intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNVV tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:65

118
lượt xem
47
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay các quốc gia đang phát triển, Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vị trí vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Bởi các doanh nghiệp này là một trong những nguồn động lực mạnh mẽ tạo nên sự năng động, tăng trưởng liên tục của nền kinh tế, góp phần cải thiện cán cân thanh toán, đóng góp rất lớn vào thu nhập quốc nội (GDP) và đặc biệt tạo ra khối lượng việc làm...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNVV tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an

  1. z LUẬN VĂN: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNVV tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an
  2. Lời nói đầu ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát triển hay các quốc gia đang phát triển, Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có vị trí vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Bởi các doanh nghiệp này là một trong những nguồn động lực mạnh mẽ tạo nên sự năng động, tăng trưởng liên tục của nền kinh tế, góp phần cải thiện cán cân thanh toán, đóng góp rất lớn vào thu nhập quốc nội (GDP) và đặc biệt tạo ra khối lượng việc làm cho người lao động trong mọi nghành nghề. Nước ta-là một quốc gia đang phát triển với hơn 80% dân số sống ở nông thôn, diện tích đất đai bình quân đầu người quá thấp, lao động nhàn rỗi và dư thừa nhiều thì việc xúc tiến phát triển mạnh các DNNVV là một điều rất quan trọng. Nhưng để thúc đẩy phát triển DNNVV ở nước ta đòi hỏi giải quyết hàng loạt các khó khăn mà những doanh nghiệp này đang gặp phải trong đó, thiếu vốn để sản xuất, để đổi mới công nghệ là vấn đề rất bức xúc cần phải được giải quyết. Trong giai đoạn hiện nay phần lớn các DNNVV phải huy động vốn qua kênh tín dụng ngân hàng vì những đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này chi phối. Tuy nhiên, việc tiếp cận vốn tại các Ngân hàng Thương mại (NHTM) của các DNNVV đang gặp rất nhiều khúc mắc bởi một phần do cơ chế cho vay một phần do quan niệm của ngân hàng cho vay đối với loại doanh nghiệp này chứa đựng rủi ro cao hơn các khách hàng khác. Thêm vào đó, nhà nước lại chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ DNNVV vay vốn tại các NHTM. Và trên thực tế các DNNVV phải huy động vốn không chính thức, không ổn định, lãi suất cao...Để phát huy tốt vai trò là “bà đỡ” trong nền kinh tế các NHTM hiện nay nên tìm ra giải pháp mềm dẻo để hỗ trợ và thu hút đối tượng khách hàng này. Nhằm góp phần hạn chế được điều này chính là lý do em chọn đề tài: “ Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNVV tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an
  3. Kết cấu của chuyên đề Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề bao gồm 3 chương Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với DNNVV. Chương II: Thực trạng về hoạt động cho vay đối với các DNNVV tại NHNo&PTNT Thành phố Vinh-Tỉnh Nghệ an. Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNNVV ở NHNo&PTNT Thành phố Vinh. Chương 1 tín dụng ngân hàng đối với DNNVV 1.1 Vị trí và vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của DNNVV 1.1.1.1 Khái niệm và tiêu chí phân loại Trong thực tế hiện nay, câu trả lời thế nào là một DNNVV là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn để xác định DNNVV có sự khác biệt khá lớn giữa các nước tuỳ theo từng nghành nghề, từng thời kỳ, từng địa bàn….Nhưng có thể dựa vào hai nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại DNNVV, đó là: Tiêu chí định tính và Tiêu chí định lượng Tiêu chí định tính, Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNNVV như trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mỗi quản lý ít…sử dụng các tiêu chí này có ưu thế phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, các tiêu chí này để tham khảo, kiểm chứng mà ít sử dụng để phân loại. Tiêu chí định lượng, Đó là tiêu thức như số lao động, giá trị tài sản, vốn, doanh thu, lợi nhuận…
  4. Bảng1 : Tiêu chí xác định DNNVV ở một số quốc gia Tên nước Số lao động Tổng số vốn hoặc Doanh giá trị tài sản thu Canada < 500 người < 20 triệu CAD Hồng Kông < 100 trong công nghiệp < 50 trong dịch vụ Inđônêxia < 100 < 0,6 tỷ ru-pi < 2 tỷ ru - pi Nhật < 50 trong bán lẻ < 10 triệu yên < 100 trong bán buôn < 30 triệu yên < 300 trong ngành khác < 100 triệu yên Mêxicô < 250 < 7 triệu USD Philippin < 200 < 100 triệu pê - sô Xingapo < 100 < 499 triệu SD Myanma < 100 Thái lan < 100 < 20 triệu Bạt Mỹ < 500 Hàn quốc < 300 trong chế biến < 200 trong xây dựng < 20 trong dịch vụ ở nước ta, tiêu chí phân loại DNNVV đã được quy định tạm thời tại công văn số 681/ CP - KTN ngày 20/6/1998 của Thủ tướng chính phủ. Theo quy định tại công văn này, tiêu chí xác định DNNVV là vốn và số lao động. Cụ thể DNNVV là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200
  5. người. Nhưng theo quy định tại Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 Định nghĩa DNNVV như sau: DNNVV là cơ sỡ sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa này các DNNVV chiếm khoảng 80% tổng số doanh nghiệp Nhà nước (thành lập và hoạt động theo luật DNNN). Trong khu vực kinh tế tư nhân, hiện có khoảng 50.000 doanh nghiệp gồm Công ty TNHH, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân (thành lập và hoạt động theo luật DN) và hơn 2 triệu hộ kinh doanh cá thể ( không kể hộ sản xuất nông nghiệp ).
  6. 1.1.1.2 Đặc điểm DNNVV + Thứ nhất: DNNVV tồn tại và phát triển ở mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế. ở nước ta trong các loại hình sản xuất kinh doanh, DNNVV có sức lan toả vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo số liệu mới đây cho thấy DNNVV chiếm 98% trong tổng số các doanh nghiệp với các hình thức: Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp tập thể, Doanh nghiệp tư nhân, các Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở kinh tế cá thể. Theo số liệu ước tính của Bộ kế hoạch và Đầu tư toàn bộ khu vực DNNVV trong và ngoài quốc doanh chiếm khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, chiếm 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá. + Thứ hai: DNNVV tính năng động và linh hoạt trước những thay đổi của thị trường. Thật vậy, bởi quy mô của nó nhỏ, vốn tự có ít nên rễ dàng thay đổi loại hình kinh doanh của mình trước sự biến động của thị trường. Mặt khác DNNVV tồn tại ở mọi loại hình kinh tế nên chỉ cần không thấy thích ứng được với nhu cầu thị trường, với tình hình kinh tế xã hội ở loại hình này thì nó sẽ chuyển hướng sản xuất để phù hợp hơn với thị trường. + Thứ ba: DNNVV có bộ máy tổ chức sản xuất, quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả. Như trong khái niệm đã nói số lượng lao động trong DNNVV không quá 300 người. Bởi số lượng lao động ít như vậy thì hầu như người nào cũng có việc và từ đó tinh giảm được sự cồng kềnh của bộ máy trong các doanh nghiệp có quy mô lớn. + Thứ tư: DNNVV có vốn ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh, hiệu quả cao. Bởi vì số vốn đăng ký ban đầu không quá 10 tỷ đồng và chu kỳ sản xuất kinh doanh thường là ngắn nên khả năng thu hồi vốn của DNNVV là rất nhanh. Từ những đặc điểm trên ta thấy DNNVV có những lợi thế và bất lợi như sau:  Các DNNVV có những lợi thế sau: + Chúng gắn liền với các công nghệ trung gian là cầu nối giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. + Quy mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt tự do sáng tạo trong kinh doanh.
  7. + Các DNNVV dễ dàng và nhanh chóng đổi mới công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại + DNNVV chỉ cần vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi vốn nhanh. + DNNVV có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động lớn hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn. + Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNNVV gọn nhẹ linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp + Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý ( quan hệ chủ - thợ ) trong các DNNVV khá chặt chẽ. + Sự đình trệ thua lỗ, phá sản của các DNNVV có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.  Bên cạnh những lợi thế quan trọng DNNVV có những bất lợi sau: + Nguồn vốn tài chính hạn chế + Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc hâu. + Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp cận thị của các DNNVV bị hạn chế rất nhiều. + Trình độ quản lý của các DNNVV còn bị hạn chế + Các DNNVV có năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn. 1.1.2 Vai trò và tác động kinh tế - xã hội của DNNVV Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền đại công nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn nhưng ngày nay thì sự khởi đầu của họ là những xí nghiệp, công trường thủ công sản xuất nhỏ. Trong quá trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh gay gắt giữa những xí nghiệp trong và ngoài nước đã tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn như ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nước tư bản phát triển, các DNNVV vẫn giữ một vị trí quan trọng và ngày càng được khẳng định. Sau một thời kỳ suy thoái kinh tế thế
  8. giới những năm đầu thập niên 30, người ta luận ra rằng khu vực DNNVV là nhân tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, đảm bảo ổn định kinh tế, phòng chống nguy cơ khủng hoảng. Thật vậy, khu vực DNNVV là xương sống trong nền kinh tế của nhiều quốc gia hiện tại và cả trong tương lai. Đặc biệt khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho các DNNVV nhiều cơ hội tập trung kỹ thuật, có khả năng sản xuất sản phẩm có chất lượng không thua kém các doanh nghiệp lớn. Mặt khác xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay về tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện cạnh tranh này, lợi thế của các doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ bị giảm sút. Sự phát triển của chuyên môn hoá và hợp tác hoá đã không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Mà với mô hình sản xuất kiểu vệ tinh, trong đó các DNNVV là vệ tinh của doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp. Như vậy, một nền kinh tế hiện đại, DNNVV ngày càng không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác mở rộng ngày càng tăng. Đối với Việt Nam, DNNVV càng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Thể hiện cụ thể ở các mặt sau:  DNNVV chiếm tỷ trọng cao về số lượng, thu hút nhiều lao động và đóng góp phần lớn thu nhập quốc dân cho đất nước.  Các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá và cung cấp dịch vụ, có vai trò bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là xí nghiệp gia công vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn cùng hệ thống và là màng lưới tiêu thụ hàng hoá cho các doanh nghiệp lớn.  Các DNNVV đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.  Các DNNVV có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu Để thấy rõ vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường ta xem xét các mặt sau:
  9.  Đóng góp to lớn vào quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước tiên tiến trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP ở mỗi nước. ở Việt nam theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thì hiện nay khu vực DNNVV cả nước chiếm khoảng 24% GDP.  Tạo việc làm cho người lao động Tác động kinh tế-xã hội lớn nhất của các DNNVV là giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm và thu nhập cho nguời lao động thì khu vực này vượt trội hơn hẳn các khu vực khác, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc. ở hầu hết các nước DNNVV tạo việc làm cho khoảng 50 - 80% lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì DNNVV lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. ở Việt nam cũng theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì số lao động của các DNNVV trong các lĩnh vực phi nông nghiệp hiện có khoảng 7,8 triệu người chiếm tới khoảng 79,2 % tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5 % lực lượng lao động cả nước.  Góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Do lợi thế của quy mô nhỏ là yêu cầu vốn ít, năng động linh hoạt sáng tạo trong kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường cho nên các DNNVV có vai trò to lớn góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế trong cơ chế thị trường.  Thu hút một lượng vốn đáng kể của dân cư Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán dễ đi sâu vào các ngỏ ngách, bản làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều cho nên các DNNVV có vai trò tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chúng tạo lập dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hình thành khu vực “ mồi ” cho việc thực hiện có kết quả vấn đề huy động
  10. vốn của dân cư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. Tuy lượng vốn thu hút vào một doanh nghiệp không lớn, nhưng nhờ số lượng DNNVV vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, hạn chế tiêu dùng không sinh lời.  Góp phần trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá Sự phát triển của các DNNVV ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ phát triển. Sự phát triển các DNNVV ở thành phố cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các DNNVV thông qua các hợp đồng làm đại lý vệ tinh giúp sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp nguyên liệu, thâm nhập vào mọi ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không làm được. Phát triển DNNVV làm cho việc phân bố doanh nghiệp hợp lý hơn về mặt lãnh thổ cả nông thôn, thành thị, miền núi và đồng bằng giãn sức ép dân số của các thành phố. Các DNNVV còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp tập trung thực hiện phương châm “ Ly nông bất ly hương ”. Đảng ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá mà trọng tâm là công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. DNNVV mạng lưới rộng khắp đã có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn sẽ là động lực thúc dẩy sản xuất nông nghiệp, sẽ hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác động chuyên môn hoá nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Hệ thống công nghiệp chế biến và sản xuất đồ gia dụng sẽ phát triển. Các làng nghề sẽ được hiện đại hoá.  Các DNNVV là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh là nơi đào tạo rèn luyện các nhà doanh nghiệp. Kinh doanh quy mô nhỏ, làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ một số doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên hình thành những nhà doanh nghiệp lớn tài ba, biết đưa doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh sẽ được ươm mầm từ trong các DNNVV.
  11. Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa tiềm năng và lợi thế của DNNVV là vô tận. Khi chúng ta đã thấy rõ vị trí chiến lược của nó cần có chính sách hỗ trợ mang tính thực tế từ quan điểm chiến lược, chính sách đến bộ máy vận hành, kinh nghiệm thế giới và khu vực với những bài học quí mà chúng ta có thể chọn lựa. 1.2 Tín dụng Ngân hàng đối với DNNVV 1.2.1 Tầm quan trọng của vốn vay ngân hàng đối với DNNVV Phần lớn các DNNVV khi hoạt động kinh doanh đều thiếu vốn và phải dựa vào ngân hàng. Vai trò của vốn ngân hàng đối với DNNVV được thể hiện trên các mặt sau:  Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển các DNNVV.  Tín dụng ngân hàng tác động vào xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh của các DNNVV theo chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và chiến lược CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân.  Góp hần nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng vốn của DNNVV.  Góp phần tạo thị trường đầu ra, đầu vào cho các DNNVV. 1.2.2 Các hình thức tín dụng Ngân hàng chủ yếu Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế rất đa dạng, phong phú. Để đáp ứng được sự đa dạng và phong phú của hoạt động kinh tế này thì đòi hỏi tín dụng Ngân hàng phải có những hình thức cũng phong phú, đa dạng để phù hợp với từng hoạt động kinh tế đó ngày càng thúc đẩy các hoạt động kinh tế, trở thành một động lực thúc đẩy quan trọng của từng doanh nghiệp trong nền kinh tế. Có thể xem xét các hình thức tín dụng chủ yếu sau: 1.2.2.1. Cho vay từng lần Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên thì ngân hàng sử dụng phương thức cho vay từng lần. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn theo quy định của ngân hàng. Sau khi ngân hàng thẩm định, nếu chấp thuận cho vay thì ngân hàng cùng doanh nghiệp kí hợp đồng tín dụng. Việc thẩm định xét duyệt cho vay, quản lý giám sát tình hình sử dụng vốn vay và thu hồi nợ được thực
  12. hiện theo từng hợp đồng tín dụng. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp có thể rút vốn một lần hoặc nhiều lần phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp nhưng tổng số tiền rút vốn không được vượt quá số tiền ghi trong hợp đồng tín dụng. Hình thức cho vay chủ yếu áp dụng cho các DNNVV song mỗi lần vay vốn doanh nghiệp lại phải làm lại các thủ tục xin vay nên rất tốn thời gian. 1.2.2.2 Cho vay theo hạn mức: hình thức này áp dụng cho những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có tín nhiệm. Ngân hàng căn cứ vào nhu cầu vay vốn theo hạn mức của doanh nghiệp, trị giá tài sản càm cố, thế chấp cùng doanh nghiệp xác định hạn mức tín dụng.sau khi kí hợp đồng tín dụng - đã có hiệu lực mỗi lần rút tiền vay doanh nghiệp không phải kí hợp đồng tín dụng mà lập giấy nhận nợ cùng bảng kê và bản sao các chứng từ chứng minh việc sử dụng vốn vay. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp có thể vừa rút vốn vay vừa trả nợ tiền vay nhưng số dư nợ tiền vay trên tài khoản không được vượt hạn mức tín dụng. Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được ổn định, trước khi hết thời hạn rút vốn theo hợp đồng tín dụng doanh nghiệp có thể căn cứ vào kế hoạch kinh doanh kì tới đưa ra mức vốn cần vay và cùng thoả thuận với ngân hàng để xác định hạn mức tín dụng mới. Hình thức cho vay này doanh nghiệp phải gửi các báo cáo tài chính theo định kỳ để cán bộ tín dụng ngân hàng thực hện việc kiểm tra đảm bảo nợ vay bằng phương pháp tính toán cân đối. 1.2.2.3 Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, cơ sở hạ tầng, kinh doanh, dự án và các dự án phục vụ đời sống. Hình thức cho vay này, ngoài các điều kiện trên doanh nghiệp cần có thêm các điều kiện sau: - Gửi các tài liệu liên quan đến dự án đầu tư - Gửi các tài liệu, báo cáo định kỳ hoặc đột xuất cho ngân hàng kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay.
  13. 1.2.2.4 Cho vay trả góp: Là loại hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, đến mỗi kỳ trả một phần nợ gốc và lãi. Loại tín dụng này rất phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của người vay là thu hồi vốn dần, lại vừa hỗ trợ cho tiêu dùng hàng hoá vì được sử dụng và trả tiền sau. Cho vay trả góp bao gồm các loại cho vay ngắn, trung và dài hạn. Người vay và ngân hàng thoả thuận mức cho vay, lãi suất cho vay và kỳ hạn trả như mức trả từng lần cho vốn và lãi, kỳ hạn nợ cuối cùng. Đối tượng cho vay bao gồm cả trong lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực tiêu dùng. Trong tín dụng tiêu dùng trả dần Ngân hàng có thể cho vay để mua sắm tài sản tiêu dùng sinh hoạt, chi trả chi phí du lịch. Đây là loại tín dụng có thị trường rất lớn và phong phú. Tuy nhiên phải có điều kiện đảm bảo để có thể thực hiện loại hình này. 1.2.2.5 Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho doanh nghiệp vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định và trong một khoảng thời gian xác định để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu xếp các nguồn vốn cần thiết thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh. áp dụng hình thức này doanh nghiệp phải trả phí cam kết cho ngân hàng. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng, nếu doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn vay thì phải lập giấy nhậ nợ theo mẫu và kèm theo bảng kê cùng bản sao các chứng từ, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay phù hợp với hợp đồng đã ki. Tuy nhiên, tổng số tiền cộng lại không được vượt quá hạn mức tín dụng dự phòng và thời hạn cho vay trong giấy nhận nợ không được dài hơn thời gian cho vay quy định trong hợp đồng tín dụng dự phòng. 1.2.2.6 Cho vay hợp vốn: Đây là hình thức nhiều ngân hàng hoặc các TCTD cùng cho một đối tượng khách hàng vay vốn và do một ngân hàng hoặc một TCTD đứng ra dàn xếp. Hình thức này áp dụng ở Việt nam tỏ ra khá hữu hiệu. Tuy nhiên, hình thức này thường áp dụng cho vay đối với các doanh nghiệp lớn với dự án lớn mà một ngân hàng không thể đáp ứng nổi. 1.2.2.7 Các hình thức cho vay khác:
  14. ngoài các hình thức cho vay trên tuỳ theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp còn có các phương thức khác như cho vay phát hành, ử dụng thẻ tín dụng, chiết khấu, cho vay theo hạn mức thấu chi… Trong tất cả hình thức cho vay trên thì ngân hàng thường áp dụng cho vay từng lần vì nó đơn giản và hạn chế được rủi ro. 1.2.3 Các rủi ro và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro khi cho vay DNNVV ở các Ngân hàng thương mại 1.2.3.1 Các rủi ro khi cho vay vốn đối với DNNVV Như trên đã nói DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ mà lại tồn tại ở nhiều loại hình. Vậy nên việc cho vay các DNNVV chắc chắn sẽ gặp rủi ro nhiều hơn so với doanh nghiệp lớn có vốn tự có nhiều. Có thể nhận thấy một số rủi ro như:  Thứ nhất: Do đặc điểm của các DNNVV vốn ít trình độ công nghệ và năng lực quản lý hạn chế nên các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Từ đó, ảnh hưởng lớn tới khả năng trả nợ, có thể ngân hàng không thu được hoặc khó thu hồi nợ đúng hạn.  Thứ hai: Hiện nay cơ chế tín dụng không ngăn cản việc cho vay DNNVV của ngân hàng thương mại nhưng cũng chưa có chính sách thích hợp để khuyến khích sự phát triển DNNVV. Mặt khác khả năng thẩm định của cán bộ tín dụng chưa quen với việc thu thập và xử lý thông tin từ nguồn bổ sung của DNNVV. Nên nhiều khi quyết định tín dụng cũng không chính xác dễ dẫn tới việc cho vay không có hiệu quả.  Thứ ba: Bên cạnh đó cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ của DNNVV thường yếu kém lạc hậu nên ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất kinh doanh, đến năng lực của từng người lao động trong doanh nghiệp. Từ đó giảm năng suất của doanh nghiệp và có thể chậm thời gian trả nợ cho Ngân hàng mà như thế thì Ngân hàng khó thu hồi nợ đúng hạn. Đó cũng là rủi ro cho Ngân hàng.  Thứ tư: Ngoài ra do chưa thực sự quen với việc cho vay các DNNVV nên việc thẩm định khách hàng, phân tích khách hàng kiểm tra điều kiện vay vốn nhiều khi cán bộ tín dụng lại chưa chú trọng nhiều đến các yếu tố chi tiết có liên quan. Nên đôi lúc việc kiểm tra đánh giá không chính xác dẫn đến quyết định tín dụng không đúng đắn.
  15.  Thứ năm: Đặc biệt là công tác giám sát sau khi cho vay chưa thực sự được chú trọng. Do đó trong thực tế dẫn đến những trường hợp nợ xấu, phát sinh thu hồi chậm hoặc không thu được, gây thiệt hại về vốn và tài sản của Ngân hàng.  Thứ sáu: Hiện nay các DNNVV chưa thực hiện đúng các chế độ báo cáo kế toán-tài chính. Do vậy, rất khó khăn trong việc thẩm định và xem xét cho vay. Nhìn chung cho vay DNNVV là một nội dung quan trọng trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. Nhằm đa dạng hoá khách hàng, sản phẩm trong lĩnh vực tín dụng. Nhưng hoạt động tín dụng với DNNVV thường gặp nhiều rủi ro hơn so với doanh nghiệp lớn. Các DNNVV thường yếu kém về tài chính chưa đủ tin cậy, một số DNNVV nợ quá hạn không có khả năng hoàn trả. Các DNNVV không đủ khả năng lập dự án kinh doanh và vay vốn. Bởi vậy bản thân Ngân hàng thương mại ngại cho các DNNVV vay vốn. Nhưng để thực hiện tốt chủ trương của Đảng là phát triển các DNNVV đồng thời mở rộng khẳ năng cho vay thì các Ngân hàng thương mại cần phải xây dựng kế hoạch và chính sách cho vay đối với các DNNVV. 1.2.3.2 Một số biện pháp để hạn chế rủi ro khi cho vay đối với các DNNVV Để nâng cao hơn nữa chất lượng quy mô đầu tư, hiệu quả tín dụng và hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng khi cho vay đối với các DNNVV các Ngân hàng thuơng mại phải tăng cường giám sát khoản vay và phải đề ra biện pháp hữu hiệu xử lý món vay có vấn đề. Sau khi giải ngân cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá tiến độ thực hiện của phương án vay vốn. Việc này hết sức cần thiết bởi vì nó giúp cho cán bộ tín dụng phát hiện sớm những vấn đề phát sinh, kịp thời đề ra biện pháp xử lý thích ứng với tình hình. Tuy nhiên hiện nay ở nước ta các Ngân hàng hầu như không được cung cấp đầy đủ và thường xuyên thông tin từ phía khách hàng nhất là thông tin về kế toán tài chính. Để khắc phục được tồn tại này, cán bộ tín dụng nên tận dụng triệt để những lần gặp gỡ chủ doanh nghiệp. Khi họ đến Ngân hàng trả lãi, khi gặp trực tiếp cũng có thể thu thập thông tin từ những người biết doanh nghiệp như hàng xóm, cán bộ chính quyền địa phương, bạn hàng, quan hệ mua bán với doanh nghiệp khác....trong đó đến
  16. thăm trực tiếp nơi làm việc và sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp hoàn tất việc đầu tư từ nguồn vốn vay tuy là công việc buồn tẻ và mất nhiều thời gian nhưng nó giúp cho cán bộ tín dụng:  Một là: Biết được tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nợ vay Ngân hàng qua việc họ có lảng tránh gặp gỡ, có nhiệt tình trao đổi với cán bộ tín dụng những vấn đề liên quan món vay, có sao nhãng việc trả nợ hay không?  Hai là: So sánh mức độ khác biệt giữa phương án xin vay với thực tế, chiều hướng tốt hay xấu? Doanh số và quy mô hoạt động, doanh thu, lợi nhuận tăng hay giảm? Hàng hoá có dễ tiêu thụ hay không? có phải hạ giá bán một cách không bình thường không?  Ba là: Đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp như mức độ lưu chuyển tiền mặt có đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh và trả nợ đến hạn không? Nợ phải thu nhiều hay ít, dễ hay khó thu, có quá phụ thuộc vào một con nợ hay không?  Bốn là: Đánh giá lại giá trị thực tế của tài sản đảm bảo nợ vay có đủ xử lý để thu hồi nợ nếu trường hợp doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không?  Năm là: Do đặc điểm hoạt động của DNNVV là phần lớn chủ doanh nghiệp không tách bạch rõ ràng giữa ngân sách dùng cho sản xuất kinh doanh với ngân sách chi tiêu cho gia đình. Do đó, cán bộ tín dụng cần khéo léo tìm hiểu xem chủ doanh nghiệp có biết cách điều hành sản xuất kinh doanh và quản lý chi tiêu gia đình hợp lý nhằm hạn chế sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai loại ngân sách này, tránh tình trạng doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Những thông tin trên đây phải được cán bộ tín dụng thường xuyên cập nhật dưới dạng báo cáo hoặc biên bản làm việc kèm trong hồ sơ vay vốn. Nắm được tình hình một cách chắc chắn với một ý thức trách nhiệm cao là chìa khoá tốt nhất giúp cán bộ tín dụng quản lý chặt chẽ khoản vay từ đó hạn chế được rủi ro từ phía khách hàng một cách cao nhất. Tuy nhiên không phải lúc nào cho vay ra được là thu hồi nợ được đúng hạn. Mà vẫn có những khoản vay quá hạn doanh nghiệp chưa trả được hoặc khó trả được do mất khả năng thanh toán, do thua lỗ... thì Ngân hàng phải nhanh chóng tìm biện pháp thích hợp để có thể thu hồi được nợ. Việc xử lý món vay như thế phải trên nguyên tắc
  17. là tận dụng lượng tiền mặt sẵn có, buộc doanh nghiệp bán sản phẩm hay cung cấp dịch vụ ở mức giá hợp lý để tạo ra nhu cầu có khả năng thanh toán bằng tiền mặt và nhất là vẫn tận dụng được tài sản có của doanh nghiệp, tìm cách chuyển hoá tài sản đó thành tiền mặt tạo nguồn trả nợ cho Ngân hàng. Nói chung, trong hoạt động tín dụng nhất là tín dụng DNNVV không tránh khỏi rủi ro phát sinh nợ xấu. Do đó không thể phê phán cán bộ tín dụng về tất cả các quyết định cho vay mà họ đã đưa ra. Mà bản thân cán bộ tín dụng phải kiểm tra thường xuyên hoạt động của các doanh nghiệp để sớm nhận ra những dấu hiệu báo động dẫn đến, đề ra biện pháp khắc phục kịp thời. Điều này đặc biệt phải được các Ngân hàng thương mại quan tâm đến bởi vì DNNVV hiện nay là đối tượng khách hàng lớn của Ngân hàng, quan tâm đến DNNVV không những tăng được doanh số cho vay mà còn đa dạng hoá loại hình khách hàng và làm phong phú sản phẩm tín dụng của Ngân hàng thương mại. 1.3 Sự cần thiết phải mở rộng tín dụng với DNNVV và một số nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng đó 1.3.1 Sự cần thiết phải mở rộng tín dụng với DNNVV ở Ngân hàng thương mại Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành phát triển từ các DNNVV, thông qua liên kết các DNNVV. Quy luật đi từ nhỏ tới lớn là con đường tất yếu về sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong đó quy mô DNNVV làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên tính đa dạng, phong phú linh hoạt vừa đáp ứng xu hướng phát triển đi lên lẫn những biến đổi nhanh chóng của thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế. Để công nghiệp hoá hiện đại hoá không thể không có các doanh nghiệp quy mô lớn, vốn nhiều, kỹ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành nhằm tạo ra sức mạnh để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế. Ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp lớn thật cần thiết, chúng ta còn phải thực hiện biện pháp tăng khả năng
  18. tích tụ và tập trung của DNNVV, tạo điều kiện nhanh chóng vươn lên trở thành doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp trong từng ngành cũng như trong toàn nền kinh tế. Trong đó nhấn mạnh đến phát triển DNNVV là phù hợp với xu thế chung và thích hợp với xuất phát điểm về kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay vốn để đầu tư thành lập doanh nghiệp cũng như để mở rộng, phát triển sản xuất đang là một trong những khó khăn căn bản của các DNNVV ở Việt Nam. Thực sự, các DNNVV ở Việt Nam đang có nhu cầu bức xúc về vốn để thành lập và phát triển doanh nghiệp, lo lắng là làm sao vay được vốn vừa sức chi trả, tìm được người tư vấn giúp họ có thể tìm được chỗ vay vốn thích hợp và có thể làm để trả được vốn cả gốc lẫn lãi. Theo đánh giá của Bộ kế hoạch và đầu tư, mặc dù số lượng DNNVV chiếm tới 91 - 97% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, song tổng vốn cho sản xuất kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng vốn của các doanh nghiệp trong cả nước. Điều này phản ánh mức độ thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh của các DNNVV còn thấp và hầu hết các DNNVV đều gặp khó khăn thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Theo kết quả của các tổ chức quốc tế tại Hội nghị cấp cao lần thứ II ( tại Hà nội ngày 21/11/2000 ): tình trạng thiếu vốn chiếm 20% - 40% tổng số DNNVV. Chủ đầu tư ít vốn, thiếu vốn, nhưng lại rất khó vay vốn để đầu tư và phát triển kinh doanh. Theo những số liệu gần đây của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì đại đa số các DNNVV ở Việt Nam có mức vốn rất thấp: 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 50 triệu đồng. Thực tế là các DNNVV ở Việt Nam không được tiếp cận nhiều với những khoản vay ngắn hạn và hầu như không được vay dài hạn. Hiện nay chỉ có khoảng 1/3 số doanh nghiệp nhỏ vay được vốn để bổ sung cho số vốn tự có ít ỏi của mình. Trong số đó, chỉ có một số doanh nghiệp tiếp cận được nguồn tín dụng chính thức qua các Ngân hàng ( chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp vay tín dụng từ ngân hàng ), còn đại đa số ( 80% ) thường dựa vào thị trường tài chính, chọn giải pháp huy động vốn trong gia đình, họ hàng, bạn bè và sử dụng tín dụng thương mại của đối tác kinh doanh ( mua chậm trả ). Rất nhiều chủ DNNVV cho rằng, tốc độ tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của họ bị hạn chế lớn do không có khả năng tiếp cận được nguồn vốn tín dụng cũng như do chi phí vay vốn quá cao. Thiếu vốn, các
  19. doanh nghiệp này không những bị ảnh hưởng tới quy mô, công nghệ sản xuất ngay từ khi mới thành lập, mà khi đi vào hoạt động, khả năng bảo trì, thay thế máy móc, mua nguyên vật liệu và dịch vụ, khả năng hiện đại hoá và mở rộng sản xuất cũng bị hạn chế cực lớn. Các doanh nghiệp mới thành lập rất khó vay vốn trong trường hợp họ mới thành lập lần đầu, thiếu vốn và sẵn sàng vay vốn ngân hàng với bất cứ giá nào, ngân hàng không giám mạnh dạn cho vay vì không biết năng lực của họ thế nào. Trong khi luật chỉ cho phép Ngân hàng được cho vay tối đa 50% trị giá dự án, các doanh nghiệp lại muốn vay vượt số này thì rất khó. Bởi thế tự lực phần lớn về vốn là hiện trạng của phần nhiều doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ hiện nay. Việc vay vốn Ngân hàng là rất hiếm: Chỉ có 4/95 công ty tài trợ cho kinh doanh thông qua một khoản vay trong 6 tháng đầu sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp Như vậy, để phát triển được DNNVV thì các ngân hàng thương mại phải cung cấp đủ vốn cho các doanh nghiệp, phải tạo điều kiện thuận lợi để các DNNVV đến vay vốn ở các ngân hàng thương mại. Mặc dù cho vay các DNNVV dễ gặp rủi ro hơn nhưng DNNVV là một trong những nhân tố bảo đảm sự ổn định và bền vững của nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng của vốn, tay nghề và những nguồn vốn còn tiềm ẩn trong dân cư, góp phần phân bố công bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau. Như vậy, DNNVV góp phần to lớn đến phát triển kinh tế ở nước ta mà lại cần vốn còn các Ngân hàng thương mại lại có vốn. Vậy thì việc mở rộng tín dụng đối với các DNNVV ở các Ngân hàng thương mại vào thời điểm này là rất cần thiết và phù hợp với quy luật chung. 1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với DNNVV ở các Ngân hàng thương mại Việc tìm ra các nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng đối với các DNNVV là điều rất có ý nghĩa, để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn để thực hiện mục tiêu chung của Ngân hàng thương mại là mở rộng quy mô tín dụng an toàn và hiệu quả.
  20. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng thành hai nhóm : Các nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan 1.3.2.1 Các nhân tố khách quan  Nhân tố kinh tế: Như chúng ta đã biết nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau bất kỳ một sự biến động của hoạt động kinh tế nào đó cũng sẽ gây ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh của các lĩnh vực còn lại. Hơn nữa hoạt động của Ngân hàng thương mại chịu sự ảnh hướng rất nhiều của biến động kinh tế. Đặc biệt là hoạt động tín dụng Ngân hàng là hoạt động nhạy cảm nhất, do vậy sự biến động của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Thật vậy, khi nền kinh tế ở tình trạng hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, môi trường kinh doanh ít biến động thì nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng lên, nhiều khi môi trường đầu tư hấp dẫn các doanh nghiệp làm ăn tốt thường có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm kiếm thêm lợi nhuận. Do vậy hoạt động tín dụng Ngân hàng có cơ hội phát triển và ngược lại tín dụng ngân hàng sẽ bị thu hẹp, hoặc chí ít thì cũng không thể phát triển được. Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp Việt nam đang trong tình trạng khốn đốn vì môi trường kinh doanh không ổn định, thậm chí nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản và không trả được nợ ngân hàng và cũng không được ngân hàng cho vay tiếp. Điều đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng Ngân hàng.  Nhân tố xã hội như: Niềm tin tưởng lẫn nhau, tình hình trật tự an ninh và an toàn xã hội, trình độ dân trí...ảnh hưởng trực tiếp tới tác nhân chính tham gia vào quan hệ tín dụng Ngân hàng đó là Ngân hàng và khách hàng. Thật vậy, nếu một nơi nào đó trật tự an ninh không đảm bảo, an toàn xã hội kém sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các chủ đầu tư. Do đó, nhu cầu vay vốn cũng hạn chế, ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng của các Ngân hàng. Ngược lại, nơi nào có trật tự an ninh tốt, ít tệ nạn xã hội sẽ an toàn cho hoạt động đầu tư. Điều đó sẽ khuyến khích các chủ đầu tư mở rộng quy mô hoạt
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2