do yếu kộm trong quỏ trỡnh tu dưỡng phấn đấu mà bị thoái hóa, biến chất nên bị khuất phục và trở thành công cụ của giai cấp tư sản để phá hoại phong trào công nhân từ bên trong, mưu toan kỡm hóm và khuụn cuộc đấu tranh của giai cấp cụng nhõn trong trật tự của “chủ nghĩa cụng liờn” vỡ mục tiờu kinh tế và lợi ớch tầm thường do hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản chi phối. Những phần tử “ vô sản” này C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là “công nhân quý tộc”. Đây là lý do giải thớch tại sao trong các tác phẩm của mình C.Mác và Ph. Ăngghen đó sử dụng những hàm nghĩa khỏc nhau khi cùng phản ánh thuật ngữ “giai cấp vô sản”; trong đó, “cụng nhõn quý tộc” và tầng lớp vụ sản lưu manh không cũn là bộ phận của giai cấp cụng nhõn nữa mà, hoặc đó trở thành là tầng lớp cặn bó của xó hội, hoặc là một bộ phận của giai cấp tư sản phản động để nhằm phân biệt với bản chất cỏch mạng của giai cấp cụng nhõn gắn với vai trũ, sứ mệnh lịch sử của nú. Như vậy, dựa trên hai tiêu chí cơ bản là 1) dựa vào vị trí vai trũ người công nhân trong lực lượng sản xuất xó hội; 2) vị trớ người công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản
- chủ nghĩa, C.Mác, Ph.Ăngghen đó phân định giai cấp công nhân với các giai tầng xó hội khỏc, đồng thời sử dụng khá nhiều cách gọi, cách diễn đạt khác nhau tuỳ từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể để chỉ cùng một đối tượng, đó là giai cấp vô sản, giai cấp công nhân. Ngày nay mặc dù thế giới có nhiều đổi thay, cơ cấu giai cấp xó hội của giai cấp công nhân cũng vậy cũng có sự biến đổi, số lượng người công nhân lao động có trí tuệ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giai cấp công nhân đặc biệt ở các quốc gia công nghiệp phát triển. Hơn nữa, ngày nay chủ nghĩa tư bản do nắm và làm chủ được công nghệ sản xuất hiện đại nên đó tạo nờn được những thành tựu to lớn trong sản xuất, và cũng để điều tiết các mâu thuẫn trong xó hội bản thõn chủ nghĩa tư bản cũng đó tự điều chỉnh để có thể thích nghi hơn với các cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ những mâu thuẫn vốn có của nó nên thực hiện cổ phần hoá, người công nhõn vỡ vậy cũng có cổ phần trong doanh nghiệp, đời sống luôn được cải thiện không ngừng nhưng khụng vỡ thế những mõu thuẫn vốn cú của CNTB mất đi trái lại vấn cũn đó. Và những cuộc khủng khoảng vẫn là bản chất của chế độ xó hội này mà hiện nay chúng ta đang chứng kiến sự khủng hoảng toàn cầu của CNTB trên qui mô toàn thế giới bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính, nhà đất ở nước Mỹ. Chính vỡ vậy, những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai cấp công nhân đến nay vẫn cũn nguyờn giỏ trị. Những quan điểm đó là cơ sở, phương pháp luận khoa học để nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại trong điều kiện lịch sử hiện nay. Ở nước ta, các nhà khoa học cũng đó kế thừa quan niệm của các nhà kinh điển và đưa ra một số quan niệm về giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Trước hết, tác giả Bùi Đỡnh Bụn quan niệm về giai cấp cụng nhõn như sau: Giai cấp công nhân hiện đại là một cộng đồng người lao động hỡnh thành và phỏt triển cựng với cỏch mạng cụng nghiệp, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại có tính chất xó hội húa ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến trong các hoạt động công nghiệp, trực tiếp sản xuất của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xó hội, là động lực chính của tiến trỡnh lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội [3, tr.15].
- Với quan niệm này tác giả đó nờu rừ cụng nhõn là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất cụng nghiệp, đó là lực lượng sản xuất cơ bản tạo ra của cải vật chất, là động lực chủ yếu của tiến trỡnh lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội. Gần giống với quan niệm này, các tác giả trong giỏo trỡnh Chủ nghĩa xó hội khoa học quan niệm: Giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động được hỡnh thành và phỏt triển gắn liền với nền sản xuất cụng nghiệp ngày càng hiện đại- trỡnh độ xó hội hoỏ và quốc tế hoá ngày càng cao; là đại biểu của lực lượng sản xuất tiên tiến, quyết định nhất đối với sự tồn tại và phát triển của xó hội trong thời đại ngày nay; là giai cấp duy nhất cú sứ mệnh lịch sử lónh đạo và tổ chức quá trỡnh cỏch mạng xó hội chủ nghĩa, xõy dựng chủ nghĩa xó hội, chủ nghĩa cộng sản [52, tr.60]. Rừ ràng, cỏc quan niệm về giai cấp cụng nhõn nờu trờn đây tuy ít nhiều có khác nhau nhưng phần nào đó phản ỏnh được những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân là lực lượng lao động hỡnh thành và phát triển gắn với sản xuất công nghiệp, khoa học kỹ thuật và cụng nghệ cao, cú vai trũ to lớn trong nền sản xuất xó hội, và là một trong những động lực chủ yếu trong quỏ trỡnh chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội. Đó là do lập trường giai cấp, thái độ chính trị, trỡnh độ nhân thức và phương pháp tiếp cận khác nhau mà dẫn đến có các quan niệm không giống nhau về vấn đề này. Nhưng quan niệm đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc nhất vẫn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân. Về giai cấp công nhân Việt Nam Giai cấp cụng nhõn Việt Nam là một bộ phận của giai cấp cụng nhõn thế giới. Vỡ vậy, giai cấp cụng nhõn nước ta có đầy đủ những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân nói chung, đồng thời, có những nét đặc thù riêng có do hoàn cảnh lịch sử đất nước Việt Nam quy định. Thực vậy, xột về thời gian lịch sử thỡ giai cấp cụng nhõn Việt Nam ra đời gắn liền với việc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, tức là cũng chỉ mới hỡnh thành và phỏt triển từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây, và đội ngũ công nhân buổi đầu ra đời chủ yếu cũng chỉ
- phục vụ cho cuộc sống, sinh hoạt và công việc khai thác thuộc địa của thực dân, đó là các ngành công nghiệp khai thác mỏ, đồn điền cao su, điện...do vậy giai cấp công nhân Việt Nam chưa có thâm niên lâu đời như đội ngũ công nhân tại các quốc gia công nghiệp khác. Mặt khác, do bị bóc lột tận xương tủy nên ngay từ khi ra đời và sau đó được Đảng giác ngộ công nhân Việt Nam sớm nêu cao bản chất là lực lượng tiền phong trong mọi hoạt động cách mạng, thực hiện thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc và hiện nay đang cùng với mọi lực lượng xó hội khỏc tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH. Về định nghĩa giai cấp công nhân Việt Nam cho đến nay cũng đó có khá nhiều cụng trỡnh đề cập đến, tiêu biểu là: “Đổi mới chính sách xó hội đối với công nhân và thợ thủ công” của Trung tõm nghiờn cứu thụng tin lý luận, Tổng liờn đoàn lao động Việt Nam, 1995; “Một số vấn đề về giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam” của Giáo sư Văn Tạo, 1997, trong đó các tác giả đều nhấn mạnh đến đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam là con đẻ của nền sản xuất công nghiệp. Gần đây văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X cũng đưa ra quan niệm về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là: Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xó hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hỡnh sản xuất kinh doanh và dịch vụ cụng nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ cú tớnh chất cụng nghiệp [15, tr.43]. Rừ ràng, đối với một vấn đề phức tạp như giai cấp công nhân thỡ việc cú nhiều quan niệm khỏc nhau cũng là hết sức cần thiết, một mặt, nó phản ánh đúng sự quan tõm chỳ ý của cả xó hội; mặt khác, đó là do cách tiếp cận, trỡnh độ nhận thức của các đối tượng khác nhau là không giống nhau. Nhưng theo chúng tôi quan niệm trong văn kiện Hội nghị Trung ương sáu Đại hội Đảng X là tương đối đầy đủ vỡ đó phản ỏnh được các đặc điểm tỡnh hỡnh giai cấp cụng nhõn ở nước ta hiện nay cũng như đó nờu được bản chất của thuật ngữ này: được ra đời và phát triển cùng với sản xuất công nghiệp, là sản phẩm của công nghiệp và là chủ thể của nền sản xuất công nghiệp; nói cách khác, nói đến công nhân là nói đến sản xuất công nghiệp, và nói đến sản xuất công nghiệp là nói đến công nhân.
- 1.1.2.Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nhỡn lại lịch sử hỡnh thành CNXH hiện thực chỳng ta thấy hầu hết cỏc quốc gia tiến hành cỏch mạng XHCN đều có nền kinh tế ở trỡnh độ phát triển thấp, chưa đạt trỡnh độ CNTB phát triển. Ngay như nước Nga khi tiến hành xây dựng CNXH cũng vẫn ở trỡnh độ rất lạc hậu, lại phải chịu nhiều hậu quả do chiến tranh tàn phá. Trong khi đó, CNXH là một chế độ xó hội cú nền kinh tế, kỹ thuật ở trỡnh độ cao dựa trên cơ sở vật chất là nền công nghiệp lớn hiện đại, có tính chất xó hội hoỏ sản xuất cao, trỡnh độ khoa học, công nghệ hiện đại được hỡnh thành một cỏch cú kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dõn. Đúng như V.I.Lênin đó nhận định: “chủ nghĩa cộng sản là chính quyền xô viết cộng với điện khí hoá toàn quốc… Chỉ khi nào nước ta đó điện khí hoá, chỉ khi nào công nghiệp, nôngn ghiệp và vận tải đó đứng vững trên cơ sở kỹ thuật của đại công nghiệp hiện đại, thỡ lỳc đó, chúng ta mới có thể đạt được thắng lợi hoàn toàn” [23, tr.195]; đồng thời “ cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của CNXH là nền đại công nghiệp” [24, tr.60]. Chớnh vỡ vậy, cụng nghiệp hoỏ là quỏ trỡnh mang tớnh quy luật của cỏc nước quá độ lên chủ nghĩa xó hội từ nền sản xuất nhỏ, tiểu, thủ công lạc hậu. Đối với nước ta, một nước có nền kinh tế kém phát triển - tiểu nông lạc hậu- quá độ lên chủ nghĩa xó hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa thỡ vấn đề đặt ra là phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xó hội, đảm bảo cho “CNXH có thể phát triển trên cơ sở của chính mỡnh”. Chớnh vỡ vậy, cụng nghiệp húa, hiện đại hóa đó được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng ta đó xỏc định nhưng nội dung cơ bản của công nghiệp hóa là: Thực hiện cụng nghiệp hoỏ xó hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Văn kiện Đại hội nờu rừ: Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xó hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
- Trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp và nông nghiệp là hai bộ phận chủ yếu quan hệ mật thiết với nhau: công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, giữ vai trũ chủ đạo, và nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp. Vỡ vậy, chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hóa xó hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: xõy dựng một nền kinh tế xó hội chủ nghĩa cõn đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại [49]. Đ ại hội IV, V, VI của Đảng đ ó t i ếp tục khẳng đ ịnh, cụ thể hóa từng b ư ớc n ội dung CNH; trong đ ó đáng lưu ý l à Đ ại hội Đ ảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đ ó đánh dấu b ư ớc chuyển h ướng chiến l ược về công nghiệp hóa từ chỗ “ ưu tiên p hát tri ển công nghiệp nặng ” sang “l ấy nông nghiệp, công nghi ệp sản xuất hàng t iêu dùng và hàng xu ất khẩu làm trọng tâm” . T ừ đ ó đ ến nay, việc nhận thức và c ách th ức thực hiện công nghiệp hóa từng b ư ớc phù hợp với tỡnh hỡnh cụ thể của đ ất n ư ớc. Đ ặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đ ảng khoá V II đ ó x ỏc đ ịnh một b ước cơ b ản nội dung công nghiệp hóa ở n ư ớc ta hiện nay: C ông nghi ệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đ ổi c ăn bản, toàn d i ện các hoạt đ ộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - x ã h ội từ sử dụng lao đ ộng thủ công là chính s ang s ử dụng một cách phổ b i ến sức lao đ ộng cùng với công nghệ, ph ương ti ện, ph ương pháp tiên t i ến, hiện đ ại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - c ông ngh ệ, tạo ra n ăng su ất lao đ ộng xã hội cao[9, tr. 65]. Như vậy, về bản chất công nghiệp hóa ở nước ta là quỏ trỡnh trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân; công nghiệp hóa không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trỡnh bao trựm tất cả cỏc ngành, cỏc lĩnh vực hoạt động của một nước; quá trỡnh cụng nghiệp húa trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trỡnh kinh tế - kỹ thuật vừa là quỏ trỡnh kinh tế - xó hội.
- Hơn nữa, công nghiệp hóa cũng chính là quỏ trỡnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xó hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rói với hiệu quả cao những tiến bộ khoa học, cụng nghệ mới, hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh, vững chắc của toàn bộ nền kinh tế - xó hội. Trong bối cảnh hiện nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Bởi lẽ, hiện đại hóa là quá trỡnh chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xó hội từ chỗ theo những quy trỡnh cụng nghệ thủ cụng là chớnh sang sử dụng một cỏch phổ biến những quy trỡnh cụng nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động, hiệu quả và trỡnh độ văn minh kinh tế - xó hội cao. Điều này cũng lý giải tại sao nếu CNH khụng gắn liền với hiện đại hoá thỡ Việt Nam khú trỏnh khỏi tỡnh trạng sẽ là bói rỏc thải cụng nghiệp của cỏc quốc gia cụng nghiệp phỏt triển, và việc tụt hậu ngày càng xa so với các quốc gia phát triển sẽ là điều hiện thực. Rừ ràng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hai quỏ trỡnh khỏc nhau, nhưng lại đan xen, lồng ghép, bổ sung tạo nên sự phát triển toàn diện cả về kinh tế và xó hội. Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có lợi thế của các quốc gia đi sau, nếu chúng ta biết học tập kinh nghiệm của các quốc gia đi trước như Nhật Bản, Hàn quốc, tranh thủ được lợi thế này và có quan hệ thân thiện trên cơ sở “đôi bên cùng có lợi” với các đối tác nước ngoài thỡ hoàn toàn cú thể cho phộp “đi tắt đón đầu”, đi ngay vào công nghệ hiện đại mà không cần các bước công nghiệp hoá tuần tự vừa mất nhiều thời gian, công sức vừa tốn kém tiền bạc như vốn đây một thời chúng ta đó quan niệm truyền thống giản đơn, máy móc rằng việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có thể từ việc tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế cũng như chỉ có thể dựa vào sự hỗ trợ quớ bỏu từ cỏc quốc gia xó hội chủ nghĩa anh em. Lẽ dĩ nhiên, đẩy mạnh CNH, HĐH chúng ta không thể đánh đổi bằng mọi giá, không thể chỉ chạy theo số lượng đất nước có bao nhiêu khu công nghiệp, có bao nhiêu dự án đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, số vốn đầu tư trực tiếp FDI là bao nhiêu, mà phải trên cơ sở thực hiện đúng đắn, nghiêm ngặt các nguyên tắc: giữ vững độc lập tự chủ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
126 p | 261 | 86
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
121 p | 265 | 71
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang
127 p | 68 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tại Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
126 p | 26 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã của huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
119 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ở thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
145 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức tại Sở giao thông Vận tải tỉnh Bắc Kạn
122 p | 39 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Chất lượng đội ngũ công chức thuộc ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
133 p | 27 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tại cơ quan Bộ Giáo dục và Thể thao, Lào
146 p | 11 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
126 p | 48 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Phát triển đội ngũ công chức cấp phường (xã) tại Kon Tum, tỉnh Kom Tum
135 p | 8 | 5
-
Tóm tắt luận văn thạc sỹ Quản trị kinh doanh: Đào tạo đội ngũ công chức tại Ủy ban nhân dân quận Hải Châu – Thành phố Đà Nẵng
26 p | 10 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ công chức hành chính tỉnh Hủa Phăn, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
104 p | 20 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Năng lực đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên
78 p | 6 | 4
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang
26 p | 26 | 3
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ công chức hành chính tỉnh Hủa Phăn, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
26 p | 12 | 3
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng bồi dưỡng đội ngũ công chức Tổng cục Đường bộ Việt Nam
26 p | 26 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tại Sở nội vụ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
106 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn