intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng TMCT Ngoài quốc doanh (VP Bank)

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

102
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cùng với sự phát triển của kinh tế khu vực, nền kinh tế nước ta trong những năm qua đạt được nhiều bước tiến đáng kể (GDP đạt khoảng 7-8%). Một trong những lĩnh vực thành công là Ngân hàng-Tài chính. Các hoạt động Ngân hàng phát triển mạnh mẽ, nổi bật là hoạt động bảo lãnh có số dư liên tục tăng qua các năm, hứa hẹn là một dịch vụ có lợi nhuận tiềm năng. Tuy nhiên, để bảo lãnh thực sự phát huy ưu điểm thì trước khi thực hiện bảo lãnh không thể xem nhẹ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng TMCT Ngoài quốc doanh (VP Bank)

  1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng TMCT Ngoài quốc doanh (VP Bank)
  2. LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển của kinh tế khu vực, nền kinh tế nước ta trong những năm qua đạt được nhiều bước tiến đáng kể (GDP đạt khoảng 7-8%). Một trong những lĩnh vực thành công là Ngân hàng-Tài chính. Các hoạt động Ngân hàng phát triển mạnh mẽ, nổi bật là hoạt động bảo lãnh có số dư liên tục tăng qua các năm, hứa hẹn là một dịch vụ có lợi nhuận tiềm năng. Tuy nhiên, để bảo lãnh thực sự phát huy ưu điểm thì trước khi thực hiện bảo lãnh không thể xem nhẹ công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp. Công tác này không chỉ quan trọng trong hoạt động bảo lãnh mà còn quan trọng trong nhiều hoạt dộng ngân hàng khác. Dù được soạn thảo về quy trình khá chặt chẽ song phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi thực hiện bảo lãnh ở VPBank không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Chính vì vậy em lựa chọn đề tài : “Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong bảo lãnh tại Ngân hàng TMCT Ngoài quốc doanh (VP Bank)”. Bố cục luận văn gồm 3 phần : Chương I : Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh của Ngâm hàng thương mại. Chương II : Thực trạng công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh tại VPBank. Chương III : Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh tại VP Bank.
  3. CHƯƠNG I THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Kinh doanh ngân hàng thương mại là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất trên thế giới. Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 tại Mỹ, trước khi Hiến pháp Liên bang được thông qua, và nhiều ngân hàng được thành lập từ năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động hiệu quả. Kể từ khi ra đời, các nhà kinh doanh ngân hàng thương mại đã mang đến cho khách hàng của mình nhiều dịch vụ tài chính phong phú, đáp ứng hầu hết các nhu cầu tài chính tiêu dùng cá nhân cũng như tài chính doanh nghiệp. Trong số đó phải kể tới bảo lãnh ngân hàng, một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại. Lần đầu tiên bảo lãnh ngân hàng xuất hiện vào những năm 60 tại một thị trường nội địa nước Mỹ, sau đó, vào đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế và đến ngày nay dịch vụ bảo lãnh đã phát triển mạnh mẽ ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Không đứng ngoài xu thế đó, doanh só mà dịch vụ này mang lại cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong những năm gần đây gia tăng một cách đáng kể. Vậy bảo lãnh ngân hàng là gì và tính ưu việt nào của dịch vụ bảo lãnh khiến vị trí của nó ngày càng được củng cố một cách chắc chắn trong các loại giao dịch? Vì sao trước khi cung ứng một gói dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng, các cán bộ tín dụng ngân hàng phải thẩm định tài chính doanh nghiệp? Những thắc mắc trên đây sẽ được lý giải trong chương này. 1.1 Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại 1.1.1 Khái niệm về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Về cơ bản, quan hệ bảo lãnh ngân hàng gồm các bên như sau:
  4. Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng, bao gồm: ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, và các tổ chức tín dụng khác thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng (gọi chung là các tổ chức tín dụng). Bên được bảo lãnh là các tổ chức bao gồm: Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam như doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể. Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng. Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật Dân sự. Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam. Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh. Trong đó, cam kết bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng hoặc văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo lãnh được tóm tắt theo sơ đồ sau: Bên được bảo lãnh HĐ mua bán, dự thầu Bên nhận bảo lãnh Đơn xin bảo lãnh Thư bảo lãnh Bên bảo lãnh (NH) (1) (3) (1) Sơ đồ 1 Quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo lãnh
  5. 1.1.2 Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh Nhìn chung, bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm sau đây: Ngân hàng dựa trên chính uy tín của mình để cung ứng dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng. Thật vậy, trong gói dịch vụ này, ngân hàng đứng ra bảo đảm với bên nhận bảo lãnh rằng khách hàng của mình sẽ thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay thế. Bằng cách này, ngân hàng đã tạo được sự tin tưởng cho bên nhận bảo lãnh và góp phần xúc tiến các hoạt động thương mại giữa các bên được tiến hành nhanh chóng hơn, thuận tiện hơn. Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ ngoại bảng. Vì ngân hàng dùng uy tín của mình để cung cấp dịch vụ và ngay tại thời điểm phát hành bảo lãnh, ngân hàng chưa phải chịu trách nhiệm tài chính thay cho khách hàng nên bảo lãnh được theo dõi ngoại bảng. Điều này có nghĩa là trong thời gian bảo lãnh, tạm thời nghiệp vụ tín dụng này ch ưa tác động làm thay đổi nguồn vốn hay tài sản của ngân hàng phát hành. Nó sẽ được theo dõi nội bảng khi hết thời hạn bảo lãnh, khách hàng không thực hiện được cam kết của mình với bên đối tác buộc ngân hàng phải chịu trách nhiệm thay thế. Điều này tương đương với việc ngân hàng cấp cho khách hàng một món vay mà khách hàng phải có nghĩa vụ nhận nợ và hoàn trả nợ cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau. Trong một gói dịch vụ bảo lãnh ngân hàng thường có sự kết hợp giữa 3 hợp đồng độc lập. Thứ nhất là hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (hợp đồng gốc – hợp đồng giao dịch các loại), thứ hai là hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh, cuối cùng là hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập so với hợp đồng. Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng, nhưng việc thanh toán một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện được quy định trong bảo lãnh. Tính phù hợp của bảo lãnh. Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu tổ chức tín dụng thanh toán thì tổ chức tín dụng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do người thụ
  6. hưởng xuất trình. Tổ chức tín dụng bảo lãnh có quyền từ chối thanh toán nếu như chứng từ có dấu hiệu không hợp lệ hay những điều kiện của bảo lãnh không được đáp ứng. 1.1.3 Các loại bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng được phân loại dựa theo nhiều tiêu thức khác nhau nh ư: căn cứ vào bản chất của bảo lãnh, căn cứ vào phương thức phát hành, vào điều kiện và quy trình…Song đa phần các ngân hàng thương mại căn cứ vào mục đích bảo lãnh để phân loại. Theo mục đích của bảo lãnh, bảo lãnh có thể được chia ra các loại sau: Bảo lãnh vay vốn: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn. Bảo lãnh vay vốn gồm: bảo lãnh vay vốn trong nước và bảo lãnh vay vốn nước ngoài (chủ yếu dưới hình thức bảo lãnh mở L/C trả chậm) Bảo lãnh thanh toán: là một bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Bảo lãnh dự thầu: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên mời thầu để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên thụ hưởng bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
  7. Bảo lãnh hoàn thanh toán: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên thụ hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh đối ứng: là một bảo lãnh do một tổ chức tín dụng (bên phát hành bảo lãnh đối ứng) phát hành cho một tổ chức tín dụng khác (bên bảo lãnh) về việc đề nghị bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh. Xác nhận bảo lãnh: là bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng (bên xác nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) đối với khách hàng. Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh. Đồng bảo lãnh: là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của khách hàng thông qua một tổ chức làm đầu mối. Trong một số trường hợp, để giảm thiểu rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này, một ngân hàng đứng ra đóng vai trò là ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh và có sự tham gia của các ngân hàng thành viên khác. Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập, ngân hàng đầu mối có thể đòi bồi hoàn theo tỷ lệ tham gia của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ bên được bảo lãnh. 1.1.4 Tầm quan trọng của hoạt động bảo lãnh
  8. Một nền kinh tế phát triển tồn tại trong nó nhiều loại hình giao dịch đa dạng, bao gồm giao dịch tài chính lẫn phi tài chính, giao dịch thương mại lẫn phi thương mại. Nếu các giao dịch được tiến hành một cách thuận lợi, nền kinh tế có đà phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn. Bảo lãnh ra đời như một chất xúc tác, giúp các bên đối tác an tâm tiến hành giao dịch. Về bản chất, bảo lãnh là một nghiệp vụ hỗ trợ khách hàng ngoại bảng. Đối với ngân hàng, cung ứng dịch vụ bảo lãnh, ngân hàng sẽ thu được phí bảo lãnh, mở rộng hoạt động kinh doanh. Đối với khách hàng, bảo lãnh là một công cụ hỗ trợ quan trọng trong giao dịch. Thật vậy, bảo lãnh là một công cụ bảo đảm. Ngân hàng khi phát hành bảo lãnh đã đồng thời cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra sự cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, tạo một sự đảm bảo chắc chắn cho người nhận bảo lãnh. Sự đảm bảo chắc chắn này khiến cho các hợp đồng được ký kết một cách dễ dàng và thuận lợi. Đặc biệt, ngày nay khi giao thương phát triển vượt ra phạm vi một quốc gia, các đối tác có thể hoàn toàn không biết nhau, hoặc mối quan hệ làm ăn mới được hình thành lần đầu, hoặc họ xa xôi về địa lý… thì bảo lãnh dường như đã khắc phục được những bất lợi này. Không chỉ là công cụ bảo đảm, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh, người được bảo lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ… Do vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn như trong cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như trong cho vay. Nhìn chung, sự xuất hiện của nghiệp vụ bảo lãnh vừa mang lại lợi ích cho khách hàng, vừa mang lại một khoản thu phí cho ngân hàng vì vậy nghiệp vụ này ngày càng phát triển trong các ngân hàng thương mại. 1.1.5 Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh Bảo lãnh là một trong bốn nghiệp vụ tín dụng cơ bản của ngân hàng thương mại. Tương tự như nghiệp vụ cho vay, trình tự và thủ tục của bảo lãnh bao gồm: tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định bảo lãnh, ký hợp đồng, xử lý nợ quá hạn phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
  9. Bước 1: Khách hàng lập và gửi hồ sơ đề nghị bảo lãnh. Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý, Giấy đề nghị bảo lãnh, Báo cáo tài chính, Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác, Hồ sơ tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định. Bước 2: Ngân hàng thẩm định hồ sơ và ra quyết định bảo lãnh. Nhận được hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng, cán bộ tín dụng ngân hàng tiến hành thẩm định hồ sơ đó, chủ yếu là thẩm định các điều kiện bảo lãnh của khách hàng (đã hội tụ đầy đủ và thỏa mãn quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh chưa), tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh đã đủ tiêu chuẩn chưa. Sau khi thẩm định hồ sơ, ngân hàng đưa ra quyết định bảo lãnh hay từ chối. Nếu không chấp nhận bảo lãnh, ngân hàng phải trả lời bằng văn bản cho khách hàng và nói rõ lý do. Nếu chấp thuận bảo lãnh, ngân hàng phải cân nhắc lựa chọn hình thức và nội dung bảo lãnh thích hợp nhất với yêu cầu của khách hàng cũng như khả năng, kinh nghiệm nghiệp vụ của ngân hàng. Bước 3: Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng và phát hành thư bảo lãnh. Khách hàng nhận một bản cam kết bảo lãnh do ngân hàng phát hành. Ngân hàng kiểm tra theo dõi chặt chẽ tiến trình bảo lãnh nhằm phòng vệ rủi ro, đôn đốc khách hàng thực hiện các nghĩa vụ được bảo lãnh. Bước 4: Khách hàng thanh toán phí bảo lãnh và các khoản phí khác (nếu có) theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh. Phí bảo lãnh được tính cho mỗi khoản bảo lãnh theo công thức sau: Phí bảo lãnh = Số dư bảo lãnh × Mức phí bảo lãnh × Thời gian bảo lãnh Trong đó: - Số dư bảo lãnh là số tiền đang còn được bảo lãnh. - Thời gian bảo lãnh là thời gian ngân hàng chịu trách nhiệm bảo lãnh về số dư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán theo bảo lãnh đã cấp. - Mức phí bảo lãnh do các bên thỏa thuận, không vượt quá 2%/năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh, nếu phí bảo lãnh nhỏ hơn 300.000 đồng thì các ngân hàng thu phí bảo lãnh là 300.000 đồng. Ngoài ra khách hàng còn phải thanh toán cho ngân hàng bảo
  10. lãnh các chi phí hợp lý khác phát sinh liên quan đến giao dịch bảo lãnh khi các bên có thỏa thuận bằng văn bản. Bước 5: Tất toán bảo lãnh. Sau khi thư bảo lãnh hết thời hạn hiệu lực hoặc khi có thông báo hoặc xác nhận của bên nhận bảo lãnh về việc hoàn thành nghĩa vụ liên quan đến bảo lãnh, ngân hàng tiến hành tất toán bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã được bảo lãnh, bên bảo lãnh phải trả thay và tự động hạch toán nợ vay bắt buộc đối với số tiền trả nợ thay theo lãi suất nợ quá hạn của bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh và áp dụng các biện pháp cần thiết để thu nợ như phát mại tài sản bảo đảm, trích tài khoản của bên được bảo lãnh (nếu có thỏa thuận), khởi kiện ra cơ quan pháp luật và các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm khác theo quy định của pháp luật. Bên được bảo lãnh có trách nhiệm phối hợp thực hiện và chấp hành các biện pháp xử lý của tổ chức tín dụng bảo lãnh, thực hiện bồi hoàn cho tổ chức tín dụng trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo lãnh. 1.2 Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái niệm và sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường với mục tiêu rõ ràng là tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Về mặt kỹ thuật, bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào cũng đòi hỏi yếu tố đầu vào, trải qua quy trình công nghệ chúng sẽ trở thành sản phẩm phục vụ thị trường (sản phẩm này có thể là hữu hình, có thể là vô hình nếu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ). Về mặt tài chính, hoạt động của doanh nghiệp không thể diễn giải đơn thuần như vậy. Bởi để làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hũu, các nhà quản trị luôn phải đau đầu với những quyết định tài chính như: Lấy nguồn vốn nào để đầu tư? Đầu tư vào đâu? Đầu tư trong thời gian bao lâu? Và quản lý hoạt động tài chính hằng ngày, lâu dài như thế nào? Trong một doanh nghiệp, vì thế, mảng
  11. tài chính bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng nhất, là xương sống, là cốt lõi cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Tình hình tài chính của doanh nghiệp vể nguyên tắc được phản ánh trong các báo cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo l ưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Trong đó, bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách tổng quát tài sản của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá: quy mô và kết cấu tài sản và nguồn hình thành nên tài sản (cơ cấu tài trợ) của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Như vậy, bảng cân đối kế toán nhằm mô tả sức mạnh tài chính của doanh nghiệp bằng cách trình những thứ mà nó có và những thứ mà nó nợ tại một thời điểm. Bảng cân đối kế toán được coi như một bức ảnh chụp nhanh, bởi vì nó được lập vào thời điểm cuối niên độ kế toán. Báo cáo kết quả kinh doanh là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh (doanh thu – chi phí) của doanh nghiệp trong một niên độ kế toán. Số liệu trong báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về phương thức kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng lỗ vốn. Đồng thời, nó còn phản ánh tình hình sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật, và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một bản báo cáo tài chính được các nhà phân tích tài chính rất quan tâm vì nó cung cấp các số liệu về hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp thực hiện trong kỳ. Nó còn được sử dụng để dự tính xem doanh nghiệp sẽ hoạt động ra sao trong tương lai. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh khái quát tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp, khả năng chi trả được hay không của doanh nghiệp, thường được xác định trong thời hạn ngắn (từng tháng). Tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp được phản ánh gồm dòng tiền thực nhập quỹ (thu) và dòng tiền thực xuất quỹ (chi), để từ đó nhà phân tích có thể thực hiện cân đối ngân quỹ, xác định được dự phòng ngân quỹ tối thiểu đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp Măc dù các báo cáo tài chính này phản ánh khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng chúng chỉ đơn thuần bao hàm những con số vô chi nếu như không được các nhà quản trị bằng những phương pháp của mình phân tích, nhận xét, đánh giá. Vì vậy,
  12. thẩm định tài chính (hay phân tích tài chính) là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Thẩm định tài chính doanh nghiệp được nhiều đối tượng lưu tâm bởi doanh nghiệp hoạt động trong tổng hòa các mối quan hệ: quan hệ với các cơ quan Nhà nước, quan hệ với các đối tác làm ăn, quan hệ với nhà đầu tư, quan hệ với khách hàng, quan hệ với các đối thủ cạnh tranh…Do đó, thẩm định tài chính phục vụ cho nhu cầu thông tin của cơ quan Nhà nước để quản lý, cho chủ sở hưu để quyết định đầu tư, cho chủ nợ để phán quyết tài trợ… 1.2.2 Phương pháp thẩm dịnh tài chính doanh nghiệp Nhiều phương pháp được áp dụng để tiến hành thẩm định tài chính doanh nghiệp, nhưng phương pháp chủ yếu được dùng là phương pháp so sánh. So sánh giữa số thực hiện trong kỳ với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp, thấy được tình hình tài chính được cải thiện hay xấu đi như thế nào. So sánh giữa số kế hoạch với số thực hiện để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh số thực hiện kỳ này với mức trung bình ngành để thấy vị trí của doanh nghiệp, thấy tình hình tài chính doanh nghiệp đang ở tình trạng xấu hay tốt, được hay chưa so với các doanh nghiệp trong ngành. So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng số, các tỷ số quan trọng, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới doanh thu… So sánh theo chiều ngang để thấy được sự thay đổi cả về số tương đối và số tuyệt đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. 1.2.3 Nội dung thẩm định tài chính doanh nghiệp 1.2.3.1 Thẩm định các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp Để đánh giá tình hình hoạt động một doanh nghiệp tính tới thời điểm hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai thì phương pháp phân tích chỉ số các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp rất được ưa sử dụng mặc dù nó có những hạn chế nhất định. Phân tích
  13. chỉ số đòi hỏi người phân tích phải đánh giá được sự rằng buộc giữa các khoản mục trên bảng cân đối kế toán cũng như trên báo cáo kết quả kinh doanh. Không chỉ có vậy, người phân tích phải chỉ ra được sự thay đổi theo thời gian của các chỉ số đã tính (xu hướng phát triển của doanh nghiệp). Nhưng nếu chỉ đơn thuần đưa ra các chỉ số và sự thay đổi theo thời gian của chúng thì chưa thể hoàn thành việc thẩm định tài chính. Người phân tích phải căn cứ vào chuẩn mực là những chỉ tiêu trung bình ngành để có thể đưa ra nhận xét cũng như đánh giá một cách chính xác (vị trí của doanh nghiệp trong ngành, tình hình hoạt động là tốt hay xấu). Khi chưa có chỉ tiêu trung bình ngành thì có thể đưa ra những chỉ tiêu tài chính được đánh giá là chuẩn mực để so sánh, hoặc chọn một doanh nghiệp cùng loại hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có tình hình tài chính lành mạnh để so sánh. Một doanh nghiệp có các chỉ tiêu tài chính phù hợp với mức trung bình của ngành thì tình hình tài chính được đánh giá là ổn định và vững chắc. Nhóm chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá tình hình tài chính lành mạnh của doanh nghiệp, tức là doanh nghiệp đáp ứng được khả năng chi trả hoặc không đứng trước bờ vực phá sản, phải kế tới đó là các chỉ số phản ánh khả năng thanh khoản, bao gồm khả năng thanh toán tạm thời và khả năng thanh toán nhanh. Khả năng thanh toán tạm thời là khả năng chi trả của doanh nghiệp đối với những khoản nợ tới hạn trong kỳ. Nợ tới hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ dài hạn tới hạn trả, phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp… Phần tài sản trang trải cho các khoản nợ này chỉ có thể là tài sản lưu động vì nó có tính thanh khoản cao, thời gian để chuyển đổi thành tiền thường dưới một năm. Khả năng thanh toán tạm thời được xác định như sau: Khả năng thanh toán = Tài sản lưu động tạm thời Nợ ngắn hạn Khả năng thanh toán nhanh là khả năng thanh toán ngay được các khoản nợ tới hạn theo yêu cầu của các nhà đầu tư hoặc của chủ nợ mà doanh nghiệp có thể đáp ứng. Tài sản của doanh nghiệp dùng để tranh trải ngay các món nợ tới hạn chính là tiền và các khoản tiền tương đương. Những tài sản quay vòng nhanh được coi là tiền tương đương, những tài
  14. sản này nhanh chóng đổi thành tiền mặt, đó là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn (tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu…) Khả năng thanh toán nhanh = Tài sản lưu động – Hàng tồn kho Nợ ngắn hạn Các chỉ tiêu phản ánh hoạt dộng của doanh nghiệp đo lường mức độ hiệu quả của việc quản lý tài sản và việc quản lý này ảnh hưởng như thế nào tới các hoạt động được đo lường bởi doanh số bán. Chỉ số vòng quay hàng tồn kho: hàng tồn kho là một loại tài sản dự trữ với mục đích đảm bảo cho sản xuất được tiến hành một cách bình thường, liên tục và đáp ứng nhu cầu thị trường. Mức độ tồn kho cao hay thấp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như loại hình kinh doanh, mức độ tiêu thụ của thị trường, mùa vụ trong năm… Để đảm bảo cho sản xuất tiến hành liên tục đồng thời đáp ứng đủ cho nhu cầu khách hàng trong cả năm, mỗi doanh nghiệp cần có một mức dự trữ tồn kho hợp lý. Vì vậy, phương pháp tốt nhất để xác định mức tồn kho hợp lý là so sánh mức tồn kho với giá vốn hàng bán trong năm. Vòng quay = Giá vốn hàng bán hàng tồn kho Hàng tồn kho Kỳ thu tiền bình quân là chỉ tiêu dùng để đánh giá các khoản phải thu. Trong quá trình hoạt động, việc phát sinh các khoản phải thu, phải trả là điều tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn, chứng tỏ vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng càng nhiều, ứ đọng trong khâu thanh toán. Nhanh chóng giải phóng vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán là một bộ phận quan trọng của công tác tài chính. Vì vậy, các nhà phân tích tài chính rất quan tâm tới thời gian thu hồi các khoản phải thu. Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân được xác định như sau: Kỳ thu tiền = Các khoản phải thu bình quân Doanh thu bình quân ngày
  15. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản trong kỳ, nó phản ánh một đồng tài sản được đầu tư mang lại mấy đồng doanh thu. Chỉ tiêu này được xác định như sau: Hiệu suất sử dụng = Doanh thu tổng tài sản Tổng tài sản Các chỉ tiêu phải ánh cơ cấu tài chính ( hay đòn cân nợ) thể hiện chính sách sử dụng vốn nợ và vốn chủ hợp lý như thế nào trong doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, hiếm có doanh nghiệp nào có thể tự chủ tài chính hoàn toàn trong mọi diễn biến của thị trường cũng như trong mọi chu kỳ kinh doanh. Vì thế để nắm lấy cơ hội kinh doanh hoặc chỉ đơn giản duy trì sản xuất kinh doanh được liên tục, các nhà tài chính luôn luôn phải tính toán huy động và sử dụng nợ một cách hợp lý sao cho không tự đẩy doanh nghiệp vào thế mất tự chủ tài chính hay phụ thuộc quá nhiều vào các khoản nợ. Các chủ nợ cũng dựa vào chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính này của doanh nghiệp để xem xét mức độ an toàn của đồng vốn khi cho doanh nghiệp vay. Các chỉ tiêu bao gồm: Tỷ số nợ đo lường sự góp vốn của chủ doanh nghiệp so với số nợ vay. Chủ nợ thường ưa thích một tỷ số nợ vừa phải, tỷ số nợ càng thấp, hệ số an toàn càng cao, món nợ của họ càng được bảo đảm và họ có cơ sở để tin tưởng vào sự đáo nợ đúng hạn của con nợ. Khi tỷ số nợ cao, tức là chủ doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trên tổng số vốn, thì sự rủi ro trong kinh doanh được chuyển sang chủ nợ gánh chịu một phần. Tỷ số nợ được xác định như sau: Tỷ số nợ = Tổng số nợ Tổng số vốn Hệ số đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay cho biết doanh nghiệp sẵn sàng trả tiền lãi vay tới mức nào, vì tiền lãi vay là một khoản chi cố định hằng năm của doanh nghiệp được trích ra từ lợi nhuận. Hệ số này được xác định như sau: Hệ số đảm bảo = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay khả năng thanh toán lãi vay Lãi vay phải trả
  16. Các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời là chỉ tiêu được nhà đầu tư, chủ nợ, cũng như chủ doanh nghiệp rất quan tâm vì nó phản ánh hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra mang lại bao nhiêu đồng lãi. Các chỉ tiêu này không đơn thuần phản ánh lợi nhuận của một doanh nghiệp mà nó còn đặt lợi nhuận ấy trong mối quan hệ với doanh thu đạt được trong kỳ, với tổng số vốn mà doanh nghiệp đã huy động vào sản xuất – kinh doanh. Chỉ tiêu này bao gồm: doanh lợi doanh thu, hệ số đo lường khả năng tạo thu nhập cơ bản, ROA (tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản) và ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu). Doanh lợi doanh thu dùng để đánh giá hoạt động sản xuất – kinh doanh thịnh vượng hay suy thoái, được tính bằng lấy thu nhập sau thuế chia cho doanh thu. Doanh lợi = Lợi nhuận sau thuế doanh thu Doanh thu Hệ số đo lường khả năng tạo thu nhập cơ bản đo lường sức mạnh tạo thu nhập cơ bản của tổng tài sản của doanh nghiệp trước ảnh hưởng của thuế và lãi vay. Chỉ tiêu này được xác định Hệ số đo lường = Thu nhập trước thuế và lãi vay khả năng tạo thu nhập cơ bản Tổng tài sản ROA phản ánh sức mạnh tạo thu nhập của tài sản sau thuế và đòn bẩy, được xác định bằng cách lấy thu nhập sau thuế và lãi vay chia cho tổng tài sản: ROA = Lợi nhuận ròng Tổng tài sản Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp càng cao. Bên cạnh ROA, các nhà phân tích tài chính thường sử dụng kèm chỉ tiêu ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu). Chủ sở hữu rất quan tâm đến chỉ tiêu này bởi nó phản
  17. ánh một đồng vốn chủ bỏ ra thu được mấy đồng lợi nhuận ròng. Phương pháp xác định ROE như sau: ROE = Lợi nhuận ròng Vốn chủ sở hữu 1.2.3.2 Thẩm định các chỉ tiêu phi tài chính Nếu các chỉ tiêu tài chính phản ánh tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực trả nợ của doanh nghiệp qua các năm thì những chỉ tiêu phi tài chính giúp cán bộ tín dụng đánh giá được liệu doanh nghiệp này có đáng tin cậy không và nó có hoạt động tốt trong tương lai không. Nói một cách khác, các chỉ tiêu phi tài chính dưới đây sẽ góp phần hoàn thiện hơn công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp. * Tư cách pháp lý của doanh nghiệp Đây là một tiêu chí quan trọng mà các cán bộ tín dụng phải đặc biệt lưu tâm khi tiến hành thẩm định khách hàng của mình. Lý do thật đơn giản vì Ngân hàng không thể có quan hệ tín dụng với một doanh nghiệp “ma” mà sự tồn tại và mọi hoạt động của nó không được Pháp luật công nhận. Nếu đặt quan hệ tín dụng nói chung hay cấp bảo lãnh nói riêng cho những doanh nghiệp không có tư cách pháp lý thì rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra, nguy cơ mất vốn của ngân hàng là khó tránh khỏi, thậm chí còn ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng. Với mỗi Ngân hàng sẽ có những danh mục thẩm định khác nhau về tư cách pháp lý của doanh nghiệp nhưng nhìn chung bao gồm các mục cơ bản như: Quyết định thành lập hay Giấy phép thành lập, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Điều lệ công ty, Quyết định bổ nhiệm Giám đốc…, đối với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần Giấy phép đầu tư, Hợp đồng liên doanh, các văn bản xác nhận tư cách pháp lý… * Trình độ, kinh nghiệm và năng lực quản trị của Ban lãnh đạo doanh nghiệp Ban lãnh đạo là đại diện cho doanh nghiệp, họ có ảnh hưởng không nhỏ tới thành công hay thất bại của doanh nghiệp bởi họ là những người đề ra phương hướng phát triển, chiến lược phát triển, chỉ đạo và điều hành nguồn lực con người, công nghệ, vốn…trong doanh nghiệp. Do đó, trình độ và kinh nghiệm của Ban lãnh đạo doanh nghiệp rất đáng được cán bộ tín dụng lưu tâm. Trình độ của Ban lãnh đạo doanh nghiệp được đánh giá
  18. không chỉ là trình độ học vấn mà còn ở trình độ am hiểu về lĩnh vực kinh doanh doanh nghiệp đang tiến hành, trình độ quản lý sắp xếp công việc, trình độ quản trị nhân viên trong doanh nghiệp, điều hòa các mối quan hệ. Trình độ, kinh nghiệm thường được phản ánh qua bằng cấp, số năm công tác trong nghề, trong vị trí được giao, số lần Ban lãnh đạo đã giúp công ty vượt qua những lúc khó khăn tài chính…Các chỉ tiêu này tốt chứng tỏ Ban lãnh đạo rất có năng lực, họ có thể đưa ra các giải pháp thông suốt trong những tình huống khó khăn hoặc duy trì phát triển doanh nghiệp trong điều kiện thuận lợi. Điều này sẽ khiến Ngân hàng an tâm hơn khi quyết định tài trợ cho doanh nghiệp. * Ngành nghề kinh doanh, thị trường tiêu thụ, mức độ cạnh tranh - Về ngành nghề kinh doanh: Trong nền kinh tế, doanh nghiệp khác nhau kinh doanh ở các lĩnh vực ngành nghề khác nhau, cho ra các sản phẩm khác nhau để phục vụ những đối tượng khách hàng khác nhau. Nếu doanh nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh được Chính phủ ưu tiên phát triển thì ắt hẳn trong tương lai họ sẽ có nhiều hỗ trợ ưu đãi, nhiều cơ hội kinh doanh hứa hẹn. Tiềm năng phát triển của những doanh nghiệp này là rất lớn, khiến Ngân hàng tin tưởng hơn vào khả năng tài chính tốt đẹp của doanh nghiệp, do đó có thể Ngân hàng mạnh dạn hơn khi cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho họ. - Về thị trường tiêu thụ: Trước mỗi quyết định đầu tư của doanh nghiệp, định hướng được tốt thị trường tiêu thụ là chìa khóa thành công cho doanh nghiệp. Bởi chính thị trường tiêu thụ này, hay thị trường mục tiêu mà công ty quyết định phục vụ, quyết định hướng vào là cái nôi duy trì hoạt động cho công ty, mang lại lợi nhuận cho công ty quyết định sự phát triển của công ty, là nơi hứa hẹn nghĩa vụ của công ty sẽ được thực hiện với Ngân hàng. Khi thẩm định về thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, các cán bộ tín dụng nên nghiên cứu về quy mô và xu thế phát triển của thị tr ường tiêu thụ trong thời gian tới (mở rộng hay thu hẹp). - Về mức độ cạnh tranh: Ngân hàng có thể đánh giá doanh nghiệp toàn diện hơn khi nhìn vào mức độ cạnh tranh của đoạn thị trường mà doanh nghiệp đang duy trì hoạt động. Mức độ cạnh tranh mà doanh nghiệp đang đối mặt là khốc liệt hay dễ dàng? Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp là ai, so với toàn thị trường thì doanh nghiệp đứng ở vị trí nào? Nguy cơ doanh nghiệp bị thôn tính ra sao? Phương pháp cạnh tranh của doanh nghiệp là gì (cạnh tranh theo chất lượng sản phẩm, mẫu mã hay giá cả của sản phẩm)?..v.v…Tất
  19. cả các tiêu chí này giúp cán bộ tín dụng Ngân hàng nhận xét được liệu trong tương lai doanh nghiệp có thể phát triển lành mạnh được không hay sẽ đi vào ngõ cụt nếu vị thế của doanh nghiệp quá thấp trên thị trường hay mức độ cạnh tranh trên thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động quá cao. * Uy tín doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường cần phải xây dựng cho mình một chữ tín thật tốt. Chữ tín ở đây không bó hẹp trong quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với Ngân hàng mà còn được quan tâm tới trong quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, với người tiêu thụ, với khách hàng, với các cơ quan quản lý… Đặc biệt, khi xét đến việc cấp bảo lãnh nói riêng, Ngân hàng rất l ưu tâm đến uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng, thể hiện ở các chỉ tiêu: nợ quá hạn trong quá khứ, số lần gia hạn nợ, số lần chậm trả lãi vay, số lần mất khả năng thanh toán với các chủ nợ khác…Thật vậy, nếu tình hình trả nợ của doanh nghiệp trong quá khứ không khả quan thì có hai trường hợp xảy ra hoặc tình hình tài chính của doanh nghiệp có khó khăn, hoặc doanh nghiệp không có ý thức tốt trong việc thanh toán nợ. Để đánh giá chính xác doanh nghiệp thuộc trường hợp nào, Ngân hàng cần phải xem xét thêm về các chỉ tiêu tài chính khác của doanh nghiệp. Nhìn chung các doanh nghiệp có tình hình trả nợ trong quá khứ không tốt sẽ không được Ngân hàng đánh giá cao dẫn tới không được cấp thêm tín dụng hoặc cấp thêm rất hạn chế. * Tài sản bảo đảm Tài sản bảo đảm là tài sản dùng để tăng sự rằng buộc về thực hiện nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp đối với Ngân hàng. Điều này có nghĩa là trước khi cấp tín dụng cho khách hàng, Ngân hàng sẽ nắm giữ tài sản bảo đảm của họ. Nếu doanh nghiệp không thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ phát mại tài sản bảo đảm để bù đắp vào nghĩa vụ tài chính đó. Vì vậy, đối với hầu hết các Ngân hàng, tài sản bảo đảm là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để quyết định có nên cấp bảo lãnh hay không. Thông thường, tài sản bảo đảm được các Ngân hàng định giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường và chỉ cấp bảo lãnh với một tỷ lệ thấp hơn giá trị tài sản đã định giá đó. Sở dĩ có điều này là vì Ngân hàng muốn giảm rủi ro tài sản bảo đảm bị xuống giá trong quá trình
  20. cấp tín dụng nói chung, bảo lãnh nói riêng. Hơn thế nữa, Ngân hàng tránh rủi ro phi đạo đức, tăng trách nhiệm của khách hàng với khoản tín dụng. Nói tóm lại, sau khi đánh giá các chỉ tiêu tài chính và các chỉ tiêu phi tài chính, cán bộ Ngân hàng cần kết hợp cả hai chỉ tiêu trên để có được một đánh giá toàn diện nhất. Vì thực tế, chỉ tiêu tài chính phản ánh tiềm lực, khả năng tài chính của doanh nghiệp hay khả năng thanh toán nợ của họ, nhưng không phải doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh nào cũng sẵn lòng trả nợ. Ý thức trả nợ của doanh nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các chỉ tiêu phi tài chính. Nếu cả hai loại chỉ tiêu trên được đánh giá kỹ lưỡng dựa trên cơ sở nguồn thông tin đáng tin cậy thì Ngân hàng tránh được phần lớn rủi ro trước khi ra quyết định tài trợ. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cấp bảo lãnh của Ngân hàng thương mại 1.3.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng * Quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo ngân hàng và các chính sách liên quan đến thẩm định tài chính doanh nghiệp Có thể nói quan điểm chỉ đạo của Ban lãnh đạo ngân hàng trong thẩm định tài chính là hết sức quan trọng và ảnh hưởng đến toàn bộ quy trình thẩm định cũng như chất lượng thẩm định. Thật vậy, nếu Ban lãnh đạo ngân hàng không coi trọng thẩm định tài chính thì chất lượng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp sẽ thấp. Có thể ngân hàng coi trọng tiêu chí khác hơn là thẩm định tài chính nhưng những tiêu chí này chưa hẳn đã phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách hiệu quả và chính xác. Ngược lại, Ban lãnh đạo ngân hàng chú trọng thẩm định tài chính thì sẽ xây dựng được quy trình thẩm định chặt chẽ và kèm theo ban hành các chính sách thích hợp, công bằng, hợp lý để nâng cao chất lượng thẩm định. * Quy trình thẩm định Quy trình thẩm định là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của Ngân hàng trong việc đánh giá, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Như đã đề cập tới ở trên, nếu Ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm chú trọng đến khâu thẩm định tài chính doanh nghiệp thì họ có nhiều khả năng sẽ xây dựng một quy trình nghiêm ngặt, chặt chẽ, cụ thể từng giai đoạn và đảm bảo tính liên hoàn, tính khoa học theo một trình tự nhất định giữa các giai đoạn đó.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0