Luận văn: Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh)
lượt xem 5
download
Theo bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam, do Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê nước Cộng hòa XHCN Việt Nam công bố ngày 02 tháng 03 năm 1979, người Mã Liềng là một nhóm tộc người cùng với các nhóm Sách, Rục, Mày, A Rem hợp thành dân tộc Chứt, xếp thứ 44 trong tổng số 54 các dân tộc ở Việt Nam về dân số, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường, ngữ hệ Nam Á, địa bàn cư trú tại tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Quảng Bình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh)
- LỜI CẢM ƠN Tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, PGS Hoàng Văn Lân, PGS. TS Nguyễn Trọng Văn đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn khoa học để tác giả hoàn thành luận văn. Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, khoa Đào tạo Sau Đại học, trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới Huyện ủy, UBND huyện Hương Khê, UBND xã Hương Liên, Tổ công tác biên phòng thuộc Đồn biên phòng 575, Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh, các đồng chí Đại úy Nguyễn Văn Thiên, Nguyễn Văn Ngọ, Thạc sĩ Nguyễn Trí Sơn đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình khai thác tư liệu và nghiên cứu đề tài. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ quý báu đó! Tác giả xin gửi tới tất cả người thân và bạn bè lòng biết ơn sâu sắc. Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được và biết ơn các ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn. Vinh 2010 Tác giả 1
- BẢNG QUY ƯỚC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN XHCN Xã hội chủ nghĩa NĐCP Nghị địnhChính phủ UBND Ủy ban nhân dân BCH Ban chấp hành NXB Nhà xuất bản UB KHXH Ủy ban khoa học xã hội 2
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 4 1. Lí do chọn đề tài. 4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 6 3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu. 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 10 5. Đóng góp của luận văn. 11 6. Bố cục của luận văn. 12 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA TỘC NGƯỜI MÃ LIỀNG Ở HƯƠNG KHÊ (HÀ TĨNH) 13 1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên xã hội. 13 1.1.1. Điều kiện tự nhiên. 13 1.1.2. Điều kiện xã hội. 20 1.2. Vài nét về các dân tộc thiểu số định cư trên địa bàn huyện Hương Khê (Hà Tĩnh). 24 1.2.1. Nhóm người Mường. 29 1.2.2. Nhóm người Lào. 30 1.2.3. Vấn đề xác định tộc danh Mã Liềng. 31 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và quá trình phát triển của tộc người Mã Liềng ở Hương Khê (Hà Tĩnh). 36 1.3.1. Khái quát lịch sử hình thành của tộc người Mã Liềng. 36 1.3.2. Quá trình phát triển của tộc người Mã Liềng. 39 CHƯƠNG 2: ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI 47 2.1. Đời sống kinh tế. 47 2.1.1. Các hình thức khai thác nguồn lợi tự nhiên. 47 3
- 2.1.2 Kinh tế nông nghiệp. 54 2.1.3. Hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá. 59 2.1.4. Một vài nhận xét. 60 2.1.5. Một số ý kiến đề xuất. 61 2.2. Thực trạng vấn đề xã hội. 63 2.2.1. Quan hệ xã hội và tổ chức xã hội. 63 2.2.2. Quan hệ dòng họ. 68 2.2.3. Hôn nhân và gia đình. 69 2.2.4. Tình hình giáo dục, y tế và chăm sóc sức khoẻ của đồng 73 bào. 2.2.5. Các vấn đề về xã hội cần được tập trung bảo tồn, phát 76 triển. CHƯƠNG 3: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA 80 3.1. Đời sống văn hóa vật chất. 80 3.1.1 Trạng thái cư trú. 80 3.1.2. Trang phục và trang sức. 87 3.1.3. Văn hoá ẩm thực. 89 3.1.4. Các công cụ sản xuất và đồ dùng trong sinh hoạt gia đình. 92 3.2. Đời sống văn hoá tinh thần. 94 3.2.1. Tín ngưỡng. 94 3.2.2. Văn nghệ dân gian. 109 3.3. Một số ý kiến đề xuất. 115 KẾT LUẬN 119 TÀI LIỆU THAM KHẢO 124 PHỤ LỤC 133 4
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Việt Nam Tổ quốc của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu của Lạc Long Quân Âu Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở mang gây dựng non sông “Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”, với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông). Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền thống yêu nước đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 5 đã ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”. Bảo vệ và phát huy giá trị truyền thống văn hóa dân tộc phải trở thành quốc sách, đặc biệt trong tình hình hiện nay, bởi vì nguy cơ hòa đồng cũng như nguy cơ sa sút đời sống tinh thần của xã hội có nguồn gốc từ sự mất gốc, từ đánh mất nền văn hóa dân tộc. Theo bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam, do Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê nước Cộng hòa XHCN Việt Nam công bố ngày 02 tháng 03 năm 1979, người Mã Liềng là một nhóm tộc người cùng với các nhóm 5
- Sách, Rục, Mày, A Rem hợp thành dân tộc Chứt, xếp thứ 44 trong tổng số 54 các dân tộc ở Việt Nam về dân số, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường, ngữ hệ Nam Á, địa bàn cư trú tại tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Quảng Bình. Ở Hà Tĩnh chỉ có nhóm tộc người Mã Liềng định cư cách đây khoảng hơn 50 năm ở bản Rào Tre, xã Hương Liên, huyện Hương Khê với 30 hộ, 118 người. Trong khi các tỉnh miền biên giới Tây Bắc đã và đang cố gắng phục hồi, cứu giúp, lần mò tìm đường ra để cứu các dân tộc La Hủ, Mảng đang bên bờ vực diệt vong, thì hơn 50 năm nay, một tộc người tưởng chừng sắp biến mất đã được các đồng chí bộ đội Đồn biên phòng 575 Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh và chính quyền địa phương huyện Hương Khê ở vùng biên giới Hà Tĩnh giúp đỡ hồi sinh. Mã Liềng là một trong những nhóm tộc người kém phát triển nhất hiện nay. Tuy nhiên cho đến những năm gần đây cả giới nghiên cứu sử học, dân tộc học cũng như dư luận xã hội chưa biết hoặc chưa quan tâm nghiên cứu nhiều về nhóm người Mã Liềng. Do chỗ người Mã Liềng có dân số quá ít lại chưa xác định được nguồn gốc, chưa thống nhất được họ là người của dân tộc nào, có người cho rằng họ là nhóm người thuộc dân tộc Bru, có người coi tộc người này là một bộ phận của dân tộc Chứt, tuy nhiên người ta lại lầm tưởng rằng giới thiệu cơ bản về người Chứt dựa theo hiểu biết về nhóm tộc người Sách, Rục cũng đã là những hiểu biết về nhóm người Mã Liềng. Trong quá trình tìm kiếm tư liệu cũng như qua những lần thực tế nghiên cứu điền dã, chúng tôi nhận thấy rằng tộc người Mã Liềng và dân tộc Bru là hoàn toàn khác nhau và giữa các nhóm người khác nhau được gộp vào dân tộc Chứt, người Mã Liềng có những nét khác biệt riêng của họ. Họ giải thích họ là người Mã Liềng vì ngôn ngữ: Mã Liềng M’liêng có nghĩa là người. Họ gọi họ là người như người của các dân tộc khác để tránh sự miệt thị, coi họ là người Rừng. Tộc người Mã Liềng thuộc dân tộc Chứt ở Hương Khê (Hà Tĩnh) là một bộ phận của dân tộc thiểu số ở Việt Nam có những đặc điểm riêng cần nghiên 6
- cứu. Cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên luận nào đề cập đến một cách đầy đủ, chi tiết về nguồn gốc, quá trình phát triển, về sự chuyển biến trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng. Do vậy, đề tài “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” vừa nghiên cứu về lịch sử hình thành, phát triển và sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng trên phạm vi bản Rào Tre, đồng thời, qua đó nghiên cứu vai trò của tộc người này đối với quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Hương Khê. Với những lý do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” để làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Từ trước đến nay, nghiên cứu về dân tộc Chứt trong đó có người Mã Liềng đã có một số tác giả trong và ngoài nước đề cập đến. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở trong nước có các tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm “Phủ biên tạp lục”, Quốc sử quán triều Nguyễn với tác phẩm “Đại Nam nhất thống chí”. Ngoài nước có một số học giả người Pháp như M.L. Cadiere với hai tác phẩm “Những thung lũng cao ở sông Gianh” và “Cuộc sống trong những đồn bốt nhỏ ở Quảng Bình”. Những năm 60 của thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước mới quan tâm đến dân tộc Chứt một cách toàn diện. Về ngôn ngữ có Phạm Đức Dương, Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Lợi, Sôkôlốpxkaia… Về nhân chủng học, dân tộc học có Khổng Diễn, Nguyễn Đình Khoa, Ngô Vĩnh Bình, Nguyễn Văn Mạnh, Phan Hữu Dật… Những tư liệu này là cơ sở khoa học cho việc xác định thành phần dân tộc Chứt. Tuy nhiên nhiều vấn đề về xác định nguồn gốc, về vấn đề tộc danh, 7
- quá trình hình thành, phát triển, đặc trưng văn hóa của các nhóm tộc người còn chưa được đi sâu nghiên cứu, nhất là đối với nhóm người Mã Liềng ở Hà Tĩnh cũng như ở Quảng Bình. Năm 2001, Sở Khoa học và Công nghệ Hà Tĩnh đã đầu tư cho Ban Miền núi di dân và phát triển vùng kinh tế mới Hà Tĩnh thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “Bước đầu nghiên cứu thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội các dân tộc thiểu số ở vùng miền núi Hà Tĩnh và đề xuất giải pháp phát triển” . Tiếp đó năm 2002, Sở Văn hóa Thông tin và Bảo tàng Hà Tĩnh đã kết hợp thực hiện đề tài “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Mã Liềng ở tỉnh Hà Tĩnh” do Thạc sĩ Nguyễn Trí Sơn làm chủ nhiệm đề tài. Báo cáo khoa học của các đề tài này mới chỉ dừng lại ở việc đề cập đến một phần nào về kinh tế, văn hóa, xã hội của các dân tộc thiểu số ở Hà Tĩnh, trong đó có người Mã Liềng trong giai đoạn hiện nay và đề xuất một số giải pháp để bảo tồn, phát triển mà chưa đi sâu nghiên cứu về nguồn gốc hình thành, quá trình phát triển và sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng. Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo Hà Tĩnh, tạp chí văn hóa Hà Tĩnh, Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Tĩnh, Đài Truyền hình Việt Nam, báo Tuổi trẻ, báo Tiền Phong, báo Biên phòng, báo điện tử Vietnamnet, mạng Internet…có đăng tải một số bài báo, ký sự, phóng sự đề cập đến cuộc sống của người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) trong giai đoạn hiện nay như “Lập làng trên núi Cà Đay” trên báo Nông nghiệp Việt Nam, “Người Chứt dưới chân núi Giăng Màn” của Thái Văn Sinh (Tạp chí Hà Tĩnh số Xuân Canh Thìn năm 2000), “Người Mã Liềng dưới chân núi Cà Đay” (Báo Tuổi trẻ năm 2005), “Con đường mới của người Mã Liềng” ( Báo Tuổi trẻ năm 2007), “Cuộc hồi sinh của người Mã Liềng dưới chân núi Cà Đay” (báo Công an nhân dân 2007), ký sự “Kỳ bí người Chứt” trên Báo Biên Phòng tháng 2 năm 2009… Đây là những bài viết, phóng sự hết sức sơ 8
- lược đề cập đến cuộc sống, một số phong tục tập quán, hôn nhân gia đình, tang ma của người Mã Liềng và đề nghị Nhà nước cần quan tâm có một chủ trương bảo tồn bản sắc văn hóa của người Mã Liềng ở đây. Do đó, việc nghiên cứu “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” tuy là một đề tài mang tính chất địa phương ở một phạm vi nhỏ nhưng lại là một đề tài hoàn toàn mới. Hy vọng luận văn sẽ đóng góp ít nhiều về mặt khoa học cũng như thực tiễn khi tìm hiểu về người Mã Liềng nói riêng cũng như truyền thống về đời sống kinh tế văn hóa dân tộc Chứt nói chung. 3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu. 3.1. Nguồn tư liệu. Đề tài: “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” là một đề tài mới được sử dụng các nguồn tài liệu sau đây: * Nguồn tư liệu dân tộc học. Sách của Viện dân tộc học: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)”, “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam”, “Dân số các dân tộc ít người ở Việt Nam”, “Bản sắc văn hóa các dân tộc”, “Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam”.... Các công trình nghiên cứu của các nhà dân tộc học: M.L Cadiere: “Những thung lũng cao ở sông Gianh” và “Cuộc sống trong những đồn bốt nhỏ ở Quảng Bình”; GS.TS Phan Hữu Dật: “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam”; Khổng Diễn: “Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam” ; Trần Trí Dõi: “Thực trạng kinh tế và văn hóa của ba nhóm tộc người đang có 9
- nguy cơ bị biến mất”; Bế Viết Đẳng: “Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã hội ở miền núi”; Tạ Long: “Về mối quan hệ cộng đồng tộc người giữa ba nhóm “Mày”, “Rục”, “Sách””; Nguyễn Văn Mạnh: “ Người Chứt ở Bình Trị Thiên” và “Người Chứt ở Việt Nam”; Võ Văn Tuyển: “Người Mã Liềng ở bản Rào Tre”… Các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học: Phạm Đức Dương với “Về mối quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt Mường miền Tây tỉnh Quảng Bình”, Trần Trí Dõi: “Các giai đoạn lịch sử trong tiếng Việt”, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Lợi… * Nguồn tư liệu văn hóa: Các sách về văn hóa như “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm; “Văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh”, “Bản sắc văn hóa của người Nghệ Tĩnh”; “Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam”, “Truyện cổ các dân tộc miền núi Bắc trung bộ”; các tạp chí “Dân tộc và Thời đại”, “Văn hóa các dân tộc”, “Tạp chí Dân tộc học”…. * Nguồn tư liệu địa phương. Tư liệu thành văn: Các tài liệu do UBND tỉnh Hà Tĩnh; Cục Thống kê; Ban Tôn giáo, Dân tộc; Ban Miền núi di dân và phát triển vùng kinh tế mới Hà Tĩnh, Bảo tàng Hà Tĩnh, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tĩnh xuất bản như: “Lịch sử Nghệ Tĩnh”; “Lịch sử Hà Tĩnh”; “Thống kê hộ đồng bào dân tộc tỉnh Hà Tĩnh”; “Bước đầu nghiên cứu thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội các dân tộc thiểu số ở vùng miền núi Hà Tĩnh và đề xuất giải pháp phát triển”; “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Mã Liềng ở Hà Tĩnh”; “Niên giám thống kê Hà Tĩnh các năm 1989, 1999, 2009”… 10
- Các tài liệu do UBND, Ban Dân vận, Phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng Thống kê, phòng Văn hóa huyện Hương Khê, UBND xã Hương Liên… xuất bản, báo cáo như: “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê”; “Hương Khê văn hóa và danh thắng”; “Hương Khê 135 năm”… Các bản báo cáo công tác dân tộc, báo cáo tổng kết, các bảng thống kê, các Nghị quyết chỉ thị của các phòng ban thuộc UBND huyện, Huyện ủy và UBND xã Hương Liên. Tư liệu hiện vật: Bao gồm nhà cửa, các vật dụng gia đình, các công cụ lao động, tranh ảnh sưu tầm, tự chụp…của người Mã Liềng tại địa phương, ngoài ra còn khảo sát một số địa điểm mà người Mã Liềng đã từng sinh sống trước khi đến định cư tại Rào Tre. Tư liệu truyền miệng: Tác giả đã trực tiếp gặp gỡ và trao đổi với các già làng, trưởng bản, những người có kinh nghiệm là người Mã Liềng, trao đổi với các đồng chí bộ đội biên phòng đang cắm bản giúp đỡ đồng bào Mã Liềng hòa nhập cuộc sống, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương. Đặc biệt là gặp gỡ, trao đổi với một số người đã từng trực tiếp tìm ra người Mã Liềng và vận động bà con xuống núi sinh sống để từ đó đối chiếu, so sánh và có cái nhìn toàn diện hơn về nhóm người này. 3.2. Phương pháp nghiên cứu. Để hoàn thành những yêu cầu mà đề tài đặt ra, chúng tôi đã sử dụng phương pháp sử học Mác xít và tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc từ lúc sưu tầm, chỉnh lý tài liệu cho đến quá trình biên soạn đề tài. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp lôgic, phương pháp thống kê đối chiếu, phương pháp so sánh để xử lý tài liệu, đánh giá và phân tích sự kiện. 11
- Để đề tài phong phú và mang tính hiện thực, tác giả đã tiến hành điền dã trực tiếp địa bàn cư trú của người Mã Liềng ở huyện Hương Khê, trực tiếp thăm hỏi và phỏng vấn những người già làng, trưởng bản, bộ đội biên phòng để bổ sung tư liệu. Trên cơ sở những tài liệu thành văn đã được xuất bản có liên quan đến nội dung đề tài, những tài liệu của địa phương, một số báo cáo, chỉ thị, nghị quyết của các cấp ngành liên quan trong việc bảo tồn và phát triển những giá trị kinh tế và văn hóa của người Mã Liềng chúng tôi đã tổng hợp, so sánh và xác minh tính chính xác để đưa ra những kết luận đáng tin cậy nhất phục vụ cho quá trình nghiên cứu. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài. Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là một nhóm tộc người cụ thể, tại một địa bàn cụ thể, đó là nhóm tộc người Mã Liềng, cư trú tại bản Rào Tre, xã Hương Liên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh trên ba phương diện: Tìm hiểu khái quát về điều kiện tự nhiên, nguồn gốc, xác định tộc danh và quá trình phát triển của đồng bào Mã Liềng. Nghiên cứu đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng từ năm 1958 đến năm 2009 qua đó để thấy được sự chuyển biến trong thời gian này. Một số ý kiến đề xuất để bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của người Mã Liềng đang ngày càng bị rơi rụng, phai nhạt dần. Đây là ba vấn đề có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Nghiên cứu về nguồn gốc, sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội là nhằm phục vụ cho việc định hướng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Mã Liềng đạt được hiệu quả, và ngược lại bảo tồn và phát huy bản sắc văn 12
- hóa trên cơ sở sự hiểu biết về nguồn gốc, về văn hóa của người Mã Liềng tộc người có mối quan hệ gần gũi với người Kinh chúng ta. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Giới hạn về không gian. Đề tài chủ yếu nghiên cứu sự chuyển biến về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng trong phạm vi địa giới ổn định đó là bản Rào Tre nằm về phía Tây Nam của xã Hương Liên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh có chiều dài 1km, chiều rộng 0,5km, dưới chân núi Cà Đay, phía Đông Bắc bao quanh bởi con sông Ngàn Sâu, phía Tây Bắc tiếp giáp xóm 8 của xã. Giới hạn về thời gian. Đề tài tập trung nghiên cứu những chuyển biến về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng từ năm 1958 đến năm 2009. Những nội dung khác không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. 5. Đóng góp của luận văn. 5.1. Luận văn là tư liệu đầu tiên miêu tả một cách khá toàn diện và đầy đủ về nguồn gốc, quá trình phát triển, xác định tộc danh cũng như những biến đổi trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre, Hương Khê (Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009. 5.2. Luận văn tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Mã Liềng ở Hương Khê (Hà Tĩnh) vừa phong phú vừa đa dạng nhưng vẫn có những đặc điểm riêng biệt, những bản sắc văn hóa riêng của tộc người mình so với văn hóa của các nhóm thuộc dân tộc Chứt cũng như của 54 dân tộc anh em. 5.3. Kết quả nghiên cứu của luận văn là một tài liệu có ích cho các nhà nghiên cứu hoạch định những chính sách hợp lý nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của người Mã Liềng. Xây dựng chiến lược và sách lược phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng cho các dân tộc 13
- ít người ở vùng miền núi Hà Tĩnh nói chung và tộc người thiểu số Mã Liềng nói riêng. 5.4. Đề tài là nguồn tư liệu quan trọng giúp ích cho việc biên soạn, nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường Trung học, Cao đẳng và Đại học. Ngoài ra còn có tác dụng giáo dục lòng tự hào dân tộc, tình cảm trân trọng và biết giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người trong tầng lớp nhân dân ở Hương Khê nói riêng ở Hà Tĩnh nói chung, nhất là đối với bộ phận học sinh, sinh viên những chủ nhân tương lai của đất nước. 5.5. Kết quả của đề tài còn là một tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc học, văn hóa, các nhà quản lý của chính quyền địa phương trong việc tìm hiểu nguồn gốc, sự phát triển kinh tế, truyền thống văn hóa để từ đó hoạch định chính sách định cư, xây dựng phong trào toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa, an ninh quốc phòng cho tộc người thiểu số Mã Liềng trong thành phần dân tộc Chứt và cho cộng đồng các dân tộc ở Hương Khê, Hà Tĩnh. 6. Bố cục của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được chia làm 3 chương: CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁTTRIỂN CỦA TỘC NGƯỜI MÃ LIỀNG Ở HƯƠNG KHÊ (HÀ TĨNH) CHƯƠNG 2 ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI CHƯƠNG 3 ĐỜI SỐNG VĂN HÓA 14
- 15
- CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA TỘC NGƯỜI MÃ LIỀNG Ở HƯƠNG KHÊ (HÀ TĨNH) 1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên xã hội. 1.1.1. Điều kiện tự nhiên. 1.1.1.1. Địa lý hành chính. 16
- Hương Khê là một huyện miền núi ở về phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, có tọa độ địa lý từ 18006’52’’ đến 18039’52’’ vĩ Bắc và từ 105026’50’’ đến 105058’20’’ kinh Đông. Phía Bắc giáp huyện Vũ Quang và huyện Đức Thọ, phía Nam giáp huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình, phía Đông giáp huyện Can Lộc, huyện Thạch Hà và huyện Cẩm Xuyên, phía Tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Hương Khê có đường Hồ Chí Minh chạy ngang, từ trung tâm thị trấn đến thành phố Hà Tĩnh khoảng 50km. 17
- Vùng Hương Khê thời Hùng Vương thuộc bộ Việt Thường. Thời thuộc nhà Ngô (đầu Công nguyên) gọi là Nam Lăng. Đời Lý gọi là Đỗ Gia. Thời thuộc Minh gọi là Thổ Hoàng (gồm cả Hương Sơn) rồi tổng Thổ Hoàng, thuộc huyện Hương Sơn. Thời Tây Sơn là phủ Ngọc Ma. Đến năm Minh Mạng thứ 9 (1828), trong sự điều chỉnh lớn về hành chính, phủ Ngọc Ma đổi thành phủ Trấn Định, sau đó lại đổi thành châu Quy Hợp rồi trấn Quy Hợp, thuộc huyện Hương Sơn. Năm 1831, vùng Hương Khê là phủ Thổ Hoàng của huyện Hương Sơn. Đến năm 1867, dưới đời Tự Đức thứ 21, một số tổng của huyện Hương Sơn đã được cắt ra để thành lập huyện Hương Khê là: Quy Hợp, Chu Lễ, Phương Điền, Phúc Lộc, Hương Khê. Tên huyện Hương Khê có từ đó. Địa phận hành chính của Hương Khê trên cơ sở 5 tổng ấy đã tồn tại 143 năm. Từ năm 2000, theo nghị định 27/NĐCP ngày 04 tháng 08 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thành lập thêm huyện Vũ Quang ở Hà Tĩnh, 5 xã của Hương Khê: Hương Điền, Hương Đại, Vũ Quang, Hương Minh, Hương Thọ được cắt ra sáp nhập với một số xã của hai huyện Đức Thọ, Hương Sơn để thành huyện Vũ Quang. Cơ cấu hành chính hiện nay của huyện bao gồm 21 xã: Hương Trạch, Phúc Trạch, Hương Đô, Hương Trà, Hương Liên, Hương Lâm, Lộc Yên, Hương Xuân, Phú Phong, Hương Vĩnh, Phú Gia, Hương Long, Gia Phố, Hương Giang, Hương Thủy, Hương Bình, Phúc Đồng, Hòa Hải, Hà Linh, Phương Điền, Phương Mỹ và 1 thị trấn. Thị trấn của Hương Khê trước năm 1973 ở Chu Lễ, hiện nay nằm ở khu vực giáp giới giữa Phú Phong, Phú Gia, Gia Phố và Hương Long. Người Mã Liềng định cư tại bản Rào Tre, thuộc xóm 8 xã Hương Liên. Hương Liên là một xã thuần nông, xã miền núi khu vực 3 vùng lõm, xung quanh núi bao bọc. Đường giao thông chủ yếu là đường đất, nơi trung tâm xã được rãi đá cấp phối, nhiều khe suối. Khí hậu thời tiết khắc nghiệt: mưa nhiều, nắng nóng. Đường từ trung tâm xã ra huyện lỵ là 28 km. Từ trung tâm xã vào đến bản Rào Tre là 3,2 km. 1.1.1.2. Địa lý địa hình. 18
- Theo số liệu chính thức hiện nay (2009) thì tổng diện tích tự nhiên toàn huyện Hương Khê là 1.299,12 km2, chiếm 21,5% tổng diện tích tự nhiên tỉnh Hà Tĩnh. Trước khi tách 5 xã: Hương Quang, Hương Minh, Hương Điền, Hương Đại và Hương Thọ về huyện Vũ Quang năm 2000 thì diện tích của huyện Hương Khê là 1.850,5 km2. Hương Khê hiện nay vẫn là huyện có diện tích lớn nhất của tỉnh Hà Tĩnh [Bảng 1.1]. BẢNG 1.1 : DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN PHÂN THEO TỪNG ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH (THỊ TRẤN, XÃ) CỦA HUYỆN HƯƠNG KHÊ TT Đơn vị hành chính Km2 TT Đơn vị hành chính Km2 1 Thị trấn Hương Khê 297,64 12 Gia Phố 1276,83 2 Hương Trà 1513,04 13 Hương Vĩnh 6573,80 3 Phương Điền 1392,70 14 Phú Phong 423,19 4 Phương Mỹ 4980,86 15 Lộc Yên 10641,70 5 Hà Linh 7820,63 16 Hương Lâm 17702,50 6 Phúc Đồng 2172,99 17 Hương Liên 5098,02 7 Hòa Hải 16173,30 18 Hương Đô 2207,96 8 Hương Bình 3744,80 19 Phú Gia 13919,30 9 Hương Long 1564,85 20 Phúc Trạch 3912,62 10 Hương Thủy 5652,50 21 Hương Trạch 12981,10 11 Hương Giang 7010,40 22 Hương Xuân 2851,30 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Hương Khê năm 2009.) Toàn huyện Hương Khê nằm gọn trong một thung lũng hình lòng máng của hai dãy núi Trường Sơn (hay còn gọi là Giăng Màn) và Trà Sơn. Bao gồm nhiều đồi núi nhấp nhô lượn sóng, xen giữa đồi gò là đồng ruộng bậc thang, đồng bằng hẹp ven sông hoặc giữa núi. Độ dốc thoải dần từ Nam ra Bắc, địa hình đồi núi chiếm trên 88% diện tích tự nhiên, đồng bằng chiếm diện tích nhỏ lại bị chia cắt. Có 3 dạng địa hình cơ bản: Đồng bằng thung lũng ven sông. Dạng địa hình đồi núi. Địa hình núi cao. Người Mã Liềng phân bố trên vùng núi thấp phía Tây Nam của huyện Hương Khê ở độ cao trung bình 150 200 m. Địa hình thấp dần theo hướng 19
- Tây Nam Đông Bắc. Ngoài địa hình đồi, núi thấp là chủ yếu, ở đây còn địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng, nằm trong thung lũng sông Tiêm, một nhánh của sông Ngàn Sâu (độ cao trung bình 145 m). Tại địa bàn này diễn ra các hoạt động sinh sống và sản xuất chủ yếu của người Mã Liềng. Đặc điểm địa hình phù hợp để phát triển lâm nghiệp, cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su… cây dược liệu và chăn nuôi đại gia súc trâu, bò, dê, gà… Ngoài ra, có thể khai thác vùng đồng bằng trước núi để trồng lúa và hoa màu. Tuy nhiên, do mức độ chia cắt địa hình khá lớn nên gây nhiều trở ngại cho việc khai thác, sử dụng quỹ đất. 1.1.1.3. Đất đai. Rào Tre là địa bàn có nhiều loại đất đai khác nhau. Trong đó có hai nhóm đất chính là: Đất mùn đỏ vàng trên núi: loại này chiếm diện tích lớn nhất. Đất có đặc điểm: hàm lượng mùn trong đất khá cao, thường trên 5% ở tầng mặt, sau đó giảm nhanh ở tầng dưới, màu đất chuyển dần từ vàng sang đỏ. Phần lớn nhóm đất này có độ dốc trên 25%, tầng mặt thường có hàm lượng dinh dưỡng cao, các tầng đất sâu nghèo dinh dưỡng. Do có độ dốc khá lớn và phân bố ở địa hình cao nên loại đất này phần lớn chỉ thích hợp cho phát triển lâm nghiệp. Đất thung lũng (đất dốc tụ): được tạo thành bởi trầm tích tại chỗ của phù sa sông Tiêm. Các thung lũng kéo dài và tương đối bằng phẳng, mỗi thung lũng rộng 5 10 ha, có thể trồng lúa và hoa màu. Tuy vậy, do chất lượng đất thấp, diện tích nhỏ hẹp, manh mún, nên đòi hỏi phải đầu tư lớn để cải tạo thì mới đưa vào sử dụng được. Ở bản Rào Tre, với sự giúp đỡ của bộ đội, đồng bào đã tiến hành cải tạo đất và đưa được 12,5 ha đất vào canh tác, trong đó có 3 ha đất trồng lúa nước và trồng màu. Cơ cấu sử dụng đất: bao gồm các loại đất + Đất lâm nghiệp: chiếm trên 90% 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nguồn lực và vấn đề nghèo đói của hộ nông dân huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên
113 p | 1245 | 380
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ nông dân trên địa bàn huyện Văn Chấn - Yên Bái
117 p | 480 | 189
-
Luận văn Thạc sỹ Kinh tế: Ảnh hưởng của xu hướng đô thị hóa đối với kinh tê ́hộ nông dân trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
128 p | 484 | 106
-
Luân văn thạc sỹ: Sự phát triển nghiệp vụ Treasury của ngân hàng TM và những giải pháp phát triển nghiệp vụ này ở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế
112 p | 259 | 41
-
LUẬN VĂN: Nâng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam
74 p | 81 | 19
-
Bài tiểu luận: Ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa đến đời sống kinh tế của các hộ dân huyện Gia Viễn
25 p | 145 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học quản lý: Tác động của chính sách xuất khẩu lao động đối với đời sống kinh tế, xã hội (Nghiên cứu trường hợp xã Cổ Thành, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương)
118 p | 36 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá của tín dụng đối với giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam
0 p | 137 | 12
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Đời sống kinh tế của thương bệnh binh và vai trò của công tác xã hội
32 p | 84 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Mức độ hài lòng về đời sống kinh tế gia đình của người dân đô thị hiện nay
94 p | 50 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Nhân văn: Đời sống kinh tế - Văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái nguyên từ năm 1975 đến năm 2015
90 p | 67 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá sinh kế của hộ gia đình sau tái định cư thuộc dự án kênh Tham Lương – Bến Cát – Rạch Nước Lên, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh
98 p | 35 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Nhân văn: Đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân các xã ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình (1986 -2015)
114 p | 44 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Nhân văn: Đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân đảo Hà Nam, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh từ năm 1986 đến năm 2015
113 p | 35 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Ảnh hưởng của xu hướng đô thị hóa đối với kinh tế hộ nông dân trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
128 p | 21 | 4
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn hóa dân tộc thiểu số: Du lịch Hồ Ba Bể với đời sống kinh tế của người Tày xã Nam Mẫu huyện Ba Bể, Bắc Kạn
12 p | 73 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Nhân văn: Đời sống kinh tế văn hóa của dân tộc Thái Đen (Tày Đăm) huyện Khăm tỉnh Xiêng Khoảng nước CHDCND Lào giai đoạn 1975-2015
95 p | 29 | 3
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Văn hóa du lịch: Đời sống kinh tế - xã hội khu vực Phố Cổ dưới sự tác động của hoạt động du lịch
8 p | 58 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn