intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

49
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang trình bày các nội dung chính sau: Lý luận chung về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng; Thực trạng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang; Mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------ NGUYỄN XUÂN NHÃ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Hà Nội - 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------ NGUYỄN XUÂN NHÃ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHÙNG NGỌC TẤN Hà Nội - 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ trước và sau khi đất nước ta được giải phóng, thống nhất hai miền Nam Bắc và kể cả trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay, thì thi đua, khen thưởng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chú trọng. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, công tác thi đua, khen thưởng là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của đất nước. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào thi đua được khởi xướng với Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 11/6/1948). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua là công việc của tất cả mọi người không phân biệt già hay trẻ, trai hay gái; không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo; không phân biệt thành phần dân tộc; không phân biệt ngành, nghề; không phân biệt tầng lớp giàu hay nghèo…, mà thi đua phải trở thành phong trào rộng lớn, sao cho: “Người người thi đua, ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua”. Cho nên, trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên tất cả mọi người tham gia vào các phong trào thi đua, Người nói: “… sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai già trẻ, toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia” phong trào thi đua ái quốc. Phát biểu tại Đại hội chiến sỹ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc ngày 01-5-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”. Theo đó, có thể thấy được, mỗi người chúng ta nếu thật sự yêu nước thì phải ra sức thi đua. Từ khi đất nước được giải phóng đến nay, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định và ban hành những chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật về thi đua khen thưởng và từng bước bổ sung, sửa đổi hoàn thiện để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế hiện nay, trước những thời cơ và thách thức mới thì tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng càng được khẳng 1
  4. định và tổ chức thực hiện tốt hơn nữa để kịp thời động viên, khuyến khích, phát huy tính chủ động, tinh thần yêu nước, ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt động thực tiễn của các tổ chức và cá nhân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị trên tất cả các lĩnh vực, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Châu Phú là huyện trọng điểm về nông nghiệp của tỉnh An Giang, có vai trò chiến lược, quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, có đường Quốc lộ 91 và sông Hậu chạy qua, là cầu nối giữa thành phố Long Xuyên và thành phố Châu Đốc. Vị trí của huyện khá thuận lợi cho phát triển đô thị, thương mại và dịch vụ. Trong những năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân; kinh tế - xã hội của huyện Châu Phú đã có những bước phát triển mới, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn định; hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở luôn được thường xuyên củng cố, kiện toàn. Trình độ và năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng nâng cao, từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hàng năm đều hoàn thành vượt mức kế hoạch so với nghị quyết đề ra; các phong trào thi đua yêu nước có nhiều đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả, ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, nhận thức của cán bộ, công chức và quần chúng nhân dân, qua đó đã xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội được biểu dương, khen thưởng. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi đua khen thưởng của huyện Châu Phú vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế, vẫn còn một số địa phương, đơn vị chưa thực sự quan tâm đến công tác thi đua, khen thưởng, nội dung phong trào thi đua còn nghèo nàn, chưa bám sát nhiệm vụ cụ thể của địa phương, đơn vị và từng giai đoạn công tác hoặc có phát động nhưng không tổ chức sơ, tổng kết đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, do vậy hiệu quả của các phong trào thi đua còn thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra; cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng chủ 2
  5. yếu là kiêm nhiệm nên công tác tham mưu còn hạn chế; nhiều đơn vị chưa tổng hợp các văn bản của cấp trên, cụ thể hóa thành văn bản phù hợp với địa phương mình để tổ chức thực hiện; sự phối kết hợp giữa các cơ quan, ban, ngành chưa được thực hiện nhịp nhàng, một số lĩnh vực không được quan tâm phát động phong trào thi đua để tổ chức thực hiện nhiệm vụ của đơn vị đạt hiệu quả; việc xây dựng các mô hình, điển hình tiên tiến, phát hiện gương người tốt, việc tốt và công tác tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến chưa được quan tâm và chú trọng thực hiện; việc đánh giá kết quả thi đua và bình xét khen thưởng của một số ít đơn vị chưa thực sự dân chủ, có nơi còn mang tính cào bằng. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp khắc phục những hạn chế nêu trên nhằm thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, kịp thời động viên, khuyến khích, phát huy tính chủ động, tinh thần yêu nước, ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt động thực tiễn của các tổ chức và cá nhân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ những trình bày nêu trên đã đặt ra yêu cầu bức thiết trong việc nâng cao chất lượng chính sách TĐKT nhất là trong thời kỳ đất nước ta đổi mới, hội nhập như hiện nay. Do vậy, tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang” làm đối tượng nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đến nay, các công trình nghiên cứu liên quan đến thi đua, khen thưởng (TĐKT) và chính sách TĐKT đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về các nội dung này. Mặc dù mỗi tác giả sẽ có quan điểm hay cách tiếp cận khác nhau nhưng chung quy vẫn là nghiên cứu về TĐKT và chính sách TĐKT. Sau đây là một số công trình nghiên cứu mà tác giả tìm hiểu: 3
  6. Ban Thi đua - khen thưởng Trung ương (2008), Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Nguyễn Minh Mẫn (2010), Quy định của pháp luật về TĐKT và tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Bộ Nội vụ. Phùng Ngọc Tấn (2016), Pháp luật về TĐKT ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ luật hiến pháp và luật hành chính, Học viện Khoa học xã hội. Nguyễn Đình Châu (2014), Tăng cường làm tốt công tác thi đua, khen thưởng góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng con người mới của Đảng trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 213 (tháng 5), tr. 58-60. Phùng Ngọc Tấn (2014), Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về TĐKT, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10, tr. 3-13. Lê Văn Phong (2014), Công tác thi đua, khen thưởng ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2009-2014), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9, tr. 52-56. Các công trình nghiên cứu kể trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác TĐKT như: khái niệm, vai trò, nội dung, các yêu cầu công tác thi đua, công tác khen thưởng, kinh nghiệm thực tiễn… để từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật TĐKT mà các công trình tiến hành nghiên cứu. Những nguồn tài liệu nêu trên rất có giá trị phục vụ cho việc nghiên cứu của tác giả. Từ đó, tác giả có thể chọn lọc để xác định nội dung kế thừa hoặc phát triển thêm nhằm hoàn thành luận văn của mình. Qua các công trình nghiên cứu trên thì công tác TĐKT được đề cập với nhiều phương diện không giống nhau. Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu một cách hoàn chỉnh về việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang thì chưa có. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 4
  7. Phân tích làm rõ thực trạng thực thi chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Châu Phú thời gian qua; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang đến năm 2025. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chính sách thi đua, khen thưởng; Làm rõ việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang; nhất là những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong lĩnh vực này; Xác định được mục tiêu, nhiệm vụ và đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế huyện Châu Phú nhằm hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện đến năm 2025. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu phú, tỉnh An Giang, cụ thể là các quy định về điều kiện, thủ tục, quy trình; việc tổ chức thực thi chính sách thi đua, khen thưởng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về không gian: huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực trạng giai đoạn 2015-2019 và đề xuất các giải pháp đến năm 2025. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Việc triển khai nghiên cứu đề tài Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước về thi đua, khen thưởng; Các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, của tỉnh An Giang và huyện Châu Phú về thi đua, khen thưởng. 5
  8. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng vào điều kiện thực tế của huyện Châu Phú. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của chuyên ngành chính sách công, phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, khái quát dựa trên số liệu thống kê của các cơ quan Đảng và chính quyền, các báo cáo tổng kết thực tiễn, số liệu điều tra xã hội học trong các công trình khoa học đã công bố, số liệu của cơ quan thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng. Để đưa ra các nhận định tác giả luận văn dựa vào các phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp, diễn dịch, nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang hiện nay; để từ đó đề xuất mục tiêu, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang đến năm 2025. Ngoài ra, có thể sử dụng các số liệu điều tra của các tổ chức khác không thuộc hệ thống chính trị của huyện, .... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Thứ nhất, là tài liệu tham khảo, nghiên cứu chính sách thi đua, khen thưởng. Thứ hai, là tài liệu tham khảo cho học viên khi nghiên cứu, học tập các chuyên đề liên quan và tổ chức, cá nhân quan tâm đến hoạt động thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Thứ ba, là tài liệu tham khảo cho lãnh đạo Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Châu Phú trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách thi đua khen thưởng trên địa bàn huyện. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thứ nhất, khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay nhằm kịp thời động viên, khuyến khích, phát huy tính chủ động, 6
  9. tinh thần yêu nước, ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt động thực tiễn của các tổ chức và cá nhân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị trên tất cả các lĩnh vực, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, qua đó góp phần hoàn thiện khung lý luận về chính sách thi đua, khen thưởng ở nước ta. Thứ hai, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang giai đoạn 2015-2019. Thứ ba, đề xuất các giải pháp khả thi để khắc phục những hạn chế trong thực hiện và tiếp tục thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang đến năm 2025. 7. Kết cấu của Luận văn Phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương (không tính phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu kham khảo). Chương 1: Lý luận chung về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Chương 3: Mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƯỞNG 1.1. Khái niệm, nội dung về chính sách thi đua, khen thưởng 1.1.1. Khái niệm chính sách thi đua, khen thưởng Chính sách được hiểu là tập hợp các quyết định hay chương trình hành động do tập thể các nhà lãnh đạo, nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu 7
  10. tổng thể đã xác định”. Chính sách công là chính sách của Nhà nước là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước với mục tiêu giải pháp cụ thể nhằm giải quyết một vấn đề kinh tế, xã hội nhất định, theo ý chí của Đảng cầm quyền. Theo Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TĐKT trong phạm vi cả nước”. Như vậy, chính sách TĐKT ở Việt Nam có thể được hiểu như sau: Chính sách TĐKT là tập hợp các quy định của Chính phủ nhằm đưa ra các công cụ chính sách và cách thức giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác TĐKT và hoạt động TĐKT của các tổ chức và cá nhân. Các cơ quan trong hệ thống hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành các quy định này và thực hiện các hoạt động TĐKT theo đúng quy định của pháp luật. 1.1.2. Vấn đề chính sách thi đua, khen thưởng Thực tiễn cho thấy, công tác TĐKT đã có bước chuyển biến tích cực từ khi Nhà nước ban hành Luật TĐKT; các bộ, ngành, địa phương, các đơn vị cơ sở đã phát động nhiều phong trào thi đua một cách toàn diện và có chiều sâu gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị. Từ đó, công tác khen thưởng ngày càng đi vào nề nếp, thiết thực hơn và đạt được nhiều thành tích cơ bản trên các phương diện như: khen thưởng thành tích trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ và chống thực dân Pháp, khen thưởng niên hạn, khen thưởng quá trình cống hiến, khen thưởng theo chuyên đề, khen thưởng thành tích đột xuất, khen thưởng thường xuyên và khen thưởng đối ngoại. Nhờ vậy, mà công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được các tầng lớp nhân dân cả nước, đặc biệt là cán 8
  11. bộ, công chức, viên chức và chiến sĩ góp phần tích cực vào. Bởi vì thông qua thi đua, khen thưởng thì họ đã được động viên, cổ vũ kịp thời. Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11 đã được Quốc hội ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004. Theo đó, Chính Phủ và Bộ Nội vụ cũng đã ban hành Nghị định, Thông tư để hướng dẫn thi hành. Chỉ thị 34-CT/TW ngày 07-4-2014 của Bộ Chính trị “về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng” khẳng định: “công tác thi đua, khen thưởng đã có chuyển biến tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tăng cường đoàn kết dân tộc. Phong trào thi đua yêu nước đã được tổ chức sâu rộng, từng bước đổi mới nội dung, hình thức phát động thi đua, bám sát thực tiễn, gắn với Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, đơn vị. Công tác khen thưởng cơ bản bảo đảm theo quy định của pháp luật, đã động viên, tôn vinh kịp thời tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt đã được quan tâm hơn. Hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng từng bước được hoàn thiện. Bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp được củng cố, kiện toàn. Các cơ quan truyền thông đại chúng có nhiều hình thức tuyên truyền về các phong trào thi đua và biểu dương người tốt, việc tốt”. Trước tình hình thực tiễn như hiện nay thì Luật TĐKT nói chung và công tác TĐKT nói riêng đã không hoàn toàn đáp ứng và phù hợp. Vì thế, ngoài những thành tích đã nêu thì việc thực hiện công tác TĐKT vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Cụ thể như: “Phong trào thi đua phát triển chưa đồng đều, liên tục, nhiều nơi còn mang nặng tính hình thức, chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị. Việc khen thưởng ở nhiều nơi còn thiếu chính xác, chưa kịp thời; khen thưởng cho người lao động trực tiếp sản xuất, nông dân, công nhân còn ít. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu 9
  12. quả chưa cao; biện pháp tuyên truyền thiếu đồng bộ... làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể và cá nhân. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, yếu kém là: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền ở một số bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu còn chưa đầy đủ, toàn diện. Nhiều nơi, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng chưa ổn định, thống nhất; năng lực tham mưu của cán bộ, công chức làm công tác này còn hạn chế”. Vì vậy, công tác TĐKT ở các ngành, các cấp cần được khắc phục kịp thời. Trước thực trạng đó, ngày 16/11/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TĐKT số 39/2013/QH13 (có hiệu lực từ ngày 01/6/2014); Chính phủ đã ban hành Nghị định số 65/2014/NĐ- CP ngày 01/7/2014 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật TĐKT năm 2013. Để thay thế Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2017 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng. 1.1.3. Mục tiêu chính sách thi đua, khen thưởng Theo điều 4, Luật thi đua, khen thưởng năm 2013“Mục tiêu của thi đua nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thật vậy, mục tiêu của chính sách TĐKT là thông qua các phong trào thi đua mà phát huy tính tích cực trong công việc, vươn lên của các cá nhân, tập thể, ra sức học tập, lao động để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Qua các phong trào, qua thi đua khen thưởng thì người có thành tích tốt sẽ có động lực tiếp tục phát huy những thành tích của mình. Để từ đó, phấn đấu có 10
  13. thêm những sáng kiến và đóng góp khác tiếp tục nâng cao năng lực của bản thân. Đồng thời, cùng với cơ quan, đơn vị phấn đấu hơn nữa hoàn thành nhiệm vụ chung ở mức độ cao hơn. Vì vậy, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân, của toàn quân và của cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì việc thực hiện tốt chính sách TĐKT là một trong những điều kiện cơ bản nhất. Chẳng những phải thực hiện tốt công tác TĐKT mà phải thông qua nhiều hình thức phong phú, nhiều phương pháp hay, thiết thực làm cho các phong trào thi đua phát triển một cách toàn diện và có hiệu quả. Và có như thế thì việc học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế sẽ có một động lực mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn mà cùng nhau thi đua hoàn thành các chỉ tiêu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội. Từ đó, góp phần đáng kể vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn. 1.1.4. Giải pháp và công cụ chính sách thi đua, khen thưởng Giải pháp chính sách thi đua, khen thưởng: Xét từ những góc độ tiếp cận khác đối với mục tiêu của chính sách TĐKT, thì các giải pháp mà nhà nước thực hiện cũng nhằm phát huy vai trò là động lực của sự phát triển nhằm tạo ra bước đột phá mới, chuyển biến mạnh mẽ hơn, tích cực hơn để động viên cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hăng hái ra sức thi đua, lập nhiều thành tích trong thực hiện các nhiệm vụ được giao, từ đó góp phần tích cực hơn vào sự phát triển chung của đất nước vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể rút ra nhận định rằng: một số giải pháp cơ bản luôn là vấn đề mà chính sách TĐKT của nước ta hướng đến. Đầu tiên phải kể đến việc tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và nhân dân. Làm sao để các đối tượng này có thể nhận thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của chính sách TĐKT trong tất cả các lĩnh vực. Để từ đó, việc ban hành các cơ chế, chính sách cụ thể và tổ chức thực hiện đạt được hiệu quả cao nhất. 11
  14. Giải pháp chính sách TĐKT được chia ra thành 2 nhóm nhỏ. Trong đó, sẽ gồm nhóm giải pháp liên quan đến mục tiêu chính sách và nhóm giải pháp liên quan đến công cụ chính sách. Cụ thể như sau: Các giải pháp liên quan đến mục tiêu chính sách bao gồm: giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phong trào thi đua và giải pháp nâng cao chất lượng công tác khen thưởng. Các giải pháp liên quan đến công cụ chính sách bao gồm: giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và vai trò của người đứng đầu trong thực hiện chính sách TĐKT; giải pháp tạo sự chuyển biến trong nhận thức đối với việc thực hiện chính sách TĐKT; giải pháp về phát huy vai trò của công tác tuyên truyền và công tác phối hợp trong việc thực hiện chính sách TĐKT; giải pháp nâng cao chất lượng công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ TĐKT; giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của khối, cụm thi đua; giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng TĐKT các cấp và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT các cấp Công cụ chính sách thi đua, khen thưởng: Qua kinh nghiệm thực tế thì muốn thực hiện được một chính sách cần phải có các giải pháp chính sách đồng bộ cùng với các công cụ chính sách phù hợp. Công cụ chính sách là hệ thống các phương tiện truyền dẫn các phương thức tác động lên đối tượng chính sách, bao gồm: công cụ dựa vào tổ chức; công cụ dựa vào quyền lực; công cụ tài chính và công cụ truyền thông. Cụ thể là: Công cụ dựa vào tổ chức là các công cụ hành chính, tổ chức như kế hoạch, quy hoạch của nhà nước, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, mô hình tổ chức, bộ máy cán bộ công chức tham gia hoạch định, triển khai chính sách TĐKT. Công cụ dựa vào quyền lực là các quy định mệnh lệnh và kiểm soát, quy định về trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. 12
  15. Công cụ tài chính là ngân sách, các quỹ, nguồn vốn, hệ thống đòn bẩy khuyến khích về mặt kinh tế, vật chất. Công cụ truyền thông là các chiến dịch truyền thông, tuyên truyền cổ vũ và thuyết phục qua báo chí, truyền hình hay tài trợ nghiên cứu. 1.2. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng 1.2.1. Cách tiếp cận thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Các ngành, các cấp và toàn quân, toàn dân cần nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách TĐKT. Vì có thực hiện tốt chính sách thi đua khen thưởng thì công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta sẽ càng ngày càng có những bước tiến cao hơn, đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới. Việc thực hiện chính sách TĐKT được tiến hành đồng loạt ở tất cả các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang và mọi tầng lớp nhân dân. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền cần có những phương thức lãnh đạo, chỉ đạo tiến bộ hơn. Cùng với đó là sự đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền của Mặt trận Tổ quốc và các Hội đoàn thể sẽ nâng cao được nhận thức của nhân dân để họ ý thức được bản thân vừa là chủ thể vừa là đối tượng thụ hưởng của chính sách để từ đó sẽ tham gia tích cực vào các phong trào thi đua được phát động. Luật TĐKT năm 2003 và Luật TĐKT sửa đổi, bổ sung năm 2013 quy định: “Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi cả nước; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, lãnh đạo ban, ngành, cơ quan, tổ chức ở trung ương phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong ngành và lĩnh vực do mình phụ trách; Chủ tịch UBND các cấp phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi địa phương; Lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi cơ quan, tổ chức, đơn vị. Nhà nước thực hiện khen thưởng qua tổng kết thành tích các giai đoạn cách mạng, khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được, khen thưởng quá trình cống hiến và khen thưởng 13
  16. đối ngoại. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TĐKT trong phạm vi cả nước”. Mọi công dân thuộc mọi tầng lớp cũng như các tập thể đã đạt được những thành tích xuất sắc qua các phong trào thi đua, qua học tập, lao động, sản xuất đều được bảo vệ quyền lợi về vật chất, tinh thần theo đúng quy định của pháp luật. Và để có được thành tích khen thưởng đó đòi hỏi các cá nhân, tập thể phải thực hiện chính sách thi TĐKT trên tình thần tự giác. 1.2.2. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Chính sách TĐKT đóng vai trò quan trọng, định hướng việc thực hiện công tác TĐKT. Việc triển khai công tác TĐKT chịu tác động không nhỏ bởi kết quả thực hiện chính sách TĐKT. Để làm được như vậy, cần phải tiến hành các hoạt động TĐKH theo trình tự, cụ thể như sau: 1.2.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Khi khởi đầu thực hiện một việc gì đều cần phải xây dựng kế hoạch. Và việc thực hiện chính sách TĐKT cũng không ngoại lệ. Bởi vì đó là nền tảng, là cơ sở, là một bước quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện chính sách. Kế hoạch sẽ vạch ra những mục đích, yêu cầu cũng như các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể mà việc thực hiện chính sách đang hướng đến. Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách và việc xác định hợp lý thời gian thực hiện chính sách. Khi xây dựng kế hoạch thực thi chính sách, để xác định chính xác các mục tiêu, nội dung nhiệm vụ, nguồn lực phục vụ cũng như thời gian và giải pháp cho việc thực hiện chính sách thì người xây dựng kế hoạch cần phải có chuyên môn sâu, sự am hiểu cần thiết cần thiết về một số vấn đề liên quan chính sách. Đó chính là: mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng của chính sách. Khi triển khai thực hiện chính sách sẽ không bị sơ hở, sai sót và mang lại hiệu quả như mong muốn nếu bước này được chuẩn bị tốt. Điều đó có nghĩa là đã xây dựng tốt kế hoạch triển khai thực hiện chính sách. 14
  17. 1.2.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Ở giai đoạn này, chính sách thi đua, khen thưởng thông qua nhiều hình thức phổ biến, tuyên truyền khác nhau sẽ đến được với các đối tượng mà chính sách điều chỉnh. Đối tượng điều chỉnh của chính sách có thể hiểu và thực thi chính sách thông qua các lớp tập huấn nghiệp vụ hoặc là báo chí, các trang mạng thông tin điện tử. Để dễ dàng hơn trong tổ chức thực hiện chính sách thì các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách phải được xây dựng đảm bảo một số tiêu chí tối thiểu. Đó là: độ chính xác cao, rõ ràng, dễ hiểu và không khó, mà tốt nhất là dễ thực hiện. Nếu như việc phổ biến, tuyên truyền chính sách được thực hiện tốt thì các đối tượng mà chính sách điều chỉnh sẽ nhanh chóng được tiếp nhận chính sách. Từ đó, quá trình triển khai thực hiện chính sách sẽ diễn ra thuận lợi hơn. Chính vì vậy, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta chưa từng xem nhẹ việc lãnh đạo, chỉ đạo tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về TĐKT. Để tạo được những chuyển biến tích cực trong phổ biến, giáo dục pháp luật về TĐKT, toàn hệ thống chính trị đã phải cố gắng từ lãnh đạo, chỉ đạo đến trực tiếp thực hiện. Và kết quả là tạo bước chuyển lớn trong nhận thức của nhân dân trong ra sức thi đua góp phần phát triển đất nước giàu đẹp. Điều đó cho thấy hiệu quả không nhỏ của công tác khen thưởng trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Chỉ thị 34-CT/TW ngày 07-4-2014 của Bộ Chính trị khẳng định: “Tiếp tục quán triệt, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Ðảng, tư tưởng về thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng, trong đó chú trọng tuyên truyền Luật Thi đua, Khen thưởng. Qua đó, làm chuyển biến nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong thời 15
  18. kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế”. 1.2.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Một chính sách nếu muốn được thực thi tốt cần phải có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Vì bước này tác động không nhỏ đến kết quả thực hiện mục tiêu của chính sách. Để đạt được mục tiêu của chính sách thì trong quá trình thực hiện chúng ta cần phải có sự phân công trách nhiệm cụ thể cho từng ngành, từng cấp có liên quan. Tổ chức, cá nhân nào chủ trì và tổ chức, cá nhân nào phối hợp, .... Tiêu chí xét đến khi phân công nhiệm vụ cho từng tổ chức, cá nhân là: năng lực, bản lĩnh, trình độ chuyên môn, sự rõ ràng, tinh thần vì tập thể, .... Phải chủ động tiến hành phân công một cách khoa học, khai thác được thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân. Nếu việc phân công được tiến hành đảm bảo các tiêu chí vừa nêu thì chính sách sẽ được thực thi một cách có hiệu quả, không mất nhiều thời gian. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng: Khoản 1, Điều 91, Luật thi đua, khen thưởng năm 2003 quy định: "Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước. Cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở trung ương có trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng". Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Điều 91a, Luật thi đua khen thưởng năm 2013 quy định: "Hội đồng thi đua, khen thưởng trung ương là cơ quan tham mưu, tư vấn cho Đảng và Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. Thành phần Hội đồng thi đua, khen thưởng trung ương gồm Chủ tịch Hội đồng là Thủ tướng Chính phủ, các Phó Chủ tịch Hội đồng và các thành viên khác là đại diện lãnh đạo cơ quan của Đảng, Nhà nước, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội. Chủ tịch Hội đồng quyết định cụ thể thành viên Hội đồng" . 16
  19. "Tổ chức và hoạt động của Hội đồng thi đua, khen thưởng do Chính phủ quy định.”. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng: Khoản 2, điều 91, Luật TĐKT năm 2003, quy định: “Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật”. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương: Nghị định số 08/2007/NĐ-CP ngày 8/8/2007 quy định chuyển giao Ban Thi đua hen thưởng Trung ương trực thuộc Chính Phủ vào Bộ Nội vụ. Ban TĐKT Trung ương là cơ quan trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý Nhà nước về lĩnh vực TĐKT và là cơ quan thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng Trung ương. UBND các cấp quản lý về thi đua, khen thưởng ở địa phương: Khoản 3, Điều 91, Luật thi đua khen thưởng năm 2003 quy định: Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi địa phương mình theo quy định của pháp luật. Ban Thi đua – Khen thưởng thuộc Sở Nội vụ tỉnh: là cơ quan thường trực của Hội đồng thi đua, khen thưởng tỉnh, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội vụ, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương trực thuộc Bộ Nội vụ. Hội đồng TĐKT huyện Châu Phú thực hiện theo cơ cấu: Chủ tịch UBND huyện làm Chủ tịch Hội đồng; Trưởng ban Ban Tổ chức kiêm Trưởng phòng Nội vụ làm Phó Chủ tịch Hội đồng thường trực; Chủ tịch Liên đoàn Lao động huyện làm Phó Chủ tịch Hội đồng; Các thành viên gồm: Chủ nhiệm UBKT đồng thời là Chánh Thanh tra huyện, Chánh Văn phòng Huyện ủy, Hội 17
  20. đồng nhân dân & UBND huyện, Trưởng phòng Tài chính – Kế hoạch, Trưởng các Hội đoàn thể huyện và một số thành viên khác có liên quan. Phòng Nội vụ thuộc UBND các huyện, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh: là cơ quan thường trực của Hội đồng thi đua, khen thưởng huyện, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của UBND huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ thi đua, khen thưởng của Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh thuộc Sở Nội vụ. Phòng Nội vụ - Cơ quan Thường trực Hội đồng TĐKT có nhiệm vụ: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, ban, ngành xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung TĐKT cho từng thời kỳ và từng lĩnh vực của huyện. Tham mưu cho Hội đồng TĐKT huyện cụ thể hoá chủ trương, chính sách về công tác TĐKT của huyện. Giúp Chủ tịch Hội đồng TĐKT tổ chức PTTĐ và thực hiện chính sách khen thưởng theo phong trào, thường xuyên, theo từng thời kỳ, theo niên hạn trong phạm vi quản lý của huyện. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị trực thuộc huyện thực hiện công tác TĐKT. Tham mưu tổ chức sơ kết, tổng kết cũng như đề xuất hình thức và nội dung công tác TĐKT mới để nâng cao tính hiệu quả; xem xét, thẩm định và đề xuất các hình thức khen thưởng đảm bảo chính xác, kịp thời theo quy định của pháp luật và quy chế khen thưởng của huyện. Hỗ trợ các Hội đồng thi đua khen thưởng cấp dưới về mặt chuyên môn, nghiệp vụ liên quan TĐKT. Kiểm tra việc thực hiện các quy định về chính sách khen thưởng. Quản lý, cấp phát hiện vật khen thưởng của huyện theo phân cấp; thực hiện việc tổ chức và trao tặng khen thưởng theo quy định của pháp luật và của huyện; làm thủ tục cấp đổi hiện vật khen thưởng bị hư hỏng, thất lạc và xác nhận các hình thức khen thưởng. Nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ cơ sở dữ liệu phục vụ công tác TĐKT. Quản lý về tổ chức, công chức, viên chức, người lao động, tài sản, hồ sơ, tài liệu theo quy định của pháp luật và phân cấp của Chủ tịch Hội đồng TĐKT. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị giúp Chủ tịch Hội đồng TĐKT theo Quy chế chủ trì, phối 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0