intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

69
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu là chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận và thực trạng của việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang; Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang

  1. HUỲNH NGỌC MINH VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI _________ Huỳnh Ngọc Minh NGÀNH CHÍNH SÁCH CÔNG Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG KHÓA I
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH NGỌC MINH Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Kiều Phương HÀ NỘI, năm 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đội ngũ công nhân đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta. Nghị quyết 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã nhấn mạnh việc cần thiết phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, có trình độ cao về nghề nghiệp trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiện mới chỉ có khoảng 30% - 35% lao động Việt Nam được qua đào tạo. Những lao động có trình độ cao đã được đào tạo hiện nay cũng chỉ đáp ứng được 20% - 25% yêu cầu của doanh nghiệp, nên vẫn phải tiếp tục đào tạo thêm 2 - 3 năm nữa. Điều này dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp dù thiếu lao động nhưng không thể tuyển đủ theo nhu cầu và yêu cầu đề ra. Đội ngũ sinh viên mới ra trường cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, bởi những nhược điểm lớn của họ là thiếu khả năng tư duy, sáng tạo và tính chủ động trong công việc. Trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân thấp đã ảnh hưởng không tốt đến việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2014 về chất lượng lao động được tính theo thang điểm 10, chất lượng lao động Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 các nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB. Trong khi, Hàn Quốc đạt 6,91 điểm, Ấn Độ là 5,76 điểm, Malaysia là 5,59 điểm, Thái Lan là 4,94 điểm,... Còn theo kết quả khảo sát của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) vào tháng 9 năm 2014, năng suất lao động của công nhân Việt Nam thuộc vào nhóm thấp nhất của khu vực, chỉ bằng 1/5 lao động của công nhân Malaysia, 2/5 lao động của công nhân Thái Lan, 1/15 lao động của công nhân Singapore, 1/11 lao động của công nhân Nhật Bản, 1/10 lao động của công nhân Hàn Quốc. Trong số các nước ASEAN, năng suất lao động của công nhân Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia và Lào. Đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó của đội ngũ công nhân cả nước. Những năm qua, đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp tỉnh An Giang đã 1
  4. có tăng trưởng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, là nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đa số lao động nơi đây là những người chuyển đổi nghề nghiệp từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, từ giai cấp nông dân sang giai cấp công nhân nên chủ yếu là lao động tay nghề thấp, đơn giản, lạc hậu, thiếu kỹ năng, năng lực và tác phong công nghiệp. Phần lớn họ là những người dân ở các xã, huyện lân cận khu công nghiệp. Do lực lượng lao động tại các khu công nghiệp tỉnh hiện phần lớn là lao động phổ thông, chưa có trình độ, không có chuyên môn kỹ thuật nên năng suất, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển, đời sống và việc làm của đại đa số công nhân lao động còn bấp bênh, chưa ổn định. Các chính sách của Nhà nước liên quan đến việc phát triển đội ngũ công nhân đã có. Các ban, ngành chức năng của tỉnh An Giang cùng một số doanh nghiệp, đặc biệt là các tổ chức công đoàn An Giang, cũng đã phối hợp để triển khai nhiều chính sách của Nhà nước liên quan đến việc phát triển đội ngũ công nhân, đặc biệt là công nhân lao động tại các khu công nghiệp. Tuy nhiên, thực tế thực hiện các chính sách đó cũng còn nhiều vấn đề chưa hiệu quả, chưa triệt để. Nhiều doanh nghiệp tỉnh vẫn chưa quan tâm đến đời sống vật chất, đời sống tinh thần, việc làm, công tác đào tạo, nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành thủy sản, nên đa số công nhân lao động không có cơ hội phát triển trình độ, kỹ năng, tay nghề, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Đa số công nhân lao động cũng chưa quan tâm đến việc tự học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chỉ lo trang trải kiếm sống hàng ngày. Bên cạnh đó, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội của tỉnh chưa quan tâm đúng mức đến việc nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần và trình độ cho công nhân ở các khu công nghiệp. Đặc biệt, việc xây dựng đề án, dự án nâng cao trình độ cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tỉnh là chưa có. Công tác đào tạo nhân lực nói chung, đào tạo nghề cho công nhân lao động nói riêng những năm qua đã có những chuyển biến, nhưng vẫn chưa có những kết quả rõ nét, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, hội nhập. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển và hội nhập của đất nước nói chung, của tỉnh An Giang nói riêng, có thể nói, không chỉ việc xây dựng mà việc thực 2
  5. hiện các chính sách phát triển đội ngũ công nhân cả về chất và lượng, đặc biệt có chính sách nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, xây dựng tác phong công nghiệp cho đội ngũ công nhân, là điều cực kỳ quan trọng và cấp thiết. Đây là vấn đề cần được quan tâm sâu sắc, bởi nó là nhân tố tác động trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực của địa phương, gắn với sự phát triển lâu dài và thúc đẩy sự phát triển của giai cấp công nhân, doanh nghiệp tại các khu công nghiệp nói riêng và của tỉnh An Giang nói chung. Bởi vậy, tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp tỉnh An Giang Cuốn Tác động xã hội vùng của các khu công nghiệp ở Việt Nam”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội của TS. Nguyễn Bình Giang là kết quả của nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu khoa học theo Nghị định thư “Khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam: Những tác động xã hội vùng” do Viện Kinh tế và Chính trị thế giới thực hiện trong hai năm 2010 và 2011. Cuốn sách tập trung vào phát hiện, đánh giá và phân tích các tác động xã hội vùng của việc phát triển khu công nghiệp tới cộng đồng dân dân cư ở các địa phương xung quanh khu công nghiệp; đồng thời giới thiệu một số kinh nghiệm của các nước Đông Á về tác động xã hội vùng của khu công nghiệp. Trong Xây dựng, phát triển văn hoá giai cấp công nhân trong quá trình hội nhập quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội, 2011, tác giả Lê Thanh Hà đã nêu và phân tích thực trạng đời sống văn hoá của công nhân lao động và chỉ rõ các giải pháp cải thiện đời sống văn hoá công nhân. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư do đồng chí Nguyễn Phú Trọng, thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành. 3
  6. 2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp tỉnh An Giang Trong Báo cáo kết quả nghiên cứu “Thực trạng đời sống người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và các khuyến nghị chính sách”, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, 2012, tác giả Nguyễn Thị Bích Thuý cùng nhóm nghiên cứu đã chỉ ra và phân tích bối cảnh kinh tế - xã hội và sự ảnh hưởng tới người lao động; đánh giá thực trạng về đời sống của người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất; nêu các chính sách liên quan đến vấn đề nghiên cứu; đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm ổn định đời sống cho người lao động. Đề tài “Thực trạng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần của công nhân các khu công nghiệp hiện nay” do ThS. Lê Thị Lan Hương làm chủ nhiệm, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, 2016, đã phân tích, đánh giá thực trạng nhu cầu của công nhân khu công nghiệp và xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong công tác xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của công nhân khu công nghiệp trong thời gian tới. 2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp tỉnh An Giang Bài “Đào tạo nghề cho nguồn nhân lực ở An Giang phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” trên Tạp chí Phát triển khoa học công nghệ, tập 19, số x4-2016 của Nguyễn Thị Hồng Nhung - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hồ Chí Minh, cho thấy thực tế vấn đề đào tạo nghề cho nguồn nhân lực ở An Giang trên các phương diện: cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo nghề, đội ngũ giáo viên đào tạo nghề,… Tác giả đã chỉ ra sáu giải pháp để nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề ở An Giang là: “đầu tư cơ sở vật chất, máy móc trang thiết bị dạy nghề một cách đồng bộ, đúng tiêu chuẩn kỹ thuật cho từng nghề hoặc nhóm nghề”; “tăng cường số lượng và chất lượng giáo viên dạy nghề, chế độ chính sách đảm bảo mức sống cơ bản cho giáo viên dạy nghề; hỗ trợ chi phí đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ cho giáo 4
  7. viên dạy nghề”; “các cơ quan hữu quan và người dân phải nâng cao nhận thức về vai trò của đào tạo nghề trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; “mạng lưới liên kết giữa các viện - trường - doanh nghiệp cần được thành lập và phát huy hơn nữa vai trò của của từng “mắt xích” trong mối liên kết; “các công ty và cơ sở đào tạo nghề phối hợp áp dụng và mở rộng hình thức đào tạo nghề tại công ty”; “mạng lưới đào tạo nghề của tỉnh cần được quy hoạch và liên kết phát triển một cách hệ thống và quy củ”. Ngoài những tài liệu trên, có thể kể đến một vài luận văn có vấn đề nghiên cứu khá liên quan đến đề tài luận văn, đó là: “Xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư công nghiệp Biên Hòa thời kỳ 2002-2020” của Nguyễn Văn Quyết, Đại học Văn hóa, 2000; “Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong công nhân lao động ở vùng than Quảng Ninh” của Đặng Văn Xuyên, Đại học Văn hóa, 2002; “Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cho người lao động ở một số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội” của Nguyễn Thúy Hằng, Đại học Văn hóa Hà Nội, 2009; “Đời sống văn hóa của công nhân ở trọ trên địa bàn xã Kim Chung, huyện Đông Anh, Hà Nội” của Chung Hồng Minh, Đại học Văn hóa Hà Nội, 2010; “Đời sống văn hóa tinh thần của lao động nữ ở các khu công nghiệp trên địa bàn Vĩnh Phúc hiện nay” của Trần Thị Minh Lợi, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2011; “Đời sống văn hóa tinh thần của thanh niên công nhân khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên” của Lê Minh Phúc, Học viện Chính trị - Hành Chính Quốc gia Hồ Chí minh, 2013; “Đời sống văn hoá tinh thần công nhân khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay (qua khảo sát Khu Công nghiệp Yên Phong và Quế Võ) của Đặng Thị Lợi, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2014; …v...v... Tóm lại, tuy đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp từ nhiều góc độ, nhưng hiện vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp vấn đề thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. Các công trình đó là nguồn tư liệu quý giúp tác giả luận văn có cái nhìn tổng thể, toàn diện hơn về đội ngũ công nhân tại các khu 5
  8. công nghiệp trên cả nước để từ đó đi sâu vào vấn đề thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận và thực trạng của việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang; qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thứ nhất, chỉ ra và phân tích cơ sở lý luận của việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. - Thứ hai, chỉ ra và phân tích thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. - Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi không gian: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu tại 03 khu công nghiệp lớn của tỉnh An Giang là: Khu công nghiệp Bình Hòa, Khu công nghiệp Bình Long, Khu công nghiệp Xuân Tô. + Phạm vi thời gian: Luận văn sử dụng các số liệu thống kê trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020, để đề xuất chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang trong những năm tiếp theo. 6
  9. 5. Cơ sở lý luận, ý nghĩa lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: + Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân. + Quan điểm của Đảng và các chính sách của Nhà nước Việt Nam về công nhân và sự phát triển của đội ngũ công nhân. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp,… + Khi thu thập được tài liệu thông qua nguồn thứ cấp và sơ cấp, thông tin được phân loại, phân nhóm theo nội dung và mục đích trình bày bằng phần mềm Word, làm căn cứ để áp dụng các phương pháp khác. + Phương pháp phân tích, diễn giải, quy nạp: trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp trên để đưa ra những khái niệm, đặc điểm, các yếu tố tác động đến xây dựng chính sách nâng cao chất lượng công nhân lao động tại các khu công nghiệp. + Phương pháp quan sát, đi điều tra thực tế, lấy thông tin trực tiếp từ các đối tượng, cơ quan chức năng, tổ chức công đoàn, chủ doanh nghiệp, công nhân lao động để phân tích, đánh giá theo phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh. + Phương pháp thống kê, thu thập, so sánh: qua việc khảo sát, tác giả sử dụng phương pháp này để thu thập số liệu, so sánh, để đưa ra những đánh giá chính xác về thực trạng trình độ, tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân lao động tại các khu công nghiệp. + Phương pháp tổng hợp: được vận dụng để chỉ ra những vấn đề còn hạn chế (như tình hình thực tế tại địa phương, chiến lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh, vai trò của các cơ quan chức năng được phân công quản lý lao động, vai trò của tổ chức công đoàn,...) và các nguyên nhân của hạn chế, để qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. 7
  10. 6. Ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận: Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 28-1-2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã xác định: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. Quan niệm trên đã khẳng định lý luận mácxít về đặc điểm của giai cấp công nhân là tập đoàn người gắn liền với phương thức lao động công nghiệp, khẳng định “tính chất công nghiệp” là tính chất nổi bật trong lao động của giai cấp công nhân nước ta. Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay nói chung và công nhân lao động tại các khu công nghiệp của tỉnh nói riêng là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, cho nên chưa đạt đến độ thống nhất cao và có nhiều tầng lớp. Sự phân hóa, phân tầng đó là tự nhiên, có cơ sở từ thực tiễn trình độ, công nghệ và các loại hình kinh tế hiện nay. Theo đó, cần nhận thức rõ về mặt lý luận về vai trò, vị trí của giai cấp công nhân để đề ra những giải pháp phù hợp khi xây dựng, phát triển đội ngũ công nhân, đặc biệt là công nhân lao động trong các khu công nghiệp. Đó là sự thống nhất giữa lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của toàn Dân tộc trong mục tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”; đó là sự thống nhất giữa 3 lợi ích: của cá nhân người lao động, của tập thể và của xã hội...của mỗi người công nhân. Nhận thức lý luận này là thừa nhận sự tồn tại và không ngừng phát triển của giai cấp công nhân nước ta. Giai cấp công nhân nước ta được xác định là luôn vận động, “đang phát triển”, vì vậy quan niệm này chấp nhận sự bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với xu thế phát triển của cả thế giới, từ đó đề ra chính sách triển đội ngũ công nhân nước ta. 6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Theo guồng quay của nền kinh tế thị trường, người công nhân ngày càng chịu nhiều áp lực hơn. Công việc khiến họ không còn có thời gian để quan tâm nhiều tới đời sống tinh thần, chính trị xã hội. Một thực tế đặt ra là hầu hết công nhân làm thuê với mức lương thấp mà chi phí cho cuộc sống. Với mức lương từ 4 đến 5 triệu đồng/tháng rất khó khăn trong việc duy trì một cuộc sống vật chất tối thiểu của mình. Để nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động thì việc Đảng, Chính phủ, địa phương phải có những chính sách cụ thể để nâng cao trình độ kỹ năng, tay nghề cho người lao động, từ đó góp phần nâng cao thu nhập, ổn định đời sống, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà. 8
  11. 7. Phương pháp thu thập số liệu Từ những công trình hoặc các luận văn có liên quan đến đề tài, tác giả thu thập các dữ liệu liên quan để tham khảo; thu thập các báo cáo, kế hoạch, quy chế chi tiêu nội bộ, các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy về nâng cao trình độ, kỹ năng cho người lao động. Tác giả cũng có những khảo sát riêng để thu thập dữ kiện, số liệu. Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu thứ cấp: Được chọn lọc, mô tả thống kê, kẻ bảng để rút ra kết luận nghiên cứu. Số liệu sơ cấp: Kết quả khảo sát được xử lý bằng phần mềm word. Phương pháp thống kê tổng hợp: Được sử dụng sắp xếp, tổng hợp dữ liệu sơ cấp thu thập được một cách khoa học nhất, biến dữ liệu sơ cấp thành dữ liệu thứ cấp phục vụ cho quá trình phân tích vấn đề nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân lao động. Phương pháp thống kê mô tả: Được sử dụng để mô tả những đặc tính cơ bản của dữ liệu thu thập được từ điều tra và các bảng số liệu, để đánh giá thực trạng trình độ công nhân lao động tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang. Phương pháp phân tích: Được sử dụng để phân tích và đánh giá những thành công cũng như những tồn tại, hạn chế, nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách nâng cao trình độ, kỹ năng cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới. Phương pháp khác: Bên cạnh các phương pháp trên, tác giả sử dụng một số phương pháp khác như đối chiếu, phỏng vấn công nhân lao động tại khu công nghiệp Bình Hòa,... 8. Kết cấu đề tài Đề tài ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo được thiết kế thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang 9
  12. Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ công nhân trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang 10
  13. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG 1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chính sách công 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm chính sách Chính sách là một hệ thống nguyên tắc có chủ ý hướng dẫn các quyết định và đạt được các kết quả hợp lý. Một chính sách là một tuyên bố về ý định và được thực hiện như một thủ tục hoặc giao thức. Các chính sách thường được cơ quan quản trị thông qua trong một tổ chức. Chính sách có thể hỗ trợ cả việc đưa ra quyết định chủ quan và khách quan. Các chính sách hỗ trợ trong việc ra quyết định chủ quan thường hỗ trợ quản lý cấp cao với các quyết định phải dựa trên thành tích tương đối của một số yếu tố và do đó thường khó kiểm tra khách quan. Các chính sách tương phản để hỗ trợ việc ra quyết định khách quan thường hoạt động trong tự nhiên và có thể được kiểm tra khách quan. Chính sách khác với các quy tắc hoặc luật pháp. Mặc dù luật pháp có thể buộc hoặc cấm hành vi (ví dụ: luật yêu cầu nộp thuế đối với thu nhập), chính sách chỉ hướng dẫn hành động đối với những hành vi có nhiều khả năng đạt được kết quả mong muốn nhất. 1.1.1.2. Khái niệm chính sách công Những quan niệm đầu tiên về chính sách công xuất hiện cùng với sự ra đời của nền dân chủ Hy Lạp và nhà nước. Nhà nước có vai trò quản trị (quản lý) và vai trò xã hội quan trọng. Để thực hiện vai trò và chức năng của mình, nhà nước ban hành chính sách công với tính chất là một công cụ hữu hiệu để nhà nước quản trị (quản lý) và tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển. Theo nghĩa rộng, chính sách công là chính sách của nhà nước, là kết quả cụ thể hóa chủ trương, đường lối của đảng cầm quyền thành các quyết định chính trị có liên quan với nhau, có mục tiêu, giải pháp, công cụ cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước để duy trì sự tồn tại và phát triển của 11
  14. nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Do đó, chính sách công có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự quản trị quốc gia. Chính sách công là hướng dẫn nguyên tắc cho hành động được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp của nhà nước liên quan đến một nhóm các vấn đề theo cách phù hợp với pháp luật và thiết chế xã hội. Gần đây, việc sử dụng bằng chứng trong các quyết định chính sách hướng dẫn đã phổ biến hơn. Những người ủng hộ chính sách dựa trên bằng chứng cho rằng bằng chứng khoa học chất lượng cao, thay vì truyền thống, trực giác hoặc hệ tư tưởng chính trị, nên hướng dẫn các quyết định về chính sách. Nền tảng của chính sách công bao gồm các luật và hiến pháp của quốc gia. Các chất nền hơn nữa bao gồm cả các diễn giải và quy định tư pháp thường được pháp luật cho phép. Chính sách công được coi là mạnh mẽ khi giải quyết vấn đề hiệu quả, phục vụ và hỗ trợ các thể chế và chính sách của chính phủ và khuyến khích sự tích cực của công dân. Trong cuốn “Giới thiệu nâng cao về chính sách công”, B.Guy Peters đã định nghĩa chính sách công là “tập hợp các hoạt động mà chính phủ tham gia với mục đích thay đổi nền kinh tế và xã hội”, rằng chính sách công là luật được đưa vào nhằm mục đích mang lại lợi ích hoặc tác động đến cử tri theo một cách nào đó. Các học giả khác định nghĩa chính sách công là một hệ thống “các khóa học hành động, biện pháp điều chỉnh, luật pháp và các ưu tiên tài trợ liên quan đến một chủ đề nhất định được ban hành bởi một thực thể chính phủ hoặc đại diện của nó. Chính sách công thường được thể hiện trong “hiến pháp, hành vi lập pháp và quyết định tư pháp”. Chính sách công tập trung vào các quyết định tạo ra kết quả của một hệ thống chính trị, chẳng hạn như chính sách vận chuyển, quản lý dịch vụ y tế công cộng, quản lý trường học hệ thống và tổ chức lực lượng quốc phòng. Phần lớn chính sách công có liên quan đến việc đánh giá việc ra quyết định trong chính phủ và các cơ quan công quyền. 12
  15. 1.1.2. Chu trình chính sách Chu trình chính sách (Policy Process) (hay qui trình chính sách) được hiểu là quá trình luân chuyển các giai đoạn từ khởi sự chính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội. Chu trình chính sách gồm các bước sau: (1) Phát hiện vấn đề nảy sinh đời sống xã hội - Hay còn gọi là: Xác định vấn đề/Định nghĩa vấn đề chính sách; (2) Đưa vào chương trình nghị sự, hay lập chương trình nghị sự; (3) Tìm kiếm, đề xuất các giải pháp - các lựa chọn chính sách; (4) Chính sách được chấp nhận thông qua - Thông qua chính sách; (5) Thực thi chính sách; (6) Đánh giá và (có thể) kết thúc chính sách. 1.1.3. Thực hiện chính sách công Thực thi có nghĩa là thực hiện hoặc tiến hành. Tuy nhiên, thực thi ở đây được xem xét với tư cách là giai đoạn thứ tư của chu trình chính sách công. Trong chuyên ngành chính sách công cũng có nhiều định nghĩa về thực thi. Chẳng hạn, theo Mazmanian và Sabatier: “Thực thi là thực hiện một quyết định chính sách cơ sở, thường được thể hiện trong một đạo luật, nhưng cũng có thể được thể hiện dưới hình thức các quyết định quan trọng của cơ quan hành pháp hoặc các quyết định của toà án. Theo lý tưởng, quyết định đó xác định vấn đề cần được giải quyết, quy định các mục tiêu cần theo đuổi và rất nhiều cách thức, định hình quá trình thực thi. Thông thường, quá trình này trải qua nhiều giai đoạn, bắt đầu với việc thông qua đạo luật cơ bản, tiếp theo là các quyết định của các cơ quan thực thi chính sách, sự tuân thủ của các nhóm lợi ích với các quyết định đó, các tác động thực tế - cả chủ định và không chủ định - của các đầu ra đó, những tác động nhận thức được của các quyết định, và cuối cùng là những sửa đổi quan trọng trong đạo luật cơ bản”. Theo Amy De Groff, Margaret Cargo, “thực thi chính sách công phản ánh một quá trình thay đổi phức tạp mà các quyết định của nhà nước được chuyển thành các chương trình, thủ tục, các quy định, hoặc các hoạt động nhằm đạt được những cải thiện xã hội”. Ottoson và Greencho cho rằng, “thực thi là một quá 13
  16. trình lặp đi lặp lại, trong đó các ý tưỏng được thể hiện trong chính sách công được biến đổi thành hành vi, được thể hiện thành hành động xã hội. Thông thường, hành động xã hội được biến đổi từ chính sách nhằm đạt được sự cải thiện xã hội; và thường được thể hiện phổ biến nhất dưới dạng các chương trình, thủ tục, quy định và hành động”. Theo Thomas Dye, “thực thi bao gồm tất cả các hoạt động được thiết kế để thực hiện cốc chính sách công đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp. Vì các chính sách công có những tác động mong muốn hoặc có chủ định, nên chúng phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà sau đó được thực hiện để đạt được một tập hợp các mục tiêu hoặc mục đích”. Theo William N.Dunn, “các hành động chính sách công có hai mục đích chính: điều chỉnh và phân bổ”. Các hành động điều chỉnh là những hành động được thiết kế để bảo đảm sự tuân thủ các tiêu chuẩn hoặc thủ tục nhất định. Các hành động phân bổ là những hành động đòi hỏi các đầu vào như tiền, thời gian, nhân sự và thiết bị. Các hành động điều chỉnh và phân bổ có thể có những kết quả là phân phối và phân phối lại, được thực thi bởi các cơ quan nhà nước. Thực thi chính sách công là một giai đoạn rất quan trọng của chu trình chính sách, bởi sự thành công của một chính sách công phụ thuộc vào kết quả của thực thi chính sách công; là quá trình đưa chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách công và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công. Theo Wayne Hayes, có bốn khả năng xảy ra trong thực thi chính sách công: (1) Chính sách công tốt và thực hiện tốt dẫn đến thành công; (2) Chính sách công tốt, nhưng thực hiện tồi dẫn đến thất bại; (3) Chính sách công tồi, nhưng thực hiện tốt dẫn đến thành công; (4) Chính sách công tồi và thực hiện tồi dẫn đến thất bại kép. Theo đó, thực thi chính sách công không đơn giản chỉ là sự tổ chức thực hiện các giải pháp, chính sách cụ thể mà bao gồm: (1) Ban hành các văn bản quy định chi tiết, quy định các biện pháp, các thủ tục thực thi chính sách công (sau đây gọi là văn bản thực thi chính sách công) và thi hành các văn bản đó; (2) Thiết lập các chương trình, dự án để thực thi chính sách công (sau đây gọi là 14
  17. chương trình, dự án thực thi chính sách công) và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án đó. Từ trên, có thể nói, “Thực thi chính sách công là quá trình đưa chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách công và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công”. Thực thi chính sách công có vị trí đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách công, nó là giai đoạn hiện thực hóa mục tiêu chính sách công. Vai trò của thực thi chính sách công trong chu trình chính sách công được thể hiện ở những phương diện sau: - Từng bước hiện thực hóa mục tiêu của chính sách công. Các mục tiêu chính sách công chỉ có thể đạt được thông qua quá trình thực thi chính sách công, bởi thực thi chính sách công bao gồm các hoạt động có tổ chức được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước và các đối tác xã hội hướng tới đạt được các mục tiêu và mục đích đã tuyên bố trong chính sách công. Trong quá trình thực thi, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thiết lập các văn bản, hoặc chương trình, dự án để hiện thực hóa các mục tiêu và mục đích chính sách công và tiến hành các hoạt động để thực hiện các văn bản, chương trình, dự án đó. - Khẳng định tính đúng đắn của chính sách công. Quá trình hoạch định chính sách công cho ra đời một chính sách công. Tuy nhiên, chính sách công đó có thực sự đúng đắn hay không chỉ có thể được nhận thức đầy đủ hơn trong giai đoạn thực thi chính sách công. Thực thi chính sách công cung cấp những bằng chứng thực tiễn về mục tiêu chính sách công có thích hợp hay không và các giải pháp chính sách công có thực sự phù hợp với vấn đề mà nó hướng tới giải quyết hay không. Về phương diện lý thuyết, một chính sách công được ban hành đã phải đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn của một chính sách công tốt và mới chỉ được thừa nhận bởi các chủ thể ban hành, nhưng khi triển khai vào thực tiễn đời sống xã hội, tính đúng đắn của chính sách công mới được khẳng định một cách chắc chắn bởi xã hội và đối tượng thụ hưởng chính sách công. - Thực thi chính sách công giúp cho chính sách công ngày càng hoàn thiện hơn. Chính sách công được ban hành ban đầu hay chính sách cơ sở thường chỉ 15
  18. mang tính định hướng về mục tiêu và giải pháp để giải quyết vấn đề công. Chính sách công này sẽ được cụ thể hóa cho phù hợp với bối cảnh và điều kiện cụ thể trong quá trình thực thi của các cơ quan nhà nước các cấp. Căn cứ vào mục tiêu và giải pháp chính sách công ban đầu, các cơ quan nhà nước các cấp theo thẩm quyền thiết kế và ban hành các quy định, thủ tục hoặc chương trình, dự án để cụ thể hóa các mục tiêu và giải pháp cho phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực thi chính sách công cụ thể. Hơn nữa, thông qua thực thi chính sách công, những người thực thi đưa ra những đề xuất điều chỉnh chính sách công cho phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và rút ra những bài học kinh nghiệm cho xây dựng chính sách công trong tương lai. Chính vì vậy, nhiều nhà khoa học cho rằng có một mối quan hệ hữu cơ giữa giai đoạn hoạch định chính sách công và thực thi chính sách công, việc phân tách rạch ròi giữa thực thi chính sách công và hoạch định chính sách công trước đây đã không còn phù hợp. 1.2. Lý luận về giai cấp công nhân 1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân C.Mác đã chỉ ra rằng, “Giai cấp công nhân là giai cấp chiếm đa số trong mỗi dân tộc và sáng tạo nên mọi của cải của dân tộc đó”1. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cũng dùng nhiều thuật ngữ để chỉ giai cấp công nhân, như giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,… Các ông chỉ ra hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân, đó là: - Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Các ông viết: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[2]; “Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy… Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”[3]. - Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai 1 C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.16, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 577. 16
  19. này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản. Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn. Bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự động hoá với việc áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất. Song, dù cho trình độ kỹ thuật có thay đổi như thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại như là một giai cấp đặc thù. Theo căn cứ hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân, chúng ta có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân. Còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo dục, văn hoá, dịch vụ (không liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp) là những người lao động nói chung, đang được thu hút vào tổ chức công đoàn nghề nghiệp, nhưng không phải là công nhân. Khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, không còn ở vị trí giai cấp bị bóc lột, trở thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động, làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công hữu hoá. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân có đặc trưng chủ yếu nhất là thuộc tính thứ nhất. Còn về thuộc tính thứ hai, nếu xét toàn bộ giai cấp, thì giai cấp công nhân đã là người làm chủ, nhưng trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần kinh tế, thì còn có một bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân. Những người này về danh nghĩa tham gia làm chủ cùng toàn bộ giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhưng xét về cá nhân thì họ vẫn là những người làm công ăn lương và ở mức độ nhất định thì họ vẫn bị chủ sở hữu tư nhân bóc lột giá trị thặng dư. Đến nay, quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ 17
  20. mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Căn cứ hai thuộc tính cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay. Ở các nước tư bản, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp lãnh đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”2. Các ông đã chứng minh một cách khoa học rằng, sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới là xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Và rằng, giai cấp công nhân chỉ có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại. 2 C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.56. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2