intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:77

47
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số; Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang; Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI QUANG LÊ HỒNG CHUYÊN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC CHĂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI QUANG LÊ HỒNG CHUYÊN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC CHĂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HỒ VIỆT HẠNH HÀ NỘI, 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài ASXH luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn mỗi Nhà nước, mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là của các đảng cầm quyền, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội, sự phát triển bền vững của đất nước với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đối với nước ta, việc bảo đảm ASXH ngày càng tốt hơn luôn được xem là chủ trương, là nhiệm vụ hết sức to lớn của Đảng và Nhà nước, vừa thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, cũng đồng thời có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của nước ta. Nhiều năm qua, song song với việc phát triển KT-XH, không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, nâng cao thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm chăm lo đến ASXH cho nhân dân. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng ta đã xác định: “…Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, làm cho nhân dân ta được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức khỏe, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị” [31, tr.86]. Đặc biệt, trong lịch sử phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, các chính sách đối với vùng đồng bào DTTS luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, nhất là các chính sách, chương trình ASXH. An Giang là tỉnh có đông đồng bào DTTS sinh sống, trong đó phải kể đến đồng bào dân tộc Chăm, nhiều năm qua Đảng bộ, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh đã không ngừng quan tâm, chăm lo thực hiện tốt các chính sách ASXH cho đồng bào Chăm tỉnh nhà, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, lẫn tinh thần, thay đổi cách nghĩ, cách làm trong sản xuất làm ăn, nhằm phát triển kinh tế gia đình, vươn lên ổn định cuộc sống,… qua đó, góp sức cùng chính quyền địa phương xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được trong quá trình thực hiện các chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm vẫn còn tồn tại những vấn đề đặt ra cần sớm được giải quyết. 1
  4. Xuất phát từ tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn, tác giả lựa chọn vấn đề “Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ với mong muốn đóng góp, bổ sung thêm lý luận, làm giàu kinh nghiệm thực tiễn trong thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng và các DTTS trên cả nước nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ASXH, chính sách ASXH và thực hiện chính sách ASXH đã và đang được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu nhận thấy đã có rất nhiều công trình, luận án, luận văn, bài viết nghiên cứu liên quan đến vấn đề thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào DTTS ở nhiều mức độ cũng như góc độ khác nhau, một số công trình nghiên cứu đã được công bố như: Công trình nghiên cứu “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chính sách pháp luật về giảm nghèo cho đồng bào DTTS phù hợp với Hiến pháp”, đề tài cấp Bộ do ông Danh Út, nguyên Phó Chủ nhiệm Hội đồng Dân tộc của Quốc hội làm chủ nhiệm đã phân tích cơ sở lý luận và thực trạng chính sách, pháp luật về giảm nghèo đối với DTTS; từ đó chỉ ra những thành quả đạt được và hạn chế, vướng mắc cần được khắc phục; đề xuất những giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo đối với DTTS phù hợp với Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi). Tác phẩm “ASXH ở Việt Nam hướng tới 2020” của tác giả Vũ Văn Phúc đã phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về ASXH ở Việt Nam trong những năm đổi mới; chỉ ra những thành tựu, vai trò của ASXH đối với sự phát triển xã hội cũng như những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và định hướng xây dựng hệ thống ASXH ở Việt Nam đến năm 2020. Luận án tiến sĩ “Thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc đến năm 2020”, của tác giả Nguyễn Đức Thắng đã làm nổi bật những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc, từ đó nhằm đề ra các giải pháp nâng cao kết quả trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới. 2
  5. Song song với các đề tài cấp Nhà nước thì có nhiều nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề ASXH được đăng trên các tạp chí, diễn đàn khoa học,… có thể kể đến các chuyên đề nghiên cứu sau: Nguyễn Trọng Đàm, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với nghiên cứu “Hoàn thiện chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển KT-XH của đất nước”, được đăng trên Tạp chí Cộng sản (2015). Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thạc sĩ Đặng Đỗ Quyên với nghiên cứu “Đánh giá thực trạng chính sách ASXH đối với DTTS ở Việt Nam”. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Việt Hạnh, Phan Thị Sông Hương với nghiên cứu “Chính sách ASXH gắn với định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Ninh Thuận: Hiện trạng và giải pháp giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, đăng trên Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội số 7/2020, qua đó đã xem xét và làm rõ thực trạng chính sách ASXH gắn với định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Ninh Thuận; nhằm góp phần đưa ra một số giải pháp cho những vấn đề đặt ra trong giai đoạn 2020 - 2030. Nghiên cứu “Người DTTS được hưởng lợi từ các chương trình giảm nghèo có quy mô lớn? Bằng chứng từ Việt Nam” của nhóm tác giả Nguyễn Việt Cường, Phùng Đức Tùng và Daniel Westbrook, đăng trên Tạp chí The Review of Economics and Finance, Elsevier, đã trực tiếp miêu tả những kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng bào DTTS ở Việt Nam. Nghiên cứu mang tính bao quát trên phạm vi cả nước, nhưng được phân tích bằng những chứng cứ cụ thể, với kết quả đạt được chi tiết đã mang đến những giá trị thực tiễn lớn khi phản ánh những thay đổi về cuộc sống của người dân từ chính sách giảm nghèo bền vững. Các nghiên cứu trên đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận, thực tiễn thực hiện chính sách ASXH và các nội dung liên quan đến ASXH. Đồng thời, các nghiên cứu này đã tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, những kết quả đạt được và hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách ASXH tại địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở đó, các nghiên cứu này đã đề ra những giải pháp thiết thực để thực hiện chính sách ASXH khá phù hợp với điều kiện KT-XH của từng địa phương. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó mang tầm vĩ mô bao quát cả nước hoặc nghiên cứu ở các địa phương 3
  6. khác nên chưa thực sự phù hợp với đặc điểm của đồng bào dân tộc Chăm tỉnh An Giang nên việc nghiên cứu thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang được xem như là một hệ thống độc lập vẫn chưa được giải quyết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ASXH đối với đồng bào DTTS và làm rõ thực trạng thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian qua, luận văn luận giải và đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ASXH đối với đồng bào DTTS ở nước ta hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm tỉnh An Giang. Nghiên cứu, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chính sách ASXH đối với đồng bào DTTS ở nước ta hiện nay, hoạt động thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài là tỉnh An Giang với hơn 11.171 người dân tộc Chăm, chiếm 0,59% dân số tỉnh An Giang của 04 huyện, thị. Phạm vi thời gian: phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài được xác định từ năm 2010 đến nay. 4
  7. Phạm vi nội dung: chính sách ASXH về việc làm, thu nhập, trợ cấp xã hội, BHXH,… 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, luận văn còn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách ASXH cho DTTS nói chung và đồng bào dân tộc Chăm nói riêng. Ngoài ra, tác giả còn căn cứ trên cơ sở lý luận của chuyên ngành chính sách công để nghiên cứu đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp quan sát khoa học; Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp điều tra xã hội học; Phương pháp tham vấn chuyên gia. Các phương pháp được sử dụng phù hợp trong từng chương của luận văn cụ thể như sau: Chương 1, với mục đích làm rõ các vấn đề lý luận, tác giả sử dụng phương pháp: nghiên cứu tài liệu thứ cấp để làm rõ các khái niệm như chính sách công, chính sách ASXH, DTTS và thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào DTTS. Ngoài ra, phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng nhằm làm rõ các vấn đề lý luận khác của luận văn như các bước thực hiện, nội dung, chủ thể và các bên liên quan, kinh nghiệm của các địa phương. Chương 2, với mục đích làm rõ thực trạng thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang, tác giả sử dụng một số phương pháp như: Phương pháp quan sát khoa học nhằm tìm hiểu thực tiễn thực hiện các bước trong quá trình thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm; Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu nhằm cho thấy kết quả và mức độ hài lòng về kết quả thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân 5
  8. tộc Chăm; Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm rõ các hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm. Chương 3, với mục đích đề xuất được các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang, tác giả sử dụng một số các phương pháp sau: Phương pháp tham vấn chuyên gia bằng tham gia các hội thảo, tham vấn ý kiến các chuyên gia lý luận và thực tiễn về vấn đề để xác định quan điểm xây dựng giải pháp; Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm xây dựng và triển khai các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn góp phần thêm vào kho tàng khoa học lý luận bằng những phát hiện mới trong nghiên cứu lý thuyết của mình về vấn đề thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào DTTS nói chung và đồng bào dân tộc Chăm nói riêng, tạo ra những gợi ý mới cho việc nghiên cứu lý luận về vấn đề thực hiện chính sách ASXH trong tương lai. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này. Khái quát thực trạng việc thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế của việc thực hiện ASXH hiện hành đối với đồng bào dân tộc Chăm. Làm rõ những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức để từ đó đề xuất các phương án xây dựng và hoàn thiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang trong giai đoạn tới. Khuyến nghị các giải pháp xây dựng và thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm đảm bảo cho tính khả thi của các phương án chính sách đã đề xuất. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào DTTS. 6
  9. Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang. Chương 3. Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ASXH cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang. 7
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.1. An sinh xã hội và thực hiện chính sách an sinh xã hội 1.1.1. Khái niệm chính sách, chính sách công 1.1.1.1. Khái niệm chính sách Chính sách là lĩnh vực tập trung mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, là sản phẩm đầu ra của toàn bộ hệ thống chính trị. Với chính trị học, một khoa học đại cương và tổng hợp về chính trị, khoa học nghiên cứu vấn đề trung tâm trực tiếp của chính trị - vấn đề quyền lực chính trị, thì việc nghiên cứu chính sách là một cấu thành quan trọng. Ở hầu hết các nước phát triển, với tư cách là một chuyên ngành chính của khoa học chính trị, lý luận khoa học về chính sách thường được gọi với những cái tên ít nhiều khác nhau: chính sách công (Public policy), phân tích chính sách (Analize policy) hay khoa học về chính sách (Policy science). Ở các quốc gia này, khoa học chính sách đã có lịch sử và nội dung phát triển phong phú, nó thể hiện sự phản tư đầy trăn trở của bản thân quá trình hoạch định chính sách trong thực tế. Từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó” [54, tr.475]. Còn tác giả Vũ Cao Đàm chỉ ra: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” [21, tr.29]. James E. Anderson cho rằng chính sách là chuỗi những hoạt động mà chính quyền chọn làm hay không làm với tính toán và chủ đích rõ ràng, có tác động đến người dân hoặc “Chính sách quá trình hành động của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của công dân” [21, tr.19]. 8
  11. Hiểu một cách đơn giản thì chính sách là một chương trình hành động do các nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó, có thể coi chính sách là một công cụ quản lý để điều hành các hoạt động KT-XH theo những mục tiêu nhất định. 1.1.1.2. Khái niệm chính sách công “Chính sách” khi xét với vai trò và chức năng của khu vực công thường được gọi là chính sách công. Thomas Dye đã từng đặc trưng hóa rằng: “Chính sách công là tất cả những gì Nhà nước chọn làm hoặc không làm” [36, tr.3]. Đến B. Guy Peter đã khẳng định hoạt động của Nhà nước và tác động của chính sách đối với toàn bộ các công dân thông qua khái niệm: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước một cách trực tiếp hay gián tiếp đều có ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi công dân” [18, tr.97]. Theo quan điểm lý thuyết hệ thống, P.de Leon và G. Brewer thống nhất: “Chính sách công là những quyết định quan trọng nhất của xã hội, là những hành động có tính chức năng dựa trên sự đồng thuận hoặc phê chuẩn của toàn hệ thống”. Guy Petter, năm 1996 cho rằng: “Chính sách công là chính sách phản ánh toàn bộ các hoạt động của Chính phủ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của người dân” [18, tr.97]. Trong khi đó, chính sách “tư” chỉ là các quy chế nội bộ nhằm giải quyết vấn đề nội bộ. William Jenkin cho rằng chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó. Như vậy, chính sách công là tập hợp các biện pháp can thiệp được thể chế hóa mà Nhà nước đưa ra nhằm đạt được mục tiêu quản lý của mình. Theo William N. Dunn, 1992, chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan Nhà nước hay các quan chức Nhà nước đề ra. Đối với nước ta, cũng có rất nhiều quan niệm, góc nhìn khác nhau về chính sách công, như PGS.TS. Hồ Việt Hạnh cho rằng: “Chính sách công là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích 9
  12. chung của cộng đồng” [36, tr.5]; còn PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải quan niệm rằng: “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội” [35, tr.51]; Viện Chính trị học thì lại cho rằng: “… chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng” [60, tr.235]. Như vậy, có thể hiểu chính sách công là kết quả ý chí chính trị của Nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội. Ở Việt Nam, các chính sách công là do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đề ra. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân dựa trên nền tảng liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Bản chất dân chủ của Nhà nước ta được khẳng định qua tất cả các bản Hiến pháp trong suốt quá trình lịch sử phát triển. Theo khoản 2, Điều 2, Hiến pháp 2013 có ghi rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo sâu sắc và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn dân xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng cũng là tổ chức đề xướng đường lối chiến lược phát triển KT-XH của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chính sách công ở Việt Nam là những bộ phận hợp thành, là sự cụ thể hóa đường lối phát triển KT-XH của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. 1.1.2. Khái niệm an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội 1.1.2.1. Khái niệm an sinh xã hội ASXH thường trong tiếng Anh được gọi là Social Security và khi dịch ra tiếng Việt ngoài ASXH thì thuật ngữ này cũng được dịch là bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội… với những ý nghĩa không hoàn toàn tương đồng nhau. Social Security có thể hiểu là sự đảm bảo thực hiện các quyền 10
  13. của con người được sống hòa bình, được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được tự do học tập, được có việc làm, có nhà ở, tự do cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp cho phép; được đảm bảo thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già… Vì thế, ASXH có nội hàm rất rộng và ngày càng hoàn thiện về nhận thức và thực tiễn thực hiện trên phạm vi toàn thế giới. Theo Điều 25 của Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1948, Liên Hợp Quốc tiếp cận ASXH trên cơ sở quyền của công dân: “…Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức sống tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác…”. Theo Ngân hàng thế giới (WB), thì “ASXH là những biện pháp của chính phủ nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh thu nhập”. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa rằng: “ASXH là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong. Cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em”. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho rằng: “ASXH là các chính sách, chương trình giảm nghèo và giảm sự yếu thế bởi sự thúc đẩy có hiệu quả thị trường lao động giảm rủi ro của người dân và nâng cao năng lực của họ để đối phó với rủi ro và suy giảm hoặc mất thu nhập”. ASXH gồm có 05 hợp phần: Các chính sách xã hội và chương trình thị trường lao động; BHXH; Trợ giúp xã hội; Quỹ hỗ trợ phát triển cộng đồng; Bảo vệ trẻ em. Ở Việt Nam, thuật ngữ “ASXH” được đề cập trong một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số học giả Sài Gòn vào những năm 70. Sau năm 1975, 11
  14. thuật ngữ này được dùng nhiều hơn và đặc biệt từ năm 1995 trở lại đây nó được sử dụng một cách rộng rãi. Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng các quan niệm về ASXH đều có những đặc điểm chung: Là sự đảm bảo thu nhập ở mức tối thiểu thông qua các hệ thống chính sách can thiệp nhằm quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm các rủi ro liên quan đến nhu cầu cơ bản nhất của con người đã được luật hóa hoặc quy định như rủi ro về sức khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, trẻ em, tàn tật… dẫn đến tình trạng không có thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn. Là các chính sách do Nhà nước tổ chức thực hiện là chính, ngoài ra còn có sự tham gia của các tổ chức xã hội, cộng đồng trong việc tổ chức thực hiện và cung cấp dịch vụ ASXH. Các chính sách này hướng đến mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo sự được bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch vụ cho các thành viên, tuy nhiên lý do chính để có sự tham gia của Nhà nước nhằm hướng đến nhóm đối tượng yếu thế. Là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội, cơ bản đáp ứng được nhu cầu ASXH của người dân. Do đó, phạm vi của ASXH là bao phủ toàn dân và toàn diện. 1.1.2.2. Khái niệm chính sách an sinh xã hội Chính sách ASXH được xem là những mạng lưới các chương trình, hệ thống chính sách cụ thể của Nhà nước nhằm bảo vệ, phòng ngừa, hạn chế và khắc phục những rủi ro cho các thành viên của mình khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác thông qua các chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội; từ đó bảo đảm mức sống tối thiểu, góp phần nâng cao đời sống của họ, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ và công bằng xã hội. 12
  15. Có thể khái quát hệ thống ASXH của Việt Nam như sau: HỆ THỐNG ASXH VIỆT NAM VIỆC LÀM, ĐẢM BẢO TRỢ GIÚP XÃ HỘI DỊCH VỤ THU NHẬP TỐI THIỂU BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO CÁC NHÓM ĐẶC XÃ HỘI VÀ GIẢM NGHÈO THÙ CƠ BẢN TẠO VIỆC LÀM BHXH TRỢ GIÚP XÃ HỘI GIÁO DỤC BẮT BUỘC THƯỜNG XUYÊN TÍN DỤNG ỐM ĐAU CHĂM SÓC Y TẾ ƯU ĐÃI TẠI CƠ SỞ (GỒM BHYT) THAI SẢN BẢO TRỢ XÃ HỘI VÀ NHÀ Ở HỖ TRỢ TAI NẠN CỘNG HỌC LAO ĐỘNG, ĐỒNG NGHỀ BỆNH NGHỀ NƯỚC SẠCH NGHIỆP HỖ TRỢ HỖ TRỢ TIỀN MẶT HƯU TRÍ THÔNG TIN TÌM VIỆC LÀM TỬ TUẤT TRỢ GIÚP (TRONG XÃ HỘI VÀ BHXH ĐỘT XUẤT NGOÀI TỰ NGUYỆN NƯỚC) HƯU TRÍ CHƯƠNG TRÌNH TỬ TUẤT VIỆC LÀM CÔNG BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP BẢO HIỂM HƯU GIẢM NGHÈO TRÍ BỔ SUNG 1.1.3. Bản chất và tính tất yếu của an sinh xã hội Từ việc xem chính sách ASXH là hệ thống các chính sách do Nhà nước ban hành để thực hiện các mục tiêu ASXH, có thể thấy: ASXH trước hết đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng của mình. Mục đích của sự bảo vệ nhằm hướng đến việc giúp đỡ các thành viên của xã hội trước những biến cố và rủi ro xã hội dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy, bản chất sâu xa của ASXH là nhằm góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các thành viên trong xã hội bằng phương thức sử dụng các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho tất cả mọi người trong xã hội và vì vậy 13
  16. mang tính xã hội, tính nhân văn hết sức sâu sắc. Bản chất của ASXH có thể nhận thấy từ những phương diện sau: ASXH là biểu hiện một cách rõ nét của quyền con người đã được Liên Hợp Quốc thừa nhận. Để thấy rõ hơn về bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp nhằm bảo vệ cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng khi đứng trước những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do ảnh hưởng từ nhiều nguyên nhân khác nhau như thương tật, già cả ốm đau,… mà chúng ta gọi chung là những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Nhằm thực hiện công bằng xã hội, ASXH căn cứ trên nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm được thực hiện thông qua nhiều phương thức, biện pháp khác nhau để thiết kế ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp. Tuy ASXH có nội dung rất rộng lớn, nhưng chủ yếu tập trung vào ba vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, hết sức cần thiết cho sự bảo đảm, chính là BHXH được xem là trụ cột cơ bản. Có thể nói BHXH là xương sống của hệ thống ASXH. Khi mà hệ thống BHXH hoạt động thực sự có hiệu quả thì mới có thể tạo nên một nền ASXH vững mạnh. Bằng việc trợ cấp BHXH, người lao động có được khoản thu nhập bù đắp hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong trường hợp người lao động bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. BHXH dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. Thứ hai, nhằm bảo đảm cho người lao động tái tạo được sức lao động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội cần có sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động và gia đình họ; đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con người và cả việc phát triển bản thân con người. Thứ ba, thực hiện các loại trợ giúp xã hội như trao tiền, hiện vật cho những người có rất ít hoặc không có tài sản như những người nghèo khó, những người cần sự giúp đỡ đặc biệt, bên cạnh đó ASXH cũng khuyến khích và thực hiện gồm cả những loại trợ giúp khác như miễn giảm thuế, trợ cấp về dịch vụ, ăn, ở và đi lại. 14
  17. Hệ thống ASXH hiện đại không chỉ là những cơ chế đơn giản nhằm thay thế thu nhập mà đã trở thành những véctơ hỗn hợp của cái gọi là “những chuyển giao xã hội”, tức là những công cụ, những phương thức phân phối lại tiền bạc, của cải và các dịch vụ xã hội có lợi cho những nhóm người “yếu thế” hơn trong cộng đồng xã hội. Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi. ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp. Trong xã hội, tuy mỗi người đều không giống nhau về địa vị, tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc… tức hệ thống giá trị xã hội chắc chắn khác nhau nhưng vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân ai cũng được bảo đảm về mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không có sự kì thị hay phân biệt địa vị, tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc. ASXH mang lại cho những người kém may mắn hơn người bình thường khác được thêm điều kiện, những tác động, đòn bẩy để vượt qua những biến cố và rủi ro, từ đó có cơ hội để phát triển bản thân, hòa nhập vào cộng đồng. ASXH thúc đẩy, phát huy được tính tích cực xã hội trong mỗi người, cả người giàu lẫn người nghèo; người may mắn và người kém may mắn, làm cho mỗi người hướng tới những giá trị của Chân - Thiện - Mỹ. Bởi lẽ đó mới có thể đẩy lùi thói ỷ lại vào cộng đồng, cũng là để phá tan suy nghĩ ai cũng phải vì mình, ai cũng tìm cách thủ thân… chính ASXH là yếu tố làm nên sự hòa đồng, mọi người không ai phân biệt hay kì thị dù khía cạnh nào. Đồng thời, AXSH cũng giúp con người hướng tới một xã hội nhân ái, góp phần kiến tạo nên đời sống phồn thịnh và công bằng. Chính từ ASXH giúp chúng ta thấy được tinh thần đoàn kết, lá lành đùm lá rách, “tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Việc giúp đỡ những người kém may mắn cũng chính là để hoàn thiện bản thân mỗi người, hướng đến một xã hội phát triển tốt đẹp. Một là, ASXH góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Trong mỗi xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với những người nghèo khó, những nhóm người yếu thế trong xã hội. Ở góc độ kinh tế, ASXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành 15
  18. viên trong xã hội, được thực hiện theo hai chiều ngang và dọc. Thường thì sự phân phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ những nhóm người được quyền hưởng trợ cấp, chẳng hạn sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự phân phối lại giữa những người khỏe mạnh và người bệnh tật, giữa người đang làm việc và người đã nghỉ việc, giữa người chưa có con và những người đang có gánh nặng gia đình. Bên này là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ ASXH hoặc đóng thế, còn lại bên kia là những người được hưởng trong các trường hợp với các điều kiện xác định. Còn việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn, sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức mua của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp, cho những nhóm người yếu thế. Phân phối lại theo chiều dọc được thực hiện bằng nhiều phương thức, như trực tiếp thu thuế, kiểm soát giá cả, thu nhập và lợi nhuận…, hoặc gián tiếp như trợ cấp thực phẩm, cung cấp các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ em. Trên thực tế, việc thực hiện phân phối lại theo chiều dọc vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Nhưng có thể thông qua hệ thống đóng góp và hệ thống trợ cấp để thực hiện một số chế độ nhất định cho những người có thu nhập thấp. Có thể được miễn, giảm chế độ đóng hoặc được người chủ sử dụng lao động, kể cả Nhà nước đóng cho hoàn toàn đối với những người có thu nhập thấp. Hệ thống trợ cấp cũng đặc biệt nhấn mạnh tới những người có thu nhập thấp. Sự phân phối theo chiều ngang lẫn theo chiều dọc đã thực sự tạo ra một lưới ASXH. Hai là, ASXH góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Ngày nay con người đã ý thức được rằng, sự phát triển của xã hội là một quá trình, mà trong đó các nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội có sự tác động qua lại thường xuyên lẫn nhau. Với sự phát triển của mình, thế giới hiện đại đã đặt ra mục tiêu cần phải có những cải thiện nhất định để mang lại hạnh phúc cho mỗi người và đem lại lợi ích thiết thực cho mọi người; hướng đến công bằng xã hội bằng cách bảo đảm phân phối công bằng hơn về thu nhập và của cải; đạt được hiệu quả sản xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng và cải thiện về thu nhập, giáo dục và y tế cộng đồng; giữ gìn và bảo vệ môi 16
  19. trường… Sự phát triển của những lưới ASXH đã làm nên sự đa dạng trong ASXH, giải quyết được những nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong những hoàn cảnh gặp rủi ro. Tuy nhiên, phải khẳng định, ASXH không hoàn toàn loại trừ được sự nghèo túng mà chỉ có tác dụng góp phần hạn chế, thúc đẩy quá trình tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất cho những người kém may mắn là vấn đề được ưu tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những hệ thống lưới đầu tiên của ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn cho họ. Ba là, ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người. Ở xã hội nào cũng vậy, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều có những nhóm người, những đối tượng không thể tự xoay sở, lo liệu được cho bản thân, cho cuộc sống hoặc có biến cố nào đó trở thành những người “yếu thế” trong xã hội. Hệ thống ASXH hình thành và phát triển trên cơ sở trong xã hội đó xuất hiện những người yếu thế, những người kém may mắn thì cũng chính trong xã hội đó tự sinh ra những cơ chế hoặc tự phát, hoặc tự giác, thích ứng để giúp đỡ họ. Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát triển từ giản đơn đến phức tạp, ngày càng phong phú, đa dạng và hoàn thiện. 1.1.4. Cấu trúc, nội dung của hệ thống chính sách an sinh xã hội Trong quá trình tìm hiểu, phân tích về cấu trúc của hệ thống chính sách ASXH, hiện vẫn còn nhiều cách tiếp cận và quan điểm khác nhau. Một hệ thống ASXH theo quan điểm của quốc tế hiện nay thì bao giờ trong cấu trúc nội dung cũng phải có ít nhất 03 hợp phần sau: Thứ nhất, tầng trên cùng của hệ thống ASXH là những chương trình, chính sách mang tính phòng ngừa rủi ro. Tầng này có vai trò là hướng tới sự can thiệp và bao phủ toàn dân, giúp cho mọi người ai cũng có được việc làm, có thu nhập cơ bản, có được năng lực vật chất cần thiết để ứng phó một cách tốt nhất với rủi ro. Các chương trình, chính sách về thị trường lao động như đào tạo nghề, hỗ trợ tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động được xem là trụ sở cơ bản nhất của hợp phần này. Thứ hai, tầng kế tiếp của hệ thống ASXH là những chương trình, chính sách mang tính chất giảm thiểu rủi ro là, tầng này có vị trí đặc biệt quan trọng với các 17
  20. chiến lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro. Chính sách thuộc tầng này rất nhạy cảm, nếu thực sự phù hợp thì sẽ là đòn bẩy cho sự tham gia tích cực của người dân, tiết kiệm nguồn lực của Nhà nước, tăng độ bao phủ hệ thống. Trái lại, người dân sẽ không tham gia nếu chính sách không phù hợp hoặc chính sách sẽ bị lạm dụng. Các hình thức bảo hiểm, dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng như: BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp… được xem là nội dung quan trọng nhất trong tầng này. Thứ ba, tầng cuối cùng của hệ thống ASXH nhằm bảo vệ an toàn cho các thành viên trong xã hội khi gặp phải rủi ro mà bản thân không tự mình khắc phục được như: thất nghiệp, thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người khuyết tật, trẻ em mồ côi, người nghèo. Tầng này là những chương trình, chính sách nhằm khắc phục những rủi ro, trong đó cứu trợ xã hội và trợ giúp xã hội thường là những chương trình chủ yếu trong hợp phần này. Hệ thống ASXH của nước ta được xây dựng trên nền tảng quản lý những rủi ro, đồng thời chú ý đặc biệt đến việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho các tầng lớp nhân dân thông qua các chính sách cơ bản thuộc 04 nhóm sau: Nhóm 1 - Là các chính sách việc làm đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo, hướng đến việc hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro bằng cách tham gia thị trường lao động để có việc làm, có thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững. Nhóm 2 - Là các chính sách BHXH, nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro khi bị bệnh tật, tai nạn lao động, tuổi già… bằng việc tham gia vào hệ thống BHXH để chủ động bù đắp phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất bởi các rủi ro trên. Nhóm chính sách này được xem như một trong những tầng trụ cột quan trọng của hệ thống ASXH. Nhóm 3 - Là các chính sách trợ giúp xã hội như chính sách thường xuyên và đột xuất nhằm hỗ trợ người dân khắc phục các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát. Tầng này đảm bảo được ít nhất mức sống tối thiểu cho các đối tượng thuộc nhóm yếu thế cần trợ giúp xã hội có cuộc sống ổn định và có điều kiện hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2